TRÍCH MỘT ĐOẠN SẮC LỊNH ĐÀN CƠ TẠI SIÊU THIÊN
ĐÀI
ĐÀI
Tý thời 14 tháng 5 Ất Tỵ
TRƯỜNG THIÊN
Đây Thầy sắc lịnh trước sau,
Cậy
nhờ Thiên Chánh giúp vào hội nay.
Lo Công quả đừng sai nghe trẻ,
Phần
chuyển luân không lẽ như vầy.
Hóa hoằng Huỳnh Đạo Đông Tây,
Sấm
truyền diêu bút hội nầy in ra.
Chớ để vậy xót xa giáo lý,
Đó
Đạo Huỳnh cao quý từ nay.
Cho chung trong chưởng Pháp Đài,
Ngưng
đều tài chánh nọ nầy đây kia.
THI BÀI
Góp công quả sớm khuya định liệu,
Tạo cho rồi, phải hiểu từ nay;
Ngưng ban Phật Huấn Kim Lai,
Chỉ
khi nào được in rày mới thôi.
Con vì Đạo đứng ngồi không trọn,
Thầy lẽ đâu chẳng ngó hay sao;
Quả công cố gắng đừng nao,
Đến
ngày Long Hội Thầy trao nhiệm quyền.
HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ
Chưởng Giáo Tam Ngươn
Mỗi Tôn Giáo đều có một Chơn Truyền, nghĩa là một giáo pháp, một Tâm pháp
vô hình để cứu người khỏi trần mê, bể khổ.
Chơn truyền ấy,
dầu cao thâm, dầu mầu-nhiệm, cũng chỉ ứng dụng một thời gian, rồi sau đó phải
lu mờ vì không có đại duyên thọ lãnh, hoặc vì có người canh cải, sửa đường theo
nhơn tâm, phàm ý.
Gương xưa còn đó,
Đạo Nho đã lạc bổn kể từ Mạnh-Tử; Đạo Lão đã vong nguyên kể từ Dương Dương
Minh; Đạo Thích đã bể khuyết kể từ Thần Tú …Gần hai ngàn năm nay, Tam Giáo đã
thất chơn truyền, kẻ tu thì rất nhiều, mà người đắc chưa thật có, ngoại trừ lẻ
tẻ Đông, Tây một vài Giáo Chủ muốn nối tiếp duyên xưa, nhưng yếu ớt, mập mờ,
như ngọn đèn lu trước gió.
Ngày nay, gặp cơn mạt hạ, huyền linh tiêu tán, vật chất tràn đầy chánh pháp suy
vi, tà thuyết lộng khởi, khiến nên nhân tâm rối rắm, thiên hạ đảo điên, thế
giới cơ hồ đã biến thành một địa ngục. Đó là báo hiệu của một cuộc điêu tàn,
sắp diễn trên quả địa cầu; đó cũng là báo điềm ngày Tam
Giáo qui nguyên ngũ chi thống nhứt để thiết lập trên toàn cõi thế gian một mối Đạo Trời
duy nhứt, tối diệu, tối huyền, gọi là THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO.
Vậy Huỳnh Đạo cũng
như Tam Giáo dĩ nhiên phải có một Chơn Truyền.
Chơn truyền nầy như thế nào? –
Nó là tinh hoa của Tam Giáo, chấn chỉnh, hồi sinh, nó cũng là diệu lý, siêu
pháp của Tam Kỳ ban truyền buổi mạt hạ tàn ngươn để đưa nguyên căn đến Hội Long Hoa, để lập đời Thượng Ngươn Thánh Đức, Di Lạc quảng quyền, Thần Tiên ngự
thế.
Cho
nên Chơn Truyền Huỳnh Đạo cũng là Chơn Truyền của Tam Giáo, nhưng đầy đủ hơn,
trọn vẹn hơn, do đó rất phù hợp với mọi Tôn Giáo.
Chơn
Tuyền nầy có ba đặc sắc về Sự,
Lý, Pháp.
Như hiếu, chẳng
phải chỉ kính trọng, vâng lời, chăm nom, phụng dưỡng Cha Mẹ theo lẽ thông
thường, mà cần yếu là phải trọn dạ thương yêu, báo ân cúc dục, không phải chỉ
lúc sanh tiền, mà còn sau ngày quá vãng, cứu vớt hồn linh của Mẹ Cha bằng cách
lập đức, bồi công, tu hành theo Thượng Thừa Chánh Pháp.
Như tín, không phải chỉ vì một lời nói mà thi hành, hay vì hư danh mà giữ
hẹn; đó chẳng qua là hành động theo bản ngã, mà giữ tín cốt yếu là vì tình
thương yêu, vì ý giúp đở, vì không nở để người đợi chờ, thất vọng thiệt thòi:
đó là vì người vậy.
*-VỀ LÝ, của Huỳnh Đạo không quan niệm cái lý tương đối trong vòng trăm tuổi,
mà chỉ quan niệm cái lý trường miên, vượt khỏi hạn giới của đời, nhưng vẫn ứng
dụng linh diệu trong đời: đó là lý thiên nhiên lưu hành trong Tam Thiên, Đại
Thiên thế giới.
Đây thân tứ đại! không phải vì nó là ô trược, giả tạm mà hủy hoại, bỏ bê
theo thuyết khổ hạnh; trái lại phải săn sóc, bồi bổ nó để dùng nó luyện Kim
thai Thánh thể, xuất khiếu hiển thần.
Nhưng cũng chẳng phải vì cần nó mà phải săn sóc, bồi bổ quá mức theo
thuyết sinh tồn mà quên phần tịnh luyện cao nhiên, Vô Vi điều ngự. Tại sao vậy?
Tại vì chơn giả đi đôi, thiếu một không được. Nếu chỉ thấy giả, thì đâu gặp
được chơn; còn bằng chỉ tìm chơn thì tìm đâu ra để bỏ giả ? Chơn giả dung hòa
âm dương phối hợp thì mới đắc được chơn tâm, mới tạo được Xá Lợi. Đó là điều
Siêu Lý Thượng Thừa Huỳnh Đạo.
*- VỀ PHÁP của Huỳnh Đạo cũng thế. Không chấp vô, không chấp hữu, mà gồm cả
hữu, vô, cả Tiên thiên, Hậu thiên ứng hóa diệu mầu theo lẽ động tịnh: động thì
vô hóa hữu, Tiên thiên biến Hậu thiên; Tịnh thì hữu trở về vô, Hậu thiên hườn
lại Tiên thiên vậy. Cũng không nhắm một sự ứng nghiệm, một huyền diệu nhất thời
về hữu hình hay vô hình, hay một quyền lực thậm thâm, vi diệu mà nhắm cái lẽ
sống trường miên vĩnh cửu, tự tại ung dung, sớm biển Bắc, chiều non Nam, khắp
chốn Càn Khôn Vũ Trụ.
Chơn
truyền nầy không phải báu riêng của Huỳnh Đạo, mà là Bửu pháp vạn đời của chung Cửu lưu Tam Giáo.
Người Huỳnh
Đạo mà không theo đúng cũng chưa phải Huỳnh
Đạo. Còn trong Cửu
Lưu Tam Giáo mà có kẻ hành theo,
thì kẻ ấy vốn thật là Huỳnh
Đạo.
Cho
nên, Huỳnh Đạo không phân biệt Tôn giáo mà chính thị nó bao gồm, nó
hòa hợp các Tôn giáo trong một thể Đạo cao nhiên, một lý Đạo thâm diệu, một
pháp đạo siêu mầu mà Tam nguyên một thưở Thượng Đế ban truyền để mở lại cuộc
tuần hườn dài mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm chẳn.
Lôi
Âm trống giục, Bạch Ngọc chuông rền, tai biến hôm nay kề cận. Ai người nhứt tân tu
tỉnh sẽ hưởng được hồng ân hiện tại, tránh khỏi cảnh đồ thán, đau thương của
đao binh sắp diễn. Ai người thức thời, tri lý, tầm mối Đạo cao siêu muốn trở về
cùng Thượng Đế thì phải nhiếp thọ lấy huyền nhiên chi khí, luyện bí pháp cao
siêu mới mong kiếp này đại xá, trở về với nơi thanh nhàn, u tịch, chớ luyến
tiếc thể xác trầm luân là còn đọa lạc muôn đời, lục vạn niên dư sau mới khai
lại Huỳnh Đạo.
ĐỀ TỰA
***
Mỗi Tôn Giáo đều có một Chơn Truyền, nghĩa là một giáo pháp, một Tâm pháp
vô hình để cứu người khỏi trần mê, bể khổ.
Chơn truyền ấy,
dầu cao thâm, dầu mầu-nhiệm, cũng chỉ ứng dụng một thời gian, rồi sau đó phải
lu mờ vì không có đại duyên thọ lãnh, hoặc vì có người canh cải, sửa đường theo
nhơn tâm, phàm ý.
Gương xưa còn đó,
Đạo Nho đã lạc bổn kể từ Mạnh-Tử; Đạo Lão đã vong nguyên kể từ Dương Dương
Minh; Đạo Thích đã bể khuyết kể từ Thần Tú …Gần hai ngàn năm nay, Tam Giáo đã
thất chơn truyền, kẻ tu thì rất nhiều, mà người đắc chưa thật có, ngoại trừ lẻ
tẻ Đông, Tây một vài Giáo Chủ muốn nối tiếp duyên xưa, nhưng yếu ớt, mập mờ,
như ngọn đèn lu trước gió.
Ngày nay, gặp cơn mạt hạ, huyền linh tiêu tán, vật chất tràn đầy chánh pháp suy
vi, tà thuyết lộng khởi, khiến nên nhân tâm rối rắm, thiên hạ đảo điên, thế
giới cơ hồ đã biến thành một địa ngục. Đó là báo hiệu của một cuộc điêu tàn,
sắp diễn trên quả địa cầu; đó cũng là báo điềm ngày Tam
Giáo qui nguyên ngũ chi thống nhứt để thiết lập trên toàn cõi thế gian một mối Đạo Trời
duy nhứt, tối diệu, tối huyền, gọi là THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO.
Vậy Huỳnh Đạo cũng
như Tam Giáo dĩ nhiên phải có một Chơn Truyền.
Chơn truyền nầy như thế nào? –
Nó là tinh hoa của Tam Giáo, chấn chỉnh, hồi sinh, nó cũng là diệu lý, siêu
pháp của Tam Kỳ ban truyền buổi mạt hạ tàn ngươn để đưa nguyên căn đến Hội Long Hoa, để lập đời Thượng Ngươn Thánh Đức, Di Lạc quảng quyền, Thần Tiên ngự
thế.
Cho
nên Chơn Truyền Huỳnh Đạo cũng là Chơn Truyền của Tam Giáo, nhưng đầy đủ hơn,
trọn vẹn hơn, do đó rất phù hợp với mọi Tôn Giáo.
Chơn
Tuyền nầy có ba đặc sắc về Sự,
Lý, Pháp.
*-VỀ SỰ,của Huỳnh Đạo hiểu theo lẽ cao nhiên, chớ không theo cách thường tình của nhân sanh bách tuế.
Như hiếu, chẳng
phải chỉ kính trọng, vâng lời, chăm nom, phụng dưỡng Cha Mẹ theo lẽ thông
thường, mà cần yếu là phải trọn dạ thương yêu, báo ân cúc dục, không phải chỉ
lúc sanh tiền, mà còn sau ngày quá vãng, cứu vớt hồn linh của Mẹ Cha bằng cách
lập đức, bồi công, tu hành theo Thượng Thừa Chánh Pháp.
Như tín, không phải chỉ vì một lời nói mà thi hành, hay vì hư danh mà giữ
hẹn; đó chẳng qua là hành động theo bản ngã, mà giữ tín cốt yếu là vì tình
thương yêu, vì ý giúp đở, vì không nở để người đợi chờ, thất vọng thiệt thòi:
đó là vì người vậy.
*-VỀ LÝ, của Huỳnh Đạo không quan niệm cái lý tương đối trong vòng trăm tuổi,
mà chỉ quan niệm cái lý trường miên, vượt khỏi hạn giới của đời, nhưng vẫn ứng
dụng linh diệu trong đời: đó là lý thiên nhiên lưu hành trong Tam Thiên, Đại
Thiên thế giới.
Đây thân tứ đại! không phải vì nó là ô trược, giả tạm mà hủy hoại, bỏ bê
theo thuyết khổ hạnh; trái lại phải săn sóc, bồi bổ nó để dùng nó luyện Kim
thai Thánh thể, xuất khiếu hiển thần.
Nhưng cũng chẳng phải vì cần nó mà phải săn sóc, bồi bổ quá mức theo
thuyết sinh tồn mà quên phần tịnh luyện cao nhiên, Vô Vi điều ngự. Tại sao vậy?
Tại vì chơn giả đi đôi, thiếu một không được. Nếu chỉ thấy giả, thì đâu gặp
được chơn; còn bằng chỉ tìm chơn thì tìm đâu ra để bỏ giả ? Chơn giả dung hòa
âm dương phối hợp thì mới đắc được chơn tâm, mới tạo được Xá Lợi. Đó là điều
Siêu Lý Thượng Thừa Huỳnh Đạo.
*- VỀ PHÁP của Huỳnh Đạo cũng thế. Không chấp vô, không chấp hữu, mà gồm cả
hữu, vô, cả Tiên thiên, Hậu thiên ứng hóa diệu mầu theo lẽ động tịnh: động thì
vô hóa hữu, Tiên thiên biến Hậu thiên; Tịnh thì hữu trở về vô, Hậu thiên hườn
lại Tiên thiên vậy. Cũng không nhắm một sự ứng nghiệm, một huyền diệu nhất thời
về hữu hình hay vô hình, hay một quyền lực thậm thâm, vi diệu mà nhắm cái lẽ
sống trường miên vĩnh cửu, tự tại ung dung, sớm biển Bắc, chiều non Nam, khắp
chốn Càn Khôn Vũ Trụ.
Chơn
truyền nầy không phải báu riêng của Huỳnh Đạo, mà là Bửu pháp vạn đời của chung Cửu lưu Tam Giáo.
Người Huỳnh
Đạo mà không theo đúng cũng chưa phải Huỳnh
Đạo. Còn trong Cửu
Lưu Tam Giáo mà có kẻ hành theo,
thì kẻ ấy vốn thật là Huỳnh
Đạo.
Cho
nên, Huỳnh Đạo không phân biệt Tôn giáo mà chính thị nó bao gồm, nó
hòa hợp các Tôn giáo trong một thể Đạo cao nhiên, một lý Đạo thâm diệu, một
pháp đạo siêu mầu mà Tam nguyên một thưở Thượng Đế ban truyền để mở lại cuộc
tuần hườn dài mười hai vạn chín ngàn sáu trăm năm chẳn.
Lôi
Âm trống giục, Bạch Ngọc chuông rền, tai biến hôm nay kề cận. Ai người nhứt tân tu
tỉnh sẽ hưởng được hồng ân hiện tại, tránh khỏi cảnh đồ thán, đau thương của
đao binh sắp diễn. Ai người thức thời, tri lý, tầm mối Đạo cao siêu muốn trở về
cùng Thượng Đế thì phải nhiếp thọ lấy huyền nhiên chi khí, luyện bí pháp cao
siêu mới mong kiếp này đại xá, trở về với nơi thanh nhàn, u tịch, chớ luyến
tiếc thể xác trầm luân là còn đọa lạc muôn đời, lục vạn niên dư sau mới khai
lại Huỳnh Đạo.
Cầu xin Thượng Đế Vô Kiệt Chí Tôn, cầu xin Chư Phật, Tiên, Thánh, Thần ban đại hồng ân cho vạn vạn linh căn đắc ngộ Huỳnh Đạo chơn truyền để vượt khỏi Long Hoa, để tiến đến một đời sống an lạc thanh nhàn trong buổi Thượng Ngươn Thánh Đức.
Nam mô HUỲNH ĐẠO
THIÊN KHAI,
Qui nguyên Tam Giáo trần ai lập Đời.
NGỌC-MINH-LINH
--oOo--
CHƯƠNG
I
NGUỒN
GỐC – Ý NGHĨA
MỤC
ĐÍCH HUỲNH ĐẠO
Từ ngàn xưa có
nói:” Mạt-Hậu Thiên KHai Huỳnh Đạo”
Lời tiên tri này đã
thực hiện năm Nhâm Dần, khi Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo được lập thành tại
Trung Ương Nam Việt.
Huỳnh Đạo ban sơ phát sanh tại Hội
Thánh Cao Đài Nhị Giang (An Giang) vào năm Kỷ Hợi (1959), sau chuyển về Sài Gòn
tạm định tại Long Vân Đại Pháp (Nam Thành Thánh Thất) và Long Vân Đại Đàn (Đại
Thanh Gia Định) bắt đầu từ cuối năm Tân Sửu (1961).
Nhưng phải đợi tới năm Nhâm Dần (1962)
Đức Thượng Đế mới chánh thức ban truyền Huỳnh Đạo tại trần và đồng thời mở Kỷ
Nguyên Đạo Vàng năm thứ nhứt tại thế.
Nền móng đã lập, cơ Đạo bắt đầu tiến,
như ngọn nước thoát nguồn, không vì ngăn cản được.
Trước
khai Chưởng Tòa Huỳnh Đạo tại Gò Công rồi thiên về Nhị Giang, sau mở Bửu Tòa Di
Lạc tại Gia Định, sau một thời gian ngắn ngủi ba năm, Đạo Vàng đã chiếu rạng
nhiều nơi với một hệ thống hùng hậu; trên có Chưởng Tòa (Châu Đốc), dưới có các
Bửu Tòa Di Lạc: Tiền Giang (Gia Định), Trung Giang (Vĩnh Long), Hậu Giang (Bạc
liêu), Liên Giang (Phong Dinh), và những tòa đại diện tại Kiên Giang, Hà Tiên
cùng những chỗ khác trong nước, ngoài nước sau nầy, đúng với cơ Thiên, đúng với
lời tiên tri “Kỳ Ba Cứu Thế”.
Có
người hỏi Huỳnh Đạo là gì?
Huỳnh Đạo là Vô Vi Đại Đạo, lấy âm
dương làm gốc, Ngũ hành làm thể, hòa hợp ở Trung Huỳnh gọi là Mồ Thổ, Sắc Huỳnh
để luyện Kim thai Thánh thể, xuất khiếu hiển thần, đoạn dứt luân hồi trong lục
đạo.
Xuất phát từ Cao
Đài, Huỳnh Đạo là thể hiện hoàn mỹ của Đạo Cao Đài, hữu, vô trọn vẹn. Nguồn gốc
của Ngũ Chi Tam Giáo, Huỳnh Đạo là diệu lý của Tam Giáo, Ngũ Chi lấy nhân
nghĩa, thành, tín làm căn bản, từ bi, bác ái, công bằng làm chuẩn thẳng, mật
pháp siêu nhiên làm phương châm, cứu thế, lập đời làm mục đích.
Thế gian thường tìm
Đạo ở ngoại cảnh, thường kiếm lý ở hữu hình, thương mưu trường sinh ở tứ đại,
nên mãi quẩn quanh trong sáu nẻo. Huỳnh Đạo là cái Đạo chơn thường ở linh tâm,
cái lý chơn thường ở thiện tánh, cái sống chơn thường ở Thiên mạng, tâm tánh
mạng phục hòa, đồng vị ngôi Tiên Phật.
Huỳnh Đạo không phải là một Tôn Giáo
riêng biệt, với một khuôn khổ, một giáo lý eo hẹp, chính là Đạo Trời vĩnh cửu,
bao quát vạn loài, là nguồn sống tuyệt mầu lưu hành trong vũ trụ. Đặc biệt
Huỳnh Đạo là một cơ duyên đại kiếp, kết tu những nguyên căn, những kẻ phước đức
ngàn đời để dự hội Long Hoa, để nghinh tiếp Đức Di Lạc lâm phàm qui Tam Giáo,
thống Ngũ Chi, lập lại khắp trần gian Đời Tân Dân Minh Đức: Huỳnh Đạo sẽ chói
rạng hoàn cầu và vạn quốc sẽ qui về một mối Vô Vi đặt tại Nam Bang Thánh Địa:
“DI LẠC hiện
muôn Thần vạn Thánh,
Các Thiên
Tinh đại lãnh Linh văn;
Qui
nguyên Tam Giáo gọi rằng:
Ngũ Châu vạn
quốc phục Thần Nam Bang.
GIAI
ĐOẠN NHỊ GIANG
NGỌC TIÊN ĐÀN, Mùng 2 Tháng 6 Canh Tý
THI
Hồng mông hội yến tụ Quần Tiên,
Quân tạo hư vô hóa diệu huyền;
Lão độ nguyên nhân lai cựu vị,
Tổ Tiên thoát khỏi chốn Âm tuyền.
HỰU
Âm tuyền mỏi
mắt trông đoàn trẻ,
Tạo đức từ
bi hóa nghiệp duyên;
Ân thọ
Thiên ban kỳ mạt hạ,
Cố công
thoát cảnh khổ triền miên.
Triền miên
lao khổ chốn âm ty,
Vì bởi xưa
kia chẳng gặp thì;
Ngộ Đạo
không tròn duyên với Đạo,
Ngàn năm
phải chịu cảnh sầu bi.
Sầu bi nợ
thế trả chưa tròn,
Cố bước
mau mau hỡi các con!
Tận diệt
Long Hoa đang mở lối,
Hồn linh
hãy giữ, giữ vuông tròn.
Vuông tròn
nếp Đạo được ân phong,
Hóa độ
duyên Tiên nhỏ phước hồng;
Triệu ức
niên dư lao khổ mãi,
Đừng mong
ngộ pháp thọ ân hồng.
Ân hồng Đạo
hạnh vi Tam Thanh,
Dìu dẫn quần
sanh đắc vị lành;
Nhiếp thọ
Liên Đài duy mật pháp,
Đắc danh,
đắc vị, đắc trường sanh.
THI
BÀI
Trên Thượng
giới động lòng giáng hạ,
Xót hồng
trần vội tả vài câu;
Con ôi!
thế sự ưu sầu,
Kìa trong sanh
chúng lo âu nhiều điều!
Ách Trời ban
lắm điều thê thảm,
Họa dương
trần chẳng lảm lời Trên;
Tiếp
theo quỉ quái lộng quyền,
Làm cho nhân
thế lụy phiền đao binh.
Thầy còn
nghĩ chút tình giáo dục,
Nên hạ trần,
vội thúc đường tu;
Nếu
cân tội phước thanh u,
Dương trần giũ
sổ, thành mù sương bay.
Thầy thương
xót nhân loài mê muội,
Càng thêm
phiền, thêm tủi nguyên nhân;
Xưa
kia chí quyết hạ trần,
Để lo công quả,
lãnh phần hư vô.
Nay phải
chịu sa đồ cám dỗ,
Quên đường
về, quên chỗ ra đi;
Thầy
đây nhắc nhở nhiêu khi,
Nhìn con mê muội
biết chi lời Thầy!
Nghe kinh
động Trời Tây ầm ỉ,
Là dục con
đừng phí ngày tu;
Cố tâm
vẹt ngút mây mù,
Một đời luyện Đạo,
thiên thu toại lòng.
Chớ vội
trách Thầy không chỉ giáo,
Để con lầm
nên tạo oan khiên;
Công đồng
phán trước diện tiền,
Dữ, lành rõ rệt,
nào phiền được ai.
Lập chí Đạo
dồi mài bí pháp,
Nắm Hà Đồ
qui nạp đơn ngươn;
Phục Thần
quén Khí hiệp đơn,
Huyền linh tá
thế, Thần ngươn hợp đều.
Đường đạo
đức còn nhiều cay đắng,
Nếu trể
tràng thì chẳng viên duyên;
Muốn làm được một vì Tiên,
Cần trau luyện
kỷ bí truyền Tam Thanh.
Dẹp tất cả
đường danh gai gốc,
Bỏ dứt điều
lợi lộc trần ai;
Sớm
khuya Pháp Đạo dồi mài,
Dọn đường trở
gót lập ngày qui Tiên.
Thầy sẽ tạo
chiếc thuyền Bát Nhã,
Rước con hiền
quày ngã Bồng Lai;
Long
Hoa sẽ mở gần đây,
Thầy thương
nhân thế chưa ai tròn lành.
Đêm thanh
vắng, tâm thành sáng tỏ,
Những lời
thơ, con rõ hay chưa?
Trung
ngươn sắp đến lọc lừa,
Chung đồng
huynh đệ sớm trưa trùng phùng.
Hãy suy xét
tận cùng lẽ Đạo,
Những lời
Thầy chỉ bảo xưa nay;
Điều
nào con gọi rằng hay,
Mà không thi
thố là sai lời truyền.
Thầy muốn
nhắc con hiền kiên chí,
Bước đường
tu đừng ỷ đừng khinh;
Mình
tu là để cho mình,
Duyên lành đức
cả tự tin nơi Thầy.
Chớ lòe loẹt
khoe hay, khoe giỏi,
Chẳng điều
nào thoát khỏi trần ai;
Thì
sao mà gọi rằng tài?
Rằng mình cao
cả thoát ngoài tử sanh?
Nung chí Đạo
duyên lành đúng mức,
Luyện bí
truyền, quán nhứt chấp trung;
Dầu
cho cõi thế hào hùng,
Tắt hơi tiếng ấy
còn dùng được chăng?
Thầy đã dạy
con hằng ghi nhớ,
Ráng làm
sao chẳng lỡ một đời;
Ngọc
Tiên Thầy giảng đôi lời,
Hào quang tỏa
khắp cõi Trời Thầy lên.
NGỌC TIÊN ĐÀN , Ngày 14 Tháng 7 Canh Tý
THI
Dỉ đoạt Hồng ân khả diệt trần,
Thiên điều
Quân lập khảo nguyên nhân;
Thời lai Lão chuyển Long Vân hội,
Vận thới Tổ bày độ pháp thân.
Thầy mừng chung các
con nam nữ đẳng đẳng.(dâng rượu)
THI
Ly rượu trần
gian nức nở mùi,
Lòng Thầy
đau xót lắm trò ôi!
Đạo thành
chưa trọn tình mong ước,
Lỡ dở bao
người đã bỏ trôi.
HỰU
Bỏ trôi tất
cả những lời Tiên,
Đeo đắm trần
mê lắm lụy phiền;
Bát Nhã chờ
ai đang đậu đó,
Nẽo đời
con có thấy chinh nghiêng.
Chinh
nghiêng Trời sắp cuộc xoay vần,
Nầy hỡi
Thiên phong giữ lấy thân;
Cát bụi, sợ
e về cát bụi,
Rồi đây
khó tránh bảng phong Thần!
Phong Thần
kề cận ở nơi con,
Kíp sớm lo
toan việc mất còn!
Nếu trễ
ngày qua Trời xế bóng,
Mựa đừng
buông tiếng khóc, nghe con!
Nghe con,
đêm vắng chuột kêu vang,
Trâu rống
đồng không lắm rộn ràng;
Hè thúc gọi
về con quốc sĩ,
Bích du
đâu dễ tiếp tai nàn.
Tai nàn đảo
lộn thị Long Hoa,
Ách nước
nào ai dám cải qua;
Nằm đó chờ
cho heo cắn ổ,
Túng cùn,
sao lại gọi Ông Bà?
Ông Bà đau
đớn chốn Diêm Đài,
Mong trẻ
lo tu tháng với ngày;
Cứu vớt
đôi phần nơi thảm cảnh,
Cho người
thoát khỏi chốn nồng cay.
Nồng cay sẽ
biết kể từ đây,
Chỉnh gặp
Thầy, e sợ nhíu mày;
Nước mắt
hãy chừa khi gặp hội,
Chớ đừng
đeo lợi cứ tuôn hoài.
Tuôn hoài
giọt lệ lợi danh sầu,
Thầy có
thương con cũng bởi đâu;
Nếu phải
đường tu xin cố gắng,
Đạo thành
nào có đợi chờ đâu!
Chờ đâu những
đứa mãi mê trần,
Kêu réo
nhiều phen cũng chẳng cần,
Vì bởi kiếp
xưa đầy tội ác,
Kiếp này
phải chịu đọa muôn phần.
Thầy hôm nay giá ngự Ngọc Tiên, nữa
mừng, nữa tủi. Thương cho Thiên phong, mừng cho cơ Đạo, tủi cho các con còn say
đắm nơi bể khổ trầm luân. Việc đời càng ngày càng thúc, cơ Trời hoạch định, lẽ
tuần hườn sắp đổi xoay. Thiên cơ sắp tỏ bày, các con cố gắng chịu đắng cay ngày
sau an hưởng.
THI
BÀI
Trên khói
tỏa hương trầm nghi ngút,
Nơi Thượng
tầng rọi chút từ bi;
Vần
xoay phổ hóa Nam kỳ,
Trung Ương
pháp đạo truyền ghi muôn đời.
Trên tất cả
là Trời cai quản,
Nắm trọn
quyền xử đoán phân minh;
Thầy
thương tỏ hết tâm tình,
Dạy khuyên trần
hạ khắc in Đạo Vàng.
Đêm thanh
vắng trăng tàn e ấp,
Rọi ngoài
hiên như sắp đổi thay;
Mà sao
con mãi mê tài,
Mê danh đắm lợi,
khổ say trong đời ?
Đèn Đạo lý
ngàn nơi soi tỏ,
Gió trầm
luân chen ngõ lùa vào;
Ai
người gọi đứng anh hào,
Dang tay chặn
gió,chớ nao nản lòng.
Đem duốc
thiện rọi trong bốn nẻo,
Xóa năm đường
để kẻo hoài công;
Rèn
sao cho được Lục Thông,
Vớt hồn Cha Mẹ,
Tổ Tông chín đời.
Thầy đã thốt
muôn lời tao nhã,
Mà các con
nào sá lời Thầy;
Đến chừng
gặp việc không hay,
Lưng chừng nước
lửa, gọi Thầy đâu nên!
Nay một
lúc cõi Trên ân xá,
Những tội
tình tất cả thế gian;
Mà sao
con lại chẳng màng,
Để thuyền Bát
Nhã quày đàng Tây phương.
Sắp đến việc
đoạn trường thê thảm,
Cả Trời Nam
ảm đạm mây mù;
Con
nào đã dốc lòng tu,
Thầy ban điển
huệ linh phù thoát nguy.
Xưa nhớ lại
điều gì Thầy nhắc,
Đã nhiều
phen dặn chắc các con;
Tuồng
đời nay đã mỏi mòn,
Hỏi con sao chẳng
vuông tròn Đạo Cha!
Đêm vắng lạnh
nhà nhà yên giấc,
Nhưng các
con chẳng thật tỉnh hồn;
Còn
mê, còn mãi bôn chôn,
Để rồi phải chịu,
dại khôn tiếng đời.
Thương con
trẻ vài lời ghi dạ,
Chớ trễ chầy
sẽ hóa dã tràng;
Vun
tay vuốt ngọn tràng phang,
Rải trong các
trẻ được an phần nào.
NGÂM
Mây hồng
mượn lấy nương chơn,
Thượng tầng Thầy
trở ban ơn các trò.
GIAI
ĐOẠN
TRUNG
ƯƠNG HUỲNH ĐẠO
Ngày 27 Tháng 5
Nhâm Dần.
Thầy mừng các con,
THI
Ngọc Hoàng
Thượng Đế tứ linh văn,
Vô Kiệt
Chí Tôn chuyển Đạo hằng;
Chưởng
Giáo Tam Thanh qui vạn bổn,
Khai Minh
Huỳnh Đạo hội khoa đăng.
Giờ
lành Thầy chiếu “ Tinh Quang”,
Dạy cho con trẻ
hản tàng mầu vi.
Xưa
kia Đại Đạo Tam Kỳ,
Ngày nay chuyển
hóa đúng thì Thiên Cơ.
Cơ pháp
cao thâm đắc ý Thiên,
Thọ hành
chuyển biến nhứt tâm kiên;
Đồ thơ toại
chí Thiên thai tựu,
Lạc báu
bình tâm chỉ pháp truyền.
Truyền
con Huỳnh Đạo hôm nay,
Hơn thua trần
thế uổng ngày khai cơ.
Rõ
thông máy nhiệm đồ thơ,
Con ôi, mau
khá, Cha chờ Linh Tiêu!
Đời biến chuyển,
Thầy chiếu truyền Thánh Thần Tiên Phật đồng hội nghe Thầy phê sắc, Tam Giáo
đồng lâm chứng lễ.
Chiếu siêu đẳng
Thiên Điều Pháp luật Thiên chương, Thầy ban cho các con từ đây khá vẹn gìn:
………………………………………………………………
Thầy muốn truyền
cho các con chơn pháp siêu nhiên, đoạt thành quả vị, nhưng tại các con chưa
đoạn được tâm trần, Thầy khó lòng dùng huệ linh chiếu diệu. Từ đây các con nên
ghi lấy lời Thầy để học hành Nhiệm pháp mai sau. LONG VÂN ĐẠI PHÁP Thầy lập ra
hôm nay là để truyền chánh pháp, cựu pháp, tân pháp, chơn truyền bí chỉ ngàn
xưa của Thầy.
Ngày nay vạn pháp
đồng qui mới đúng lẽ huyền vi của Thầy tiên tri từ trước, các con khá giữ lòng
thanh tịnh, Thầy trên sẽ hộ độ các con qua cơn khảo đảo. Nầy các con, Thầy động
lòng thương, ban lần cuối cùng cho các con giữ gìn trọn vẹn. Luật lệ nghiêm
minh mới đắc thành Đạo pháp. Nếu các con không tròn qui luật thì Đạo Thầy làm
sao đoạt thành Nhiệm pháp để dìu dẫn quần sanh. Các con đã đắc vị lành ngày nay
khá nhớ.
TRƯỜNG
THIÊN
Vì con
Thầy giáng hồng trần,
Đem lời huấn dụ
nhiều lần dạy khuyên.
Con ôi!
trần thế nghiệp duyên,
Đạo mầu quý
báu phải chuyên tâm hành.
Ngày
kia cựu vị Thầy dành,
Hôm nay lãnh lấy
vị lành quả công.
Xét
suy đến buổi Đại Đồng,
Lãnh Quyền Tam
Trấn ân hồng Kim triêu.
--oOo--
Dốc
lòng thọ pháp qui điều,
Khào nhồi dầu
ít hay nhiều cũng cam.
Dặn
lòng chớ có mến ham,
Xét trong trần
thế lo làm quả công.
Theo
Thầy nào nệ gió giông,
Thế trần cũng
chỉ ở trong tay Thầy.
Khuyên
con kiên chí hội rầy,
Tùy nhân thiên
tải Đài Mây tựa kề.
Rõ
thông Chánh Pháp vẹn bề,
Rồi con sẽ được
trở về Hư Cung.
Muôn
thu tự toại thung dung,
Khỏe lòng công
quả hội cùng Phật Tiên.
Từ bi
ban xuống diệu huyền,
Cho con lãnh lấy
siêu nhiên hội nầy.
Hiển
vi đề bảng Thiên Khai,
Trao Quyền Tam
Trấn linh đài ân phê.
Hỡi
con nguyên vị hầu kề,
Cha già mòn mỏi
lời thề chứng y.
Khuyên
con Tâm pháp kiên trì,
Con ôi giữ lấy
hậu thì đắc công.
Ngày
nay gặp hội Mây Rồng,
Chen vai thích
cánh một lòng thương yêu.
Công
phu trì giữ sớm chiều,
Việc đời việc
Đạo bỏ liều sao nên.
Song
tu “ tánh mạng” vững bền,
Vun Thần, hiệp
Khí lập nền đơn giao.
--oOo--
Trường
minh đãi ảnh Thiên bào,
Cam lồ sái tão
chung vào đơn ngươn.
Tu
hành thì dụng lý chơn,
Nung lò Bát
Quái tạo hườn Kim Thai.
Chơn
như Thánh Thể Kim Đài,
Mở lần thất khiếu
hội ngay Bửu Tòa.
Cho
con lãnh ý cao xa,
Điền trung
hoán chuyển hội qua hiệp Càn.
Chiết
xong Đạo pháp minh quang,
Hòa xong chơn thể
bửu quang phất lần.
Linh
đài chiếu rọi ân cần,
Thu trong thất
bảo hiệp lần lục nhiên.
Gom
vào chánh pháp chơn truyền,
Hồn linh hóa độ
diệu huyền thượng căn.
Xuất
thần chuyển hóa linh văn,
Là trong Tâm
pháp chuyển lằn Tam huê.
Giờ
nay buổi Đạo giáo kề,
Qui nguyên phổ
hóa hội về Long Vân.
Khuyên
con tĩnh trí xuất thần,
Luyên thành
Chánh giáo một lần thử xem.
NGÂM
Siêu
quang chiếu diệu trung đàn,
Động lòng Thầy
giáng gọi trang anh hào.
Tam
hòa chiếu điển rọi vào,
Giã con ở lại
Thượng trào Thầy lên.
Lý chánh đơn dương hiệp bổn Càn,
Đại đồng phán xét hội kim phang;
Tiên điều dụng lấy toàn chơn thể,
Trưởng hội Quần Tiên hóa Đạo Vàng.
Lão mừng chung
Thiên phong đồng đẳng. Lão vâng lịnh Ngọc Hư lâm đàn truyền đôi lời cùng chư
Thiên mạng. Miễn lễ tọa thiền đồng thính.
Hôm nay, chiếu Siêu
đẳng Thiên điều THƯỢNG HOÀNG phê chuẩn:
Ngày nay chư hiền
lãnh lấy trọng trách trong lúc đời suy, Đạo lạc, pháp hoại, tâm chinh, làm động
thấu Thiên Đình, Thánh Thần Tiên Phật ra oai phổ hóa quần sanh. Nhưng hỡi ôi! mê
muội lầm than, chẳng giải được tâm trần, không đoạn lìa oan khiên khổ não thì
làm sao đắc được pháp chơn như hầu dắt lần đền nơi thanh nhàn tuyệt lạc.
Nầy chư hiền, nay
vì Thiên điều ban xuống, Lão phải lâm phàm minh rành cơ pháp. Từ xưa tới nay có
mấy ai đắc thành mà chẳng luyện. Chư hiền nên nhớ: Luyện phải cho đúng, học
phải hành thì mới đoạt lý chơn như, đắc thành Thánh thể: chớ chư hiền những
tưởng rằng đến nơi đây sẽ có Thiêng liêng phù trợ, ngày kia cũng được ân lành
về nơi cựu vị thì uổng thay! Uổng thay! Phải nghiệm xét lý chơn mà Đại Từ đã
ban ra. Chư hiên thông suốt ngâm nga, dụng đường chơn, lẽ phải, tại sao chẳng
hành?- Vì không hành nên Đạo hoại, Chư hiền khá nhớ lời Lão hôm nay.
Vì thương xót Đạo
Vàng đến thời kỳ phổ hóa cho kịp với Thiên cơ Tam Niên ân xá, nên ban cho Quyền
Tam Trấn cùng Chưởng Pháp, Quyền Hộ Pháp, là lọc toàn chơn pháp, đi trong cơ
pháp, chuyển về Long Vân Đại Pháp, là cơ mầu tuyệt đỉnh gia ân trong kỳ Tam
Niên Đại Xá.
Ngày 15 Tháng 6
Nhâm Dần.
THI
Bát chánh tùy nương đẹp phước duyên,
Tiên đài Huỳnh Đạo hiện Hoa Liên;
Phó cơ Từ Phụ lâm dương thế,
Triệu chỉ Ngọc Hư giáo Đạo trường.
****
Trường
minh Huỳnh Đạo Thiên Khai,
Tam Niên Ân Xá
Vân đài Mẫu Nghi.
Thiên
phong nên khá kĩnh vì,
Ngày nay là
đúng khoa thi cuối cùng.
Vậy Tam Giáo lâm
phàm, Bát Tiên đồng triều nghinh Đại Từ Phụ. Sẽ chiếu Tinh Quang toàn tất, chư
Thiên phong nên để trọn lòng tin Hư không điểm hóa, Từ Phụ sẽ ban đại hồng ân.
Bát Tiên đồng triều
nghinh xuất ngoại.
THI
Phật pháp từ bi nhiệm nhiệm mầu,
Tổ lai vô lự hiệp vô câu,
Như hành Huỳnh Đạo tâm chuyên ý,
Lai ngự tòa sen cửu phẩm chầu.
Bần đạo mừng chung.
Giờ
lành hộ giá Hư Cung,
Chí Tôn chiếu
điển khắp cùng trần gian.
Gần
đây đúng buổi khoa tràng,
Chư nhu cố gắng
hội đàng Long Hoa.
Bần đạo miễn lễ,
tọa thiền đồng thính, tịnh tâm.
Nầy các Thiên phong
nam nữ! Bước vào đường Đạo, đồng lãnh lấy lời giáo hóa của các bậc Thiêng Liêng
thì phải biết mối giềng cơ đồ Đạo pháp. Bần đạo khuyên chung: hễ một khi hành
Đạo, đem thân vì Đạo, nên đoạn bớt trần mê. Mỗi lần chư hiền đến nơi đây nghe
lời huấn dụ, chỉ bảo, điểm hóa của Thiêng Liêng, thì mỗi lần chư hiền được biết
bao nhiêu là ân huệ, nhưng chư hiền nào có rõ thông.
Phật pháp ngày nay
đã đúng hồi “ Vạn thù qui nhứt bổn” Qui nhứt bổn đây chẳng phải là qui nhân,
qui vật qui thể chất trần gian, mà qui Bửu pháp tinh thần hầu đến ngày Long Hoa
Đại Hội đồng đẳng.
Nầy các bậc Thiên
Tinh lâm phàm, giờ đây chớ khá vì đời lo âu, vội tưởng rằng Thiêng Liêng huyển
hoặc nên chê biếm sắc phong. Nếu chư hiền được thoát khỏi vòng trần gian, sẽ
nhìn rõ Vô Vi biết bao nhiêu là lạ lùng, khác tục. Bần đạo vì lòng từ bi đem
lời giáo hóa mỗi mỗi nguyên nhân, đêm đêm chiếu điển vàng khắp bốn phương trong
vũ trụ, hầu để cho cựu vị được nhiếp lấy lằn linh điển thức tri trở về với
nguồn đạo đức cao siêu.
Vậy bần đạo chuyển
điển, Đạo Tổ lâm phàm, Bần đạo kiếu từ.
THI
Thiên
phong ráng giữ lấy tâm lành,
Đạo đức, đời
mê nẻo trược, thanh;
Mê thức,
thức mê, mau rõ lý,
Ngôi xưa vị
cũ đã đề danh.
Bần đạo hộ đàn,
triều nghinh…..
THI
Đạo gốc do tâm hiệp bổn lai,
Tổ Tiên ân huệ nhập Liên Đài;
Thái như bạch thủy tâm trần đoạn,
Thượng chí tầm tu thoát họa tai.
Lão chào chung toàn
tất Thiên phong.
Thiên
phong nam nữ nghe lời,
Ngày nay đã ngộ
Đạo Trời huyền vi.
Tam
Niên Đại Xá hậu kỳ,
Lo hành Chánh
Pháp Diêu Trì ân ban.
Lão miễn lễ, tọa
thiền đồng thính đôi lời Lão huấn dụ.
Nầy các Thiên phong
nam nữ, nghe Lão giảng về Đạo, Đời: Đạo, ngày nay phô trương hoằng hóa là do
lòng kiên nhẫn, đức tin rèn đúc tạo thành. Vậy Đạo ở nơi đâu? Các nguyên
nhân chưa người hiểu thấu. Đời, có hai lẻ buồn, vui trong hai lẻ buồn vui, Đạo
ở nơi nào? Chư hiền thông suốt bạch Lão tường (Bạch…) Nghĩa là hiền muốn nói lẻ
Đạo trung dung?
Cười!...cười!...Nếu
Đạo chẳng vui thì sao nên Đạo? Đạo chẳng buồn, làm sao biết mùi Đạo cao thanh?
Trong hai lẻ, nếu là trung dung, thì vui trên buồn dưới, nhưng còn ở giữa sự
vui và buồn thì đâu phải là Đạo…
Ngày nay hai lẻ
buồn vui là lẻ đời. Nhưng lẻ Đạo chẳng phải là lẻ trung dung giữa vui và buồn.
Đạo hòa nhịp khắp vũ trụ càn khôn, vui, buồn đều có, vậy mới gọi là Đạo. Nếu
nói trung dung, chẳng vui, chẳng buồn thì chưa phải Đạo. Đạo phải có vui buồn
lẫn lộn. Đạo là Vô Vi, Vô Vi thì huyền đồng vũ trụ, hòa lẫn hư không: đó là lẽ
Đạo, nhỏ thì nhỏ khôn cùng, to thì to vô tận, chư hiền nên rõ thấu lý nhiệm cao
siêu. Đạo đã hóa sanh càn khôn vũ trụ.
Ngày nay chư hiền
nên nhớ: Người thiếu Đạo là thiếu sự sống trường tồn, tự vùi thân vào những
chuổi ngày hắc ám, đau thương, vật dục tranh giành, xé xâu phiền não. Đó, Đạo
là giọt nước cam lồ ban ra thức tỉnh cơn mê, đem người đời tránh khỏi cảnh đau
thương, cuồng suy trong bể hoạn. Đó mới là Đạo.
Vậy có Khổng Thánh
giáng lâm. Lão kiếu từ, triều nghinh hộ giá.
THI
Văn võ cang thường hiệp bổn nguyên,
Tuyên đề ngũ đức chánh minh truyền;
Khổng Khâu hóa hiện Đông Châu lập,
Tử đáo đàn trung chuyển khách hiền.
Lão mừng chung, giã
ân miễn lễ đồng tọa.
Đôi lời
cho các Thiên phong,
Rõ thông nhiệm
lý sửa lòng, rèn tâm.
Đường
mê, bến giác chớ lầm,
Nhọc công Thần
Thánh thăng trầm dạy khuyên.
Khuyên đời tỉnh thức mộng Nam
Kha,
Đoạn tất
phàm tâm diệt ái hà;
Trung hiếu
nghĩa nhân thành ý vẹn,
Non lam
nhược thủy kiến linh xa.
Nầy chư hiền, Thiên
mạng Thiên phong nam nữ! Ngày nay hữu du duyên đã thọ Đạo Vàng thì nên đem hết
trí huệ suy xét, dùng lý chơn đạo đức, nghĩa, nhân, thành, tín, trung, trinh
trọn vẹn làm khuôn vàng thước ngọc, hầu dìu dẫn từ gia phong cho đến ngoài đời,
đẳng đẳng trang nghiêm theo lẽ Đạo.
Trong chánh pháp
của Lão đã từng truyền ra trong thời kỳ Đông Chu là dạy lấy chữ hiếu, trung,
tín, thành, từ, ái. Nếu trong chư hiền đều biết thương nhau, dụng lòng bác ái
hòa hiệp, thì ngày nay cơ đạo đã thành. Nhưng chẳng qua là Thiên số, cũng tại
chư hiền mến mê cảnh trần gian, không lòng đoái tưởng Vô Vi nên chi siêu hình
không thông suốt.
Ngày nay, lý Đạo mù
mờ, vì bản tánh thiện từ lúc sơ sanh đã hoại bởi vật chất hữu hình, văn minh
thế tục. Nào có kể chi Thần Thánh, Tổ Tiên. Hỡi ôi! Luân lý đảo huyền, chinh
nghiêng thiên hạ. Ngày xưa cũng vì xót thương thế tục đã mất mối Đạo Vô Vi tuyệt
mầu, nên Lão hạ trần dụng hiếu, trung, nhân, nghĩa hầu có chỉnh lại cang thường
đạo lý. Ngày nay chánh truyền đã thất, nhơn loại bại hoại, vì thế Thánh, Thần,
Tiên, Phật dâng sớ xin Phụ Hoàng tiêu diệt kỳ ba. Động lòng từ khiết Phụ Hoàng
cho phép Tam Tòa cứu trần, mở Đạo Tam thập lục niên. Đó là Tiên tri đúng thời
kỳ thành Đạo. Nhưng hỡi ơi! hôn trầm đọa lạc DIÊU TRÌ khải tấu, tam niên ân thọ,
quảng pháp huyền vi hầu vớt đại nguyên nhân về nơi cựu vị.
Vậy chư Thiên mạng
nam nữ kỉnh thiền, có Giáo Chủ hộ giá, TỪ PHỤ lâm đàn, Lão triều nghinh xuất
ngoại…
THI
Giáo dân Tây địa dựng Thiên đàng,
Chủ huấn từ bi nhứt nhứt ban;
Gia chánh nghiêm minh khai nghiệp đức,
Tô bồi thành thiệt kiến Tiên bang.
Lão mừng chung. Này
các Thiên Phong, thủ tâm, định trí đồng tọa thính. Lão hộ giá Từ Phụ lâm đàn,
vậy chư Thiên Phong nam nữ định tĩnh nghe đôi lời của Lão.
Từ ngày Tây Phương
hoằng hóa cho trần gian biêt rõ cảnh tạm giả, tứ đại hiệp thành, thân thể đã
hoại bởi thời gian nên chẳng cần xác tục. Nơi Tây Phương Chúa chuyển pháp luân,
dụng lý bác ái muôn phương đồng hóa. Ngày nay nhìn chung, lòng Chúa luống buồn
thương, nhân loại vì mãi mê tiểu lợi mà quên đại kiếp trường tồn nơi Thiên Đàng
vĩnh cửu. Đúng tam thập lục niên là ngày Chúa truyền huệ điển, giáng tất cả
linh đàn nơi Trung Ương Nam Việt,
gọi thức các nguyên nhân qui hồi đạo đức.
Hễ nói về đạo đức
thì chẳng phân chẳng luận màu sắc, vì đạo đức là Vô Vi, cũng như lòng bác ái,
tuy khác ngôn ngữ cùng nhau, nhưng lòng thương có một, truyền cảm từ thông.
Vậy chư Thiên mạng
định tâm tiếp nghinh Từ Phụ lâm đàn, Lão giã từ triều nghinh hộ giá.
THI
Ngọc
Hoàng Giáo Đạo
tại Trung Ương,
Thượng
Đế Từ Bi chuyển
pháp cương;
Vô Kiệt Đại Đồng ban huấn chỉ,
Chí
Tôn Giáng Ngự
chiếu Nam Phương.
Thầy mừng chung các
con, đồng tọa thiền, tịnh tâm nghe Thầy dạy. Này các con! Trong thời kỳ mạt
pháp, vì lẽ từ bi Thầy chẳng nỡ ngồi nhìn đoàn con thơ dại đang bước lần vào
nơi thảm họa đau thương. Vì thế, Thầy hội Quần Tiên, Thánh, Thần chiếu sắc cho
hạ trần, các vị nguyên tinh được chiếu điển quang lãnh xác phàm nơi thế hầu cứu
rỗi Kỳ Ba đọa lạc. Lòng từ ái của Thầy không thể ngồi nhìn đoàn con thơ dại.
Thiên điều dầu Thầy nắm giữ tuy rất công minh, nhưng cũng đồng tình Thần Tiên
là bác ái nên mở rộng Thiên điều Đại xá lần Ba. Tại sao Thầy đại xá mà chẳng
tiêu diệt ?
Xét thấy thế gian
muôn ngàn tội lỗi chồng chất nơi quả địa cầu lục bát, Thầy thảm thương thay,
thời kỳ tiêu diệt đã đến, đoàn con dại lại bơ thờ ! … Ngày nay Thánh Thần Tiên
Phật đã dâng sớ xin cùng Thầy đúng tam thập lục niên cơ khai thiên đã chuyển
thời kỳ tiêu diệt theo pháp luật qui điều Thầy động lòng thương ! ….
Vì Diêu Trì khải tấu, nên Tam Niên ân
thọ quảng pháp Vô Vi cho tất cả con lành luyện Đạo hầu về Thầy. Các con ôi !
Thầy mong mỏi … Vì sao Thầy lại giảng dạy mỗi mỗi con từ ly, từ tấc !
Vì quá thương yêu, vì lòng từ ái. Nơi
nào có huyền cơ diệu bút thì Thầy chuyển hóa; nơi nào chẳng có thì Thầy dụng
ngoại vật hữu hình hoặc chuyển tâm sám hối khắp trong vũ trụ kiền khôn, nơi nào
Thầy cũng ban đại hồng ân trong thời kỳ mạt hạ. Ngày nay các con học Đạo, tìm
chơn lý Đạo, nếu các con thông rõ mối Đạo là chi rồi, các con tầm qua đến Vô Vi
Bí Pháp.
Trước khi trau dồi
Vô Vi Bí Pháp, các con phải hiểu rành chữ Đức, và chữ quả công. Nếu các con
thiếu quả công là thiếu Đức; thiếu Đức thì các con chưa trọn niềm tin. Nếu chẳng trọn
niềm tin thì các con làm sao thọ hành bí chỉ linh thông của Thầy ?
Vậy các con từ đây
nên khuyên bảo cùng nhau, dụng điều hòa ái , đừng chấp nê vị ngã cá nhân nơi
nầy nơi nọ, đâu đâu cũng do Thầy chuyển hóa mà thôi. Vì căn cơ, cũng như ngày
trước Thầy cho tất cả Thần, Tiên, Thánh, Phật tùy phong hóa dân sanh nơi nơi dạy dỗ. Nếu
nơi nầy, các con cho là Chánh Đạo Thầy, còn Tây Phương có nhiều mối Đạo hoằng
khai, các con cho rằng ngoại giáo, tà giáo thì các con đã lầm lẫn rất nhiều.
Các con ôi! Đạo
tuy diệu diệu, thâm thâm, tuy là to rộng, tuy khó nỗi chen vào, nhưng các con
bền tâm, tin nơi Thầy, các con suy lý chơn như, các con sẽ thấu rõ cội nguồn
của Đạo, thì đây các con mới thông suốt được nhiệm mầu. Ngày nay, các con vì
huyền diệu mà đến với Thầy, vì phép mầu hiển hóa mà các con kính phục tôn sùng,
chớ các con chẳng phải vì chút nhỏ mọn huyền vi thi thố hiện tiền mà các cho là
chánh giáo, kia loài tà mị, quỷ quái tranh phuông, chúng còn thần thông biến
hóa lắm thay ! Các con ôi! Thầy chỉ khuyên các con lần cuối cùng là thương yêu,
dìu dẫn cùng nhau, hầu nhận rõ lý Đạo của Thầy. Ngày nay Thầy đã nhiều phen,
nhiều lần lập lại, biết bao nhiêu, nhưng cũng MỘT, là “hòa ái” mà các
con chẳng hành, vội mơ ước Tiên bang, các con đừng mong mỏi. Các con chưa nhận
rõ lý Đạo nơi thế gian. Thầy muốn dụng chơn như tâm pháp dạy các con, chớ Thầy
chẳng dụng điều huyền diệu mê hoặc các con, các con nên hiểu lời Thầy hôm nay.
Vậy Thượng Tổ lâm phàm, Thầy nhường lời.
Thầy thượng ỷ.
Ý
NGHĨA HUỲNH ĐẠO
Ngày
24 Tháng 10 Năm 1961
THI
Bạch hổ vờn qua lộ diệu huyền,
Hạc vâng sắc chỉ phụng Hoàng
Thiên;
Đồng tâm túc kỉnh tâm bình tịnh,
Tử sĩ trau thân kiến nhã thuyền.
Tiểu thánh chào
chung, giờ lành báo tin có Lão Tổ lâm phàm. Tiểu thánh ứng hầu, xuất ngoại.
TIẾP ĐIỂN
Hồng đức Tân Dân đã đúng kỳ,
Quân truyền yếu nhiệm đắc khoa
thi;
Lão ban phong sắc thiên ân thọ,
Tổ đức bền tâm cố gắng ghi.
Thầy ban ân chung.
Giờ lành ngự Long Vân đàn, chứng lòng cảm ứng Thiên phong. Từ buổi sơ kỳ đến
nay phổ độ, đại phong thần sắp diễn chiều mơi, nên Thầy động lòng từ ái tá điển
chơn dương, phân rành pháp nhiệm.
THI
Tạo lấy thuyền từ giúp chúng
sanh,
Hỡi ai gieo giống của Tam
Thanh;
Cần nung chí Đạo dày công quả,
Đáo thị “Long Hoa” sẽ đắc
thành.
HỰU
Đắc thành máy nhiệm, đắc Quần
Tiên,
Trở lại ngôi xưa kiến bệ tiền;
Chẳng uổng Linh Quang công
khó nhọc,
Qui hồi pháp nhiệm thị đào
nguyên.
Đào nguyên khả dĩ chí hà
phương,
Thích Đạo truyền ban đã lỗi
đường;
Nho giáo cũng còn trong mạt
pháp,
Nên chi Thiên Đạo độ mười
phương.
Mười phương Phật Thánh hiện
Thần thông,
Dắt độ chơn căn đến đại đồng;
Nguyện chí trùng tu gầy pháp
Đạo,
Độ đời, độ thế, độ nguyên
nhân.
Nguyên nhân là của Chúa Kiền
Khôn,
Phước đức nên cho được tiếng
đồn;
Danh khắp hoàn cầu bia sử ngọc,
Đắng cay đừng ngại mới là
khôn.
Là khôn thiên chức phải tuân
hành,
Để đến Kỳ ba đạo đắc thành;
Ân thọ Thiên ban là cội phúc,
Chớ lờn, chớ thị, tội Tam
Thanh.
Tam Thanh đắc tội, sẽ muôn đời,
Kiếp kiếp ngục môn, khó thể rời;
Kỳ chót Thầy ban Linh Điển xuống,
Để con hành hóa thế tay Trời.
Thầy ban ân, về quyền pháp Thầy không có điều
gì nhắc nhở. Vậy Thầy nhường lời cho Đại Tiên Giáo Tông lâm phàm. Thầy ban ân
chung, Thầy thăng…
TIẾP
ĐIỂN
Lão Giáo Tông Tam
Kỳ Phổ Độ mừng chung Thiên mạng. Miễn lễ tọa thiền, nghe Lão đôi lời phân giải.
THI
Lý thiệt ai qua được Đạo Trời,
Đại đồng chỉnh sắp chớ buông
rơi;
Tiên ban mạt pháp ân phong sĩ,
Trưởng thọ huyền cơ đến lúc rồi.
Giáng bút đề thơ khai Đạo mạch,
Long môn tỏa ánh diệu ngàn nơi;
Vân đài nhiếp thọ hồng ân nhược,
Đàn bất tuân nên chịu rã rời.
Lão mừng thay ! vui
thay ! giờ phút nghiêm trọng, Đại Đạo hoằng khai đến hồi tuyệt đỉnh, tại người
không lập chỉnh, chẳng dạ hy sinh, nghi ngờ lẫn lộn không trọn tin, nên chỉ
khảo đảo rơi tràng. Lão buồn thay! muốn hạ lịnh Thiên điều, nhưng nghĩ thương
biết bao nhiêu hiền sĩ dày công khó nhọc mới tạo thành được Kỳ Ba, để nhìn “Đại
Phong Thần” biến chuyển.
Từ đây, Lão sẽ đem
Thiên điển ứng hóa mầu nhiệm để răn loài phản Đạo quên Thầy, Lão sẽ ban hành
Thiên điều đúng bực.
THI
Đem luật Thiên Đình hoạch tội
nhơn,
Đừng toan mượn Đạo để gây hờn;
Chư thiên phục quá điều
nghiêm Đạo,
Cho đúng Thiên cơ rất diệu
huyền.
TIẾP ĐIỂN
Ngọc Hoàng Thượng Đế Chủ Sử Toàn Cầu Hựu
Tội Tứ Phước Đại Thiên Tôn. Thầy ban ân các con.
THI
Ngọc chuyển về Nam, sắc lịnh ban,
Hoàng khai Thiên Đạo độ kỳ tam;
Thượng trung hạ nhứt đồng nguyên bổn,
Đế tạo huyền vi dựng Niết Bàn.
Đại đức linh căn truyền pháp nhiệm,
Từ bi cứu thế hạ phàm gian;
Phụ kinh tá bút trường qui điểm,
Lai sắc ân phong Đạo bảo toàn.
Dĩ chí trùng tu thọ,
Thiên lộ báo hồng ân;
Khai cơ Huỳnh Đạo chuyển,
Bí pháp thoát dương trần.
Thầy ban cho các
con một bài kệ.
THI
Tiếng kệ Hư Cung diệu diệu trầm,
Gìn lòng thiện niệm đáo Lôi
Âm;
Tam Thiên thế giới truyền
chung chỉ,
Thiệt quả công tròn đạt pháp
tâm.
Đuốc từ huệ ngàn nơi sáng
chói,
Thương con lành học hỏi linh
mầu;
Mà sao chưa đạt lẽ cao sâu?
Công quả chẳng đâu đâu toàn vẹn.
Vậy phải ráng chung tay vun
quén,
Thầy truyền ban chọn kén
lương hiền;
DI LẠC sanh noi dấu Tam
Thiên,
Mượn cơ thể lập quyền chữ sử.
Con muốn thấy quả lành hay dữ,
Long Hoa gần con thử tu trì,
Để nhìn xem máy tạo huyền vi,
Bao nhiêu lớp lạ kỳ dương thế!
Thầy thương xót vì đời dâu bể,
Nên lòng từ không dễ yên
nhàn,
Giữa đêm trường phụ giá xe
loan,
Ban sắc lịnh Vân Đàn thi thố.
Đây là đến qui nguyên sanh lộ,
Thất thập nhì Thiên số định rồi;
Truyền các con hành đúng vị
ngôi,
Thì sẽ được muôn đời vinh hiễn.
Để xem cảnh Phong Thần biến
chuyển,
Đem tài ba lựa tuyển con
lành,
Nhớ rằng Thầy ẩn khuất Tam
Thanh.
Truyền sắc chỉ điều hành thế
giới.
Vậy Thầy ban ân. Các
con quì nghe Thiên sắc:
“ Đời suy Đạo lạc,
Pháp mạt danh hư;
Chẳng có chơn như,
Toàn là hữu hoại.
Thất thập nhị Thiên Khai,
Dung nguyên vị chung tay;
Đem sức tài nâng đở,
Nếu thi hành bỏ dở,
Đắc tội phạm Thiên điều.”
Điều thứ nhứt: Thầy
ban nơi đây….
Vậy Thầy ban bạch
thủy nơi Thiên bàn để chia đồng rồi Thầy sẽ phân giải.
Bạch thủy dằn tâm vẹn Đạo Trời,
Đồng chung Thiên mạng quyết
không rời;
Điều hòa máy nhiệm cơ Thiên lập,
Thế Đạo tôn uy được thảnh
thơi.
Thầy ban con trẽ được hanh
thông,
Để giúp nhơn sanh bước đại đồng;
Dựng lập Kỳ Ba duy hữu nhứt,
Đề tên thiên mạng thọ ân hồng.
Thầy mừng vì nơi
Long Vân là đại linh căn Quần Tiên phó hội.
Các con ôi! Thầy
chỉ mong mỏi nơi các con cứu dân sanh để kịp kỳ “Phong Thần” và “ Vạn Linh”.
Thầy thương các con
rồi đây sẽ đắng cay, nhưng các con phải đồng minh thệ dìu dẫn quần sanh, anh
lớn chẳng làm quyền, em nhỏ chẳng cá nhân, dụng chữ từ bi đối xử.
Thử hỏi trong các
con không hòa ái, thì làm sao Thầy chuyển pháp luân, qui cho được Ngũ Chi Thập
Nhị.
Nếu các con nhận
thấy lời Thầy không đáng để ý thi hành, cứ tự nhiên lui bước, vì còn biết bao
nhiêu linh căn. Ngày bái mạng Thầy giao phần Cửu Tràng, Hiệp Thiên lo sắp
trang hoàng.
Các con nếu đồng
tâm hiệp nhứt, Thầy sẽ chứng lời minh thệ, vì các con là tay Hướng Đạo qui nhứt
Ngũ Chi Thập Nhị.
THI
Thầy sẽ chứng lòng của mỗi
con,
Thề minh cho vẹn Đạo vuông
tròn;
Dắt dìu sanh chúng qua bờ
giác,
Đến hội Long Hoa sẽ vẹn toàn.
Thầy ban ân chung
các con, sau hợp nhau bàn định minh thệ sắc son.
NGÂM
Thượng Thiên rồng xuống tựa kề,
Hư Cung Thầy ngự, trở về Huyền
Khung.
Thầy ban ân…
LONG
VÂN ĐẠI ĐÀN (TT Đại Thanh)
Ngày
7 Tháng 11 Năm 1961
THI
Thái Điền Giáo pháp ký huyền cơ,
Bạch sắc Tông chơn hộ đạo thơ;
Kim ấn Đại từ trao lý nhiệm,
Tinh quân Đạo chủng kiến nhi sơ.
Lão Giáo Tông Đại
Đạo mừng chung Thiên mạng lưỡng đài. Giờ lành Lão lai đàn chứng lễ Thọ Phong.
Vui thay! Mừng thay! Đạo Tam thập lục niên đến thời kỳ Thiên Khai Huỳnh Đạo.
Lão miễn lễ tọa
thiền nghe…
THI
Lão giờ lành báo
đàn có Đại Từ
lai lâm.
Cười! cười!...
Ba sáu năm qua Đạo đúng kỳ,
Long Vân kế tiếp lộ huyền vi;
Thời lai thất thập truyền lưu
hậu,
Thọ sắc huyền Thiên Đạo huấn
thùy.
HỰU
Thùy giang Di Lạc hiện liên
châu,
Chiếu khải trùng quang khắp địa
cầu;
Chỉ giáo dương sanh hồ đại
nghiệp,
Tam niên ân thọ lập Chư Hầu.
Chư
hầu bái mạng Cấm Sơn lầu,
Thập bát hòa chung phục Ngũ
Châu;
Diện kiến ân thơ truyền lạc cảnh,
Hùng quang báu địa thị thiên
mầu.
Thiên mầu khai hóa Đại Long
Vân,
Dĩ đức gồm thâu cả địa Tần;
Thập bát kinh thơ hồng chí
nguyện,
Dựng đời Minh Đức với Tân
Dân.
Đại Thanh Thiên chức phải
tuân hành,
Đúng buổi Tam Ngươn Đạo đắc
thành,
Thống hiệp Long Vân hòa Bửu Đạo,
Tam Thanh ứng hóa độ quần sanh.
Lão giờ lành báo
đàn có Đại Từ
lai lâm.
Cười! cười!...
THI
Long môn Ngọc lộ pháp Vô biên,
Vân đảnh Hoàng thơ ấn Kiệt truyền;
Đàn khải Thượng cung phân Chí hiệp,
Hoằng du Đế khuyết hội Tôn viên.
Khai minh Chưởng pháp tây Kim ngự,
Thất đảnh Giáo chơn ấn Viết kiền;
Thập bát Tam Thanh qui Đại chủng,
Nhị huyền Ngươn khí lọc Từ thiên .
Thầy ban ân tọa thiền nghe Thầy
phán dạy:
Thầy Chưởng
Giáo Tam Ngươn khai thiên lập địa, tứ hướng vô hình, Thánh Thần Tiên Phật đồng
hội nghe Thầy phán lịnh nơi đây:
- Thần Oai
Viễn Trấn khử mị trừ yêu cách xa Đại Đàn năm mươi dặm để Thầy phân;
- Tả Quân
sắc chiếu trấn giữ Long Vân Đại Đàn;
- Thanh
Phước Thần hộ đàn bảo pháp;
- Nam Hải
Quan Âm từ bi rưới cam lồ cho toàn Thiên phong đại sắc;
Bắc Đẩu
Thần Kỳ trấn vi địa lợi;
- Nam Tào
ghi tội phước Thiên phong;
- Đông Ba
Đế Quân trấn miền Duyên Hải;
- Tây Vức
Mâu Ni thọ sắc ấn hành.
Này các
con! Thầy đã sắc lịnh. Vậy cac con tua thi hành để tội cùng Thần Tiên Thánh Phật
mà Thầy không thể gỡ xin Thầy trao cho các con bài thi tiên liệu:
THI
Tiên Đạo đắc
minh ngộ pháp huyền,
Kiên tâm đãi lịnh
thế Hoàng Thiên;
Phật sanh Nam Việt
Hà Giang ngự,
Thiên tải Sơn kỳ
Bảo trấn liên.
Diệu pháp Đài
Cao khai lý nhiệm,
Huyền vi Giáo Chủ ẩn thâm uyên;
Địa kim Hà cảnh
Đồ Thiên nải,
Hiển Thánh thúc
qui ấn Đạo truyền.
Thầy
khuyến con lần học Đạo Tiên,
Đợi
kỳ Thất thập nhị Khai Thiên;
Đại
căn DI LẠC phân ngôi báu,
Chưởng
đức Đài Cao hưởng phước duyên.
HỰU
Phước
duyên lành Tam Thanh nhiếp thọ,
Hiện
hào quang sáng tỏ ngàn nơi;
Con
ơi! rõ thấu cơ Trời,
Hạ
kỳ nay đã đổi dời Thượng Ngươn.
Thượng
Ngươn khá lập kẻ vì Thầy,
Khai
lập huyền cơ thế chuyển xây;
Hồng
điển huỳnh quang tam thể ánh,
Rồi
đây con thấy việc càng hay.
Càng
hay cố gắng theo Thầy,
Điểm
linh khỏi uổng công Thầy xuống lên.
Hễ
ai giữ vững lòng bền,
Thế
trần Thầy thưởng tuổi tên, bạc vàng.
Ân
Thiên thì có Tam quang,
Ngôi lành vĩnh cửu Niết
Bàn ngự yên.
Thầy ban ân tọa thiền nghe Thầy
phán dạy:
Thầy Chưởng
Giáo Tam Ngươn khai thiên lập địa, tứ hướng vô hình, Thánh Thần Tiên Phật đồng
hội nghe Thầy phán lịnh nơi đây:
- Thần Oai
Viễn Trấn khử mị trừ yêu cách xa Đại Đàn năm mươi dặm để Thầy phân;
- Tả Quân
sắc chiếu trấn giữ Long Vân Đại Đàn;
- Thanh
Phước Thần hộ đàn bảo pháp;
- Nam Hải
Quan Âm từ bi rưới cam lồ cho toàn Thiên phong đại sắc;
Bắc Đẩu
Thần Kỳ trấn vi địa lợi;
- Nam Tào
ghi tội phước Thiên phong;
- Đông Ba
Đế Quân trấn miền Duyên Hải;
- Tây Vức
Mâu Ni thọ sắc ấn hành.
Này các
con! Thầy đã sắc lịnh. Vậy cac con tua thi hành để tội cùng Thần Tiên Thánh Phật
mà Thầy không thể gỡ xin Thầy trao cho các con bài thi tiên liệu:
THI
Tiên Đạo đắc
minh ngộ pháp huyền,
Kiên tâm đãi lịnh
thế Hoàng Thiên;
Phật sanh Nam Việt
Hà Giang ngự,
Thiên tải Sơn kỳ
Bảo trấn liên.
Diệu pháp Đài
Cao khai lý nhiệm,
Huyền vi Giáo Chủ ẩn thâm uyên;
Địa kim Hà cảnh
Đồ Thiên nải,
Hiển Thánh thúc
qui ấn Đạo truyền.
Thầy
khuyến con lần học Đạo Tiên,
Đợi
kỳ Thất thập nhị Khai Thiên;
Đại
căn DI LẠC phân ngôi báu,
Chưởng
đức Đài Cao hưởng phước duyên.
HỰU
Phước
duyên lành Tam Thanh nhiếp thọ,
Hiện
hào quang sáng tỏ ngàn nơi;
Con
ơi! rõ thấu cơ Trời,
Hạ
kỳ nay đã đổi dời Thượng Ngươn.
Thượng
Ngươn khá lập kẻ vì Thầy,
Khai
lập huyền cơ thế chuyển xây;
Hồng
điển huỳnh quang tam thể ánh,
Rồi
đây con thấy việc càng hay.
Càng
hay cố gắng theo Thầy,
Điểm
linh khỏi uổng công Thầy xuống lên.
Hễ
ai giữ vững lòng bền,
Thế
trần Thầy thưởng tuổi tên, bạc vàng.
Ân
Thiên thì có Tam quang,
Ngôi lành vĩnh cửu Niết
Bàn ngự yên.
THI
BÀI
Hạ
ngươn nay đã đúng kỳ,
Thiên Khai Huỳnh
Đạo hiệp qui Vân Đài.
Ân cần nhắc
thiên tài lo liệu,
Nắm Thiên
điều phải hiểu luật Trời;
Nếu
con để trí ngoài khơi,
Quỉ ma sẽ khảo
buông rơi đạo lành.
Thầy
thương xót chúng sanh bốn nẻo,
Chịu trầm
luân níu kéo ngục môn;
Ráng mà
giữ lấy linh hồn,
Phong Thần tái
diễn là cơn hiểm nghèo.
Con sao
mãi đắm đeo bể hoạn,
Để danh
quyền mờ ám Đạo Thầy;
Thầy
ban Thiên chức hiệp vầy,
THIÊN KHAI HUỲNH
ĐẠO hội này mà thôi.
Tiền với bạc
của Trời ân hưởng,
Nếu chẳng
tròn khó hưởng đức lành;
Quả
công đừng nệ nhọc nhành,
Thiệt thi nếu
mất Thầy dành lại cho.
Của trần
thế đừng lo cho mệt,
Nhưng thử
lòng con hết dạ chăng?
Nên Thầy
mượn thế gọi bằng,
Quả công kịp
lúc Đạo hằng phát huy.
Con cố gắng
thiệt thi công quả,
Mất mãy
hào Thầy trả lại con;
Muôn
ngàn của thế vẫn còn,
Kiên tâm hành
lịnh vuông tròn Thầy ban.
NGÂM
Lục
long thừa sắc: kệ chầu,
Ngọc Hư Thầy
ngự Thiên lầu phi thăng.
LONG
VÂN ĐẠI PHÁP
Ngày 27 Tháng 05
Năm 1962
THI
Hiệp thống Ngũ Châu, chuyển Đạo Vàng,
Thiên điều siêu đẳng sẽ ân ban;
Đại thừa chơn giáo Long Vân hội,
Đế khải trung môn nhập Niết Bàn.
Lão mừng chung
Thiên phong nam nữ tề tựu ứng hầu hôm nay nghe lời Thiêng Liêng chỉ giáo. Lão
vui thay!...
Cơ Trời đã đúng nên
hiệp các nguyên nhân hữu phước hữu phần chung lòng lo gánh vác.
THI
Đạo thể chơn như tại hiệp hòa,
Trung
cang nghĩa khí lập Kỳ Ba;
Tôi Thần,
Minh Đế xưng Tam Giáo,
Đoạn
dứt trần mơ, nẻo ái hà.
HỰU
Ái hà đeo đẳng làm chi?
Chư
hiền có thấy chuyện gì hay không?
Tại
sao chẳng sửa nơi lòng,
Trần gian
là chốn bụi hồng nhuốc nhơ.
Nhuốc
nhơ danh lợi, giết, tranh quyền,
Đọa
lạc muôn đời tại tạo duyên;
Sớm
tỉnh, Lão đem đường chánh giáo,
Ngàn
năm nào dễ gặp ân Thiên.
Ân
Thiên ban xuống trần gian,
Gọi chung
nguyên vị trung đàn ban ân.
Mặc dù nghi lễ chẳng cần,
Chừng nào
cho phép, đúng phần tọa yên.
Tọa
yên miễn lễ, chớ xôn xao,
Luật
lệ Thiên oai có dễ nào?
Chớ
ngỡ chơn linh không thấy rõ,
E rằng
đắc tội với Thiên Tào.
Này Thiên mạng,
nghe Lão minh rành về cơ Vô Vi Đại Đạo. Ngày nay đã đúng tam thập lục niên Cao
Đài chuyển thế, nhiệm kỳ của các Đấng Thiêng Liêng khai hóa thành mối Đạo Kỳ
Ba, nhưng chưa tròn siêu pháp; nên Huỳnh Đạo tiếp theo thất thập nhị địa, Vô Vi
Bí Chỉ Tam Thiên mầu nhiệm. Đợi đúng kỳ sẽ truyền. Cố rèn tâm sửa tánh.
Hễ nói thì dễ, mà
làm thì khó. Có khó mới khôn, khôn tầm chuyện khó.
Từ ngày Long Vân
Đại Pháp đã chuyển đến nơi này. Chư Thiên mạng lo xong phận sự, ai nấy đều cố
gắng vì Đạo, vì Thầy, nhưng Lão xét lại, hy sinh thiếu thốn, chỉ quả công chót
lưỡi đầu môi, hy sinh bằng tiếng nói tỵ hiềm chớ chẳng thật lòng vì còn vu vơ
chưa biết rằng tu hành sẽ về đâu? An hưởng gì chăng? nên không trọn đức tin.
Lão rất buồn thay!....
THI
Đức tin
không trọn khó thành Tiên,
Này các
nguyên nhân thọ Đạo huyền;
Chớ khá ưu
tư vì huấn dụ,
Trầm luân
thử hỏi mấy mươi niên?
HỰU
Mấy
mươi niên đã xuống trần,
Dạy đời
khai Đạo nhiều lần rước đưa.
Khách
hiền thì đã mến ưa,
Người hung kẻ
dữ cũng chưa tỉnh hồn!
Từ đây Lão cho
biết: Triệt Giáo hạ phàm, tà khơi khắp nẻo, ráng bảo tồn lấy thân, nếu không
chuyên cần e cho xác trần hủy diệt. Uổng thay!... Uổng thay!...
Nền Đại Đạo như
tường đồng vách sắt che đậy, bao bọc tấm thân mà chẳng tìm đến; cõi trầm luân
gươm giáo lại chen vào!...
THI
Chuyển Đạo
Vàng Tam Kỳ phổ hóa,
Hạ Thiên
điều đại xá trần gian;
Nguyên
tinh thọ lấy Đạo Vàng,
Tìm ra chơn lý
hiệp đàng minh tâm.
Đuốc từ huệ
âm thầm khêu tỏ,
Khơi làu làu soi rõ anh linh;
Ngày
nay công quả, công trình,
Tạo thành đức
cả giữ mình mai sau.
Sợ sấm động
ba đào biến chuyển
Khó
mong qua khỏi hậu kỳ,
Xem đời Phật
Thánh huyền vi bố trần.
Khuyên tất
cả ân cần lo liệu,
Chớ vì đời
liệu điệu lợi danh;
Mảng
mê trong cõi phù sanh,
Sáu mươi năm lẻ
có thành được chi?
Hay vẫn cứ
ngu si tăm tối,
Chốn đau
thương lầm lỗi trái oan;
Từ nay
nhớ rõ Đạo vàng,
Một lần đại xá
cho hàng Thiên Tinh.
Hội nơi
đây quả trình phải đủ,
Hãy xem chừng
đúng Chủ Nhân Ông;
Ngọc Kinh bố hóa đại đồng,
Ngũ châu vạn
quốc hợp trong Đạo Huỳnh.
Nhớ cho rõ
năm Thìn mãn xá,
Nhưng người
đời bản ngã không chừa;
Vô Thần
bày vẽ nắng mưa,
Động lòng Kim
Khuyết sớm trưa dạy truyền.
Chư Thần tấu,
lụy phiền Kim Mẫu,
Sổ đầy
trang, Bắc Đẩu dâng lên;
Ngũ
châu dầy đặc tuổi tên,
Toàn là quỉ
quái dựng nền binh đao.
Khá lập
chí chen vào Vân hội,
Kịp kỳ thi
chung khối Tam Thiên;
Long
Hoa hiển thế diệu huyền,
Chư nhu hội hiệp
điền tiền ghi công.
Nay phải
khắc nơi lòng cho kỹ,
Đã dẫy đầy
quái quỉ lộng hành;
Xưng rằng
Ngọc Đế đề danh,
Người ôi giữ lấy
tâm lành kẻo nguy!
Nó dụng
phép hữu vi bày biện,
Mượn danh
Trời làm chuyện bất minh;
Độ đời
thì giữ tâm linh,
Nào đâu có dụng
hữu hình đó đây.
Lão nhắc
sơ hiệp vầy tất cả,
Nghe lịnh
truyền phải khá mau chơn;
Quả
công Kinh Ngọc ban ơn,
Liên Đài thọ
hưởng từng cơn mát lòng.
Gió nhiệt
hạ thổi nồng tâm trí,
Hởi nguyên
nhân cao quí xưa kia;
Nào
đâu có hiểu khóa chìa,
Có chìa không
khóa khó lìa động môn.
Phận trọng
trách chớ hờn kẻ dưới,
Vạn ngàn
điều là lưỡi xướng đề;
Tâm
phàm dứt được hôn mê,
Nộ sân khí
hóa, muôn bề khổ đau.
Phải xét lỗi,
tay trao phận sự,
Tươi cười
nhau để giữ niềm hòa;
Đại đồng,
bác ái, vị tha,
Là lời Huỳnh Đạo
Lão ra đúng kỳ.
Kể từ đây
chẳng vì chuyện nhỏ,
Cho Linh
Quang không bỏ ngoài tai;
Lỗi lầm
vạch trước Thiên đài,
Tội, công cân
thưởng hậu lai sẽ tường!
Hỡi chư nhu
tại đường phụng tự,
Nghe đạo mầu
tâm giữ hiền hòa;
Đến
đây là chốn vị tha,
Đôi lời điểm
hóa gọi là thương nhau.
Lão nhắc
sơ trước sau vẹn giữ,
Buổi Phong
Thần Thầy ngự Đài Cao;
Triệu
hồn vạn quốc chen vào,
Tội, công thưởng
phạt tay trao Tam Tòa.
Phần Đại Đạo
hiện hòa chức vị,
Lãnh cân
vàng khắc kỷ mới mầu;
Rồi
ngày họa diễn khỏi sầu,
Kẻo mà hủy xác
trước cầu Vạn Linh.
Khen nữ
phái tận tình vì Đạo,
Nay Diêu
Trì hoài bão sĩ hiền;
Nữ lưu
Huỳnh Đạo cần chuyên,
Tam Giang hội
hiệp trương thuyền hư vô.
Về chơn
pháp bồi tô sẽ gặp,
Chuyển
Chơn Sư ngăn nấp phân tường;
Đợi
ngày Di Lạc Phật Vương,
Nắm quyền thế
cuộc, soi đường thiên cơ.
Chư hiền sẽ
rõ thơ Đạo chuyển,
Của Huyền
Khung hóa biến cứu đời;
Thế trần
mặc thế nhiều lời,
Phận mình tu học,
thức thời cẩn ngôn.
Tâm dầu có
dập dồn chua xót,
Cũng tươi
cười bòn mót quả công;
Đó là
những trận gió giông,
Những lằn ác
khi xáo trong tâm hồn.
Nghe cho kỹ
anh hồn trau tỉa,
Những điều
gì có phía chánh tà;
Ngày
nay miệng niệm Di Đà,
Mà người chẳng
biết thiệt là Phận ngôn.
Dạy thế cuộc
bảo tồn căn vị,
Giáng cảnh
trần suy nghĩ cũng buồn;
Dẫu rằng
Đạo pháp cội nguồn,
Bày ra nhân thế
chẳng buồn xét suy.
Kìa thế sự
loạn ly tai ách,
Tại vì sao
Lão vạch Thiên cơ;
Phải
chăng thương chốn trần mơ,
Tối tăm ưu ám
mịt mờ phủ giăng?
Nên chẳng
nệ hạ lằn linh điển,
Chiếu
quang đề hầu chuyện thân yêu;
Muốn
tu sao muốn bỏ liều,
Chẳng trồng cội
phúc tiêu điều tâm linh.
Nay Hư
Cung Thiên Đình bàn luận,
Tam Giáo
Tòa đã khấn hạ phàm;
Hiện
thân trong buổi Kỳ Tam,
Chơn linh siêu
thế lo làm quả công.
Gọi chung
tất đôi dòng tao nhã,
Mượn thi
thơ kịp khá dạy khuyên;
Hữu,
vô phân cách điện tiền,
Xin người khá
nhớ kỳ duyên hội nầy.
Chỉ lần cuối
Thiên Khai Huỳnh Đạo,
Chớ bỏ qua
hoài bão tiêu tan;
Xác trần
đúng buổi nguy nàn,
Mượn lằn linh
khí độ sang Ngọc Đài.
Giảng sơ
qua gọi tay anh kiệt,
Nữ cùng
nam kiến thiết Ngọc Kinh;
Diêu Trì
nhỏ cạn chơn tình,
Hư Cung quì tấu,
phúc sinh hậu trần.
Nào ai có
biết lần sa đọa,
Mãn hồng
ân sẽ hóa dã tràng;
Giã
chung Thiên chức hiện đàn,
Rèn tâm tu tỉnh
khoa tràng đắc thi.
Hội Long
Vân huyền vi đã chiếu,
Đến Vạn
Linh là thiếu nhiều rồi;
Sợ rằng
khó đứng khôn ngồi,
Minh Vương xuất
thế đến hồi họa tai.
Nhờ đức độ
Linh Đài chiếu rọi,
Gắng kỳ
công qua khỏi Phong Thần;
Giã từ
nguyên vị Long Vân,
Hư Cung trở
gót, điển lần Lão thăng…
CHƯƠNG II
KHUYẾN TU
Sơ dẫn – Trên đường
Đạo, Tôn Giáo nào cũng lấy tu làm gốc, cho nên các Giáo Chủ, các Tổ Sư, các bậc
Thánh Hiền xưa nay vẫn khuyến tu là vậy.
Trước kia, tùy căn duyên,
tùy hoàn cảnh Tam Giáo thường khuyến: tu học, tu hạnh, tu phước, tu huệ… Trong
các cách ấy, cách nào cũng hiệu nghiệm, nhưng chẳng có cách nào giúp người
trong một kiếp hoàn toàn giải thoát
Tại sao ? Tại vì trong thời kỳ Tam
Giáo, Tam Ngươn chưa dứt, nhân loại còn tiến, chỉ cần những phép tu đủ công
hiệu để lần hồi thoát hóa, chớ không phải đắc ngộ nhứt thời, điều ấy không cần
thiết.
Hôm nay Mạt Hạ Tàn Ngươn, các Thiên
tinh, Bồ Tát, Tiên Thánh hạ phàm độ thế cần phải trở về, những kẻ chơn chánh tu
hành phải được đắc quả hiện tiền trước ngày Long Hội.
Bởi vậy, chẳng những
phải tu học, tu hành, tu phước, tu huệ như trước kia mà lại còn phải bước lên
thêm một nấc thang, phải trường chay, tuyệt dục, diệt ngã, trừ mê, trau luyện
siêu nhiên mật pháp Huỳnh đạo.
Hữu
phước thay những ai nghe được lời khuyên của Tiên Phật! Nhưng hữu phước thật sự
những người biết tuân theo, biết hành theo cho kịp buổi Long Hoa, vì chần chờ,
e trể nãi.
“Kịp kịp
con đò kẻo trể con,
Trể chơn
trông đợi trí, tâm mòn;
Bao giờ gặp
được thuyền qua nữa,
Tiếng trống
giục hồn, tỉnh thức, con!”
Ngày 19 Tháng 03
Năm 1962.
Thầy mừng các con.
THI
Ngọc
Hư chuyển pháp độ Tam Kỳ,
Hoàng
hạ trần gian thảo chiếu qui;
Thượng
hiến Cao Đài danh bất diệt,
Đế
linh Huỳnh Đạo thị Vô Vi.
Chưởng
trung chấp hiếu hòa nhân thế,
Giáo
Đạo ban Kinh kỷ cập thì;
Tam
Trấn tuân hành nghe sắc chỉ,
Thanh
chương diệu lý hiệp phong nghi.
Thầy ban ân các con tọa thiền, định tỉnh nghe Thầy phán về
Ngọc Kinh Huỳnh Đạo. Nầy các con!
THI
Từ
thưở Thầy khai mối Đạo Vàng,
Thượng
kỳ diệu hóa nhứt Thiên can;
Nhị
dương truyền pháp trong sanh chúng,
Tam
bộ linh cơ chuyển Niết Bàn.
Các con ôi! Đời sắp đến cơ tận diệt: Đạo đúng kỳ khai lý
siêu mầu, nên Thầy giáng đại điển quang hầu chỉ rõ các con thông hiểu huyền vi
mật pháp của Thầy.
Nơi trần gian ô trược nên Thầy truyền các con phải trường
chay hầu tiếp lấy siêu quang mà Thầy dành để cho các con nguyên căn từ muôn
ngàn kiếp trước.
Nầy hỡi
nguyên nhân nghe Thầy phán:
“Pháp luật
điều qui, từ đây Thầy cho phép các con nào chưa trọn trường chay được dùng tự ý
từ Thìn thời đến Ngọ thời mỗi nhựt, nhưng từ Ngọ thời trở đi cho đến Mẹo thời,
phải giữ trọn vẹn trọn lành hầu có tiếp trọn lằn điển thanh của Thầy ban xuống.
Tuy nhiên trong ngày Sóc vọng phải giữ trọn vẹn chay lạt để rồi Thầy truyền cho
các con mật pháp siêu mầu mà từ xưa đến nay Thầy đã có nhiều lần ban xuống
nhưng không toàn vẹn vì nguyên nhân canh cải, hoặc vì lợi danh phàm ý không đạt
được huệ linh. HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ sẽ giáng lâm truyền nhiệm pháp. Trong thất
thập nhị nhựt (72 ngày) các con sẽ ôn dượt chơn dương, thông đồng Kiền Khôn,
xuất hồn du ngoạn, nếu các con làm đúng lời Thầy. Vậy mới gọi mầu linh siêu
việt, vậy mới gọi Đạo pháp Tiên ban”.
Hiện giờ Thầy truyền sắc các con ghi nhớ:
Về phần Ngọc
Kinh Huỳnh Đạo là Bửu pháp chí linh của THƯỢNG TỔ hạ trần diễn biến nên rất
nhiệm mầu, vô cùng quí báu. Người trì tụng thường xuyên sẽ vang động bốn phương
và hiển hóa chơn như. Do đó mà các con sẽ nhập định tham thiền hầu có quang
điển trọn vẹn pháp Hư vô. Các con ôi! Các con thử so sánh nơi cõi trân ai,
trong lành và trần trược, điều nào đáng ghi nhớ thì khá thực hành cho trọn vẹn,
lọc lấy khí thanh thì các con mới nhập về với Hư vô, tâm hồn các con thanh
thoảng, các con mới được thâu nhập mật pháp siêu nhiên. Khi hồn các con tách ra
ngoài không trung rồi nhìn lại xác thân, ôi thôi là trần trược!
Vậy các con
cố gắng nghe lời Thầy hành y, rồi sau bá nhựt Ngọc Kinh Huỳnh Đạo THƯỢNG TỔ sẽ
lâm phàm chỉ rõ bí pháp siêu nhiên cơ mầu chí hiển.
Ngọc
Kinh Huỳnh Đạo khi nào xong xả, Thầy cho các con biết rằng sẽ trao cho một đại
nguyên căn tức là Bắc Cực lâm phàm hầu tế độ quần sanh trong cơn mạt pháp. Công
quả của các con sẽ lưu hành vạn kỷ. Thầy cho phép các con hội hiệp từ đây cho đến
ngày sơ nhứt (1-3 Nhâm dần). Thầy sẽ giáng phân.
THI
Chuyển
biến trần gian tận thế truyền,
Thầy
thương nhỏ phước biến Tam niên;
MẪU
NGHI bệ ngọc hoài mong trẻ,
Trần
hạ, con ôi! lắm đảo huyền.
HỰU
Đảo
huyền phong hỏa diệt gian tà,
Bắc
Đẩu sinh phàm chuyển giới ba;
Cứu
thế THIÊN TÔN DI LẠC hiện,
Công
đồng mật pháp hội Long Hoa.
Long
Hoa Thiên Tướng dựng Phong Thần,
Những
trận Tru Tiên ráng giữ lần;
Chiết
thọ Linh quang muôn thưở chiếu,
Kiếp
này ráng tạo, các nguyên nhân!
Nguyên
nhân thức tỉnh mộng hoàng lương,
Trì
chí bền tâm lánh khổ trường;
Đoạt
máy Hư Vô, duy bí pháp,
THIÊN
TÔN DI LẠC dựng cang thường.
Cang
thường chuyển thế các Thiên Tinh,
Mau
sớm lo tu giữ lấy mình;
Trận
dữ Ôn Hoàng Tiên Thánh Phật,
Nào
qua thoát được để tồn sinh.
Tồn
sinh duy pháp của Thầy ban,
Định
trí tồn hư huệ hiển tràng,
Khai
lộ huyền quang thông thất khiếu,
Từ
xưa Thầy mới nhỏ trần gian.
Trần
gian nếu chẳng uổng công dày,
Mau
sớm nghe Thầy lánh họa tai,
Bể
khổ con ôi! Là bể khổ,
Nên
chi Thầy mở Đạo Cao Đài.
Cao
Đài chuyển pháp độ Quần Tiên,
Hiển
thế Nho Tông tạo diệu huyền,
Mạt
pháp, Tử Vi lại cứu thế,
Siêu
mầu thị thọ tại Tam Thiên.
Giờ này Thầy giáng siêu quang đại điển để chứng cho các con
hiện đàn kịp kỳ Ngọc Kinh Huỳnh Đạo. Các con ôi! Nếu tâm trần bất nhứt thì thôi
nên trở lại trần hầu có an thân làm lành lánh dữ, chớ đến nơi này làm chi cho
khổ xác thân mà pháp luật điều qui không vẹn thì cũng như dã tràng. Thầy thương
xót nên chi ân huệ Tam Niên là cho các con học mối diệu huyền trau giồi bí
nhiệm.
THI BÀI
Trên
Bạch Ngọc hào quang chớp nhoáng,
Chiếu
siêu mầu ngời rạng Tòa chương;
Thương
con còn mãi khổ trường,
Ban
lằn linh điển con nương thoát trần.
Hạnh
ngộ thay chư Thần quì tấu,
Nên
lịnh Thầy Bắc Đẩu phê truyền;
Cho
đời thọ pháp Tam Thiên,
Tử
Vi xuất thế Hậu Tiền gồm thâu.
Đây
sắp đến đạo mầu vận chuyển,
Dạy
siêu nhiên lựa tuyển con lành;
Vì
đâu Thầy tỏ ngọn ngành,
Phải
chăng con trẻ lòng thành còn vơi?
Nên
hiểu biết luật Trời chiếu diệu,
Phải
thông tường mật kiệu linh xa;
Chơn
dương hiệp bổn thần hòa,
Ngươn
tinh hạo khí truyền ra độ đời.
Luyện
cho kỷ, thức thời hiển Thánh,
Định
vuông tròn, vẹn tánh Chơn như;
Kim
thân Ngọc Hạp Thiên thư,
Anh
nhi, Xá lợi thường cư động huyền.
Khai
Huỳnh Đạo cần duyên muôn kiếp,
Mở
Cao Đài để tiếp ngày nay;
Giờ
đây đúng buổi thi tài,
Vừa
công góp sức kịp ngày Long Hoa.
Chiếu
hào quang Tam Tòa thọ lãnh,
Chiết
nguyên thần Tứ Thánh hộ trì;
Chơn
đồng điểm hóa huyền vi,
Tuân
hành Thánh lịnh kịp qui Đạo Vàng.
Đây
gần buổi khoa tràng ứng thí,
Chọn
chơn tài tôn chỉ Hiếu Trung;
Nghĩa,
Nhân, Thành, Tín mới dùng,
Lập
đời Minh Đức Trung Dung nhập phàm.
Thầy
thương xót Kỳ Tam biến chuyển,
Cả
hoàn cầu như biển đùa khơi;
Gió
Đông phưởng phất mặt Trời,
Chiếu
vào đất Việt một thời Thầy ban.
Cho
các con hầu tàng huyền diệu,
Ráng
tu trì tiêu biểu nghĩa nhân;
Ngàn
xưa mấy bực trung thần,
Nêu
danh vạn cổ, xả thân vì đời.
Nay
Đạo pháp tuyệt vời Thầy bố,
Học
cho rành tầm chỗ cao siêu;
Xuất
thần về tới Linh Tiêu,
Rồng
chầu Phụng múa tiêu thiều nhạc đưa.
Ngũ
tường vân Thượng Thừa hiển hóa,
Tam
huê đồng truyền khá kết tinh;
Hồi
quang phản chiếu vẹn minh,
Đúng
ngày Chơn Chúa hiện sinh sẽ tường.
Giờ
còn hãy vấn vương cõi tạm,
Bởi
Phong Thần hắc ám khảo nhồi,
Các
con luyện pháp chưa rồi,
Minh
Vương chưa có thể hồi Nam Bang.
Tuyển
hiền lương Đạo Vàng vạn quốc,
Phục
Sơn lầu dĩ thất lục thành;
Ơn
nhờ đức độ Tam Thanh,
Thần
thông hiển đạt tinh anh siêu mầu.
Các
con thơ hiện chầu trước án,
Thầy
truyền ban phải ráng học hành;
Siêu
mầu điển huệ phân rành,
Hư
Cung tá điển Đạo thành nhờ con.
Sớm
lo toan mất còn cuộc thế,
Thà
rằng tu đổi bể thành dâu;
Con
ôi! quí báu Đạo mầu,
Truyền
cho các trẻ Năm châu tựu về.
Nghe
bí pháp vẹn bề đạo đức,
Thính
linh mầu Thái Cực mật truyền;
Vô
Vi ẩn hóa diệu huyền,
Thiên
Đài đắc vị Hoa Liên nhập thần.
Trận
Ôn Hoàng ân cần Thầy nhắc,
Là
lửa binh dày đặc Năm Châu;
Thảm
thương lệ biển thành sầu,
Máu
đào xương trắng hóa lầu chật sông.
Trận
Sum La ân hồng kỳ chót,
Là
pháp huyền bòn mót từ đây;
Con
ơi! Hãy ráng theo Thầy,
Ngũ
hành ngưng tụ là ngày bí siêu.
Chuyển
cho con được nhiều huệ điển,
Chiếu
cho đời lựa tuyển hiền lương;
Đợi
ngày chầu chực Chơn Vương,
Lâm
phàm hiển thế lập trường nghĩa nhân.
Phần
các con dưỡng thần tịnh trí,
Kể
từ nay luyện chí cho tròn;
Lời
Thầy nghe rõ không con?
Tu
hành hưởng phước bìa son Ngọc Đài.
Chớ
mãi mê sắc tài đeo đắm,
Chốn
trần gian lại lắm họan đồ;
Cao
Đài Giáo Chủ Nam Mô,
Nguyện
cầu Thần Thánh phù hồ các con!
Trong
bí pháp Thầy còn dành đó,
Chờ
cho người hiểu rõ huyền cơ;
Rồi
Thầy chuyển hóa Đạo thơ,
Mật
đề Ngọc vị kịp giờ hồi qui.
Ban
chung tất con quì trước điện,
Thầy
thương vì lời nguyện tâm thành;
Từ
nay giữ lấy tinh anh,
Bền
lòng Thần Thánh hộ thành pháp luân.
Bao
lời dạy khâm tuân thi thố,
Để
cho người khỏi hổ Đạo Huỳnh;
Pháp
điều chiếu luật Thiên Đình,
Từ
đây huệ điển Ngọc Kinh Thầy đề.
Giã
con trẻ tựu tề nghe dạy,
Chuyển
siêu quang đợi khải Đế Quân;
Diệu
mầu hiển hóa chín từng,
Thầy
hồi Bạch Ngọc, khá tuân lời truyền.
Thầy thăng
Ngày 24 Tháng 06
Năm 1962.
Bần đạo mừng chung.
THI
Quan từ huệ chiếu độ lương hiền,
Âm chất trau giồi đoạt pháp duyên;
Nam Thiệm bộ châu kỳ mạt hạ,
Hải hà Huỳnh Đạo chiếu ân thiên.
Giờ
lành bần đạo lâm trần,
Để lời giáo
hóa ân cần hôm nay.
Từ bi,
Bác ái dồi mài,
Đắc thành Xá lợi,
bệ giai tựa kề.
Chư Thiên mạng miễn lễ, tọa thiền định
tâm, bần đạo đôi lời: Kìa là bể hoạn, trầm luân đọa sa ngàn kiếp, nọ bến giác
từ hòa, sao nhân gian chẳng vị tha, vong kỷ, nở đoạn nghiệp thiên thu, mê điều
đoãn trược? bần đạo đã hứa với nhân gian rằng: ”Ngày nào còn thống khổ, dầu lục
đạo, ngạ quỉ, súc sinh, noãn thai, thấp hóa, bần đạo cũng nguyện kề bên độ rỗi.
Nếu chưa đoạt thành sở nguyện thì vị cả Niết Bàn, Bần đạo chưa bao giờ trông
thấy.”
Hỡi linh căn ngàn đời, có nhớ chăng muôn kiếp vô minh mờ ám? Định tâm, tịnh trí, nhìn lại trong tim, thử hỏi xác trần này bao lâu sẽ hoại? Hơi thở này có chắc còn mãi cùng chăng? Tại sao người biết Đạo hằng, còn người khinh rẻ? Đó là duyên xưa: có thấp, có cao chớ nên phân vân bề bộn.
THI
Nhiếp thọ
hào quang chuyển cửu ngươn,
Triều
dương ngũ khí nhập linh đơn;
Quán thông
vũ trụ duy Thiên nhãn,
Đoạt lý Hư
vô bất oán hờn.
HỰU
Hờn
duyên tủi phận trần gian,
Chỉ là một giấc
mộng hoàng lương thôi!
Tắt
hơi nợ thế phủi rồi,
Nghĩa tình trả
lại cho đời nhuốc nhơ.
Vậy Bần đạo khuyên chung nữ phái, gìn
tâm định tánh, dùng lý chơn như học hành nhiệm pháp, giáo điều của Huỳnh Đạo để
dắt lần đến nơi nhàn lạc, ngày kia hiển nhập Liên Hoa, Phật Tiên cựu vị:
Mặc tình thông thả ngao du,
Dạo chơi Thượng giới Diêm phù thỏa thê.
Giờ đây bần chỉ lối về,
Đạo Huỳnh nhứt bổn hậu kề Thượng Ngươn.
Muốn tu hành trước
phải giải tâm phiền muộn, giải điều nghiệp chướng, oan gia, giải hà sa phàm
tục, đoạn dứt mê tân, soi đường chơn chánh. Điều gì phải xét suy cho cạn lý,
cùng tột nguyên nhân, sẽ hiểu rõ cội nguồn, đời là giả tạm.
Ngày 26 Tháng 05
Năm 1964
BÀI
Thay quyền Tam Giáo hạ trần,
Điệp ân Ngọc sắc Phong Thần tay trao.
Đương Lai Giáo Chủ hiện trào,
Thiên Tôn Di Lạc Thiên bào hạ phân.
THI
Thiên sắc quang nghiêm điểm đạo mầu,
Thiên điều ký chú hiện linh châu;
Thiên thơ lạc quốc qui Tam Ngũ,
Thiên địa minh minh ý hảo cầu.
Tôn ngự trần gian ban chánh pháp,
Tôn nghiêm hoằng hóa Đạo cao sâu;
Tôn hoàn xuất Thánh khai Ngươn Đức,
Tôn vị Tòa Chương bất ý sầu.
Di pháp Kỳ Tam lập đạo đời,
Di truyền tôn tử đắc Tiên ngôi;
Di cơ chuyển bút khai Huỳnh Đạo,
Di lập huyền linh chỉnh tuyệt vời.
Lạc cảnh Niết Bàn minh chánh lý,
Lạc tâm viên tánh tạo công bồi;
Lạc Hồng khởi xướng Tam Ngươn hiện,
Lạc báu minh minh chuyển Đạo Trời.
Thiên Tôn mừng
chung tất cả căn nguyên đồng triều bái hôm nay. Miễn lễ.
THI
Đắc Đạo do
tâm tạo pháp huyền,
Năng hành
chơn lý tạo căn duyên;
Đại đồng
chủ xử Ta phân xét,
Quản thế hữu
vô chiếu linh quyền.
Này các nguyên nhân! Đang hồi khảo
đảo, thế cuộc đảo điên vì thương chúng sanh nên Phật quì dưới bệ tiền cầu xin Ngọc
Đế gia ân cho tùy duyên Thánh Thần Tiên Phật phổ truyền giáo pháp, đại xá kỳ
Ba. Trong thời Phong Thần diễn biến vay trả trả vay, từ đây sẽ biết? Đừng ham
đoãn lạc, đừng tiếc cảnh trần gian mới thấy rõ Đạo mầu tuyệt diệu cao siêu. Nửa
trần tục, nửa tin tưởng đạo mầu thì cũng chưa thức được lý cao sâu của Trời ban
bố vậy. Nếu nguyên nhân chịu bỏ tất cả, thì sẽ được tất cả ; nếu còn ham muốn
tất cả, sẽ mất tất cả, chẳng phải mất tất cả mà thôi, còn mất luôn cả linh hồn..
Kìa, linh hồn báu
trọng tinh anh, tại sao các nguyên nhân không biết trau luyện, lại rèn chi thân
thể tứ đại, ngày kia sẽ trở về với gió bụi. Nhưng muốn luyện linh hồn, trước
phải tập rèn thân thể, phục tùng theo lý trí, từ lý trí mới được huệ linh của Tiên
Phật truyền ra các nguyên nhân mới thọ lấy. Cảnh trần gian đã biết là ô trược,
đắng cay, lòng phiền não cứ nối tiếp theo làm cho con người phải điên đảo trong
thất tình lục dục. Ai cũng biết thế, ai cũng suy nghĩ thế, mà không ai hành
đúng theo Chánh pháp Hư vô, không có lòng tin trọn vẹn, chẳng có dạ hy sinh
tuyệt đối cho nên không thành Tiên đắc Phật là vậy.
Kìa! Nhìn xem trong
các Bửu tự, Thánh Thất, thánh Tịnh biết bao nhiêu, nhưng từ mấy ngàn năm nay
chưa có người đắc vì không có một nguyên nhân trọn lòng thành tín, trọn dạ hy
sinh, mượn Đạo tạo đời, gây biết bao nhiêu là nghiệp quả, cho nên không đắc
được Tiên Phật tại thế. Chúng sanh thì đa chấp, nhìn thấy thế, cho là chánh
pháp chẳng được anh linh, mới có điều bán rẻ khinh khi. Ngày nay, nếu không
trọn tin, không trọn dạ hy sinh, thì cũng chẳng đắc được chi Tiên Thánh.
Đường trần ngắn ngủi, đời của các
nguyên nhân cũng như con phù du. Này các nguyên nhân! Trong một khắc, trong một
ngày, một sinh vật nhỏ nhất trần gian mà các nguyên nhân nhìn thấy đó, thì
chính nó cũng không ngờ rằng sống trăm năm, cũng như tinh thần của các nguyên
nhân đang nghĩ đến vậy. Phần Tiên Thánh Phật cũng như người nhìn thấy các sinh
vật nhỏ bé, cảm động lòng thương truyền chánh pháp cho hầu có tránh khỏi điều
tang thương. Nhưng vì quá u tối mê lầm!... Người Cha thương con thường dạy bảo
con cho điều hay lẽ phải, dạy con học hành, dạy con bước vào khuôn khổ của đạo
đức, nhưng con cho rằng Cha Mẹ khó, điều đó cũng chẳng ích chi. Khi lớn khôn
mới hiểu rõ đó là lời châu tiếng ngọc, nghĩ lại lúc bé thơ cãi lời Cha Mẹ, điều
đó rất là ân hận. Thương thay!...
Các nguyên nhân
ngày nay quì dưới Phật Đài, chấp lấy chánh pháp siêu vi, bỏ điều đau thương
trần tục, một dạ tin tưởng, nơi gia đình phải làm tròn bổn phận để trả nợ đời.
Nơi Thiêng Liêng phải tự rèn lòng, tự trau dồi linh hồn cho riêng mình, đừng vì
quá cảnh đời mà phải luân hồi vì oan gia nghiệp chướng. Không có một điều gì là
trường cửu nơi thế gian, nhưng nơi thế gian cũng là nơi trường miên vĩnh cửu.
Tại sao? Điều trường miên vĩnh cửu là do người tạo ngay bây giờ để dành cho
ngày sau vậy. Còn điều không trường miên vĩnh cửu là vì luật vô thường điên đảo
của thế gian, biết luật thiên nhiên biết điều trọng đại thì tự mình tầm lấy
chơn pháp siêu vi, tự giải thoát cho mình. Còn riêng về Thần tiên Thánh Phật
thương chúng sanh vì lòng đại từ bi điểm hóa, cũng như người khai đuốc, chỉ rõ
đường đi nước bước, chớ không thể kề vai gánh lấy được. Đi hay không là tự
người vậy. Thấy người đang cơn đói khổ, Tiên Phật chạnh lòng thương xót ban cho
chén nước, ban cho chén cơm, còn ăn hay không là tự người vậy. Thương thay!...
Từ bi
cứu khổ hiện đàn,
Xót đời trầm lụy
Đạo Vàng phô khai.
Trước
tiên mượn Đạo Cao Đài,
Cho trần tục
rõ Ngôi Hai đắc truyền.
Đại đồng
phán xét Quần Tiên,
Phong Thần,
phong Thánh lập quyền Tam Ngươn.
THI
Từ khiết quang linh đại điểm hồng,
Bi thương cảm lụy xót hư không;
Cứu dân đồ khổ trong trầm lụy,
Nạn ách tiêu tan thoát bận lòng.
Nam bộ kỳ linh oai mạc trắc,
Hải hà Long Hội chứng Nhân Ông;
Quan quyền lộc vị thân trần đọa,
Âm chất dồi trau thoát cảnh hồng.
Bần đạo mừng chung.
THI
Mừng chung
tất cả đại căn nguyên,
Ân xá kỳ
ba đoạt pháp huyền;
Miễn lễ nữ
nam đồng tọa thính,
Nghe chơn
lý của Đại Quần Tiên.
Này các nguyên
nhân; Bước vào đường Đạo, tin có các Đấng Thiêng Liêng huyền diệu ban tứ hồng
ân thì phải hết lòng lo Đạo. Việc tin tưởng ngày nay cũng như cơ đời đã sắp
đặt, nào là bạn hữu, nào là tình nghĩa phu thê. Các nguyên nhân có tin mới
được, nếu các nguyên nhân, không tin thì làm sao có tình nghĩa phu thê trọn
vẹn. Cũng vì chữ tin mà các nguyên nhân có nhiều bạn hữu thâm tình, cũng vì có
chữ tin mà các nguyên nhân mới trau dồi đạo đức hoặc học vấn, đoạt đến mức cao
siêu. Nếu tin rằng mình không bao giờ đoạt đến hoặc chẳng tin thì làm sao đoạt
được mầu vi linh diệu của bí pháp cao siêu.
Thân trần gian đày
đọa trong gió sương lao khổ, nhìn trong trăm năm mà quên điều ngàn kiếp. Kiếp
luân hồi nối tiếp theo nhau cũng vẫn còn trong ưu phiền đau khổ não. Ngày nào còn
sống trong sương gió thì phải chịu cảnh đọa đày vì ưu phiền; sống trong ưu
phiền tất phải luân hồi trong muôn vạn kiếp, chỉ có bí pháp cao siêu vừa trả nợ
trần, vừa giải thoát cho thân tâm, linh hồn được nhẹ nhàng mới đắc vị Tiên ngôi
Phật cảnh.
Bần đạo thương
thay! Khi nhìn chung xuống trần thế, nào là oan hồn yểu tử đang rên siết thảm
thê trong cảnh gió sương mù mịt, khổ đau, nhiều khi vì lòng đại từ chiếu diệu
hào quang cho chút huệ tâm, nhưng thương ôi, tạo nhân tất nhiên phải gặt quả!
Ngày nay, trong cảnh gió sương than thở, chớ trước kia, còn xác trần ai, một
lời đạo đức không thâm nhiễm, buồn thay!...
Thế cuộc lấn chen,
nhưng lấn chen trong luật vô thường, trong điều lục dục, tại sao không lấn chen
điều công quả, đạo đức cao minh, thân tâm nhồi nắn, ngày kia sẽ đắc vị Tiên
ngôi Phật cảnh hơn là cuộc đời Vương Bá chốn trần ai. Thảm danh! Thảm lợi! Vì
danh, lợi, vì tình ái mê si cho nên phải ràng buộc điều oan gia, nghiệp chướng!
Nhưng có mấy ai thức được là oan gia nghiệp chướng, chỉ cho đó là phước đức
ngàn đời. Lầm thay! Càng được bao nhiêu việc trần gian càng đọa đày linh hồn
biết mấy! Vì thế cho nên bần đạo mới ban truyền ra yếu lý, chánh pháp siêu
nhiên, cơ mầu tuyệt diệu hầu có thức tỉnh nguyên nhân trở về với chơn lý ngàn
xưa.
Ngày nay, đời gọi
là trí thức, phải tự biết tâm mình, phải tự đi vào con đường chơn lý, đừng chấp
điều tà mị, mê hoặc chúng sanh mà phải hao điển của Thiêng Liêng ban tứ. Điều
đó Bần đạo giảng, trong hàng đại nguyên căn phải suy nghĩ, tự lượng mình, tự
tầm truy hầu thoát khỏi những điều đau khổ mai sau, để cho ác khí tà luân không
bao giờ xâm nhiễm được. Điều nào Bần đạo giảng, chớ vội tin mà cũng chẳng khá
chẳng tin, nếu suy được lý huyền diệu cao siêu mới tin trọn vẹn, còn không thì cũng
vẫn là trong mê tín vậy. Bần đạo khuyên chung: Muốn tu hành phải lo công quả,
phải tự tìm cho mình một đức tin cao khiết, nghĩ điều bác ái, vị tha. Nghĩ rằng
xã kỷ lợi tha mới đoạt được huyền linh tối diệu. Điều chi của riêng mình là
điều mật pháp cao siêu, rèn luyện nhồi nắn bản thân cho toàn vẹn, đó là giải
pháp cho riêng mình, giữ linh hồn báu trọng, điều đó là quyền thiên của Thượng
Đế ban ra, chẳng phải ích kỷ mà không lợi tha, đó chính là giải thoát thân tâm
để ngay kia đến Long Hoa đại hội vậy. Còn ngày nay, xả thân là điều làm công
quả vậy. Đừng tiếc rẻ chi chi, lấy đức lành ban bố. Trong tất cả pháp ở thế
gian đều do tâm mà tạo, chính vì tâm cho nên thế nhân thường chấp ngã, đa chấp,
tất nhiên các nguyên nhân phải tùy duyên hạnh để phổ độ chúng sanh. Nơi kia
truyền chánh giáo cao siêu để cho bực Thượng Thừa tri lý; nơi này truyền mật
yếu cao minh để cho bậc đại căn noi dấu, chung qui cũng đến Niết Bàn Bạch Ngọc
mà thôi. Bí pháp cao nhiên cũng như ngoài đời dùng một chiếc xe. Nọ là cũ kỷ,
chiếc kia thì bóng láng. Đừng chia rẻ làm chi, đừng chống báng cùng nhau mà lầm
lạc muôn đời. Chung qui cũng đến nơi đến chốn, ngại là không có người đưa,
không có người rước, hoặc tự minh không muốn đi thì muôn đời ngàn kiếp cũng
không đến vậy.
Trong luật luân hồi
nhân quả, Bần đạo giảng thêm chung cho biết: Phải tự giải thoát, tự biết mình
là chi? Rồi năng trau luyện, cầu nguyện cho Cửu Huyền Thất Tổ sớm siêu thăng.
Muốn cho Cửu Huyền Thất Tổ siêu thăng, chính mình phải tu hành vẹn vẽ, vì một
từ điện do Cha Mẹ sanh thành, thụ lấy âm dương của phụ mẫu mà hóa sanh thì lằn
từ điện giống nhau. Khi lời cầu nguyện đó được ấn chứng lên trên thì lằn từ
điện kia cũng hợp nhứt mà trở về với hư không an hưởng một cuộc đời nơi thiên
thai nhàn nhã. Đừng tưởng những chuyện nhỏ nhặt trần gian mà Thần Tiên không
thấy. Mỗi mỗi đều có Thần Thánh chép biên thì Phật Tiên đâu phải là quên hoặc
bỏ rơi một nhân hiền, một linh căn hiếu thảo.
Vì lòng đại từ, vì
đại hồng thệ của Bần đạo, cho nên tùy phương tiện đó đây bất chấp, tùy tất cả
cơ duyên nhập diệu, miễn làm sao cho chúng sanh thức được đạo mầu, cứu được Cửu
Huyền Thất Tổ đang thiết tha mong mỏi thì Bần đạo mới yên lòng. Này các nguyên
nhân! Càng biết nhiều càng khổ, càng thấy nhiều càng thương! Các nguyên nhân
nơi trần thế nhìn thấy cảnh tang thương nơi xã hội này, nơi quả địa cầu này còn
động tâm thay, gặp điều đau thương chết chóc, gặp điều dang dở đắng cay, thiết
tha mà còn động lòng thay, huống chi Bần đạo đã đạt đến tối diệu huệ linh
thông, nhìn chung hữu chất thấy chúng sanh đang dành sông, cướp núi, đau khổ
dẩy tràn, nhìn về phần Vô Vi thì thấy linh hồn rên siếc, tiếng khóc dậy trời,
thương thay! Vì thế càng biết càng thương là thế ấy!
Mầu nhiệm cao siêu
của Đạo lý, nếu giữ vẹn, thì được huệ linh, nếu còn đa chấp thì chưa được phần
tinh tấn. Muốn tinh tấn phải có dạ hy sinh, hy sinh vì Đạo pháp, hy sinh tất cả
điều ô trược để trở về với bản tính thiên lương của chơn linh tàn ẩn siêu vi mà
Thượng Đế ban cho chớ vì chút đoãn lạc của trần đời, vui đó rồi khổ đó. Buồn
thay! Nhìn chung muôn loài vạn vật, Bần đạo muốn đưa tay rước về lạc cảnh, muốn
cho nhập diệu Liên Hoa, nhưng cơ căn tiểu kiếp chẳng đoạn được một chút điều mê
lầm thì làm sao?
Trong thời kỳ đại
xá, quên tất cả việc xa xưa, Thần Tiên Thánh Phật vâng lịnh Ngọc Đế xá tội lỗi
cho tất cả nguyên nhân đã ăn năn hiện giờ, thì muôn ngàn kiếp trước đều xóa
tan. Nếu ngày nay không ăn năn thì khi đến đại đồng phán xét hoặc Long Hoa đại
hội, linh hồn phải sa vào trong ác trược, sống với kiếp sống của hóa nhân lăn
lộn trong muôn ngàn kiếp nữa với vạn vật muôn loài, thương thay! Lòng của thế
nhân tuy nhỏ hẹp, nhưng biết Đạo pháp cao minh, sẽ bao la trong vũ trụ, thể
hiện được đức từ bi.
Thừa sắc Ngọc Hư
Cung có Đẳng Giác Mâu Ni đã lâm phàm vào thời Nhị Kỳ Phổ Độ, cho chúng sanh
thấy rõ: Đức đó gọi là đức đại hùng, đại lực, đại từ bi, xã thân hành chánh
pháp, không mê đắm lợi danh, không buồn nhìn thế cuộc tang thương, chỉ giữ cho
linh hồn ngàn kiếp, chớ không cần giữ xác thể trăm năm. Về phần Thánh đạo thì
có Giáo Chủ Gia Tô lâm phàm hy sinh cả mạng sống, coi cuộc sống là một cuộc
trầm luân nên hủy hoại một việc thừa, cũng như làm bể vở một chiếc ly, một cái
chén là thế đó. Chớ không để nhiễm vào linh hồn, có mất mác gì đâu khi nguyên
nhân đã chọn… Này các nguyên nhân! Lúa chín ngoài đồng đừng nghĩ đến vỏ, nên
nghĩ đến bên trong: lột vỏ sẽ thấy gạo. Nếu nhìn vào vỏ bề ngoài thì làm sao
đoạt được điều mong muốn bên trong. Ngày nay, thể xác với linh hồn cũng thế,
say đắm theo bên ngoài, đua đòi theo hữu chất phù hóa thì bên trong làm sao
thấy được, nếu lúa kia không phải đập ra, không phải có công lột vỏ thì làm sao
thấy gạo. Phải có trì tâm kiên chí, quên tất cả hữu chất bên ngoài vậy. Nhưng
nếu quá vì bên trong mà thẳng tay bỏ dở bên ngoài thì gạo kia cũng không dùng
được.
Đôi khi Ngọc Đế
được Tam Giáo Tòa dâng lên muốn truyển giủ sổ trên trần, tiêu diệt thế gian vì
tội ác dẫy tràng. Nhưng Phật pháp từ bi thương xót chúng sanh cho Giáo Chủ lâm
phàm, chiết thân Ngọc Đế đắc vị Ngôi Hai cho thấy rõ, biết bao nhiêu là Thần
Tiên Thánh Phật thọ sắc Ngọc Đế tùy duyên phổ hóa, vì thương đời, thương chúng
sanh, chớ chẳng màng danh vị của Phật Tiên, vì không thể nhìn thấy oan hồn rên
siết, lục đạo tang thương, cảnh trần ai xáo trộn, cũng như người đời, vì không
muốn thấy đứa trẻ kia đi lần vào miệng giếng, phải đưa tay vớt lấy, thương thay!
Chuyện trần gian, các nguyên nhân đừng để ý, nơi nào nhiếp thọ được chánh pháp
cao minh, nơi nào truy tầm được chơn lý thì cứ giữ vững để tu hành nhưng đừng
xa lìa nguồn cội. Phật Đạo cứ trau dồi Phật Đạo cho cao minh; Tiên Đạo phải
nhồi nắn Kim Thai cho vẹn vẽ. Thánh Đạo phải trọn dạ hy sinh, tôn sùng các bậc
Thánh Đạo cho cao minh thì ngày Đại đồng phán xét cũng gặp nhau một mối vậy.
Đừng quá chấp nê nơi này nơi nọ, đôi khi cũng có tà luân bại hoại, phải nhớ rõ
để ngăn ngừa. Trước kia, Đề Bà Đạt Đa đã hủy hoại chánh pháp của Thế Tôn nhưng
làm sao? Chỉ lôi kéo được một số lục đạo mà thôi. Ngày nay, trên đường tu niệm
Bần đạo nhắc câu Tâm pháp cho chung:”Tự biết mình, tự hiểu mình để tầm ra chơn
lý”. Điều chi, việc chi mình làm mình chịu, chớ ngoại nhân nào có chịu dùm mình
điều đó. Chắc hẳn các nguyên nhân thấu rõ nhưng đôi khi lại muốn cho người chịu
cho mình thì làm sao được? Duy có điều ác bá mà thôi, nhưng điều ác bá người có
chịu cho mình, thì luật luân hồi vay trả chính mình cũng vẫn còn trong vay trả
vậy.
Ngày 08 Tháng 07
Năm 1964
THI
Ta ngự trần gian điểm Đạo Vàng,
Bà sa đeo đắm lắm tai nàn;
Giáo điều tu kỷ Thiên thơ chuyển,
Chủ huấn hòa thương đẳng đẳng ban.
Thích Đạo phổ truyền đà mạt hạ,
Ca ngâm thi phú thức khoa tràng;
Mâu từ huệ điểm thông tam cõi,
Ni chủng kiền tâm hưởng thọ nhàn.
Ta Bà Giáo Chủ Đẳng
Giác Mâu Ni, Bần đạo mừng chung các nguyên nhân. Lành thay! Lành thay! Nguyên
căn linh vị hội hiệp dưới Phật Đài đồng hữu duyên Kỳ Ba Mạt pháp hội ngộ nơi
này do tiền duyên đã tạo từ muôn ngàn kiếp trước, ngày nay hạnh ngộ. Lành thay!
“ Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ.”
Vậy các
nguyên nhân nên thức rõ cuộc đời mê, quay về chánh pháp, bỏ điều trầm lụy đa
đoan, để khỏi vướng thân vào vòng ác trược, sa đọa muôn đời.
Lệ của thế nhân đã
chan hòa trên quả đất: máu của chúng sanh vì dục vọng vẫn lan tràn. Tình của
chúng sanh không còn tinh thần thương yêu hòa hiệp. Vì thế cho nên loạn cuồng
nơi nơi.
Thần Tiên Thánh
Phật chuyển pháp luân tùy duyên hóa độ cho chúng sanh thấy rõ đời mạt pháp kề
bên, cảnh tiêu tận cũng sắp đến. Vậy tại sao không lo tạo nghiệp duyên hầu trở
về nơi Niết Bàn, Bạch Ngọc hay Hư Cung trọn hưởng một cuộc đời thanh nhàn? Này
các nguyên nhân, vì Đạo hay một lòng hướng thiện nên nghe điều này:” Đạo vốn
thiệt Hư không” Sắc tức thị không: sắc thị không là hiện giờ đây đem chánh pháp
truyền phổ là do sắc tứ tạo thành những chi điểm cho chúng sanh biết điều
không. Không đây là nơi Hư vô tịch diệt, nơi nhàn nhã muôn đời. Nếu trên thế
gian không có không, thì thế gian không phải là thế gian vậy. Các nguyên nh6an
nên trì tâm bền trí, đem cả đức tin học hỏi Chơn lý siêu thượng tàng vi hầu
ngày kia có phổ truyền giáo pháp cho chúng sanh hưởng đức ân, từ lành.
Bền tâm là mục tiêu
cuối cùng của người đạo đức; Kiên chí là đức nhẫn nại của người quân tử thọ
chánh pháp siêu vi. Phải bền tâm kiên chí, điều đó Bần đạo đã nhắc cho chung.
Cũng đã từng hóa sanh nơi phàm gian làm gương cho chủng loại, sáu mươi năm nơi
chốn rừng già vẫn ngồi yên để tâm ra chơn lý, suốt bốn mươi mấy năm dư phổ
hoằng chánh pháp cũng vì bền tâm kiên chí nên hưởng được chốn Niết Bàn Tối
Thượng!
Xót xa thay cảnh trầm luôn nghiệp chướng đeo mang, kiếp này, kiếp nọ nối tiếp nhau không bao giờ dứt, thì nay thời kỳ đại xá nếu tu hành thì trở lại ngôi xưa, còn không thì phải chịu thảm họa muôn đời, đắng cay trong vòng lục đạo. Tùy duyên, tùy đức hóa độ, vậy các nguyên nhân nên thức tỉnh hồi tâm lo tu hành, rèn đức hạnh đợi ngày phán xét “Công Đồng Long Hoa Đại Hội” vậy.
Phật
là toàn giác, chúng sanh là toàn mê, giữa Phật và chúng sanh chỉ khác nhau có
một chữ mê hay giác.
Mê là gì? Là vô
minh, là cố chấp, chấp cái hữu mà không thấy cái vô, chấp cái giả mà không thấy
cái chơn, chấp kiếp người trăm năm mà không thấy cuộc sống trường miên vĩnh
cữu.
Kẻ trí thì cho
rằng:
1-Đời là quí, không
nghĩ rằng nó tạm.
2-Thân là trọng,
tìm đủ mưu chước để bảo tồn, không tin rằng trong nó còn có linh hồn vô giá phải
gìn giữ.
3-Bản ngã do lục
thức, lục trần tạo ra là Ta mà không nghĩ rằng cái chơn ngã vô diệt, vô sanh
mới thật là Ta vậy.
Đó là giả tín.
Người quê thì tin
rằng:
1-Địa ngục là có,
không hiểu đó là những khao khát không thỏa mãn do những phiền lụy ôm ấp tạo
ra, sau khi lìa cõi thế.
2-Thượng Đế hay
Tiên Phật sẽ cứu người, không ngờ chính mình phải tự cứu mình vậy.
3-Tu hành rất dễ,
chỉ lạy Phật thờ Trời, tụng Kinh đọc Kệ, lánh dữ làm lành, toàn những việc để
tạo phước duyên chớ mong gì thoát hóa được?
Đó là mê tín.
Bậc chơn tu thì chỉ
muốn:
1-Theo Đạo bỏ Đời.
2-Gần Phật, lánh chúng sanh.
3-An hưởng Bạch Ngọc, Niết Bàn, không
còn biết đến thế gian lao khổ.
Đó là thiện tín
nhưng cũng còn mê chấp.
Vậy trước tiên phải
phá Mê, tránh những lầm lạc đã nói.
Sau đó đoạt giác,
và muốn thế, ít nhứt phải làm những điều sau này:
-Về xác thân: giữ
trong sạch, tối thiểu là phải trường chay.
-Về tâm tánh: đừng phiền lụy vì cuộc
đời, mà phải giữ tâm tánh an nhiên trong mọi hoàn cảnh.
-Về Đạo đức: phải
Từ bi, Bác ái, Công bằng. Tiên khởi là Từ bi, vì không Từ bi thì khó Bác ái, mà
chẳng Bác ái thì làm sao thực hiện được công bằng một cách chí lý theo Thánh
nhân được.
Hơn nữa phải xả
thân vì Đạo. Xả thân không phải là hủy hoại, mà phải ép mình trong khuôn khổ,
trường chay, giới sát luyện tánh, tu tâm, lấy đức rưới nhuần cho vạn chúng.
Trên hết là phải
vững đức tin: Tin ở Long Hoa khai diễn trong buổi cận kề, phải tu hành cho kịp
bước.- Tin ở cơ khảo sát Long Hoa, đau thương, điêu đứng để trạch đức, tuyển
hiền, chớ chẳng phải tiến bước êm đềm như trên đường nhung lụa.- Tin ở Mật pháp
siêu nhiên Huỳnh Đạo để rèn luyện Kim Thân Xá Lợi, thoát khỏi luân hồi.
Như thế, đoạt Giác
sẽ không có gì là khó vậy.
CHƯƠNG
III
GIÁC
MÊ
Ngày 22 Tháng 12
Năm 1962
Thầy mừng các con.
THI
Ngọc chuyển Trung môn chiếu Phật Đài,
Hoàng Thiên Ương ngộ pháp Thiên Khai;
Thượng Thừa Nam quốc Phong Thần lập,
Đế chỉ Việt vương ý Thánh bày.
Quản xuất Đại đồng thông Chánh giáo,
Thông truyền Chuyển biến thọ linh oai;
Tam Tòa Đạo lý qui Trung giáo,
Ngươn đức Huỳnh vân hữu đại tài.
HỰU
Tài trí con ôi! Lắm khổ nàn,
Theo Thầy học Đạo đắc Tiên bang;
Muôn năm chỉ có Trời khai hóa,
Vạn ức đời sau mơi thọ ban.
Ban truyền miễn lễ các con,
Tọa tâm, tịnh thính vuông tròn lời Cha.
Tọa tâm, tịnh thính vuông tròn lời Cha.
Linh lung huệ tứ ân hòa,
Phật Tiên Thần Thánh Chưởng Tòa nghe phân.
Phật Tiên Thần Thánh Chưởng Tòa nghe phân.
Này các con! Ngày
nay Thầy hạ trần gian truyền cho các con mối Đạo huyền vi, các con cố gắng bền
tâm nghĩ suy chơn lý, tầm mối Đạo cao siêu hầu có thoát đọa luân hồi về nơi
Bạch Ngọc. Các con ơi! Nếu các con tự tĩnh, mỗi ngày để một vài phút suy nghĩ,
các con sẽ thấy rõ mối huyền vi của vũ trụ. Vì các con ham mê đua đòi vật chất,
cho nên chơn thần mờ ám, cuộn rối trong danh, lợi, tình, tiền. Thế rồi, đến lúc
bỏ xác cũng mang theo điều luyến tiếc. Thầy thương thay! Vì luyến tiếc trần
gian cho nên con chịu đọa đày nơi dục giới. Nếu các con không còn luyến tiếc,
thì các con sẽ đắc được Hư cung hay Niết Bàn tọa vị. Lòng ham muốn chứa chan,
tại sao các con không dùng gươm trí huệ đoạn tâm phàm, dùng lý Chơn như phá tan
lằn hắc ám?
Thầy đã truyền sắc
THƯỢNG TỔ chiếu pháp huy, hồng ân đại truyền mật pháp siêu vi cho các con thọ
lãnh hầu có trở về cùng Thầy. Các con, tại sao các con cũng vẫn mím môi dấn
thân vào đọa lạc? Đường Tiên thong thả ngao du, các con lại e dè, sè sụt thì
làm sao đắc được Chơn Tiên? Thầy vì lòng từ bi hiển hóa trần gian, dùng chơn lý
hóa độ. Chơn lý của Thầy truyền đây là dụng phẩm hạnh toàn nhiên, chớ chẳng
phải nơi trần gian gọi là Chơn lý, rồi dụng Chơn lý phàm gian gạt lừa, sanh
chúng, ngày kia sẽ chịu đọa lạc muôn đời. Nơi ngục môn, chỉ dành người bạo ác,
chốn Thiên đường đưa rước kẻ dầy công. Các con ôi! Công quả các con hôm nay,
Thầy đã soi thấu. Nếu các con đem hết lòng thành dâng cho Thầy thì chẳng phải
là tiền bạc, vàng ròng mà Thầy chấp nhận. Thầy chỉ cho các con thấy là các con
đang còn mê muội trầm luân, chớ Thầy không thể vớt các con về ngôi Bạch Ngọc.
Các con hãy noi theo Thánh huấn từ chương mà Thầy truyền xuống, rồi học hành
nhiệm lý cao siêu, tự mình cải hối. Cải hối đây cũng như người mắc nợ thì các
con đừng vay nợ, để trả cho dứt rồi mới được rảnh rang. Cơ tiến hóa của vũ trụ
mà các con không tiến các con dừng lại thì các con sẽ đắc được Chơn như . Tại
sao các con dừng lại mà đắc được Chơn như? Các con dừng lại đây là dừng lại
cảnh mê sa, đau khổ của trần gian dục giới, dừng lại tất cả dục vọng đau thương
để suy tầm đạo pháp, dừng chơn, chẳng bước theo con đường luân hồi lôi cuốn
trong thế tục để rồi phải hoại xác thân, cũng như nước kia bốc thành hơi rồi
gió đưa, mây rớt trở thành mưa, luân hồi vạn kiếp. Tiếc vì đời con ngắn ngủi,
con không thấy được rõ sự biến chuyển của thế gian. Ngày nay thọ Đạo Vàng, điều
mật lý cuối cùng mà Thầy trao, các con phải gìn cho kỷ. Người tu phải làm sao
cho lòng mình nguội lạnh, chẳng vướng bận trần ai, xem tất cả thế gian là chốn
đọa đày, không tranh dành đoạt lợi, chẳng hơn thua nhỏ nhen, ích kỷ, cứ định
tâm toàn vẹn, tìm lẽ Chơn như. Không sầu thương than vãn, tất cả đều là của thế
gian, của dục giới phải rã tan theo thời gian, duy có hồn linh tinh anh trong
suốt, đó là sự biết của các con sẽ còn lưu mãi muôn đời.
THI
Trần gian đoãn lạc đọa triền miên,
Gắng bước theo Thầy hưởng phước duyên;
Cực lạc ngàn năm không đổi sắc,
Hư Cung muôn thưở vẫn còn nguyên.
Đạo lành tâm pháp trang quân tử,
Chí cả lòng nhân kẻ vẹn tuyền;
Mượn đuốc từ bi soi nẻo tối,
Dắt đường chỉ lối đến Tiên Thiên.
Ngày 08 Tháng 09
Năm 1963
Thầy mừng các con,
THI
Thần Tiên Thánh Phật chấm công trình,
Thầy giả ơn dày sắc điệp minh;
Ngự tứ Tam Tòa nghe lịnh phán,
Chung huyền linh thống giả chơn tinh.
Này Tam Giáo cùng
Thần Tiên Thánh Phật ngự lâm đàn, Thầy giả ơn toàn tất. Này các con, Thầy ban
ơn tọa thiền đồng thính về cơ siêu pháp.
THI
Thượng tọa Hư Cung chiếu Đạo Vàng,
Tổ truyền Thiên sắc hiện hào
quang;
Hồng oai từ huệ linh tâm nhiếp,
Quân ngự ân phong Bát Nhã thoàn.
Siêu pháp Tam Thiên hồi Ngọc vị,
Thiên tòa tứ đại đắc huyền ban;
Đài minh chủ yếu Long Vân tựu,
Giang thế khuyên con hội Đạo Vàng.
HỰU
Đạo Vàng Thầy chuyển tại Trung Ương,
Nam Việt qui phong mạt hạ trường;
Thứ tự nghiêm minh DI LẠC xuất,
Cơ mầu Bát Quái nhập Đồ Thiên.
Này các con! Từ cổ
chí kim, hiền triết, Thánh nhân, những bậc tài hoa trên thế, các con đã từng
nghe danh anh hùng lừng lẫy, oai dậy địa cầu, nhưng hỏi có mấy ai đi ngược với
thời gian để trở về bổn giác. Tất cả nơi cảnh ta bà ô trược đều theo định mệnh
của Thầy. Thời suy vì thái thế tục hoại, không đều nhịp nhàng tiến bước theo
thời gian Thiên số. Thầy thử hỏi các con: Ngày nay Thầy chuyển pháp luân, dùng
huệ điển là đem các con đến nơi nào? Có phải chăng là Thầy chỉ cho con rõ nguồn
cội căn nguyên, trở về cùng bổn giác thiên lương, không bị thời gian trôi cuốn,
chẳng chịu định luật hoại không mà chính các con phải chuốc lấy. Các con ôi!
Trường Đạo siêu vi, Thầy dẫn đường chỉ lối, Thầy dạy các con thấy nẻo mê tân,
điều ô trược chốn luân hồi, miền sa đọa kiếp kiếp, đời đời. Thầy cảm thương chỉ
rõ, cũng như vị lương y khai sáng mắt mù lòa. Cơ Thiên đã hoạch đúng lúc mạt
ngươn, Tam Giáo cùng trong cảnh tiêu điều thống khổ, Thầy mới ban truyền Huỳnh
Đạo để cho rõ cơ “ Vạn thù qui nhứt bổn”, lập đời Thượng Ngươn Thánh Đức, Ngọc
sắc DI LẠC giáng trần điều hành cơ cuộc. Nhưng trước khi Di Lạc giáng trần, Thầy
cho biết ngày tận thế trên Trời tiếng nổ điếc tai, dưới đất chuyển lay quái
loạn bốn phương sấm chớp mưa tuôn, ngũ hành ngưng diễn. Thảm thương vạn loại!
THI
Người
tu hồn xuất ra ngoài,
Nhiếp lằn hạo
khí, nhập thai Liên Tòa.
Bạo
tàn tan rã tiêu ma,
Lập đời Thánh
Đức khải ca Niết Bàn.
Các con, ngày tận
thế là thế đó! Thầy truyền diệu pháp bí chỉ linh thông cho các con hành theo vô
ngã là không theo mình, hành theo lý Vô Vi là hành theo Đạo, các con sẽ rõ là
huyền đồng vũ trụ, vĩnh viễn trường miên, bất sanh bất tử. Thầy sẽ truyền cho
các con Trung đẳng vẹn toàn, nhưng Thượng đẳng còn đợi Thiên cơ chuyển tiếp lập
Siêu Thiên Đài.
Ngày 16 Tháng 11
Năm 1963.
THI
Thái quá rồi đây cũng hoại thân,
Thượng Thừa Huỳnh Đạo chuyển chân
nhân;
Lâm cơ khuyên nhủ bao lần khóc,
Đàn nội huệ linh hội Thánh Thần.
Liên ký huyền năng do Bửu pháp,
Hoa khinh vị đắc nhứt thời phân;
Chơn duyên thọ nhiếp linh thông
tá,
Bút ngọc khai nguyên giống Lạc Hồng.
Lão Thái Thượng
mừng chung, giờ này các nguyên nhân triều kiến Thượng Tổ lâm phàm. Vậy, hỏi đến
nơi đây để nghe giảng pháp siêu vi, thiên cơ mầu nhiệm mà lòng trần có được dập
tắt phần nào chăng? Lão thường khuyên nhủ: Đạo do tâm, tâm do tin tưởng, tin tưởng
phải tinh tấn toàn nhiên. Nếu không tinh tấn toàn nhiên, tất nhiên phải sa vào
nơi mê muội, nếu mê muội thì vẫn còn luân hồi trong muôn đời ngàn kiếp, phải chọn
lấy Chánh Đạo, Chánh niệm, Từ bi, Hỷ xả.
Chánh đạo,
chánh niệm, Từ bi, hỷ xả đây có nghĩa là Lão muốn nhắc chung cho nguyên nhân:
- Một là qui hướng
HUỲNH ĐẠO THIÊN KHAI nhứt tâm, nhứt đức theo Đạo cho đến ngày cuối cùng sẽ thấy
được huyền vi trong giờ phút chót.
- Hai là bước đến
chẳng ngại ngùng khi đại đồng phán xét.
- Ba là được huyền năng
chiếu diệu, cõi thế an vui, tu hành toàn vẹn, không tỉnh tỉnh, mê mê, không lừa
đảo, không tranh đua, tất nhiên là các nguyên nhân sẽ được yên thân hành đúng
theo Chánh pháp hư vô huyền linh từ xưa truyền xuống, như thế mới gọi là Đạo.
Đạo cần nhứt là hạnh Đạo, hạnh Đạo là tượng trưng cho mối Đạo Vàng, tâm Đạo là
tượng trưng cho huyền linh chi diệu, trí Đạo là tượng trưng cho đời. Thấy điều
huyền linh của Thần Tiên ban xuống, cẩn hạnh, cẩn ngôn, tùy duyên phổ hóa.
Tu đừng có kêu réo
đó đây, ẩn im tĩnh tọa. Nếu nguyên nhân thức tỉnh thì chính mình muốn phổ độ
cho người, phải tìm lý chơn như chớ đừng dụng huyền linh mờ ám. Nghe cho rõ lời
Lão hôm nay để có sửa mình đức hạnh.
Ngày 15 Tháng 12
Năm 1963.
THI
Nhiên quang phóng hóa rọi huyền
vi,
Đăng nhiếp huệ thông buổi Hạ kỳ;
Cổ lập kim triêu suy pháp Đạo,
Phật lai Thánh hội sắp thời qui.
Giáng lâm trần thế vì nguyên vị,
Ngự bút đàn nay Đạo huấn thùy;
Liên tỏa mười phương chờ khách tục,
Hoa đài thức tỉnh pháp triều
nghi.
Bần đạo Nhiên Đăng Cổ Phật giáng ngự
Liên Hoa mừng chung cả nam nữ sĩ hiền.
Thương thay! Đời
thảm lụy, biết bao nhiêu cảnh đồ khổ trước mắt thế nhân. Thế nhân vẫn sợ rằng
mình bỏ xác, sợ rằng chẳng được lợi danh. Hỡi ơi! Tại sao lòng trần không sợ
chuyện trường miên vĩnh cữu, không nghĩ đến điều dày dặn nghìn thu mà chỉ nghĩ
đến năm này tháng nọ trong vòng trăm tuổi thương đau, những ngở giả thân là
thiệt chất, những ngở cuộc trần là cuộc trường miên.
Thừa sắc lịnh chiếu
qui Tam Tòa vừa hội lập, Bần đạo sẽ phân tường chơn lý. Vì thời kỳ hạ ngươn mạt
pháp, Thánh Thần Tiên Phật đồng hội trong thời kỳ Đại Phong Thần là: phong
Thần, phong Thánh, phong Phật, phong Tiên để nối tiếp đời Thượng Ngươn Thánh
Đức, phải rèn lòng tu tịnh đoạt đến mức Chơn như của Đạo pháp cao thâm mới thấy
điều huyền diệu.
Về mật pháp Bần đạo
giảng ra đây: Cơ siêu hình rất khó, đường Huỳnh Đạo lắm chông gai, những điều
khó khăn ấy, bao cách trở chông gai là giá trị mầu siêu của người đạo đức muốn
được ân thưởng của Đấng Từ Lành tuyệt diệu.
THI
Nhìn thấy trần gian luống não lòng,
Cổ thời Bần đạo hội Hoa Long;
Kim lai cho rõ cơ mầu nhiệm:
Phước đức từ nhiên hội Đại Đồng.
HỰU
Đại Đồng Tiên Phật hội phàm gian,
Trong buổi Hạ Ngươn thế tận tàn;
Kêu gọi từ đây mau thức tỉnh,
Tránh cơn đồ khổ sắp tiêu tan.
Tiêu tan trần thế cảnh mê tân,
Riêng các Thiên phong hưởng phước phần;
Chiếu huệ linh thông truyền mật chỉ,
Vượt qua phong hỏa Đại Phong Thần.
Phong Thần sắp đặt của Trời Cha,
Treo bảng từ đây lắm xót xa;
Thưởng phạt công bình cho thấy rõ,
Thế nhân dục vọng tạo can qua.
Can qua khởi sắp Giáp Thìn niên,
Cho rõ Tiên tri diệu mật truyền;
Hạ bút thương đời khuyên tỉnh trí,
Đừng cho thân thế phải truân chuyên.
Truân chuyên đọa lạc chốn Diêm Đài,
Là cảnh luân hồi khổ lắm ai!
Một kiếp theo Thầy, gìn mật pháp,
Thiên thu toại hưởng chốn Bồng Lai.
Bồng Lai đợi khách lánh trần gian,
Sợ cảnh đau thương đến Đạo Vàng;
Cực lạc cầu đưa về Thượng giới,
Liên Đài bước đến, khỏi lầm than.
Lầm than cho thấy sắp kề bên,
Này hỡi Thiên Phong cố gắng bền;
Đạo pháp thân này dầu hủy hoại,
Hồn linh muôn thưở thẳng về trên.
Về trên Thượng Giới hội Quần Tiên,
Chớ cảnh trần gian lắm não phiền;
Một kiếp bao nhiêu mà luyến mến,
Mộng Nam Kha đó! tưởng triền miên.
Này các nguyên căn
linh vị, nghe rõ lời Bần đạo giảng hôm nay: Điều nào trường miên vĩnh cửu, đó
là diều chánh pháp siêu thâm, Vô Vi chi Đạo; chớ chẳng phải dụng hữu hình ngày
hôm nay hoặc một chút huyền linh mà gọi rằng đó là trường miên vĩnh cửu, cứu
cánh về Tiên bang, Niết Bàn, Bạch Ngọc. Chẳng phải có một nguyên nhân mà đem
được về nơi Thượng giới. Nếu đem được về nơi Thượng giới thì với quyền năng của
Thượng Đế tại sao không đem tất cả các con về với Cha Lành? Tại sao các Thế Tôn
lâm phàm từ Đẳng Giác Mâu Ni cho đến Lục Tổ không dụng huyền vi, đem hàng Phật
Tử về nơi Niết Bàn cho thỏa nguyện? Vì thế cho nên Bần đạo giảng ra đây là Tâm
pháp nhiệm mầu. Chẳng phải một ai mà làm được, chẳng phải theo một cá nhân huyền
diệu nào mà rồi được thoát sanh về nơi Cực lạc, hoặc được chiếu hồng ân thoát
qua cơn đồ khổ. Lầm thay, lầm thay!...
Điều về nơi Bạch
Ngọc, Hư Cung, Niết Bàn là chính các nguyên linh tự đi, tự đến, tự tầm lý cao
sâu, chớ chẳng phải được Ngọc Đế rước đưa bằng huyền diệu, bằng tình thương. Cố
gắng suy nghĩ lời của Bần đạo để đoạt lấy tâm pháp nhiệm mầu. Lý đạo từ xưa đến
nay là dụng Vô Vi. Vô Vi mới thật là trường miên vĩnh cửu vậy. Muốn hiểu chữ Vô
Vi trước toan phải tầm Đạo. Tầm Đạo, hiểu rõ Chánh đạo thì lo hành Đạo, hành
Đạo mới truy nguyên được Pháp đạo huyền diệu. Pháp đạo huyền diệu thọ xong,
pháp Đạo mới được đắc, như thế mới biết mình là ai, về đến nơi đâu, cứu cánh
của Đạo pháp nơi nào, chớ đừng tin tưởng một chuyện chi nơi trần gian rồi quên
cảnh Vô Vi, quên mình, quên Thượng Đế chí công. Bần đạo khuyên! Bần đạo
khuyên!...
Ngày 22 Tháng 12
Năm 1963.
Bần đạo mừng chung.
THI
Như huệ huyền thông xuất ánh
quang,
Lai cơ pháp bút hiển chơn đàn;
Phật duyên tiền định, thiên thu
chuyển,
Tổ tứ huyền năng đẳng đẳng ban.
Di diệu thậm thâm truyền giáo
pháp,
Đà luân xót thế, hiện trần
gian:
Giáng phân đôi lý cho nguyên vị,
Ngự tứ Liên Hoa diệu pháp đàn.
Bần đạo mừng chung, miễn lễ tọa thiền, đồng
thính nghe giáo pháp của Bần đạo A Di Đà Phật Từ bi vô lượng, vì thương xót
chúng sanh cho nên Bần đạo đã đại hồng thệ rằng: Tình thương chúng sanh không
bao giờ dời đổi, từ kiếp này đến kiếp khác vẫn còn mãi mãi. Khi chúng sanh còn
tăm tối u mê, lòng trần chưa đoạn, cảnh khổ não vẫn còn luân chuyển xoay vần
thì Bần đạo khó ngồi yên nơi Niết Bàn Ngọc vị. Thương thay! Thảm thay! Bần đạo
cho các nguyên nhân biết rõ: Chẳng phải Bần đạo chỉ biết có một kiếp này hay là
những kiếp qua của các nguyên nhân hiện tiền mà còn biết rõ trăm đời ngàn kiếp
sau các nguyên nhân sẽ ra sao? Vì thương xót như thế, vì cảm động lòng từ bi vô
lượng nên Bần đạo mới chiếu hóa hiện đàn, hiển chơn quang truyền cơ bút. Bần đạo
giảng giải ra đây cho các nguyên nhân còn chấp nghi trong huyền cơ diệu bút và
cũng độ các nguyên nhân đương thời tầm chơn lý.
Thần, Tiên, Thánh,
Phật từ lúc Khai Đạo dùng siêu vi chuyển cơ nhập bút là có thật hay chăng? Đây
nghe Bần đạo giảng rõ: Có người muốn hỏi khi nào Bần đạo chuyển hóa Kim Thân
tại đàn, huyền diệu cho thấy thì mới tin tưởng rằng có Phật, Thánh, Thần, Tiên
tại thế. Thương thay! Thân trần là thân tứ đại, chịu điều ô trược của Mẹ Cha,
lớn lên phải hấp thụ phong hóa suy đồi chìm trong thất tình lục dục cho nên
chơn tâm mờ ám. Từ mờ ám chơn tâm mới xa lần chơn linh quang ngày trước toàn
nhiên khi vừa cho xuống trần gian. Đó là một điểm huệ linh tối diệu, nhưng từ
từ tập nhiễm tánh trần, xa rời chơn pháp, chỉ cho hữu thể là trường miên, vĩnh
cửu mà quên điều vạn đại nghìn thu. Cho nên muốn thấy rõ điều gì trước mắt mới
tin tưởng. Bần đạo thương thay! Đó là thuyết thực tế; Nếu các nguyên nhân diệt
được thất tình, dừng cơn lục dục, hiển hóa chơn như, tâm trần bất động thì
không cần mong Bần đạo cũng hiện rõ ra trong trí, trong tâm, trong tất cả hư
không cùng vũ trụ nếu khi nào muốn thấy. Bần đạo không thể hiện ra với tất cả
thân tứ đại ô trược nặng nề, để rồi đôi song quang của các nguyên nhân là đôi
song quang thường nhìn biết bao điều ô trược nơi trần gian, chưa phủi sạch mùi
trần thì làm sao nhìn vào được hồng quang tối diệu? Kìa là bậc Thần Thánh kia,
vẫn còn chưa xuất hiện vì sợ lằn ô trược của song quang thế nhân làm tiêu tán
biết bao nhiêu là đạo hạnh công trình, nên cũng chẳng hiển hóa làm chi, tạm
mượn một xác thân, tạm mượn huyền cơ diệu bút là vì quá từ bi. Mỗi lần giáng
đàn là mỗi lần tốn hao biết bao là hào quang Đạo hạnh. Vì thế cho nên không thể
hiện ra trước mắt mà chỉ cho tâm pháp, chỉ cho mầu nhiệm cao siêu, chỉ con
đường chơn lý, đâu là nơi về Niết Bàn Bạch Ngọc, đâu là chốn sa đọa muôn đời!
Chơn lý của Huỳnh
Đạo hôm nay, nghe Bần đạo truyền: Trước kia, Đẳng Giác Mâu Ni đã truyền cho địa
ngục với Niết Bàn, Địa ngục của Đẳng Giác Mâu Ni là noi theo chánh pháp của Bần
đạo mà truyền ra là vì xác thân tứ đại nhiễm lấy trược trần, trước phải chịu
sanh ra cõi ô trược cho nên thâm nhiễm chốn trần gian, nào là thất tình lục
dục, quanh quẩn trong bốn đường không bao giờ dứt. Người thì vẫn còn lòng ham
muốn, ham muốn thì phải chịu trong cảnh mê si, mê si thì phải chìm trong sân
nộ, vì sân nộ, ái ố, mê si cho nên khi bỏ xác cũng vẫn còn mang theo điều tham
dục: Đó là dục vọng! Đó là vô minh! Vì mang theo dục vọng, mang theo vô minh
cho đến khi bỏ xác, điểm linh quang vẫn còn thèm khát chốn trần gian, mong ngày
nay nối lại để đấu tranh, để đua đòi vật chất, để thỏa mãn kiếp tồn sinh cho
nên đó mới gọi là Địa ngục. Nào là hình phạt đau thương, dầu sôi lửa đỏ, đó là
tâm pháp dỉ huyển độ chơn mà thôi, chớ nơi địa ngục nào đâu có cảnh xẻ chia
gươm giáo. Gươm giáo sẻ chia là chính vì lòng tham dục nên phải luân hồi, mượn
tứ đại hiệp thành để trả vay, vay trả. Thương thay! Riêng về người tu thì đoạn
tất cả điều mê tâm, thống được tam tài, hiển hóa được chơn như nhập diệu như
một bồn nước phải lóng phèn cho trong, khi trong mới thấy rõ, khi đục làm sao
thấy tới đáy. Muốn cho lòng yên lặng, trước toan phải định tâm, muốn định tâm
cần phải có một phương pháp diệu mầu, đó là bí truyền Huỳnh Đạo ngày nay, bí
truyền đó cần có trang quân tử. Người quân tử mới có được Đạo siêu vi mầu
nhiệm, kẻ tiểu nhân làm sao đoạt được lý cao siêu? Buồn thay! Thế nhân chỉ nhìn
thấy trong trăm năm mà chẳng thấy vạn đời, cũng như nơi đây, các nguyên nhân
quanh quẩn trong cuộc sống hàng ngày, nào có biết đâu?... có biết chăng nơi
này, nơi nọ là chỉ nghe hoặc đôi lần đi đến, chớ nào thấy được thong thả, việc
ham muốn trần gian bị trói buộc là vậy! Các nguyên nhân nên ghi rõ lời Bần đạo
hôm nay: Nếu các nguyên nhân ham muốn điều chi, tất nhiên là phải làm mồi cho
điều đó! Thương thay!
THI
Linh hồn muôn thưở có Ta mong,
Anh tuấn tài hoa ráng giữ lòng;
Bỏ xác mang theo điều thiện ác,
Kỳ Ba đại xá hội Long Hoa.
HỰU
Hoa Long đại xá nhứT thiên kỳ,
Mạt hạ Đạo Huỳnh kết huệ vi;
Thống xuất Tam Ngươn chuyên chánh niệm,
Tài hoa anh tuấn thức thời tri.
Tri cơ mầu nhiệm của Thiên ban,
Nhứt khắc hộ duyên đắc Đạo Vàng;
Ân xá
Mẫu Nghi truyền huệ pháp,
Muôn đời thanh thản cõi Tiên bang.
Ngày 02 Tháng 02
Năm 1964.
Thầy mừng các con.
THI
Ngọc ẩn phương Tây chiếu diệu
lòa,
Hoàng khai pháp chánh hội Long
Hoa;
Thượng Thừa Huỳnh Đạo qui nguyên bổn,
Đế chuyển huyền năng chiếu Giáo
Tòa.
Kim vị Phật ngai hồi bệ ngọc,
Viết cơ chỉnh bút sắp điền khoa;
Cao nhân tâm trí hòa chơn Đạo,
Đài báu khuyên con đoạn ý tà.
HỰU
Tà khởi từ đây khắp thế gian,
Nên Thầy truyền sắc chuyển Nam bang;
Cơ đồ nghiêng ngữa nay mai đó,
Cố gắng con ơi hội Niết Bàn.
Niết Bàn Thầy vẫn đợi chờ con,
Kíp kíp toan lo mới vẹn toàn;
Nhiếp thọ Hư linh qua sắc giới,
Chuyển Thần nhập Thánh hội cung son.
Cung son Tiên Phật định Phong Thần,
Thiểu đức đa tài phải lụy thân;
Vạn kiếp quản quyền Thầy chua xót,
Từ bi chiếu hóa đại hồng ân.
Hồng ân miễn lễ các con thơ,
Tọa thính nghe qua diệu lý cơ;
Chuyển thức linh oai hòa nhiếp thọ,
Tránh đường dương thế lắm hoài mơ.
Hoài mơ chi những chuyện luân hồi,
Thầy dạy con hiền cứ bỏ trôi;
Đạo pháp chẳng chuyên còn lợi lộc,
Làm sao con được trở về ngôi.
Này các con, từ lâu
Thầy ân tứ linh oai sắc truyền LONG HOA HUỲNH ĐẠO là mong tuyển đại căn nguyên
trong hàng các con. Thầy từ bi, dầu cho muôn loài vạn vật cũng tứ ân nếu ăn năn
sám hối trong kỳ ba Mạt pháp thì Thầy cũng cứu về nơi nhàn lạc Thiên thai.
Nhưng tại sao các con lại được phần giáo hóa? Đó là vì công quả ngàn xưa cho
nên ngày nay duyên kiếp Thượng Thừa. Thầy mới phổ hoằng chánh pháp.
Con ôi, Thầy truyền
mối đạo Cao Đài tam thập lục niên dư là mong hóa hằng, thể hiện được Tam giáo
Nam Bang Trung Ương chuyển hóa. Nhưng kể từ ngày nay HUỲNH ĐẠO THIÊN KHAI tuyển
toàn nguyên căn linh vị cho nên Thầy mới sắc ân “ TAM NIÊN ĐẠI XÁ” theo lời cầu
xin của TỪ TÔN THƯỢNG ĐẲNG. Nhưng trong nhị niên qua, các con thử tính lại xem
con làm được chi, con học hỏi được những gì? Đó đây biết bao nhiêu là phiền
lụy!... Các con nhìn đời chỉ thấy riêng mình mà không thấy biết bao nhiêu người
đang khổ não. Kìa! Mỗi lần sáng sớm, con đến chốn thị thành đông đúc nhìn kẻ ăn
xin đang buồn bả khóc lóc kêu van, hoặc một ngày kia con nhìn thấy biết bao
nhiêu thảm nàn, xương phơi máu đổ. Các con hãy đến nơi bịnh viện, khổ lao, biết
bao nhiêu tiếng rên siết khóc than!...Các con có động lòng từ chăng? Thương
thay! Thảm thay!...Các con ôi! Nếu các con được nhìn tận cảnh thương đau thì
các con mới rõ lý chơn như mà Thầy hoằng hóa ngày hôm nay vậy.
Vì thương các con,
vì các con là đại căn nguyên nên Thầy mới truyền chánh pháp. Các con đừng câu
nệ chút trần gian. Mỗi ngày các con cứ tâm niệm rằng: Mai kia xác trần này sẽ
hủy, linh hồn tuyệt báu tinh anh chỉ còn đem theo quả lành cùng dữ. Quả lành
hôm nay là các con nhứt tâm, nhứt đức tạo lấy thuyền từ, còn quả báo luân hồi
là vì còn say mê dục vọng, chưa chắc dạ hy sinh, luôn nghĩ riêng mình mà quên
điều chơn lý. Này các con! điều hy sinh của các con là phải thành tâm, là phải
kiên trì, là phải siêng năng mới đúng với lý Huỳnh Đạo cao nhiên. Nếu các con
vì chút quả công mà ưu phiền, so sánh thì làm sao các con đoạt lý chơn như mầu
nhiệm? Các con ơi! Một chút nhỏ nhặt trần gian các con còn đa chấp, thì khi về
đến Niết Bàn, Hư Cung các con nhìn thấy biết bao nhiêu là vật báu lạ đời thì
lòng tham các con làm sao diệt được? Vì thế cho nên Thầy không thể đem các con
về Hư Cung Bạch Ngọc là vậy. Muốn mau thành Đạo trước phải có dạ hy sinh. Hy
sinh đây các con phải quên mình. Một chút khổ lao, bao điều nặng nhọc, các con
làm công quả hiện nay là kết quả ngày mai vậy. Điều khổ lao, điều nặng nhọc mà
các con chịu đựng nỗi ngay nay, thì điều khổ lao đó, nặng nhọc đó mới có giá
trị ngày sau, mới là thể hiện được lòng từ bi cao cả, mới đoạt được lý đạo cao
nhiên. Nếu các con chấp tâm phàm, tục tánh thì vẫn triền miên trong luân hồi sa
đọa. Thầy thương thay!
Kìa! Các con luyện
pháp, các con phải chuyên tâm, đôi khi nếu cần có công quả thì các con cũng
nguyện cùng Thầy đại xá ân cho vì công quả là nấc thang còn pháp nguyên là
phương tiện mà các con dùng để trèo thang vậy! Vì thế cho nên nếu các con thiếu
công quả thì làm sao các con có phương tiện để lên thang. Dù các con có muôn
ngàn phương tiện nhưng các con chẳng có thang thì làm sao đi về nơi Niết Bàn
hay Hư cung, Bạch Ngọc. Thầy thương, đôi khi Thầy muốn dùng huệ linh ân tứ quản
quyền vũ trụ đại từ bi phóng xá sanh linh đem về nơi Bạch Ngọc, nhưng lòng tham
dục của các con, làm sao Thầy nâng đỡ nổi. Thương thay! Chỉ nhìn con mà lệ
đổ!...
Ngày 26 Tháng 04
Năm 1964.
THI
Lòng từ
hạ bút điểm đàn,
Diệu huyền ân
tứ Đạo Vàng khai minh.
Cơ mầu
ứng hóa Thiên Đình,
Nhờ Trên nhỏ
phước Đạo Huỳnh lập nguyên.
Chung
qui hội hiệp Thần Tiên,
Long Hoa chưởng
chấp sắc truyền Tam Ngươn.
Cùng
chung nam nữ ban ơn,
Tọa thiền nghe
rõ từng cơn pháp mầu.
Giã
chung Thần Thánh hiện chầu,
Thừa vâng điệp
sắc cung cầu hôm nay.
THI
Nhiên tú Đăng lâm hóa Đạo Vàng,
Cổ thừa Phật ngự hóa hào quang;
Long đàn Hoa hiện khai chơn tánh,
Giáng bút Ngự cơ chỉ Niết Bàn.
Bửu vị Tòa chương khai đuốc tuệ,
Di truyền Lạc chấp định thời an;
Trung linh Ương xuất qui Tam Ngũ,
Nam quốc Việt bang chỉnh pháp tràng.
Này các nguyên
nhân! Bần đạo thừa sắc THƯỢNG TỔ cùng tiếp lịnh thay mặt THIÊN TÔN DI LẠC lâm
phàm chuyển tứ huyền linh cho chung tất cả nguyên nhân thọ hành chánh pháp.
Này các nguyên
nhân! Ngày hôm nay, bước vào đường Đạo phải tri thức rằng mối Đạo cao siêu
huyền diệu, bỏ những điều nhỏ nhặt mà Thầy thường khuyên. Vì điều nhỏ nhặt của
trần gian, vì mến ham thế tục mà phải luân hồi kiếp này, kiếp nọ thiên thu.
Thương thay! Muốn được trong sạch, trước phải rèn tâm, phải có hạnh từ bi, bác
ái. Có từ bi mới sanh ra lòng bác ái; có bác ái mới rõ lẽ công bình. Chớ đi từ
công bình sanh bác ái thì cũng chẳng đến từ bi, vì với một phàm nhân không bao
giờ làm trọn vẹn đức công bình mà Thánh nhân thường dạy. Ngày nay, cơ Thiên
hoằng phổ đã đến lúc các nguyên nhân phải tự rèn luyện, tự nhồi nắn bản thân.
Muốn tạo đức từ bi, trước phải có lòng nhân, phải bố thí. Từ bố thí các nguyên
nhân mới có cảm xúc tinh thần vì thống khổ của chúng sanh. Từ cảm xúc tinh thần
nơi thống khổ đó mới thể hiện được đức từ bi. Từ “từ bi” mới thương chung muôn
loài vạn vật, mới thực hiện được bác ái. Từ “bác ái” mới rõ lẽ công bình. Chớ
đi từ công bình, bác ái từ bi là sai với chơn truyền vậy.
Bần đạo giảng hôm
nay cho chung, cố gắng tầm suy đạo pháp trang nghiêm. Thử xét lúc sinh ra, các
nguyên nhân có biết rằng mình đã sanh chăng? Mà đến ngày tử biệt cũng không
hay, thì xét lại sanh tử không biết và không hay thì việc biết hay đó thuộc về
vô vi mà thôi. Lẽ thiên nhiên tuần hườn của tạo hóa, vì cảm thương nhân thế mới
truyền phổ Đạo Huỳnh. Cố gắng thi hành theo lời Thiêng Liêng đã dạy là chưởng
đức nơi Vô Vi để dành mai hậu. Nếu còn bán tín, bán nghi, không trọn lòng tu
tỉnh, thì uổng thay! Chỉ có một thời kỳ đại xá mà thôi, trể chầy e muôn triệu
năm sau cũng vẫn còn ân hận. Điều biết các nguyên nhân ngày nay là phải biết
rằng mình qui hướng nhứt tâm vì Đạo, không màng danh lợi, cũng chẳng có chia rẽ
đó đây, nhưng phải nhận rõ chơn lý siêu nhiên. Đã là người mật pháp cao thâm,
noi theo chơn truyền Thượng Ngươn Thánh Đức thì đừng có nọ, kia, cũng chẳng cấn
có giao tiếp làm chi với thế trần làm cho tâm thần luôn luôn biến loạn. Bần đạo
cho biết: Triệt giáo loạn cuồng nơi nơi, nếu không giữ tâm, hòa ý thì sẽ bị rơi
rớt giữa đường, đến Long Hoa sa vào Phong Thần! Uổng thay một kiếp, chẳng phải
một kiếp mà muôn đời vẫn còn than thở! Vì Đạo, vì chúng sanh, cố ép mình tạo ra
đức cả. Ngày nay các nguyên nhân đã có công, nhưng chẳng nên kể công, nếu kể
công thì không phải là công của muôn đời! Làm việc chung cho nhân loại mà kể
riêng cho mình thì cũng chẳng phải là công mình trong vạn kiếp. Ngày nay, các
nguyên nhân khổ cực thì chính Bần đạo đã muôn ngàn kiếp trải qua biết bao nhiêu
là lao khổ! Thương thay! Vì chút mê lầm chấp ngã mà biết bao nguyên nhân phải
rơi rớt giữa đường.
Chân lý Huỳnh Đạo siêu thâm, nếu không trí thức được thì khó lòng bước qua giai đoạn hầu có phổ truyền cơ giáo pháp, hoằng hóa chúng sanh mà chính vì bản ngã cũng không đắc được. Các nguyên nhân thọ pháp phải cố gắng thi hành cho vẹn vẽ, đừng ỷ lại nơi Thiêng Liêng, đừng ỷ vào công đức, đừng tính chuyện cao xa, phải tự dẹp bản ngã cá nhân, hòa mình cùng huynh đệ. Nếu trong hàng huynh đệ không hòa đồng thì làm sao hòa đồng cùng Ngũ Chi Tam Giáo?
Ngày 09 Thánh 05
Năm 1965.
Thầy mừng các con.
THI
Thượng sắc Hư Linh giáo Tổ truyền,
Hồng oai tế độ tạo Quân duyên;
Liên Đài dục hưởng từ Hoa thọ,
Giáng bút đồ thơ án Ngự tiền.
Chuyển chánh phong chơn qui Pháp huệ,
Luân thông tạo tác lập Vương quyền;
Đại đồng bất viễn từ Khai hóa,
Huỳnh vị Nam nhân ý Đạo huyền.
Thầy mừng chung các
con, Thầy THƯỢNG TỔ lâm phàm vì lòng tư bi đại xá, các con đồng trang nghiêm tịnh
tọa nghe Thầy giảng dạy đôi điều: Này các con! Khi các con thành tâm về với
Đạo, các con nên quên thân này vì thân này là của tứ đại hiệp thành. Khi tứ đại
hiệp thành mà các con mượn ra đây để học đạo, để hành Đạo hay là để vay trả
trên cuộc đời, thì ngày kia các con cũng trả về trong tứ đại. Duy có một điều
Thầy khuyên: Các con cũng như học trò một lớp học, các con ngồi đây học để nghe
lời giảng huấn. Rồi ngày kia các con thâu thập biết bao điều, bước ra đời hầu
chen lấn tranh đua, chớ không phải các con dùng nơi trường này để các con ôm
vào lòng những sách vở mà ra đời tranh đấu cùng chúng sanh. Chẳng phải thế đâu
các con! Phải bỏ trường lại cho lớp khác tiến lên, cho người đời theo tấn hóa
mà luật Thầy đã định. Bước đường đạo cũng vậy con phải bỏ xác cũng như con phải
bỏ trường để bước sang giai đoạn mới. Trước khi bước sang giai đoạn mới, các
con phải làm xong nhiệm vụ mình ở trong giai đoạn cũ. Cũng như ở lớp nhỏ, nếu
con không học thì làm sao đến lớp lớn, các con làm sao hiểu biết được điều cao
siêu của Thầy giảng?
Vì lòng đại từ, vì
thời kỳ mạt pháp, vì thời cơ đã đến cho nên Thầy chuyển pháp luân dùng điển huệ
siêu nhiên dạy cho các con điều hay lẽ phải, thế nào là trần nhơ, tục lụy, thế
nà là cứu cánh đến Tiên bang. Còn hành hay không là tùy nơi duyên của các con,
tùy nơi kiếp trước của các con đã tạo ra nhiều âm đức hay là tạo nhiều oan gia
nghiệp chướng mà các con phải trả vào kiếp này. Nhưng Thầy hứa với các con:
Đứng trước Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới Thầy quản quyền Tam Giáo truyền sắc
rằng: “ Khi các con thọ hành chánh pháp Long Hoa Huỳnh Đạo, thì các con sẽ xa
lánh khỏi Tam đồ chi đọa, sẽ được lãnh mật nhiệm cao siêu, sẽ được Thánh Thần
phò trợ, chớ các con không còn là một thế nhân tầm thường trong thất tình lục
dục. ”Các con tuy cư trần mà bất nhiễm trần, các con làm việc cho đời nhưng các
con không vì đời mà làm việc, làm việc là trả lấy quả ngày xưa mà các con đã
tạo ngày nay”.
Này các con, ngày
giờ đã đến chỉ có con đường Đạo cao siêu mầu nhiệm, các con mới thoát khỏi cảnh
núi sương, sông máu kề bên. Điều binh cách ngày nay âu chẳng qua là điều trả
vay nơi thế tục. Các con ôi! Đừng phiền lụy làm chi. Tại sao các con không
phiền lụy rằng các con bị luân hồi? Mượn thân tứ đại làm chi cho phải đau
thương trong giả cảnh? Tại sao các con không phiền lụy rằng chính các con tạo
ra nhiều nhân quả cho nên vẫn còn nhìn thấy cảnh đau thương, lòng mến tiếc.
Này các con, Thầy
thường khuyên các con, Thầy thường nhủ các con gần như van nài các con tạo
thành đức độ siêu vi đừng vì quá chút trần mơ. Thầy muốn giảng phần tiểu thừa
cho các con nghe rõ, là: Từ lúc sanh ra do khí huyết phụ mẫu tạo thành, các con
vẫn còn là “nhơn chi sơ tánh bổn thiện” nghĩa là chưa luân hồi, các con vẫn có
lòng thiện, vẫn biết ăn năn, vẫn nghĩ rằng: Nếu được luân hồi sẽ tạo nhiều quả
đức, nhưng khi được luân hồi, các con vì huyết thống của phụ mẫu cho nên đổi
tánh, đổi tình, nhiễm trược, bị hoàn cảnh xã hội tạo nên, phần căn duyên thấp
kém cho nên tà ma dễ sai khiến, lòng dục vọng dễ khơi trào ; các con quên điều
cao siêu huyền diệu mà trở về với điều giả cho là khôn, điều chơn, các con cho
là huyển. Thương thay, thương thay!...
Thầy muốn truyền
yếu lý cho các con, nhưng càng giảng lòng Thầy càng buồn, càng thuyết, lòng
Thầy càng thảm thương, vì các con không chịu bỏ bản ngã cá nhân để sống với
huyền đồng vũ trụ, vì các con không nhìn vào Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới; các
con miệng nói rằng vì chúng sanh, còn ngoài đời thì vì quần chúng, nhưng tiếc
thay “Tiên bảo kỳ thân” thì làm sao các con xả thân? Xả thân không có nghĩa là
hủy hoại thân xác này một cách vô lối mà phải ép mình trong khuôn khổ “trường
chay mật pháp” luyện Đạo siêu vi, truyền bá tư tưởng hòa ái muôn nơi, dầu người
có gieo oán hờn, các con lấy đức độ để chan rưới, dầu người có khơi cảnh tương
tàn, các con cũng vẫn cam lòng truyền bá đạo đức siêu vi. Đó tuy mất ngày nay,
tuy gian khổ ngày nay, nhưng điều gian
khổ lao nhọc hôm nay sẽ đổi lại ngày sau là miên trường tự toại nơi chốn Vô Vi.
Nơi chốn Vô Vi đây, chẳng phải là muôn vạn thế nhân, sau khi bỏ xác, đều về
được. Một phần thiên điển khi tạo được âm đức cao nhiên thì âm đức đó sẽ hòa đồng
cùng Cửu Huyền Thất Tổ được thăng đến Thiên Thai hoặc trở về Liên Đài toại
hưởng. Còn phần tạo lấy dục vọng cuồng si thì vẫn còn là đà nơi quả địa cầu,
nơi trần thế, nơi uế trược gió sương, nhìn thấy người mà lòng dục vọng trào
sôi, nhìn thấy cảnh tàn sát gớm ghê mà lòng phiền não vẫn còn chất chứa, như
thế, đó là địa ngục.
Tại sao không thăng? Vì lòng vẫn còn mang biết bao nhiêu là dục vọng cuồng si. Thì dục vọng cuồng si phải trở về với dục vọng cuồng si nơi trược trần. Còn về phần thanh cao nhứt định phải trở lại thanh cao. Các con nhìn kìa! Nước khi lóng phèn, nước trong ở trên, nước đục ở dưới. Dòng đời cũng thế, người thanh cao hay nói chuyện thanh cao, không muốn gần kẻ dữ, kẻ dữ nào muốn được gần người hiền. Vì thế cho nên tà bất cảm chánh mà chánh cũng bất cảm tà là vì thế ấy.
Ngày 08 Tháng 06
Năm 1964.
THI
Chuyển bút huyển hư hạ thế gian,
Đạo
mầu bỉnh chánh luận Tam Cang;
Thông thời yếu lý tùng nhơn xuất,
Kiên chí bền tâm kiến Thánh Hoàng.
HỰU
Thánh Hoàng chuyển hạ Luân Vương,
Đức độ cao siêu ngự Việt thường;
Thượng tứ đồ thơ qui Bá Giáo,
Ngươn kỳ hiển hóa tạo phong cương.
Chơn căn linh vị lâm trần thế,
Nhơn đức tâm minh dĩ Đạo cường;
Liễu pháp qui thông khai Thập
Bát,
Nhứt vương nhứt quốc Đạo vô thường.
Bần đạo Liễu Nhứt
Chơn nhơn chào mừng chung đẳng đẳng nam nữ Thiên Phong đại căn linh vị.
THI
Thời thế tam qui đảnh túc triều,
Hạ hồi phán giải tại Linh Tiêu;
Hữu nhân hữu chí qui Thiên mạng,
Thất nghĩa bất minh tạo oán hờn.
Bần đạo giờ lành
giáng ngự Bửu Tòa báo tin:
THI
Nhiên Đăng Cổ
Phật ngự
phàm gian,
Chỉ điểm Hư Linh tạo Niết Bàn;
Bạch Ngọc Hư Cung tu dục kiến,
Hiện thời pháp huệ lập khoa tràng.
HỰU
Khoa tràng dĩ đức thống chơn linh,
Mạt hạ đồ thiên khắc Bửu Đình;
Tạm bút từ nhiên minh chánh pháp,
Hữu hồi Ngọc vị thượng Sơn linh.
Bần đạo cùng hàng đại
đệ tử Nhiên Đăng triều kiến. Vậy trang nghiêm túc kỉnh, thập bát hồng chung
nghinh triều Cổ Phật lâm phàm.
THI
Từ bi
điểm hóa hạ trần,
Nguyên căn đại
kiếp chuyên cần lo toan.
Giờ thiêng
Bần đạo hạ đàn,
Thương chung
thế cuộc tai nàn khó qua.
Bần đạo Nhiên Đăng
Cổ Phật lâm đàn mừng chung, đồng miễn lễ tọa thính, định tâm nghe Bần đạo giảng
giải. Này các nguyên căn linh vị nam nữ hiện triều định tâm hầu nghe thuyết
pháp Cổ Phật bày minh, đừng vì chút xao lãng mà không nhiếp thọ được hồng ân Từ
Khiết dầu cho muôn đời vạn kiếp cũng khó thọ được Thiên ân trong thời kỳ Đại
xá.
Từ lúc khai minh
Huỳnh Đạo, chuyển hóa Hư linh, vì thời cơ diễn biến, Thần Tiên Thánh Phật hội
Cộng Đồng trước Ngọc Hư tấu cùng Thượng Đế, Diêu Trì Kim Mẫu ân xá Tam niên cho
người đạo đức giữ lòng thành, tạo lấy Hư linh mầu nhiệm hầu trở về cựu vị ngàn
xưa. Vẫn biết rằng: Các nguyên căn đã lâm phàm.
- Một là lo đời
Thượng Ngươn Thánh Đức.
- Hai là trả lại quả xưa.
- Ba là tạo lấy công trình hầu có thăng cao lên bậc Thượng Thiên Tôn.
Ngày nay, các
nguyên căn đã xét thấy mỗi mỗi đều có Phật tâm, đều có Tiên tánh thì phải tự
trau dồi, đừng vì quá dòng đời mê đọa, uổng thay! Đã biết rằng đọa lạc, trước
kia đã đại thệ trăm kiếp đọa lạc trần gian, kiếp con người vẫn thấy dài đăng
đẳng, nhưng nghĩ lại huyền linh tối diệu của Thiêng Liêng thì cảm thấy trăm
kiếp vô cùng dày dặn, tại sao không tạo đức từ bi, thoát khỏi kiếp trần mê, trở
về nơi thanh nhàn u tịch, cảnh trường miên? Này các nguyên nhân đại vị! Trong
thời kỳ mạt pháp đã nhìn thấy rõ những điều tai biến thương tang, thiên tai địa
ách, lòng dục vọng của thế nhân càng ngày càng lan tràn, khổ não, chẳng rõ là
đời tới hay sao? Đôi khi các nguyên nhân còn than thở: “ Tại sao không đúng
thời kỳ tận thế?” Này các nguyên nhân! Thời kỳ tận thế, các nguyên nhân muốn
rằng sẽ đến cũng không thể tránh khỏi, dầu có trì hưởn bao lâu cũng không bao
giờ được từ nhiên điểm hóa. Trong thời kỳ này là hồng ân đại xá để cho người tu
hành được trả quả xưa, lập công bồi đức đến với Thượng Thừa Long Hoa khỏi uổng
công trình muôn ngàn kiếp sau phải sống lộn với thú cầm mà mang điều phiền não,
oán trược thiên thu.
Nay quả địa cầu lục
bát sắp đến nơi huyền nhiên chi khí, thọ lấy thanh hư thì phải có cơn lừa lọc,
cũng như trong bước thi tuyển của các đại nguyên căn thì phải có thời kỳ khảo
sát vậy. Nếu kiên chí trì tâm, tạo đức giữ nơi lòng đừng để ngoài môi. Nếu
người giữ lòng đạo đức vẹn toàn thì không bao giờ để cho phàm ngôn vọng ngữ, vì
phàm ngôn vọng ngữ là ác nghiệp đưa đến cửa luân hồi, phải rèn tâm. Điều đó,
Bần đạo đã chỉ rõ, viên tâm ý mã, phải kềm vững, đừng để cho thất tình lục dục
tạo ra nhiều nghiệp quả; từ nghiệp quả đó, các nguyên nhân phải luân hồi muôn
đời vạn kiếp là vậy. Muốn diệt được thất tình lục dục, muốn kềm hảm được thân
tâm, muốn cho thần trí trong sáng nhẹ nhàng, trước phải giữ mình trong sạch.
Nấc thang đầu tiên là phải dọn sao cho thân tâm không điều ô trược, chẳng nhiễm
chút trần ai, không điều phiền não, phải gây tạo đức từ bi. Đức từ bi đó, điều
thể hiện nhỏ nhen của trần gian, là phải trường chay. Một là thương lấy muôn
loài vạn vật cũng như thương lấy thân mình cũng do tứ đại hóa sanh; đừng vì chủ
nghĩa hiện giờ, sở đoãn của con người mà cho rằng muôn loài vạn vật tự nhiên
sanh hóa thì con người là tối linh của vạn vật được quyền hủy diệt. Thương
thay! Điều đó trái với đức từ bi của Phật pháp, thì các nguyên nhân đã thấy rõ
không phải là chánh pháp cao minh vậy. Người tu hành phải đạo đức từ bi, đức từ
bi tạo nên khổ hạnh, từ khổ hạnh rèn lấy thân tâm, phải tri kiến, chỉ lo cho
thần trí siêu thoát về hư linh, không màng cuộc đời ô trược, tạo lấy đức từ
lành, chớ đừng vì đường đạo đức tu hành khổ hạnh rồi tự xưng mình đây, đó, e sa
vào vòng ác trược. Nhớ lấy điều tâm pháp của Bần đạo giảng: Ác đạo tà luân cũng
vẫn khổ hạnh, nhưng khổ hạnh một thời gian rồi dùng điều khổ hạnh của mình để
dưỡng lại thế tâm trần tục thì làm sao đắc Đạo hư linh, hoặc lợi dụng điều trần
nhơ tục lụy tạo cho mình một giai đoạn rồi phải rả thân. Đó là luân phiếm đạo.
Nếu các nguyên nhân
hiểu chánh cương của Long Hoa HUỳnh Đạo siêu thâm, nên rèn tâm định tính. Lời
yếu pháp siêu vi mà Bần đạo giảng không dụng uy quyền thế tục, cũng chẳng cần
chi điều nhỏ nhặt trần mê, chớ chiều theo thân xác, buông lung theo thất tình
lục dục. Trên trần gian không có điều chi gọi là nhàn nhã, tuyệt lạc cao minh
mà chỉ là những điều phiền não vô biên, vay vay trả trả trong vòng sanh tử luân
hồi. Thương thay! Đã biết sanh tử luân hồi gần đến, nhưng vì vô minh u tối
không thức rõ được chơn lý cao siêu, cho nên biết thế mà lòng không hành như
thế, rõ nẻo chơn, nhưng tâm vẫn muốn bước đường tà. Từ xưa đến nay không người
đắc đạo là vì thế ấy!
Các nguyên nhân đã
thừa biết rằng luật vay trả công bình của Thượng Đế, đã biết rằng tạo đức lành
sẽ được nhàn nhã linh hồn, đã biết rằng tu theo chánh đạo sẽ đắc Niết Bàn, Hư
Cung hay Ngọc Vị, đã biết rằng trong vòng trăm tuổi phải hoại thân này, linh
hồn sẽ phiêu phưởng đó đây, tùy theo quyền lực của Thượng Đế ban ra, tùy theo
đức độ mà phải luân hồi trong lục đạo, thì tại sao điều biết đó các nguyên nhân
không thiệt hành cho vẹn vẽ, lại để linh hồn u tối mê mang muôn đời ngàn kiếp.
Thương thay! Hãy dứt bỏ điều chi phiền não nơi thế gian sẽ thấy được cảnh Niết
Bàn thanh u tự toại, hãy dứt điều chi trần gian gọi là trường miên thì sẽ thấy
cảnh cao siêu bất diệt của Thượng đế ban ra. Hãy dứt bỏ những điều thế gian gọi
là chơn chánh thì sẽ thấy điều mầu vi cao thượng của huyền hóa chơn như.
Điều thế gian cho
là chơn chánh hiện tại chỉ là điều giả nhân, giả nghĩa, dụng thế nhân để đưa
vào cơn thử thách dục vọng loạn cuồng. Phải tự viết mình, phải tự lo cho riêng
mình, đừng để lục đạo luân hồi lôi cuốn, uổng thay!...
Chẳng phải các
nguyên nhân xa đời tầm đạo, bỏ tất cả điều tục tụy, mà các nguyên nhân vửa hành
Đạo, vừa trả nợ đời, ban bố đức từ bi cho chúng sanh thấy rõ, sẽ sống được đời
Thượng Ngươn Thánh Đức. Khi đến đời Thượng Ngươn Thánh Đức, các nguyên nhân sẽ
được an nhàn tịnh tọa, luyện pháp siêu vi, thông Thần nhập Thánh, hiển hóa chơn
như, trở về cựu vị.
Ngày nay, Thượng đế
mượn tay các nguyên nhân để gầy mối đạo. Cũng như luật công bình của Thượng Đế
ban ra “dỉ bạo khử ác” cũng do các phàm nhân trả vay, vay trả vậy, chớ chính
Thượng Đế cũng không dùng huyền diệu hoặc tự tay sát hại một lần nào, thì điều
này là điều đạo đức truyền bá ra, chính Thượng Đế cũng mượn các nguyên nhân thi
hành vậy. Tạo sao còn hững hờ, tại sao còn vì chút hư danh hoặc bán tín bán
nghi không tròn nhiệm vụ, buồn thay! Lở một kiếp này muôn ngàn kiếp sau khó gặp
Đạo Vàng.
Người quân tử theo
Nho Tông đã điểm hóa thì các nguyên nhân nên hiểu: phải hết dạ hy sinh, phải
giữ vẹn lòng thành tín, nếu đã hứa điều chi, tất nhiên trọn đời không quên vậy.
Nếu đã làm điều chi, nhứt định không bán đồ nhi thế, sẽ đoạt tới công trình
viên mãn. Nay Long Hoa Huỳnh Đạo bắt nhịp cầu từ bi bác ái để chung cho hàng
nguyên căn lịnh vị thấy đó bước lên qua khỏi cảnh trầm luân, vì sao còn ngượng
ngập? Ngày trước, Từ Thức vì lưu luyến trần gian mà phải trở thành phàm phu tục
tử, tiếc thay! Tiểu căn, thiểu kiếp không ngộ được Hư linh chánh pháp, dầu
truyền ra muôn vạn cũng chẳng vớt được là bao!...
Thần Tiên Thánh
Phật xót thương nhìn thấy chung thế gian sắp đổ máu đào, loạn ly sắp diễn,
truyền bá đức từ bi mà có mấy ai đạt được tâm pháp nhiệm mầu, hy sinh cao cả,
chỉ lo quyền lợi tư riêng nơi nầy, nơi nọ… Dầu truyền ra huyền điển thiên cơ,
nhưng đôi lúc lòng phàm dục dậy, cho nên tá giả, dùng cơ giả, bút giả, pháp
giả, để lừa gạt chúng sanh, mượn lốt tu hành gọi là chân chính, nhưng các
nguyên nhân có thấy chăng? Đoạn cuối cùng lại đưa tất cả chúng sanh vào nơi
hiểm họa đau thương, tự mình lên đài danh vọng để cho chúng sanh tôn ti, để cho
chúng sanh cung phụng, rốt cuộc thân từ đại này sau khi tan rã phải trả quả
kiếp luân hồi.
Bần đạo nhắc cho
thấy rõ: Đâu đâu cũng trong trời đất, đâu đâu cũng dưới quyền thưởng phạt của
Thượng đế công minh, thì mỗi việc chi điều chẳng qua được lưới Trời bao la.
Các nguyên nhân đã
thức tâm thành ý thì các nguyên nhân hãy nhìn kìa! Tâm các nguyên nhân như ngọc
đèn soi sáng trước Thiên Bàn, các nguyên nhân đã thấy, muốn tắt đèn kia, tất
nhiên các nguyên nhân phải quạt cho tắt đi; nhưng dù quạt tắt đi thì các nguyên
nhân cũng còn, đó là chiếc đèn vẫn còn dầu, khi nào đốt lại cũng chẳng tốn hơi
sức là bao nhiêu. Các nguyên nhân đã thấy rõ, khi dầu mòn tiêm lụn, không tắt
thì đèn kia cũng vẫn tắt, điều đó là lẽ tự nhiên, nhưng làm sao các nguyên nhân
thấy rõ, làm sao không còn có đèn đốt hoặc đèn tắt, như thế mới rõ là chánh
pháp cao minh, làm sao trở về với hư linh, hoàn nguyên phản giác, tự biết mình
do hư không sanh hóa mà có hiện thời, cho nên “không tức thị sắc”. Khi hiệp
thành tứ đại trả về với định số của thiên nhiên thì các nguyên nhân, trong vòng
trăm tuổi sẽ rã tan. Đó “sắc tức thị không” là trở về với hư không, duy có một
điều các nguyên nhân đoạt được tâm pháp, rõ được lý cao nhiên huyền diệu ngự
trị linh hồn, gom vào Tam Tài, ngự thống Chơn Như thì các ngyên nhân vẫn còn
nơi Hư không, dầu cho muốn trở thành thân tứ đại cũng vẫn dễ, mà dầu sắc hoàn
không cũng vẫn còn giữ được Chơn Như hiển hóa, muôn đời ngàn kiếp, không tan rã
trong Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới vậy.
Này các nguyên
nhân! Người thợ giỏi, trước khi muốn nắn nên hình, phải có công học hỏi, thì dù
đến đâu, đến nơi nào, công học hỏi đó cũng vẫn có thể làm ra muôn vạn điều ích
lợi cho chúng sanh. Người không học thì dù cho đến bực tuyệt luân cũng vẫn còn
mê muội u tối, có làm ích lợi chi cho chúng sanh.
Nay đương lúc thiên
hạ đang đảo huyền, cơ đồ đang biến loạn, mượn các nguyên nhân vun tay từ bi cứu
rổi phần nào cho chúng sanh, cũng truyền bá chân lý của Di Lạc Thiên Tôn dựng
đời Thượng Ngươn Thánh Đức thì các nguyên nhân lại không màng, chỉ lo đời tận
thế, cũng như trong cơn loạn lạc này các nguyên nhân đang dầm mưa mới lo nón lo
dù, đến khi trời nắng, các nguyên nhân mới lo điều khát, thì làm sao? Trong lúc
mưa đã đến, trong lúc nắng đã tàn thì công trình làm sao viên mãn được. Đừng vì
thấy thế nhân mà buông lơi tâm chí, đừng vì thấy tiểu lợi mà quên đại danh,
đừng vì thấy cảnh trần ai nhục dục, đoãn lạc trong vòng trăm năm mà quên điều
muôn đời ngàn kiếp.
Nhiều khi Bần đạo
phóng tứ hào quang cho các nguyên nhân, trong khi đó là trong các nguyên nhân
đã có nhập thức được điều chơn thức của Bần đạo đã ban ra; trong lúc các nguyên
nhân thao thức hằng đêm loặc suy lung hằng giờ, khắc để nghiền ngẫm thiên cơ,
để hối hận việc đời, để xem xét lại thân tâm, giờ phút đó là giờ phút hào quang
của Nhiên Đăng soi thấu tâm linh, muốn chuyển đại căn nhưng vì vô minh trùm phù
nên khó đạt được huyền nhiên, thương thay! Nay phải lập đức từ hòa, gieo giống
lành muôn nơi, vâng lịnh Thượng đế hành
hóa truyền quả từ bi, mới mong thoát khỏi cảnh loạn ly đọa lạc cho thân xác nơi
trần gian, cho linh hồn nơi hư linh khỏi điều đau đớn. Bậc đại căn thức thời
tri lý nhưng không hành chánh pháp cao nhiên, thì không bằng bậc tiểu căn thiểu
kiếp hoặc phàm phu tục tử biết ngộ Đạo Chơn như, lòng thành tín thì cũng khỏi
luân hồi, vì thời kỳ đại xá vậy.
CHƯƠNG
IV
TÂM
PHÁP
Yếu lược
Tâm pháp không chỉ
nhắm vào sự gìn tâm, giữ ý, diệt lục dục, thất tình, mà lại còn phải chú trọng vào
cái bản tánh, diệu dụng của tâm, đồng thời dùng những phương pháp hữu hiệu để
làm cho tâm được sáng suốt, huyền diệu, linh thông hầu có trở về với Đại Tâm Linh của vũ trụ.
Tâm là điểm linh
quang của Thượng Đế, bắt nguồn từ Hư không, Vô hình, Vô sắc, tối diệu, tối
linh; lớn không có gì sánh, nhỏ không có gì bằng, linh động khắp càn khôn,
nhưng thường trụ ở nơi người vậy:
Tịnh thì làu làu
sáng rở như ánh nguyệt đêm thu, động thì tán ra lục dục thất tình và muôn ngàn
giả ánh.
Do đó, muốn phục
hồi cái tâm được hoàn toàn sung mãn, trọn vẹn linh thông, không phải dùng những
cách thức đã dạy từ xưa, mà phải sử dụng một phương pháp chí nghiệm, chí linh,
phương pháp của Tam Kỳ Cứu Thế Thiên Khai Huỳnh Đạo.
1- Không phải diệt lục dục thất
tình, vì nếu không có lục dục thất tình thì hóa ra tâm là một vật vô tình cảm
khác nào sắc đá. Trái lại, phải thuần khiết lục dục, thất tình, chuyển nó thành
lục thông, thất bảo nhập trở về tâm thì tâm mới không hao mòn mà lại còn được
thêm sáng suốt, huyền diệu.
2- Chẳng
phải không nhận thức mọi ảo ảnh của trần, như thế khác nào vô tri, vô thức mà
ngược lại không để các giả tưởng ấy làm lay động, ám ảnh tâm linh, và phải nhận
thấy cái Không trong đó: nghe mà không nghe, thấy mà không thấy, ngửi, nếm, chạm
mà không biết mùi, vị, cảm gì, có thế mới chuyển sắc hườn không, mới giữ được
chơn tâm viên mãn.
3-
Hườn
không chẳng phải là hườn lại thành không có gì cả, mà là không cảm, không xúc,
không nhiễm, không đắm, không vương, cái không trong huyền nhiên chi khí ứng biến
vô cùng tận: phóng ra, thì hóa vũ trụ càn khôn, thu vào thì vô hình sắc, huyền
huyền diệu diệu.
Các phương pháp ấy cũng chưa gọi là đủ. Muốn đạt được tột độ huyền linh, nghĩa là muốn thực hiện trọn vẹn chơn tâm, chơn tánh, hơn nữa muốn sống trường miên vĩnh cửu cùng thể Đất trời, vượt khỏi định luật Càn Khôn Vũ trụ, cần phải luyện mật pháp Huỳnh Đạo siêu nhiên để được ngàn thuở thung dung, nhàn lạc: đó mới gọi là hoàn toàn giải thoát vậy.
Ngày 04 Thang 04 Năm
Canh Tý.
Thầy ban ơn.
THI
Hồng thủy dâng lên diệt bạo tàn,
Quân minh kế nghiệp lập đời an;
Lão phong duyên đắc do tiền kiếp,
Tổ đức truyền khai mối Đạo Vàng.
Giờ lành Thầy giáng
ngự nơi nầy, các con có thấy chăng đời sắp tiêu điều, tận diệt, nên ma quỉ loạn
trần, gây ra biết bao nhiêu điều tan tành đổ vỡ. Cơ Trời cũng báo trước, nhưng
nhân sanh không lo trau dồi đức hạnh, để muôn đời chịu đắng cay! Thầy luống u
hoài, muốn đưa tay rước các con hiền về nơi Cực Lạc, nhưng đường trần lắm điều
ô trược, nên Thầy đành ngậm ngùi nhìn các con mà lụy đổ tuôn tràn.
Con ôi! Thầy luống
bàng hoàng, luật Trời có con còn chưa tạng thấu. Thầy nào đâu có dấu làm chi,
chỉ tại nơi các con cạn nghĩ suy nên để tà dâm tràn ngập.
Về phần N.M.L, Thầy
nhìn con lòng Thầy chua xót, Thầy khen con đó là cơ thử thách mà Thầy chỉ trao
một mình con, con nên bình tâm lặng lẽ, mặc tình khảo đảo đưa đến nơi nào: con
như chiếc thuyền giữa biển khơi, dù cho sóng dập gió dồi, nhưng rồi cũng sẽ có
ngày quang đãng, thuyền kia đến bến, thì chừng ấy mới gọi là tài cán đảm đương.
Về cuộc đời, nếu là
tràng ảo mộng, thì dù cho lành, dữ cũng chỉ trọn đời thôi, một kiếp trần ai
sóng dập gió dồi, hay là cao cả trên đời, cũng không qua số mệnh. Con người nếu
là một giấc mộng dài, thì dầu cho thế nào con cũng có ngày chợt tỉnh, ví như
cuộc đời ai thoát khỏi vòng sanh tử, tử sanh. Con luôn nhớ rằng ngày mai xác
trần kiệt quệ, chỉ còn linh hồn tinh anh theo dõi bên Thầy. Thì giờ đây xác
thân ấy có cao cả đẹp sang, hay là nhọc nhằn cay đắng, rồi ngày kia cũng sẽ rã
tan, duy có mối Đạo Vàng là ngàn năm bất diệt.
THI
BÀI
Giờ lành hạ
bút thần Thầy dạy,
Nếu con hiền
thì phải tuân hành;
Vì đây
đạo sẽ hoàn thành,
Kỳ công con trẻ
tinh anh rạng ngời.
Đã nhiều
năm Thầy Trời giáng bút,
Để lời
lành giục thúc canh tàn;
Bao
nhiêu tiếng gọi thở than,
Mà trong nhân
thế Đạo vàng chưa minh.
Làm cho lấm
lem tình cao cả,
Mảng việc
đời vì bả lợi vinh;
Rồi
đây thấy luật Thiên Đình,
Là điềm báo
trước, giữ gìn nghe con!
Chút nhỏ mọn
mà còn dấy động,
Nếu ban
hành trọn thống hình nghiêm;
Thì
đâu thế giới im lìm?
Nhân sanh sẽ
chịu đắm chìm thiên niên.
Thầy chua
xót đàn tiền giáng dạy,
N.M.L con
phải tuân hành;
Tiên
tri Thầy đã định rành,
Khắc ghi trong
dạ lời lành Thầy ban.
Chớ vì thế,
phàn nàn cay đắng,
Hãy bóp
lòng chặc khắn đừng than;
Lửa
cao mới biết giá vàng,
Đời con đau khổ,
muôn ngàn khổ đau.
Thầy vẫn
biết, làm sao vớt được,
Vì lời xưa
ở trước Điện Tòa;
Ngày
nay con phải lãnh qua,
Sang thời thất
thập vậy là khỏe thân.
Điều thứ
nhất ân cần sớm tối,
Luyện
vuông tròn đừng lỗi bí truyền;
Để tâm
bình tĩnh cho yên,
Điển quang Thầy
chiếu, Đạo huyền con cao.
Điều thứ
hai ghi vào tất dạ,
Phải để
lòng sắt đá im lìm;
Đừng
cho lửa dậy trong tim,
Tịnh thần, tịnh
khẩu, thuốc Tiên Thầy truyền.
Điều thứ
ba lụy phiền nên rứt,
Sửa tâm thần
cho bức việc trần;
Trước
là trau luyện bản thân,
Sao cho bí
pháp khí thần quén vun.
Điều thứ
tư phải tùng thiên mệnh,
Chớ lo buồn
để chểnh mảng đời;
Trong
trần là cõi của Trời,
Ai mà thoát được
cuộc đời tử sanh ?
Điều thứ
năm duyên lành thường nhủ,
Nắm trọn
phần rèn đủ đức tin;
Chớ vì
chút việc của mình,
Bỏ rơi đạo
pháp nghiêng chinh rã rời.
Thầy đã dạy
nhiều lời từ trước,
Sao mà con
chẳng được rõ thông ?
Để cho
rời rã cõi lòng,
Thầy đây luống
những lệ hồng nhỏ rơi.
Thầy rót cạn
những lời tâm huyết,
Để cho con
chơn thiệt hãn tường;
Vì con
Thầy trãi tình thương,
Đạo Vàng khá vẹn
là đường vị xưa.
NGÂM
Canh
tàn Thầy dạy đôi lời,
Hào quang
giăng phủ cõi Trời Thầy lên.
CHƯỞNG
TÒA HUỲNH ĐẠO
Ngày mùng 1 Tháng
11 Năm Quý Mão.
Mẹ linh hồn các con, Mẹ mừng chung các con nam nữ !
THI
Từ bi Mẹ
chiếu đại quang hồng,
Tôn đức hoằng
khai tại hải đông;
Thượng hữu
đề danh Thiên chức vĩnh,
Đẳng nghi
pháp huệ chuyển hàn phong.
Vô ưu, vô
lự, vô phiền não,
Cực trí, cực
tâm, cực cả lòng;
Mẫu huệ
Thiên ân truyền hạ thế,
Nghi linh
hiển hóa hội Hoa Long.
Các con nghe Mẹ
giảng đôi lời. Mẹ miễn lễ chung Thánh Mẫu, Tiên Phật đồng thính cùng các con tọa
thiền nghe Mẹ giảng.
Mẹ đau xót thay ! Từ khi phổ hoằng
giáo pháp đến nay, tính lại đã mấy mươi niên truyền chung các con được thọ pháp
huyền. Đau đớn thay ! cõi trần ai gió bụi, vì mảng mê lầm lũi bước đi mà các
con quên lòng từ bi của Mẹ mong nơi Diêu Trì Bạch Ngọc.
Các con ôi hãy nhìn kia ! Tòng bá sởn
sơ là vì gội nhuần sương gió. Đạo làm người, khi các con đã rõ lý siêu nhiên
thì hột giống lành đâm chồi nẩy lộc. Cũng nhờ có gió, mưa, sương, tuyết mới mau
thành hình dáng, thì các con trên đường đạo pháp ngày nay, các con cần phải có
sự giủa mài cam go thử thách, khảo đảo của thế gian, cũng như gió mưa để cây
kia sởn sơ mới mong được trổ hoa thêm trái. Các con đừng phiền tủi vì đời làm
cho các con phải ưu sầu, mà chính các con phải tự phiền rằng mình luân hồi nơi
thế tục. Các con đã từng nói rằng là “trần ai” thì tại sao các con không hiểu
rõ nghĩa trần ai là nơi gió bụi ? Đã nói rằng nơi gió bụi thì các con than vãn
mà chi ? các con ưu sầu mà chi ? các con ưu sầu cũng chẳng ích gì, mà càng làm cho thân thể gầy mòn, linh quang mờ
ám. Các con nên để trí vào đạo pháp hôm nay, cũng như viên ngọc kia mặc dầu cho
bùn nhơ lem lấm, nhưng sự tinh anh không bao giờ mất. Chỉ sợ rằng chẳng phải là
ngọc: chớ đúng là vật quý giá thì dầu ở nơi nào cũng có người tìm đến. Các con
ôi! Mẹ rất buồn, thường cầu xin Phụ Hoàng cho các con được qua cơn sóng gió,
khảo đảo thế trần hầu có chuyển hóa Đạo Vàng năm phương hoằng phổ. Nhưng luật
thiên nhiên đã định, Đại Từ Phụ ân phê: Nếu chẳng có khảo nhồi điêu đứng thì
làm sao lọc lừa cho được ? Nếu chẳng có sàng sảy tinh anh thì không bao giờ
chọn được những gì đẹp đẽ ! …
Ngày nay Mẹ vì nhận thấy trong hàng
các con còn nhiều chưa thấu triệt lý chơn như đạo pháp, nên lòng từ bi Mẹ hiển
hóa chiếu siêu quang truyền cho các con. Mẹ vẫn biết rằng ngày nay hội ngộ nơi
đây toàn là chơn căn, đại trí, nên Mẹ sẽ truyền cho nữ phái bửu pháp luyện
thân, đó là phép Di Đà mà Mẹ nhận thấy công lao của các con, vì Thầy vì Đạo đến
nơi đây. Mẹ khen thay !
Phần nam phái, các
con là rường cột của Đạo Vàng, các con phải nhận xét tinh vi lý chơn như, chớ
đừng để dòng đời mờ ám, đừng để thế ngôn làm sai lạc lời chơn chánh của Mẹ ngày
nay. Thế nhân thường đem chơn lý biện bài, nhưng chơn lý của thế nhân chỉ là
chơn lý của xác thân trong vòng trăm tuổi, danh, lợi, tình, tiền quẩn quanh.
Các con nhận ra mật pháp thâm uyên là con đường siêu thoát, thì các con cứ bước
thẳng đi, chớ đừng vì đời khảo đảo cho rằng các con mê tín mà các con vội ngừng
chân, quên suy xét, thì uổng thay! Một phút qua là một phút các con mất đi biết
bao nhiêu là lằn từ huệ.
Đêm đêm Mẹ thường
chiếu tinh quang chuyển huệ linh trong kiền khôn vũ trụ cho các con năng luyện
pháp sẽ nhiếp thọ hầu sớm đắc được Liên Hoa hoặc thống xong Tam tài hầu lên cõi
Niết Bàn , Hư cung học hỏi. Các con ôi! Các con hãy nhìn lại xem trong đời các
con đã làm nên những gì gọi là thỏa thích; lòng tham không đáy, chứa chất từ
vạn kiếp muôn đời, ngày nay các con cũng chưa rủ sạch hay sao? Trong thời kỳ Hạ
Ngươn Mạt pháp này, trên lịnh Thầy truyền ban, dưới Thánh Thần vâng sắc Tiên
Phật hộ trì cho các con đại căn nguyên sớm quay về Huỳnh Đạo. Nếu các con chịu
để cho đời nhồi nắn, thế tục giủa bào, thì các con mới là người Đạo pháp thâm
cao.
THI
BÀI
Xuân Quý
Mão Mẹ truyền chơn lý,
Xuân Đạo
vàng nhị kỷ Thiên Khai;
Xuân
hòa nam nữ trong ngoài,
Xuân đem những
việc u hoài tách ra.
Xuân chan
rưới hiền hòa khắp nẻo,
Xuân về
đây tưới héo cành khô;
Xuân
ly nhật cảnh hãi hồ,
Xuân mang Đạo
lý bồi tô pháp mầu.
Xuân chỉ
biết Thiên lầu tọa vị,
Xuân Đạo
Vàng chơn lý khai minh;
Xuân về
hòa hợp chơn tình,
Xuân phong ấm
áp Đạo huỳnh phát trương.
Xuân
phải biết con đường đạo đức,
Xuân nên
tường thước mực Trời ban;
Xuân
theo dõi bước Đạo Vàng,
Xuân hồi Bạch
Ngọc khoa tràng Long Hoa.
Xuân thấy
đó Nam Kha chợt tỉnh,
Xuân thức
thời phụng kỉnh pháp nguyên;
Xuân về
còn hỡi truân chuyên,
Xuân đi con
khá lãnh truyền chí công.
Xuân con
ơi, vài dòng Mẹ gọi,
Xuân ấm
lòng thoát khỏi trầm hôn;
Xuân
qui Đạo pháp bảo tồn,
Xuân hồng huệ
phước Càn khôn nhiếp hòa.
Xuân tái
diễn hội ra chánh pháp,
Xuân kịp về
phù hạp Đạo lành;
Xuân
vui chung cả em anh,
Xuân buồn chỉ
mối Đạo lành chưa thông.
Xuân thôi
nói vài dòng Mẹ thuyết,
Xuân của
con đã diệt bao hồi;
Xuân đời
muôn thưở chưa rồi,
Xuân Tiên vạn
kiếp được ngồi Tòa sen.
Xuân sáng
tợ ngọn đèn Bạch Ngọc,
Xuân hòa
quang chuyển lọc chơn mầu;
Xuân
lai trong khắp địa cầu,
Xuân mang đạo
pháp rưới bầu trần gian.
Xuân con
biết Đạo Vàng phổ hóa,
Xuân kề
bên nên khá lọc lừa;
Xuân
đi khảo đảo khôn vừa,
Xuân lại Đại
chuyển thượng thừa căn nguyên.
Xuân bất tận
lòng phiền nên rửa,
Xuân tươi
hòa như sửa tưới cây;
Xuân
khai gắng bước theo Thầy,
Xuân mong con
trẻ thoát hồi trầm luân.
Xuân Mẹ tiếc
giữa chừng Đạp pháp,
Xuân phổ
thông chưa khắp hoàn cầu;
Xuân
này tuy có âu sầu,
Xuân niên Quý
Mão nhiệm mầu ban ra.
Xuân con
thấy chan hòa thắm thiết,
Xuân
thương vì mài miệt lợi danh;
Xuân
con dầu có đắc thành,
Xuân về chỉ có
trong ngành thương đau!
Xuân thức
tỉnh tầm vào chơn lý,
Xuân mới
còn trường kỷ đào nguyên;
Xuân về
con cố tịnh yên,
Xuân đi con giữ
mối giềng Đạo Cha.
Xuân Mẹ gọi
thiết tha cố gắng,
Xuân
khuyên vì thẳng thắn tu hành;
Xuân
này Đạo lý đắc thành,
Xuân sau sẽ có
mây lành rước đưa.
Xuân chớ
ngại nắng mưa sớm tối,
Xuân tàn
mau là lỗi tại con;
Xuân
vì những cảnh héo von,
Xuân sầu thế
cuộc hao mòn lợi danh.
Xuân nhàn
nhã là hành chánh pháp,
Xuân não nồng
là bước theo đời;
Xuân
quang thì chỉ có Trời,
Xuân mầu nhiệm
rõ cuộc đời Thượng Ngươn.
Xuân
chuông đổ dập dồn nghe rõ,
Xuân trống
hòa hầu có dạy khuyên;
Xuân
trầm phưởng phất Thiên Tiên,
Xuân lai con
rõ diệu huyền từ đây.
Xuân cố gắng
theo Thầy đừng ngại,
Xuân Mẹ hồi
chỉ trái, phải thêm;
Xuân
qui bước đến bên thềm,
Xuân qua con
trẻ êm đềm pháp nguyên.
Xuân con cố
Đạo huyền gắng chí,
Xuân chớ
nài, chớ nghĩ chuyện đời;
Xuân
lành Đạo pháp con ơi,
Xuân trần được
có mấy hồi hỡi con!
Xuân Mẹ
chiếu điển son tả bút,
Xuân vì
thương giục thúc canh tàn;
Xuân
mang cho mối Đạo Vàng,
Xuân đi tiếc rẽ
chung hàng Thiên Phong.
****
****
Xuân
sang dầu chẳng chung đồng,
Con ôi! cố gắng
huệ hồng chơn duyên.
THI
Chơn duyên
Mẹ chiếu huệ từ khai,
Đôi vận
thi thơ cố gắng bày;
Từ điển
linh lung ban sắc tứ,
Xuân phong
Đạo pháp đắc Thiên Thai.
HỰU
Thiên
Thai đôi vận Đạo Đời,
Nhiều khi lục
bát nhiều lời nhủ khuyên!
Con đừng
có nghĩ chuyện riêng,
Nghe lời Mẹ dạy
mà yên tâm lành.
THI
BÀI
Còn thế tục
lợi danh nhiều nỗi,
Chớ chen
vào lạc lối, nghe con!
Xuân
này sẽ sắp hao mòn,
Nhưng người Đạo
pháp vuông tròn, con ơi!
Đôi lời dạy
con thời nghiệm lý,
Lãnh mật
truyền cao quý vô song;
Thương
con Mẹ tả đôi dòng,
Nhiều khi song
thất, lục trong bát ngoài.
Nhưng con
hiểu Đạo dày cần lý,
Cần chơn
duyên suy nghĩ tận tường;
Làm
sao trải hết tình thương,
Thì là Mẹ dạy
chẳng nương điều gì.
Lời thư đã
chung qui kết liễu,
Vậy xả đàn
sắc chiếu ân ban;
Tý thời
khai hội chánh đàn,
Di Đà chuyển
pháp Đạo Vàng cho con.
Lời cuối
phải nghe tròn Thiên lịnh,
Các con
ôi, suy tính cho tường;
Vì đâu
Mẹ trải tình thương,
Vì đâu chuyển
điển đêm trường dạy khuyên?
Có phải
chăng lòng thiền chiếu diệu,
Nên ứng mầu kết liễu từ chương?
Con ơi
đời, Đạo đôi đường,
Nghe lời Mẹ dạy
cần nương pháp huyền.
Chớ vì thế,
buồn phiền cho thế,
Mà các con
vội trể Đạo mầu;
Lãnh
xong bí pháp không sầu,
Lìa xa tục lụy
thoát bầu trần duyên.
Các con
thơ lòng thiền phụng chỉ,
Mẹ gia ân
Đạo quý hôm nay;
Đây
này HUỲNH ĐẠO THIÊN KHAI!
Vậy Mẹ ban ân chung
các con cố gắng, Mẹ giã từ.
NGÂM
Giã từ
con ở trần gian,
Cố công Đạo
pháp khoa tràng lãnh ghi.
Hào
quang phủ ánh DIÊU TRÌ,
Mẹ hồi giá chuyển
Thiên nghi cựu hoàng.
Ngày 18 Tháng 05
Năm 1962
THI
Ta Bà nhiếp thọ phóng hào quang,
Giáo Chủ Thích Ca giáng chánh đàn;
Đẳng Giác Kim Thân ban Phập pháp,
Mâu Ni, Xá Lợi độ trần gian.
Bần đạo mừng chung
Thiên phong, miễn lễ, chư hiền tịnh tọa, Bần đạo giảng đôi câu:
Chư hiền ôi! Cảnh
não sầu thiên niên vạn kiếp luân luân, chuyển chuyển, nơi chốn hà sa nghiệp
chướng, oan gia còn đeo đẳng Bần đạo đã vâng lịnh Hư cung hạ trần truyền chánh
pháp. Thương thay! Ngày nay đã thất chơn truyền, còn sửa đương nhựt ngoạt… Bần
đạo truyền Tâm pháp cho đồ đệ, đến Huệ Năng đã dứt. Đường Chánh Đạo Thần Tú
lộng hành dụng ngục môn dọa nạt chúng sanh, bán Phật pháp đục cây, đẻo gỗ, sơn
son thép vàng, đặt tên khẩn bái, nào có biết định tịnh là chi!
Này chư hiền vì duyên
với Đạo nên Bần đạo thử hỏi: Chư hiền nhìn ngay bạch lạp, thử xem ngọc lửa ra
sao? Bạch cho Bần đạo rõ… động hay tịnh? Này chư hiền, lắng nghe Bần đạo nhủ
khuyên về định, tịnh: Kìa ngọn bạch lạp lung lay không phải gió, mà chính là tâm
chư hiền xao xuyến. Gió không thể làm cho lửa lung lay. Nguyên thủy của lửa là
nóng và sáng mà thôi, còn lung lay là tâm chư hiền chưa định, mọi vật vẫn xao
xuyến luôn luôn. Khi nào nhập định thì tất cả thế sự bên ngoài đều thông suốt.
Nhìn bạch lạp không thấy là bạch lạp, chỉ là một chất biến thể dùng để đốt
sáng. Đốt sáng không phải là đèn sáng, lửa sáng, cũng không phải là lửa sáng,
chính là yến sáng nhưng cũng chưa bằng tâm sáng. Tâm sáng tất huệ, nhìn đâu
cũng sáng, đó là Tâm pháp nhiệm mầu.
Chư hiền khá nhớ,
đây là lời của Bần đạo, vì duyên muôn kiếp khai sáng hôm nay Huỳnh Đạo Thiên
Khai chơn giáo phổ truyền. Tam Tòa đồng hạ thế.
THI
BÀI
Chiếu hào quang hạ đàn truyền pháp,
Các Thiên Tinh đã đáp minh rành;
Ngày
nay dụng lấy tâm thành,
Siêu nhiên triết
lý, học hành vô vi.
Nơi đại pháp hạ kỳ tuyển trạch,
Cho nguyên căn Đạo sách diệu đề;
Chuyển
thành chánh giác phá mê,
Niết Bàn đắc vị
hầu kề Thượng Thiên.
Nào dễ có tâm truyền mật ấn,
Nào dễ đâu lãnh phận Ngọc Kinh;
Vì
duyên xưa trước Bửu Đình,
Ngày nay mới
thọ mầu linh Đạo Vàng.
Chớ tưởng đó muôn ngàn giả tạo,
Của tà thần trực đáo thế gian;
Phong
Thần cho đúng lớp màn,
Có chơn có giả
mới toàn huyền vi.
Bần đạo khuyên kíp thi đạo đức,
Giữ nơi lòng, đúng mực từ hòa;
An
nhàn Thánh thể Kim sa,
Mặc tình thế sự
hát ca dạy đời.
Phải kiên chí tùy thời lo liệu,
Phật Thánh Tiên sẽ chiếu linh căn;
Cho
người thông mối Đạo hằng,
Quay về chơn
giáo kịp ngăn mị tà.
Đại Phong Thần Kỳ Ba biến chuyển,
Triệt Giáo khơi những chuyện bất minh;
Thâm
thù kiếp trước vạn linh,
Ngày nay đáo
thế phạt hình trần gian.
Gọi tất cả hiệp đàng chơn chánh,
Đến nơi nay để lánh can qua;
Tìm
trong mối Đạo hiền hòa,
HỒNG QUÂN THƯỢNG
TỔ bày ra độ đời.
Toàn chơn pháp thức thời lần cuối,
Những nguyên nhân đúng buổi mới truyền;
Dẫu
rằng có thọ pháp huyền,
Luyện thân,
luyện mạng, hiện tiền vô công.
Phải biết Đạo đại đồng siêu lý,
Kíp tùy nương mạt chỉ Hồng Quân;
Ngọc
kinh tuyệt báu hạ tầng,
Người ơi hãy
khá khâm tuân lời lành.
NGÂM
Giã từ
căn vị Long Vân,
Chuyển tâm đắc
pháp, thoát trần qui Tiên.
Tiêu
diêu cực lạc vân huyền,
Hào quang trùm
phủ Tây Thiên Bần hồi.
Ngày 13 Tháng 09
Năm 1962
THI
Nam Thiên nhược lộ sái cam tuyền,
Hải thủy dương hòa đoạt cựu
duyên;
Quan nghiệp tương như phùng đại pháp,
Âm đề chánh giáo tuyển căn
nguyên.
Chánh chơn Huỳnh Đạo thông tam giới,
Giác ngộ nguyên linh kiến Đạo huyền;
Như đẳng hành y hòa Thánh huấn,
Lai nghinh siêu đẳng đoạt đồ
Thiên.
Bần đạo chào chung
toàn tất nguyên căn, linh vị nam nữ. Ngày nay thọ sắc phong Huỳnh Đạo là các
nguyên nhân đã nhìn thấy kia là Trời. Tại sao các nguyên nhân cho rằng Trời to
rộng? Tại sao vì nhục nhãn nhìn thấy bốn phang ngoài quả đất mịt mịt, mù mù,
cho đó là Trời? Sai lầm thay! Sai lầm thay! Vì thấy bao la mà gọi rằng Trời, nếu
chư nguyên nhân cho đó to rộng là Trời thì chưa phải là Trời vậy. Khi chư nguyên
nhân nhìn thấy Trời, e rằng quì kính trang nghiêm, ăn năn đã muộn! Cũng như chư
nguyên nhân thường niệm danh Phật, thì tại sao không thông hiểu giáo pháp siêu
mầu của Phật truyền ra là cứu khổ? Cứu khổ chẳng phải là cứu cảnh trầm luân no
đói, mà cứu vớt linh hồn thông quán siêu nhiên, nhiếp hóa hào quang, tuyệt lần
đường luân hồi sanh tử. Như thế mới gọi là cứu khổ, chớ chẳng phải đói cứu no,
bịnh cứu lành, đó thuộc về hậu thiên chi giả.
Ngày nay Đạo Vàng
chính THƯỢNG TỔ gia ân cho mật pháp siêu nhiên là cứu vớt linh hồn đời đời kiếp
kiếp đọa lạc chốn trầm luân. Các nguyên nhân sớm lo tu tỉnh quay về nẻo chánh.
Chữ tu tỉnh Thần Tiên Thánh Phật thường khuyên, nhưng chư nguyên nhân chưa thức
được nghiệp duyên, chưa hiểu rõ lý siêu mầu thâm trầm về Đạo pháp nên chỉ đọc
suông nghe lý mà không tầm thấy chỗ chơn như. Tại sao? Vì vô minh mờ mịt vạn
kiếp muôn đời, linh quang trầm lụy dục giới đa mê cho nên chơn linh không thoát
được ra ngoài cảnh dục giới, phải chìm sâu trong hắc khí hậu thiên, thì làm sao
thấy rõ mối giềng của Tam Thiên đại chúng. Các nguyên nhân phải tự biết mình là
chi? Có phải chăng sanh ra thọ lấy tứ khổ nghiệp duyên, không đường thoát khỏi?
Uổng thay! Uổng thay!
Kiếp con người là
một kiếp tối trọng cho linh hồn học hỏi chốn hạ giới, hoặc trả nghiệp duyên,
hoặc quay về cựu vị là do chơn tâm ngày nay đánh thức. Đời Mạt hạ, Thần Tiên
Thánh Phật hóa trần gian dụng siêu nhiên mật bút chuyển tâm chỉ rõ cơ đời đau
khổ cho những nguyên nhân quay về nẻo chánh. Nẻo chánh là đâu? Nẻo chánh chư hiền
chưa phân định rõ thì làm sao gọi là
chánh? Mỗi mỗi đều có một nẻo chánh riêng thì làm sao là chánh? Nẻo chánh ngày
nay của Huỳnh Đạo trong thời Mạt pháp chỉ có một mà thôi. Đó là mật pháp siêu
nhiên vượt khỏi cảnh trần gian trở về cựu vị. Đạo pháp thâm uyên, cơ đời không
rõ cho nên gọi đó là Hư vô. Hể Hư vô thì hoàn không, hoàn không chẳng thấy cho
nên gọi đó là không, có nghĩa rằng kiếp con người sau khi thác đi là phủi hết
nợ trần gian hoàn không. Theo nghĩa hoàn không của đời là khép bỏ tất cả trở về
với gió bụi. Thương thay! Thân xác thì trở về với gió bụi, còn hồn linh thì
nương náo ở nơi nào?
Các nguyên nhân nên
rõ trí nhớ của các nguyên nhân, lòng thương của các nguyên nhân không hình
không ảnh. Vậy là Hư vô, là Hư không, thế sao có được trong châu thân? Chẳng
phải châu thân tạo ra tình thương, tạo ra trí nhớ, mà trí nhớ, tình thương là
do chơn linh của một Tiểu linh quang truyền xuống. Người thác đi rồi không bao
giờ mất: kia là lằn điện quang, phải suy xét cùng tột lý Chơn như!
Về cơ phước, Bần
đạo khuyên nhủ tìm học chánh pháp ngày nay đoạt thành Đạo quả, chớ để khinh Kỳ
Ba tận diệt. Tận diệt một cơ đời biến loạn để trở nên Thánh Đức Tân Dân là thời
mưa hòa gió thuận, dân lành ấm no mà chư nguyên nhân hằng mơ ước. Vì sao hằng
mơ ước? Phải chăng cơ đời tạm giả, cuộn rối như tơ cho nên mới mơ ngày no ấm
xác thân? Hạ trí thay! Hạ trí thay! Mơ no ấm trăm năm mà không mơ miên trường
vĩnh cửu, thiên thu an hưởng. Các nguyên nhân ôi! Bần đạo muốn giảng ra đây
muôn vạn lời khuyên, phóng muôn ngàn đạo hạnh, chuyển tâm hư nhiếp thọ hầu tiến
đến mật pháp siêu nhiên.
THI
Hồn phách tựu trung nhập chánh quang,
Hư vô nhiếp thọ đắc khoa tràng;
Luyện thành Xá lợi không phiền não,
Dồi nắn Kim Thân Bát Nhã thoàn.
HỰU
Bát Nhã thoàn Đạo Vàng mới có,
Hỏi người lành công khó hôm nay;
Sửa
đương cho đúng mới tài,
Công phu, công
quả chờ ngày ngao du.
Ngao du đảnh thượng nhập Liên Đài,
Hạnh hưởng triền miên chốn Thượng thai;
Hiệp bổn hư không tuy chẳng thấy,
Nhưng mà hiển lộng chiếu trần ai.
Chiếu trần ai lời bày trước án,
Khuyên người lành phải ráng tu trì;
Thọ
hành chánh pháp huyền vi,
Tam niên ân xá
Diêu Trì đại ban.
Ban ra Huỳnh Đạo mạt ngươn kỳ,
Nam nữ nguyên căn hiển thức tri;
Diệu hóa thừa minh công đẳng kiếp,
Tu hành khỏi đọa chốn Âm Ty.
Chốn Âm Ty còn gì thể phách,
Là vất vơ bốn vách luân trầm;
Chịu
đau chịu khổ âm thầm,
Gió mưa sương
nắng thăng trầm hôn mê.
Hôn mê đọa lạc chốn trần gian,
Mau khá tỉnh tâm thức Đạo Vàng;
Tri lý mầu siêu duy bửu pháp,
Thọ công chuyển quả chiếu tràng phang.
Chiếu tràng phang muôn ngàn đạo hạnh,
Người lãnh truyền kíp lánh phong sương;
Ai
ơi! nếu thấy đoạn trường,
Trầm luân nên
dứt theo đường Phật Tiên.
Phật Tiên hiển lộng chiếu thành uy,
Vì bởi nguyên căn vẫn niệm trì;
Thế tục thiên thâu vô thức ngã,
Huyền linh phóng vị đoạt trường qui.
Đoạt trường qui lo gì chẳng đến,
Hể tâm lành xa bến trầm hôn;
Thiên
thu Thượng giới bảo tồn,
Ngao du sơn thủy
linh hồn đó đây.
Đó đây chuyển chánh hội chơn tài,
Thức tỉnh trên đời có mấy ai?
Mật pháp thiên thơ truyền chánh đẳng,
Linh Sơn chuông đổ chiếu tâm đài.
Ngày 22 Tháng 12
Năm 1962
Bần đạo mừng chung,
THI
Hiển bút Ta minh lý Đạo mầu,
Hóa hoằng Bà sắc hiển linh châu;
Chơn từ Giáo huấn thông tam giới,
Như đẳng Chủ tâm hiện tứ cầu.
Linh huệ Đồng nghinh ân chuyển thế,
Thông truyền Đẳng tứ Đạo vô câu;
Từ tâm Giác hải hòa dương thế,
Huệ chí Chơn quang lánh họa sầu.
Bần đạo miễn lễ
toàn thể nam nữ Thiên Phong đồng tọa nghe pháp ngôn từ lành ban xuống:
NGÀY xưa, khi hóa
sanh nơi Ấn quốc, vì cảm thương nhân loại đang trầm luân khổ não cho nên vâng
sắc điệp Ngọc Hư, Bần đạo tá phàm để đắc thành Đẳng Giác Mâu Ni. Ngày nay thời
kỳ Mạt Pháp, Linh Tiêu đại xá nơi trần gian, Bần đạo cũng vì chúng sanh mà vớt
đại nàn. Xưa kia hóa sanh thì Bần đạo đã nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ duy
ngã độc tôn” thế mà nơi trần gian không người hiểu rành Tâm pháp, chỉ cho rằng
đó là lời Bần đạo độc tôn. Lầm thay! Thiên thượng thiên hạ duy “ngã” độc tôn,
nghĩa là trên trần gian vẫn còn chấp ngã cho nên ngã to lớn biết bao nhiêu! Vì
bản ngã mà luân hồi sa đọa: Ngã ở đây chẳng phải là Ta tự tôn; nhưng vì thấy
bản ngã nặng nề khôn đường thoát khỏi cho nên Bần đạo mới thố lộ Phật ngôn,
chơn truyền Tâm pháp. Trên trần gian vì bản ngã mà đọa lạc nhưng cũng vì chơn
ngã mà trở lại Tiên bang. Ngưới thế gian chấp ngã, muôn muôn kiếp kiếp cũng
chẳng đắc thành Phật Thánh; nhưng nếu không chấp ngã, vạn đời cũng còn trong
lục đạo luân hồi. Thế nghĩa là sao? Chấp ngã mà cũng còn luân hồi, chấp ngã mà
vẫn được về nơi cựu vị thanh nhàn? Chấp ngã là vì Ta, vì dục vọng nơi trần
gian, vì tất cả những chuyện xa hoa, phù phiếm, lục dục thất tình đeo mang
trong xác trần ô trược. Vì thế, chấp phàm ngã là vì xác thể, mà chẳng vì hư
linh tối trọng, mầu nhiệm cao siêu cho nên vẫn còn đọa lạc muôn đời. Còn riêng
về chấp chơn ngã Ta vì Ta, vì chơn thể của Ta, vì linh hồn báu trọng tinh anh
của Ta mà Ta tìm ra đạo pháp, thấu rõ lý mầu nhiệm, cao siêu của Đạo để trở về
với Chơn lý thâm uyên, thì ta tìm được Ta, tìm ra ánh sáng muôn đời để trở về
cựu vị.
Ngày xưa, Bần đạo
cũng đã cho thế nhân rõ: “Nếu thế nhân không tường tận, tụng kinh chấp pháp mà
chẳng suy lẽ nhiệm mầu thì chết tại nơi câu kinh của Bần đạo.” Vậy thì ngày
nay, tại sao các Thiên phong không suy tầm lý chơn như, điều mật yếu, cứ quanh quẩn
dụng trí phàm xét đoán thì làm sao đắc thọ được Phập pháp chơn duyên? Bần đạo
giờ lành hiển hóa, vì ngàn xưa, trước khi đắc Đạo, đã đại nguyện sẽ vớt cả
chúng sanh, ở cùng chúng sanh cho đến ngày luân hồi tận diệt, chẳng còn cảnh
đớn đau thì Bần đạo mới yên ngồi nơi Niết Bàn Cực Lạc. Cho nên Bần đạo thường
hiển hóa linh thông, dùng từ bi cứu khổ âm thầm với muôn loài vạn vật qua khỏi
cảnh đọa lạc, trầm luân. Ngày nay, vì Đại từ Ngọc Hư ân xá cho nên Bần đạo
chuyển pháp luân hiển hóa, dùng từ điển huệ thông truyền ra là giảng pháp siêu
mầu để cho thế nhân thức tỉnh.
Này hỡi Thiên
phong! Tu hành chưa phải là mê tín, theo danh lợi chưa hẳn là tỉnh hồn. Phải
nghe cho rõ: Chính các Thiên phong cũng vẫn còn mê, mê trong bến giáo, mê trong
Đạo pháp siêu mầu; người đời vẫn tỉnh, tỉnh trong ưu sầu đọa lạc. Vậy tại sao
các Thiên phong vẫn còn lửng đửng, lờ đờ, không trau dồi mật lý, sửa hạnh từ bi
hầu đoạt quả siêu vi về nơi Thượng giới? Từ ân truyền xuống, đuốc huệ khai
thông. Kìa! Kẻ đui mù từ lúc mới lọt lòng, ngày nay chính Bần đạo cùng các bậc
Thiêng Liêng dụng huyền vi cũng như bậc lương y, truyền xuống hầu có mở đường
tăm tối. Những kẻ mịt mờ trong vòng thảm khổ lại vẫn hoài nghi, vì chẳng biết
thế nào là yến sáng, sợ rằng khi đã được yến sáng thì mất cả sự nghe cho nên
vẫn còn dặt dè trên con đường Đạp pháp. Ngọn đuốc từ bi đã soi rõ thì cứ lần dò
bước theo con đường Đạo lý, tầm chốn hư vô, an nhàn tự toại, lại vẫn còn biện
luận đó là ngọn đèn hồng, kia là vùng trăng tỏ nọ là ánh thái dương, vẫn đứng
trơ trơ không bước theo con đường Đạo pháp thì làm sao đến nơi, đến chốn? Để
ngọn đèn hồng lu dần trong đêm tối, chừng đó mới sức tỉnh thì thương thay!
Thương thay! Vì chấp ngã phải chịu đọa lạc muôn đời!
Đây là dục giới:
Nếu các nguyên nhân tự giữ lòng mình không ham danh lợi thì các nguyên nhân sẽ
đoạt được lợi danh vô biên, các nguyên nhân không tranh giành thì các nguyên
nhân sẽ thắng vạn đời không bao giờ thất bại. Thế tại sao vẫn còn mê lợi, mê
danh? Đắm lợi tình ái buộc ràng, những điều đoãn lạc nào quá trăm năm, khi hấp
hối ăn năn, hối tiếc thì sự đã muộn màng.
Người chơn tu không
phiền não, chẳng oán than, dứt bỏ lòng trần, an nhàn cùng Đạo pháp, mặc tình
cho thế cuộc vần xoay, tạm mượn cuộc đời vui trả nợ đời, chớ không cuốn theo dục
giới, không đắm đuối say mê với cảnh phù hoa giả tạo thì mới rõ lý chơn như.
Kìa! Nếu người không trường chay, luyện Đạo thì làm sao vượt khỏi vòng Thần hỏa
nghĩa là vòng Tam muội hỏa để trở về Thiên thai. Nếu còn Tam độc thì sẽ bị lằn
Tam muội hỏa đốt nát, trở về sắc giới, an hưởng nơi cõi trầm luân chớ chẳng khi
nào thoát khỏi thượng tầng vền nơi miền cực lạc, các nguyên nhân! Đạo pháp mầu
siêu, linh diệu, người đạt được Đạo pháp thì vui vẻ muôn phần, chẳng luyến hồng
trần, không ham điều đoãn lạc, nhưng chẳng phải chán thế trần mà quên cuộc sống
nơi trần gian, cũng phải lo trả nợ đời, nhưng tâm an nhàn tuyệt hảo, không say
sưa theo đời vật chất, không đua đòi ích kỷ, hại nhân.
Trong thời kỳ Mạt
pháp Đạo Vàng luân chuyển, dụng mầu siêu, linh huệ, từ điển ban ra hầu có thức
tỉnh các nguyên nhân đắm sa nơi tục lụy. Đã gọi là biển khổ, trầm luân thì tại
sao người vẫn lái thuyền vượt vào trong vòng khổ hải, quanh quẩn chốn trầm
luân?
Ngày 22 Tháng 12
Năm 1963
Đạo do vô vi hư
không mà có, từ hư không vô vi là bao trùm vũ trụ này, các nguyên nhân hãy tầm
ra Đạo. Đây Bần đạo chỉ về tâm pháp nhiệm mầu;
Đạo do vô vi, điều
nào các nguyên căn hành động, tự mình cảm thấy vui vẻ mà không hại đến người,
làm cho người vui vẻ chung, đó là Đạo, là Chánh Đạo mầu siêu vậy! Cảm thấy đau
thương tự mình gánh chịu, làm cho người vui vẻ, chính đó là Đạo vậy! Đạo do
hành động hy sinh vị tha của mình mới thật Đạo. Vậy Đạo thì do tâm, nhưng tâm ở
nơi nào? Bần đạo hỏi Thiên Hội Tinh. (T. Hội bạch…)
THI
Đạo thị do tâm chiếu diệu mầu,
Vậy đây Bân đạo hỏi tâm đâu?
Trả lời có phải là tim óc,
Nhãn nhĩ thông qua chốn địa cầu?
Tâm chẳng ngoài trong chẳng cứng mềm,
Tâm hòa vũ trụ vạn đời êm;
Xác này tiêu tán tâm tồn tại,
Dữ, ác thiện qua vẫn mãi bền.
Khen thay nhân sắc đã dày công,
Tâm Đạo siêu vi bước đạo đồng;
Bần đạo chỉ tâm cho thấy rõ,
Tâm là hiểu biết lý Hư không.
HỰU
Hư không hiểu biết phải cần chuyên,
Mật pháp huyền năng bát nhã thuyền;
Phương tiện đưa qua bờ bến giác,
Huệ lương cố gắng nhập cơ duyên.
Cơ duyên đại pháp kể từ đây,
Tuyển trạch nguyên căn đến với Thầy;
Một thuở ngàn năm chơn lý hiện,
Cố công nhồi nắn tựa cung mây.
Cung mây chờ đợi khách hiền lương,
Cố tạo thuyền từ chuyển bốn phương;
Đức cả do tâm, tâm thị đức,
Hạ ngươn mạt pháp xá ân chương.
Vậy Bần đạo chỉ
tâm: Tâm không phải do nơi tim, nơi óc, cũng chẳng phải do nơi lòng, cũng chẳng
phải nghe, cũng chẳng phải điều thấy, cũng chẳng phải biết, mà do hợp nhứt của
vũ trụ Hư không, của muôn đời ngàn kiếp, của từ điển linh quang truyền xuống
vậy.
Kìa là lằn điện
siêu vi của khoa học đã tạo nên, các nguyên nhân nên thấy rõ đi trong lằn không
khí có mất đi chăng? Chắc hẳn là không mất. Vậy không mất nhưng tại sao không
thấy ? Đó là lằn từ điện đi trong lằn không khí, nhưng tại sao nơi này vẫn còn ghi
được âm thanh, vẫn còn nhiếp thọ được tiếng nói nơi kia, thì lằn từ điển do đâu
mà có. Đó là về hữu chất khoa học tạo thành mà còn mầu diệu thay! Vậy thì lằn
từ điển của các nguyên nhân đã do Thượng Đế tạo thành, đó là chơn linh tàng ẩn
siêu vi mầu nhiệm. Cái hiểu biết tạo ra hậu thiên đây thì khi bỏ xác mất đi
chăng? Thương thay! Thương Thay!...
THI
Đời mê
lắm nỗi đọa đày,
Xá ân lục đạo,
hội ngày Long Hoa.
Cho
nên hữu thể suy ra,
Dụng điều bạo
ác truyền ra trong đời.
HỰU
Trong đời mạt pháp lắm nàn tai,
Hỡi các nguyên nhân Đạo đã dày,
Đường đến Long Hoa còn mấy thưở,
Mau chơn Huỳnh Đạo hiện Thiên Khai.
Thiên Khai Huỳnh Đạo chẳng tà luân,
Chẳng phải phái chi cũng chẳng thường,
Do Phật Thánh Tiên qui Chánh giáo,
Nguyên căn đại vị xuất Chơn Vương.
Hôm nay, bần đạo
giảng về Tâm pháp là đại lễ. Từ xưa, bần đạo chưa đem điều thực tế để sánh so.
Thương thay! Cảnh trầm luân gió bụi mãi mê tăm tối, điều hiểu biết của người
chỉ trong vòng trăm năm, mà Bần đạo giảng ra đây là muôn đời vạn kiếp tùy căn
duyên, tùy căn duyên.
Ngày 15 Tháng 01
Năm 1964
THI
Như linh hiển thức phóng tâm
lành,
Lai ngự chương tòa điệp sắc
thanh;
Bồ liễu hằng tâm qui Bửu giới,
Tát duyên tạo đức chỉ tinh anh.
Nam trào hữu phước Long Hoa hội,
Hải hiệp Thiên Tinh rõ ngọn
ngành;
Quan chiếu huyền thông ban yếu
lý,
Âm từ đức cả thấu Trời xanh.
Bần đạo mừng chung.
THI
Mừng
chung tất cả Bửu liên,
Hôm nay thành
nguyện án tiền cơ minh.
Hoàng
Thiên đâu phụ chơn tình,
Gắng lo tu niệm,
giữ mình mai sau.
HỰU
Mai sau nước lửa sẽ lan tràn,
Chỉ phép huyền vi thoát đại nàn;
Đừng tưởng giờ đây rối chấp ngã,
Muôn thu cay đắng cũng đừng than.
Bần đạo thừa sắc Di
Đà giáng lâm, dạy chung hành Bửu Liên nữ phái.
THI
Bửu Liên nữ phái vẹn gìn thân,
Đừng để chơn như lắm bụi trần;
Ngọc có trau dồi nên mới sáng,
Thân rèn luyện đặng mới nên thân.
Phận nhi nữ trăm
đắng ngàn cay, kém điều học thức không sánh kịp râu mày cho nên phải bước lùi
về phần Đạo pháp Vô Vi. Đây bần đạo giảng về Chơn thức và Huyền thức.
Chơn thức và Huyển
thức mà Bần đạo giảng ra đây cũng gọi là chơn tâm và vọng tâm. Tâm rất quí báu,
tâm tạo ra tất cả sự vật trên thế gian, nhưng phải phân tách cho rõ ràng. Khi
hiểu rõ tâm là đâu, tâm ở nơi nào, thì mới phân ra chơn tâm và vọng tâm, hay về
Pháp đạo mà Đức A Di Đà đã truyền cũng gọi là Chơn thức và Huyển thức vậy. Tâm,
Bần đạo chỉ ra đây cho hàng Bửu Liên có thấu triệt điều nhiệm huyền mới là
người học Đạo. Từ khi mở cơ bút đến nay, ba mươi sáu năm dư mà có mấy ai thông
rành nhiệm lý! Đến nơi này nghe Kinh, nơi kia hầu đàn, nhưng chẳng thấu triệt
lý chơn như thì uổng thay lời châu tiếng ngọc! Chẳng phải đến nơi đây, vâng
lịnh Thiêng Liêng làm công quả, thi hành rồi được đắc Tiên bang hay Ngọc vị.
Bần đạo thường khuyên: “ hãy giữ vẹn tâm lành”. Giữ vẹn tâm lành cũng chưa đủ,
phải gom vào chơn tâm, gom vào chơn tâm cũng chưa phải là hoàn toàn, hãy đứng
vào chơn tâm hầu có siêu phàm nhập Thánh, đắc vị Tiên bang mới rõ Huỳnh Đạo
siêu nhiên vậy.
Nay quỳ đưới Thiên
đài, các Bửu Liên nghe rõ: học Đạo là nơi đây, tri Đạo là nơi đây, Phải hiểu rõ
Thánh ngôn, Thánh huấn. Vậy mới học Đạo,
vậy mới thức Đạo, vậy mới biết con đường hành Đạo thâm uyên mật pháp,
chớ chẳng phải màu áo mà thành Đạo, cũng chẳng phải trường chay mà tạo thành
Tiên Phật ngày mai, nghe rõ lời Bần đạo hôm nay để tìm ra chơn tâm và vọng tâm.
Về Tâm, trong hàng Bửu
Liên thấy rõ, Bần đạo cho biết, kìa là những chiếc bánh mà thế nhân làm ra biết
bao nhiêu… Này là bánh tròn, bánh vuông, kia là bánh nhỏ, bánh lớn, nhưng chung
quy cũng là bột mà ra vậy. Bột chính là chơn tâm, còn tùy người tạo ra tròn
vuông, lớn nhỏ, đó là vọng tâm, khi bánh kia có vở tan đi cũng trở về bột,
nghĩa là vọng tâm khi hoàn toàn tắt hẳn
thì cũng trở về chơn tâm là vậy. Người tu hành phải tầm ra chơn tâm, phải tìm
ra lý Đạo mầu siêu.
Các Bửu Liên hãy
nhìn thẳng; Kìa là bàn ghế, đó cũng là vọng tâm. Vậy chơn tâm chẳng phải bàn
hay ghế, tủ trước mặt các Bửu Liên nhìn thấy, đó là do vọng tâm mà tạo ra, còn
chơn tâm chính thật là cây là gỗ vậy. Khi bàn ghế, sự vật kia đã tan nát thì
trở về với chơn tâm, cũng hườn nguyên là cây gỗ. Chơn thức và huyển thức cũng
thế, chơn thức đều nhập theo huyển thức mà có. Trong huyển thức lại có chơn
thức, trong chơn thức lại tạo ra huyển thức ngày nay vậy.
- Về “lục căn”, kìa
là mắt trần, các nguyên nhân nhìn thấy sự vật, màu sắc bên ngoài: khi sự
vật tiêu tan thì các nguyên nhân có thấy chăng? Vì thế cho nên điều thấy của
các nguyên nhân là do huyển thức đi sâu vào chơn thức mà biết rõ vậy.
- Về tai,
thì các nguyên nhân cũng nghe khi có âm thanh trầm bổng, lớn nhỏ. Nhưng vì có
âm thanh đó cho nên các nguyên nhân trong hàng Bửu Liên nguyên vị mới nghe, vì
huyển thức tạo thành nên mới nghe nhập vào chơn thức.
- Về phần mũi
thì biết mùi thơm lạ. Mùi lạ đây là do huyển thức tạo thành, chớ chính cái biết
mùi đó là chơn thức vậy. Khi mùi thơm bay ra mà mất đi rồi thì cũng trở về với
chơn thức.
- Lưỡi cũng
thế, khi nếm mùi vị đắng cay, khi không nếm nữa là nghĩa là không có, điều đắng
cay đem tới lưỡi, thì lưỡi không còn cảm thấy nữa, là huyển thức đã rã tan, đã
về với chơn thức vậy.
- Về thân,
khi phải va chạm điều này, điều nọ cảm xúc được, nếu không có sờ mó vào một vật
nóng, lạnh thì không biết nóng, lạnh vì biết nóng lạnh là chơn thức, điều nóng
lạnh, khi tách ra khỏi chơn thân thì không còn biết nóng lạnh nữa. Sự nóng lạnh
mà biết đó thuộc về chơn thức của thân vậy. Còn điều nóng lạnh bên ngoài là do
huyển thức………
Đó là Bần đạo giảng
về huyển thức và chơn thức cho các nguyên nhân trong hàng nam nữ nghe rõ. Muôn
đời ngàn kiếp, chơn thức cũng vẫn còn, nhưng do huyển thức tạo thành; vì huyển
thức cho nên chơn thức mới cuồng si trong dục vọng thất tình, lục dục. Vì lục
căn có chơn thức cho nên huyển thức mới dụ dổ làm cho sa đọa luân hồi. Ngày nay
muốn gom về chơn thân Thánh thể, muốn trở về Ngọc vị Hư cung thì phải hoàn về
chơn thức. Muốn hoàn về chơn thức duy có Bí pháp DI ĐÀ Liên Hoa mật chỉ,
mới được siêu phàm, nhập Thánh, mới biết đâu là chơn Thân, chơn thức hầu trở về
cựu ngôi nhàn nhã...
Các
nguyên nhân trong hàng nữ phái Tân pháp rất nhiệm mầu cao siêu huyền diệu, cố
gắng học hỏi Thánh ngôn để tìm ra chơn lý, chơn lý của chánh pháp Huỳnh Đạo
ngày nay là không phân biệt Tôn Giáo mà chỉ chọn toàn đại nguyên căn hầu dìu
lần đến cựu vị, đưa qua khỏi Long Hoa đại hội, trở về với cảnh trường miên vĩnh
cửu vậy. Người hiểu Đạo, tra Đạo thì phải cố gắng thi hành công quả, chẳng phải
công quả mà thôi còn phải biết lẽ Đạo cao siêu, học cho rành nhiệm lý mới rõ
điều huyền diệu của Thiêng Liêng ban xuống.
Ngày
này, tà luân phiếm Đạo nơi nơi loan cuồng xui khiến huyển thức tạo thành hữu
chất đó đây mà không có một chơn lý, không có điều học hỏi siêu vi mầu nhiệm
của Đạo pháp thâm uyên thì làm sao đến nơi Niết Bàn, Hư cung, Bạch ngọc? Bần đạo
thương thay! Cảnh trần gian là ô trược, điều ô trược đó là vì chơn thức nhiểm lấy huyển mà tạo thành. Nếu
trong các nguyên nhân Bửu Liên đoạn trừ huyển thức, trở về chơn thức thì muôn đời
ngàn kiếp, chơn thức cũng còn vẫn còn vậy. Chẳng thấy do nơi sự vật tạo thành
mà thấy nơi chơn thức là điều thấy muôn đời; Chẳng nghe điều huyển thức tạo thành nơi
sự vật, là nghe được điều huyền diệu thiên thu; chẳng nếm mùi vị đắng cay của
trần ai mà biết trong chơn thức thì điều biết đó là thoát khỏi chốn luân hồi;
chẳng phải trầm thân trong kiếp gió bụi mà vẫn biết thân này là giả thân, tạo
lấy Kim Thân làm từ thuyền đưa về Niết Bàn, Hư cung, Bạch Ngọc, đó mới là việc
trường miên. Với ý phàm là những điều ham muốn đó đây, diệt được lòng ham muốn
thì tất nhiên thấy được lý
Đạo cao siêu, cũng như biển kia muốn thấy Minh Châu tất nhiên phải yên lặng
sóng gió, phải trong suốt mới thấy rõ cội nguồn.
Này
các nguyên nhân: Điều nào trên thế gian gọi là có là điều không, nhưng trong điều
không là điều có ở nơi Vô Vi vậy. Điều có ở nơi Vô Vi là điều không ở dưới thế
gian. Không chẳng nghĩa là: chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng bao giờ đoạt đến.
Không đây là không nhiễm, không lăn
lộn trong luân hồi, không đắm mê tục lụy, về với trong sạch cao siêu nơi hư vô
thượng tầng thanh thoảng, chớ chẳng phải hoàn không là trở về với không không
như lằn gió thoảng. Thương thay! Thương thay! Bốn phương tám hướng, giờ này
biết bao nhiêu là Thiên Tinh, Bồ Tát lâm phàm tùy duyên hóa độ, nếu đại căn thì
quỳ dưới Thiên đài nghe rành Chánh pháp siêu vi mầu nhiệm hồi đầu trở về cựu
vị, còn người không thì dầu đến đâu cũng xa vạn dặm. Bần đạo cảm thương đã đại
hồng thệ với tất cả nhân linh: “ Ngày nào chánh pháp phổ hoằng vạn chủng, toàn
tất linh căn hướng thiện thì ngày đó Bần đạo mới yên lòng nơi Niết Bàn, Cực
Lạc.
Nơi
chốn trần gian này đây biết bao nhiêu là điều đau khổ, điều đau khổ đó, Bần đạo đã đại từ bi
dụng Cam lồ, hào quang tỏa xuống để cứu biết bao nhiêu là nguyên nhân. Nhưng
thương thay! Cứu bao nhiêu lại lầm lỗi bấy nhiêu! Cũng như người cha khuyên
con, thương con răn dạy con vậy. Tình thương đó đứa con còn nhỏ chẳng hiểu được
lòng cha rộng rãi bao la, lại cho đó là việc tầm
thường cho nên vẫn phạm lỗi triền miên. Điều Cha muốn cho con không phạm lỗi là
vì muốn cho con thành nhơn chi mỹ. Cũng như Thần Tiên Thánh Phật tạo ra qui
luật ngày nay, muốn cho các nguyên nhân đoạt được Đạo pháp siêu vi cho nên ban
bố linh quang siêu điển mật pháp cơ mầu cũng như Cha muốn cho con thành nhơn
chi mỹ. Nhưng tiếc thay! Lòng trần rất nặng cũng như đứa con nào biết gì lòng
Cha thương yêu rất mực, vẫn phạm lỗi này lỗi nọ, cho đến khi thành nhơn ràng
buộc thì hư cả một cuộc đời. Thương thay!...
Các nguyên nhân nên
nhớ rõ: chẳng phải thân xác này đây gọi là trường miên vĩnh cửu. Vì chấp giả
cho nên các nguyên nhân bị trong diệt giả, nghĩa là cho thân xác là trường
miên, cho là kiếp sống đời đời cho nên vì cho như thế mới gọi là chấp giả, lấy
cái giả mà ngờ rằng cái chơn cho nên điều chơn chánh bỏ ra ngoài, phải luân hồi
vạn kiếp là vậy. Phải thấu triệt được lý Đạo cao siêu, phải tìm điều sâu xa mầu
nhiệm mới có sự kiên chí đi đến cuối cùng của đại hội Long Hoa, chớ vừa nghe mà
tin, vừa thấy mà mến thì cũng chẳng phải là Đạo của quân tử chánh chơn vậy.
Phải tầm lý cao nhiên, phải tìm trong tâm pháp, đừng nệ khổ lao, cũng đừng vì
thế trần khinh khi miệt thị hay chế nhạo đó đây, miệng đời cay đắng mà các
nguyên nhân xa lần chánh niệm để đi vào vòng ác trược muôn thu. Thương thay!
Trong hàng Bửu Liên cùng nữ phái hôm nay có duyên lành cho nên được truyền yếu
pháp. Vậy phải cố gắng qui điều vẹn vẽ, hầu tiến đến mật pháp bí chỉ linh thông
để có gom tụ chơn thần, phương tiện đoạn thất tình lục dục, tìm ra con người thật
của con người hầu về với Niết Bàn Bạch Ngọc. Con người thật của con người không
phải do tứ đại hiệp thành, không phải màu sắc kết tinh mà cũng chẳng phải tất
cả điều quí báu của thế gian tạo thành mà là một chơn linh tàng ẩn siêu vi tán
ra trong thất tình lục dục tán ra trong lục căn cho nên các nguyên nhân bị phân
tán như thế, không gom tụ được nên muôn đời ngàn kiếp vẫn còn chìm theo trong tứ đại giả mà thôi. Ngày nay phương
tiện ân xá của Di Đà truyền ra là gom tụ chơn thần, hiển hóa được chơn thần tức
nhiên là phải qui hồi cựu vị vậy. Nếu biết Đạo, phải biết tâm pháp, muốn biết
tâm pháp phải nghe giảng chánh lý siêu nhiên, chớ chẳng pháp mỗi lần quì trước
điện tiền nghe Thiêng Liêng điểm hóa dạy công quả nơi này, làm việc nọ nơi kia,
rồi các nguyên nhân không tưởng về chơn thân của các nguyên nhân. Các nguyên
nhân lại quên rằng mình là một con người luân hồi tìm điều giải thoát mà đến
nơi này chưa tạo cho mình một điều giải thoát nào trong thâm tâm, lại chỉ mê
mê, tỉnh tỉnh mà không tìm ra lý siêu nhiên thì dầu cho từ kiếp này kiếp nọ
cũng vẫn phải luân hồi. Thương thay!
Ngày 26 Tháng 05
Năm 1964
Bần đạo mừng chung.
THI
Ta là chánh pháp Đạo Hư không,
Bà sắc trần gian lắm bụi hồng;
Giáo vị nhân sanh hồi tánh Phật,
Chủ hòa chánh pháp tạo Nhân Ông.
Đẳng nhàn nhã hiện cơ minh triết,
Giác lý huyền thông chỉ đại đồng;
Mâu huệ tiêu dao Huỳnh sắc hiện,
Ni thừa tăng chấp Đạo hằng
thông.
Ta Bà Giáo Chủ Đẳng
Giác Mâu Ni, Bần đạo mừng chung. Này các nguyên nhân được miễn lễ, đồng tọa
nghe Bần đạo mừng lễ Đản sinh mà thế nhân cho đây là chính ngày Phật Đản. Lành
thay! Lành thay! Phật tâm viên tánh bất chấp trần gian, chỉ mong sao thế nhân
hồi đầu hướng thiện, dầu ngày Đản sinh là ngày nào cũng vẫn công đức. Trì kiên
nhắc nhở cho chúng sanh nơi đây là trần ai tục lụy, chốn mê đồ tân khổ, phải
vượt khổ hầu có trở về nơi Cực lạc nhàn du. Này các nguyên nhân! Kìa đường đời
càng ngày càng thấy biết bao nhiêu là điên đảo, lòng người càng ngày các nguyên
nhân cũng càng thấy điên đảo say đắm hồng trần, mê man nơi đoãn lạc, không biết
mình là một chơn linh tàng ẩn siêu vi hầu có trau dồi bản thể Phật Thánh trở về
nơi cảnh an nhàn tuyệt lạc. Lầm thay! Lầm thay! Chấp giả thị chơn, thương cho
thế nhân nên Bần đạo hóa sanh, truyền chánh pháp đến nay đã hai ngàn năm lẽ thì
tại sao chưa có vớt được chín mươi hai ức nguyên nhân, lòng Bần đạo cũng vẫn
còn thiết tha, vì đại từ bi, muốn truyền huệ linh thông cho tất cả, nhưng vì
tâm phàn còn lộn lạo biết bao nhiêu điều ô trược, mang mển biết bao nhiêu là
thất tình lục dục cho nên ngày nay phải chịu trả vay trong kiếp luân hồi thì
làm sao nhiếp thọ được đại hồng ân của Thiêng Liêng ban bố.
Này các nguyên nhân! Mỗi mỗi đều có Phật tánh Tiên tâm, nhưng tự mình làm hủy hoại cũng như các nguyên nhân thấy kia, nhìn thẳng nơi Thiên bàn Bửu vị: Nọ là chiếc đèn, các nguyên nhân có thấy chăng? Đó cũng là lẽ thiên mà Trời Đất ban cho mỗi mỗi. Nếu các nguyên nhân thắp lên cho sáng, cứ thắp mãi như thế thì đèn ngày kia, tim sẽ hết, dầu sẽ tan. Nếu không thắp thì các nguyên nhân sẽ còn nguyên vẹn, nhưng nếu các nguyên nhân không thắp thì sàm sao có được yến sáng soi chung. Điều tâm pháp mà Bần đạo giảng ra đây, vì chấp cho nên các nguyên nhân vẫn thắp, dầu cho các nguyên nhân có chấp đến đâu, có mê lầm đến đâu thì cũng đến ngày tàn tạ. Nhưng nếu không thắp lên sáng thì đèn kia làm sao soi chung. Vì thắp, không thắp cũng là trong mê chấp vậy. Làm sao không thắp, không sáng mà các nguyên nhân tự thấy, tự tìm thì mới đúng là chánh pháp siêu vi. Lời Bần đạo giảng ra đây là lời tâm pháp, ráng trì nghiệm xem xét bản tánh… Ngày nay, vì thiên lương đã mất, cho nên thế trần lục đạo luân hồi làm hoại Nho Tông, làm mất đường chánh pháp, đua sửa tôn chỉ công bình thâm nghiêm cho nên phải chịu họa điên đảo, mạt kỳ loạn ly là thế. Nơi nơi chúng sanh vì lòng dục vọng mà tạo thành biết bao nhiêu là ác nghiệp. Tất cả các nguyên nhân quì dưới Phật đài đều biết là: vì dục vọng, vì ác nghiệp cho nên làm cho thế gian phải đảo điên. Biết như thế tại sao không hành cho đúng chánh pháp, biết mà không hành thì làm sao đi đến Đại đồng Cực lạc? Tuy biết cũng không bằng hành, phải thực hành cho đúng, phải diệt dục, giữ lòng thanh tịnh, đừng nói rằng chỉ một mình ta, dầu diệt dục, dầu giữ lòng thanh tịnh cũng không giữ được phong hóa thuần lương hoặc chánh pháp kỷ cương của Huỳnh Đạo, mà phải biết rõ cội nguồn, sửa tâm tánh, diệt dục, rèn thân, còn hơn là không đương sửa để đua đòi theo vật chất xa hoa. Khi gần bỏ xác, ân hận thì đã muộn màng, thương thay!...
Ngày 22 Tháng 08
Năm 1964
THI
Thương đời Thầy ngự Trung Ương,
Vì con Thầy tá Việt thường dạy khuyên;
Cuộc trần gặp lúc đảo điên,
Con ơi! Cố gắng diệu huỳnh Thầy trao.
Thầy miễn lễ các
con cùng Tam Giáo, Thần Tiên Thánh Phật hôm nay ngự triều, miễn lễ chung.
THI
Hồng nhựt linh thông Đạo pháp
truyền,
Quân cơ thử khứ hội Đài Liên;
Thượng thừa siêu lý Tôn Sư lập,
Tổ duyệt Minh Linh, án đệ truyền.
Giáng bút Khai Thiên hồi tuệ giác,
Ngự cơ tầm lý vượt đào nguyên;
Bửu châu xuất hiện mau tầm lấy,
Tòa báu con ơi chính nhã thuyền.