Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016

- CHÚC MỪNG NĂM MỚI 2016 VÀ KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ VÍA ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ






                   
                                               THI
LINH     điện Cha lâm chuyển bút huyền,
QUANG đài chiếu rạng sáng Đồ Thiên,
PHẬT    Đà sáu chữ vô biệt niệm,
ĐỊA        lợi nhân hòa giống cảnh Tiên.
KHAI     hội trường thi công đức lập,
XUÂN    về hậu tấn được đoàn viên,
BÍNH     niên Huỳnh Đạo khai trường hội,
THÂN    thế nhân tài được kết liên.

      Linh Quang Phật Địa khai xuân Bính Thân.

CUNG hỷ chúc mừng lễ đón Xuân,
CHÚC cầu nhân loại được vui mừng,
TÂN niên thêm tuổi thêm công đức,
XUÂN thọ, Xuân nhàn vạn vạn Xuân.
HẬU hữu tiền khai thời Thánh Đức,
TẤN tài, tấn lợi, phước thừa hưng,
HUỲNH Kỳ trước gió bay phất phới,
ĐẠO chuyển hoằng dương lễ chúc mừng.

                                             ******

     Bính Thân Xuân đến chúc mừng nhau,
     Bác ái từ bi nghĩa ngọt ngào,
     Vạn đại chúng sanh trong cõi hạ,
     Cũng tình, cũng cảm nghĩa tương nhau.
Xuân về dịu mát tình nhân ái,
Xuân hiệp, xuân hòa quý biết bao,
Xuân ban ân huệ toàn hậu tấn,
Xuân bớt gian nan, hết khổ đau.

                        ******
CUNG hỉ         HỘI     đoàn nguyện nhứt tâm,
CHÚC mừng THÁNH Chúa hiện hoan lâm,
TÂN   niên    HUỲNH sắc soi chơn lý,
XUÂN chuyển ĐẠO   mầu đạt diệu thâm.
BÍNH hiệp     TRUNG   hòa tâm thiện mỹ
THÂN hành    ƯƠNG  kiến thị dương âm,
NIÊN lâm      BỬU  ngọc hòa nhân chủng,
MỚI   lập      TÒA  chương giáo pháp tầm.

                      *******
Xuân đến cõi lòng phải thiết tha,
Xuân lai nhớ được chữ nhân hòa,
Xuân đoàn kết lại lo hành Đạo,
Xuân nguyện với lòng chẳng cách xa.
Xuân nhớ tình Cha luôn huấn dạy,
Xuân Đời không nghĩ, nghĩ tình Cha,
Xuân lo trách nhiệm Cha giao việc,
Xuân Đạo gắng hành chẳng phụ Cha.

                          ******
Phụ Cha con có thấy buồn không?
Xuân đã về đây mát mẻ lòng,
Tình Đạo, tình Đời con nặng gánh,
Bao nhiêu khó nhọc nặng trong lòng.
Con nên hỷ xả từ bi hạnh,
Mới biết giả chơn thiệt với không,
Con đã biết tu thì phải biết,
Nghĩa nhân đầy đủ mới thành công.
                         oOo
     Thương con tất cả Thiên phong,
     Thấy con dâng hết tấm lòng vì Cha,
          Bao giờ lòng cũng thiết tha,
Thương con tâm ý ngọc ngà báu thay.
     Thi Xuân Cha viết một bài,
     Gởi con vui dạ tháng ngày bình an,
          Xuân về con có hân hoan,
Lòng con đừng mãi hoang mang chuyện đời.
                          oOo
          Đời thì mặc thế con ơi!
Con cần tin tưởng ở nơi Cha hiền.
          Dắt con học Phật học Tiên,
Cha đâu dạy trẻ học tiền, học danh.
          Xuân lòng con nguyện tín thành,
Trau dồi Đạo pháp lo hành công phu.
                             Tình huynh nghĩa đệ không thù,
Ai làm sai quấy khám tù khó qua.
          Dạy con hai chữ thuận hòa,
Bài Xuân Cha ký nét hoa con tường.
          Bao giờ Cha cũng yêu thương,
Nếu con biết được từ chương vạn lời.
          Đạo Huỳnh đừng có buông lơi,
Thiên Khai Thầy lập muôn đời lưu danh.
          Mong con dâng trọn tâm lành,
Để lo cơ Đạo cho thành từ đây.
          Thi Xuân Cha nhủ lời nầy,
Nếu con quý Đạo, thương Thầy, tưởng Cha.
          Thì con không thể nệ hà,
Trong tình phụ tử ngọc ngà đừng phai.
          Thấy con than vắn thở dài,
Con đường Đạo nghiệp biết ngày nào xong.
          Nếu xong nhờ trẻ thành lòng,
Muốn xong con phải góp công lo hành.
          Canh khuya Cha ngự bút lành,
Bài Xuân Cha chúc cho thành kỳ công.
          Gọi các con vui lòng mát dạ,
Việc tu hành đừng ngã đức tin.
          Chữ tu ma quỷ khảo mình,
Phật Trời ủng hộ huệ linh sáng ngời.
          Con tin Cha nghe lời khuyên nhủ,
Lời Cha khuyên chấp thủ hành y.
          Thế gian phân tách điều gì,
Con nên hành đúng chữ y Cha truyền.
     Thương các con hiếu hiền trọn vẹn,
     Ánh Đạo Huỳnh vun vén thêm xinh.
          Con ơi, vì mối Đạo Huỳnh,
Quyết tâm vì nghĩa, vì tình không phai.
     Cha ngự bút viết bài Xuân tưởng,
     Chúc mừng con vui hưởng hồng ân,
          Dầu con nặng nghiệp hồng trần,
Căn Tiên quả Phật cũng dần hiện ra.
     Cha nhỏ lệ xót xa vì trẻ,
     Đời văn minh muôn vẻ đổi thay,
          Nên con mới bị khảo hoài,
Vì nhan vì sắc vì tài vì danh.
     Ngày Xuân đến ân lành Cha giáng,
     Để dạy con bài giảng Xuân hồng,
          Xuân nầy con ráng thi công,
Xuân tình phụ tử với lòng thương yêu.
     Đêm thanh vắng gió hiu hiu thổi,
     Cha chạnh lòng bao nỗi thương sầu,
          Mong con học thuộc sáu câu,
Di Đà sáu chữ nhiệm mầu vô biên.
     Xuân Bính Thân Cha hiền ngự bút,
     Xuân đã về Cha chúc mừng con,
          Xuân nầy con khá vuông tròn,
Xuân hồng Huỳnh Đạo bảng son tên đề.
     Xuân con phá bờ mê diệt khổ,
     Xuân không còn ở chỗ vô minh,
          Xuân nay con vững đức tin,
Xuân hòa thế giới Đạo Huỳnh hoằng dương.
     Con Thiên phong phi thường hành Đạo,
     Vững đức tin thông thạo lý mầu,
          Đạo Huỳnh rạng rỡ năm châu,
Đức tin vững chắc, đừng sầu, trần duyên.
     Cha ngự bút lời khuyên tao nhã,
     Khuyên các con đừng ngã đức tin,
          Cùng nhau hòa hiệp ý tình,
Chung tay xây dựng Đạo Huỳnh nghe con.
     Xuân Bính Thân bút son Cha bảo,
     Xuân thuận hòa lo Đạo cùng nhau,
          Xuân nầy con nhớ dồi trau,
Xuân lai phước lộc Cha trao đủ đầy.
     Xuân nhớ câu hiệp vầy huynh đệ,
     Xuân gìn câu hồng thệ vuông tròn,
          Xuân hòa, Xuân nhẫn nghe con,
Xuân gìn Đạo hạnh cho tròn chữ tu.
     Xuân đừng để ám lu tâm trẻ,
     Xuân tinh thần mát mẻ hân hoan,
          Xuân đi thơi thới nhẹ nhàng,
Xuân về mát mẻ vinh quang Đạo Thầy.
     Xuân con được hiệp vầy huynh đệ,
     Xuân quyết tâm toàn thể vinh quang,
          Xuân thương kìa cánh mai vàng,
Xuân lành đua nở Đạo tràng quy nguyên.
     Xuân Cha chúc bình yên vạn loại,
     Xuân Đạo Huỳnh học hỏi cao minh,
          Xuân về với cánh mai huỳnh,
Xuân ban tất cả huyền linh đủ đầy.
     Ngày Xuân đến lòng đây mát mẻ,
     Xuân chúc mừng vui vẻ đoàn viên,
          Xuân cầu Thất Tổ Cửu Huyền,
Xuân cầu tất cả bình yên gia đình.
     Xuân nhân loại lòng tin thành kỉnh,
     Xuân đã về chấn chỉnh từ nay,
          Xuân Tiên ngọc bút tỏ bày,
Xuân nầy gọi các nhân tài thi công.
     Xuân tất cả tấm lòng trong sáng,
     Xuân Thiên Khai tỏ rạng siêu linh,
          Xuân nầy dâng trọn đức tin,
Xuân lo cho mối Đạo Huỳnh hoằng dương.
     Xuân đừng để tình thương sứt mẻ,
     Xuân hòa đồng vui vẻ lo tu,
          Xuân đừng mang chữ hận cừu,
Xuân mang chi chữ ghét thù hở con.
     Xuân một tấm lòng son hành Đạo,
     Xuân sợ chi khảo đảo trong ngoài,
          Xuân trường Đạo lý hoằng khai,
Xuân lo dắt chúng kịp ngày quy nguyên.
     Xuân các con trọn duyên Huỳnh Đạo,
     Xuân trải nhiều cơn khảo đau thương,
          Ngày Xuân không thể đoạn trường,
Trời Xuân mát mẻ tâm hương nguyện cầu.
     Xuân cầu nguyện sông sầu biển khổ,
     Xuân an lành về chỗ bình yên,
          Xuân nầy có Phật, Thánh, Tiên,
Thiên Khai Cha trợ ân duyên con trần.
     Xuân mát mẻ tinh thần thể xác,
     Xuân Đại đồng dõng dạc tuyên ngôn,
          Xuân thành kỉnh Đức Chí Tôn,
Thầy là Chủ Sử Càn-Khôn vạn loài.
     Đức Chí Tôn oai Trời cao cả,
     Lịnh Ngọc Hoàng ngự tá trần gian,
          Nhân hòa hiệp với Thiên hoàng,
Thiên hoàng gặp hội Tam Hoàng ân phong
     Cha ngự bút đôi dòng khải hóa,   
     Xuân Bính Thân Cha hạ bút vàng,                  
          Thiên phong con chớ hoang mang,
Thiên phong con phải sửa sang phận mình.
     Lòng con giữ đức tin Huỳnh Đạo,
     Xuân sợ gì cảnh khảo ngày Xuân,
          Xuân vui, xuân đến, Xuân mừng,
Xuân này con nhớ lịnh tuân phụng hành.
     Xuân đoàn tụ em anh nội bộ,
     Xuân cùng nhau cộng khổ hội này,
          Ngày Xuân Cha ngự về đây,
Thương Cha, vì Đạo, thương Thầy nghe con.
     Xuân kiểm điểm khuyết tròn ưu ái,
     Xuân lọc lừa lẽ phải điêu ngoa,
          Xuân xanh rồi đến tuổi già,
Thời gian không đợi nệ hà chi con.
     Theo bước Cha hành tròn phận sự,
     Lành những điều hung dữ khác nhau,
          Làm người phải biết trước sau,
Làm con phải Đạo mới cao tinh thần.
     Cha ngự bút đôi vần thơ cảm,
     Con hậu đoàn tường lãm từ văn,
          Các con vốn đại linh căn,
Phải cần tiến bước, phải tăng phước điền.
     Đoàn kết lại mối giềng nắm giữ,
     Anh em đồng học chữ thương yêu,
          Hòa nhau trên dưới thuận chìu,
Để lo cơ Đạo cao siêu của Thầy.
     Ngày sóc vọng đủ đầy hành lễ,
     Về Điện Trung dưới bệ Phật đài,
          Các con đừng vắng mặt ai,
Những ngày sóc vọng từ nay đủ đầy.
     Để học Đạo từ rày sắp tới,
     Trước tiên là Đạo Lý phải thông,
          Thanh Xuân cùng các Thanh Đồng,
Các con phải có tấm lòng thiết tha.
     Hỡi con Hoàng Chí, Huỳnh Hoa,
     Phái Huỳnh, phái Ngọc vì Cha, vì Thầy,
          Sấm kinh đọc tụng hằng ngày,
Cầu an bá tánh phước lai yên nhàn.
          Lời Cha khích lệ con ngoan,
Đọc bài cầu nguyện bình an mọi nhà.
     Xuân Bính Thân muôn hoa đua nở,
     Hàng Thiên phong rực rỡ niềm tin,
          Đừng cho Thiên điễn không linh,
Rồi con xa Đạo, quên tình Thiêng Liêng.
     Thương các con có duyên có phận,
     Nguyện một lòng tinh tấn lo tu,
          Công trình, công quả, công phu,
Với ngày Đại lễ chỉnh chu lo lường.
     Việc từ thiện cúng dường bố thí,
     Đó vốn là giá trị người tu,
          Làm ân, làm phước đắp bù,
Giúp người đói khổ công tu thêm nhiều.
     Tu thì phải nương chìu tất cả,
     Ai có lời nặng quá nhịn đi,     
          Đừng nên tranh cãi làm gì?,
Cãi tranh rồi cũng vết tỳ giống nhau.
     Xuân Cha đến con nào không tưởng,
     Xuân tùy duyên vui hưởng hay sầu,
          Vui thì hiểu biết Đạo mầu,
Sầu thì kiếm chuyện câu mâu quở rầy.
     Tu con muốn tìm Thầy học Đạo,
     Thầy dạy con hiếu thảo mẹ cha,
          Vào chùa thì dạy nhân hòa,
Đệ huynh tỷ muội một nhà Cha chung.
     Con chớ xưng hùng, xưng bá,
     Hay cho là mình đã hiểu thông,
          Con tu thì phải có lòng,
Có công, có sức giúp trong lo ngoài.
     Tu cũng phải có tài, có lực,
     Để đem ra giúp sức cho Đời,
          Mình tu tự độ mình thôi,
Nhiều người thảm khổ, ta thời làm ngơ.
     Tu như vậy biết giờ nào đắc,
     Tu như vầy cho chắc nghe con,
          Nghe ai đau đói mỏi mòn,
Tấm lòng bác ái của con nhiệt tình.
     Cơ Huỳnh Đạo cao minh vận chuyển,
     Cha gọi con tu tiến từ đây,
          Ngày Xuân hiệp mặt đủ đầy,
Đừng cho vắng vẻ Mẹ Thầy không vui.
     Cha giáng điễn ngậm ngùi đau xót,
     Mong các con bùi ngọt tình thương,
          Thiên Khai Huỳnh Đạo chủ trương,
Đại đồng nhân loại một trường hiền nhân.
     Tu muốn đắc Kim thân nhớ rõ,
     Mọi hận thù nhớ rõ đừng mang,
          Nghĩ chi những việc thế gian,
Muốn thành Phật phải đừng mang lòng phàm.
     Con ơi nhớ Già Lam Quả Phật,
     Người trung cang khí chất hiên ngang,
          Trung cang nghĩa khí vẹn toàn,
Đắc thành quả vị Già Lam tại trần.
     Nay chư Thánh, chư Thần ủng hộ,
     Cho người tu giác ngộ pháp mầu,
          Rèn tâm rèn ý cao sâu,
Luyện Thần, luyện Tánh sáu câu Di Đà.
     Chữ lục tự lòng ta gìn đúng,
     Nước Ma-ha sử dụng mát lòng,
          Luyện thành chỉ có chữ “không”,
Con hành cho đúng thành công pháp mầu.
     Cha ngự bút đêm thâu chuyển hóa,
     Chúc mừng con Đạo cả lo hành,
          Xuân về con trọn lòng thành,
Xuân về mát mẻ trên cành hoa mai.
     Lễ Thánh Đức sắp bày sau trước,
     Ngày Triều Nguơn hưởng được hồng ân,
          Phật Vương Di Lạc ngự trần,
Từ bi ban rải hồng ân nhân loài.
     Cha chấp thủ một bài khải ngộ,
     Dạy hậu đoàn cộng khổ cùng Cha,
          Xuân về mai cúc nở hoa,
Các con vui đẹp mừng Cha giáng trần.
     Xuân con chớ ngại ngần chi nữa,
     Xuân đã về con rửa sạch trong,
          Xuân nầy dứt chuyện hai lòng,
Xuân lai tình nghĩa Đạo đồng thủy chung.
     Xuân con nhớ Đại hùng, đại lực,
     Xuân Bính Thân tích cực nghe con,
          Xuân quy, xuân thuận hiệp đoàn,
Xuân anh hiệp mặt, em tròn lòng tin.
     Xuân con nguyện hiệp tình, hiệp ý,
     Xuân con cần mùi vị đoàn viên,
          Xuân lo hai chữ tu hiền,
Xuân cầu hòa thuận, kết liên thuận chiều.
     Xuân Cha chúc, con yêu quý Đạo,
     Xuân con hòa, thuận thảo chị anh,
          Xuân nầy dâng tấm lòng thành,
Hậu đoàn kiên quyết tu hành cho xong.
     Xong bốn chữ Thiên Khai Huỳnh Đạo, 
     Xong bốn điều nhân, ái, thuận, hòa,
          Các con có đứa vị tha,
Bước đi đừng sợ quỷ ma chặn đường.
     Bước đi vững lập trường hành Đạo,
     Vững đức tin thông thạo lý mầu,
          Thiên phong Huỳnh Đạo nhiệm sâu,
Bính Thân xứng đáng tròn câu thảo hiền.
     Lo vun đắp phước điền đầy đủ,
     Xuân trọn tình không phụ lòng nhau,
          Ngày Xuân nghĩa Đạo ngọt ngào,
Thâm tình huynh đệ ngot bùi thương yêu.
     Xuân tỷ muội dắt dìu bước tiến,
     Xuân dung hòa lưu luyến, thương yêu,
          Xuân con lớn nhỏ nương chìu,
Xuân tình Cha dạy đôi điều nhớ ghi.
     Chuyển huệ bút vần thi tao nhã,
     Các con cần hỉ xả lẫn nhau,
          Lo tròn phận sự Cha trao,
Ngày sau về được ngôi cao Liên đài.
Thăng








 Hương trầm nhẹ thoảng cao phi ,
Tâm thành con cúi đầu quỳ niệm kinh .
LẠY THẦY cao viễn huyền linh ,
Thừa nhàn giá ngự quang khinh chứng lòng .
Tam Thiên cảm thấu trần hồng ,
Minh Châu ứng hiện lục Long hạ phàm .
LẠY THẦY thương xót kỳ tam ,
Chỉ tan ác trược trời Nam thái bình .
Nay con thọ sắc đạo Huỳnh ,
Nguyện cầu Tông Tổ siêu sinh Liên tòa .
LẠY THẦY nhuần gội MA HA ,
Cúi nhờ luợng cả KIM SA  pháp truyền .
Tam tài luân thống diệu huyền ,
Giao đài phưởng phất chiêu liên hộ đằng .
Nhụy châu chơn võ kim thằng ,
Phúc hồng vạn tải lương năng hộ triều .
Dụng hòa từ huệ LINH TIÊU ,
Kim Cung Viết Thượng nhiệm siêu hội kỳ .
LẠY THẦY điểm hóa huyền vi ,
Rộng lòng thương cõi mê si lỗi lầm .
Con đà thọ pháp chí tâm ,
Cuộc trần thức tỉnh hôn trầm đắng cay ,
LẠY THẦY ân tứ hội này ,
Con tan nghiệp chướng hiệp vầy chơn duyên .
Thân phàm giũ sạch oan khiên ,
Từ bi Ngọc Đế bách niên tạo thành .
Thương con THÀY điểm Đạo lành ,
Hào quang chiếu diệu Tam Thanh quản truyền .
Nam Mô Thượng Tổ cao nhiên ,
Long Hoa Đại Hội quy nguyên Đạo Huỳnh .
( 3 lạy ) .
TÂM NIỆM :
- NAM NÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯƠNG ĐẾ NGỌC HOÀNG ĐẠI THIÊN TÔN 
- NAM MÔ HỒNG QUÂN THƯỢNG TỔ CHƯỞNG GIÁO TAM NGƯƠN .
- NAM MÔ DI LẶC THIÊN TÔN KHAI MÔN CHUYỂN PHÁP . 

- NAM MÔ ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỰC ĐẠI TỪ TÔN .


    Tín-ngưỡng của Cao-đài giáo tôn thờ một Đấng tối-cao, toàn-năng, toàn-thiện đã tạo-lập nên vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh, gọi là Đức Chí-Tôn hay Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế.
    Người tín-đồ Cao-Đài được mặc-khải rằng Thượng-Đế từ hư-vô mà có, bất-sanh bất-diệt, vô-thỉ vô-chung. Ngài là Đấng tự có, hằng có và hằng còn, Ngài luôn hiện-hữu trong không-gian vô-biên và thời-gian vô-cùng. Về điểm này Thánh-giáo Đức Chí-Tôn dạy rằng :
    "Thầy đã nói với các con rằng : Khi chưa có chi trong càn-khôn thế-giới, thì khí hư-vô sanh ra có một Thầy, ngôi của Thầy là Thái-cực, Thầy phân Thái-cực ra Lưỡng-nghi, Lưỡng-nghi sanh Tứ-tượng, Tứ-tượng biến Bát-quái, Bát-quái biến-hóa vô-cùng mà tạo lập Càn-khôn thế-giới. (Thánh ngôn hiệp tuyển / quyển 2/ trang 61).
    Câu Thánh-ngôn này theo Ngài Tiếp-Pháp Trương văn Tràng đã giãi nghiõa như sau:
    "Theo bài Thánh-ngôn nầy mà suy, chúng ta hiểu như vầy: Thoạt kỳ thủy, Khí Hư-vô sanh có một Đức Chí-Tôn và Thái-cực. Kế đó Ngài ngự trên Ngôi Thái-Cực và điều-khiển Thái-Cực sanh ra Ââm Dương. Từ đó về sau Lưỡng-Nghi cứ biến hóa mà tạo thiên lập địa (Trich Giáo-lý Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ/Tiếp Pháp Trương-văn-Tràng).
    Thượng-Đế đã dạy rằng : chính Ngài đã tạo-lập nên vũ-trụ vạn-hữu, Ngài đã ban cho chúng-sanh sự sống và tấn-hóa, và Ngài còn cho biết rõ tuần-tự của sự tạo-dựng và sinh-hóa ấy như sau :
      "Khai thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên, Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn-thần mà biến ra càn-khôn thế-giới và cả nhơn loại. Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
      "Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
      "Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần Thánh Tiên Phật..
    . (TNHT/QI/trang 48).
    Không những Đức Chí-Tôn chỉ sinh-hoá ra loài người và Thần Thánh Tiên Phật, mà Ngài còn tạo ra sự sốâng cho chúng-sanh trong khắp càn-khôn vũ-trụ. Nên Ngài đã dạy thêm rằng:
      "... Thầy phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là : vật-chất, thảo-mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.
      "Các con đủ hiểu rằng :
      "Chi chi hửu sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy, Thầy là Cha của sự sống ...
      " Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp càn-khôn thế giới ... (Thánh-ngôn hiệp-tuyển/ Quyển 2/ Trang 62).
    Theo Thánh-ngôn trích-dẫn trên thì Ngài chính là Đâùng Tạo-Hóa đã ban cho chúng-sanh sự sống, sự sống này không chỉ có nơi hành-tinh chúng ta, mà sự sống còn có trên khắp vũ-trụ, đây là một điều mang tính-chất thiên-khải mới mẻ mà Đức Chí-Tôn đã hé mở cho loài người biết từ khi mới khai Đạo, điều mà khoa-học hiện-nay đã căn-cứ vào một vài dữ-kiện mới thăm dò được đã phỏng- đoán rằng có thể có sự sống ở ngoài hành-tinh chúng ta.
    Thượng-Đế còn cho biết thân-phận con người rất cao-trọng, vì con người có thể trở thành Phật, trở thành Thượng-Đế. Sự tương-quan giữa nhân-loại với Thần Thánh, Tiên, Phật và với Thượng-Đế, cũng đã được Ngài dạy rằng :
      "... Một chơn-thần Thầy mà sanh-hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn cả nhơn-loại, nên chi các con là Thầy, Thầy là các con (TNHT/QI/trng 30),
    Trong Thánh-kinh Cựu-ước có nói rằng Thượng-Đế sáng-tạo nên con người theo hình tượng của Ngài, nên có người đã suy ra là hình-ảnh của Thượng-Đế giống như con người; trong Cao-Đài giáo đã giải rõ thêm vấn-đề này trong kinh Thiên-đạo như sau :
    "Đại Từ-phụ từ-bi tạo-hóa,
    Tượng mãnh thân giống cả càn- khôn.
    Vẹn toàn đủ xác đủ hồn,
    Xoay cơ chuyển-thế bảo-tồn vạn-linh.
    (Kinh Tắm Thánh/ giòng 5-8).
    Chúng ta không có thể kết-luận một cách cẩu-thả rằng Thượng-Đế là một thể xác hửu sanh hửu diệt như con người, thậm-chí có tình-cảm tư-dục như con người, mà phải hiểu rằng con người là hiện-thân của bản-thể và quyền-năng của Thượng-Đế, bản-nguyên của đại vũ-trụ do Thượng-Đế tạo-dựng, thì con người cũng được Thượng-Đế tạo dựng theo cái khuôn-linh mẫu-mực đó, nên con người được gọi là tiểu vũ-trụ. Con người lại có đủ cả xác lẫn hồn và cũng đủ quyền-năng, xoay cơ chuyển thế, thay mặt Thượng-Đế để bảo-tồn vạn-linh trong phạm-vi nhỏ hơn; nên trong Đại-thừa Chơn-giáo có câu :
        " Người gọi là tiểu Thiên Địa đó,
        Người với Trời nào có khác chi.
        Hễ Trời có những món gì,
        Thì người đều cũng đủ y như Trời. (Đại-thừa chơn-giáo / trang 64).
    Con người giống với Thượng-Đế là giống ở điểm : con người ai cũng có linh-hồn có thần-minh, mà thần-minh đó là Trời, nên trong Đại-thừa chơn-giáo còn nói thêm :
    " Thật là diệu-diệu huyền-huyền.
    Trời người có một chẳng riêng khác gì.
    Trời là lý vô-vi tuyệt-duyệt,
    Aáy là Thần phản-chiếu Càn-khôn.
    Người kêu bổn-tánh linh-hồn,
    Đời đời kiếp kiếp trường-tồn không hư. (Đại-thừa chơn-giáo/ trang 65).
    Bởi thế trong đức-tin của Cao-Đài giáo cho rằng con người có linh-hồn, do Trời ban, nó đời-đời bất-tiêu bất-diệt, con người có thể tấn-hóa theo con đường Thượng-Đế đã vạch sẵn là Đạo, để trở thành Phật, ngoài ra như Ngài đã cho biết con người cũng có thể trở thành Thượng-Đế, đồng phẩm vị với Ngài; nên trong Thánh-giáo có câu :
      " Thầy đã nói đạo-đức cũng như một cái thang vô ngằn, bắt cho các con leo đến phẩm vị tối-cao, tối-trọng ngang bậc phẩm cùng Thầy, hay là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa. (Thánh-ngôn hiệp-tuyển/ Quyển I/ trang 70).
    Theo Thánh-kinh Cựu-ước mô tả rằng : Thượng-Đế rất nghiêm-khắc, tuy đã tạo-dựng nên vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh, nhưng khi nhận thấy con người không còn tuân theo lời dạy của Ngài thì Ngài đã buồn rầu phán rằng:
      " Ta sẽ hủy diệt khỏi mặt đất loài người mà ta đã dựng nên từ loài người cho đến súc vật, loài côn trùng, loài chim trời, vì ta tự trách đã dựng nên các loài đó. (Sáng thế ký 6 :7)
    Nên Thượng-Đế đã trừng-phạt loài người tội-ác bằng trận hồng-thủy, chỉ có mình gia-đình Nô-ê đã biết sống theo lẽ công-bình, nên được Thượng-Đế cứu vớt mà thôi :
      " Này là giòng dõi Nô-ê trong đời mình là một người công-bình trọn-vẹn, đồng đi cùng Đức Chúa Trời. (Sáng thế ký 6:9).
    Đây là cách giáo-hóa con người ở thời-đại bán khai, để họ biết sợ-hải sự trừng-phạt mà không làm điều tội-lỗi, chứ theo lẽ công-bình của Tạo-hóa thì tai họa cá-nhân hay cộng-đồng là do nghiệp-quả của mỗi người hay tập-thể tạo ra mà thôi.
    Theo đức-tin của Kitô giáo thì Thượng-Đế rất thương-yêu loài người, thậm-chí Ngài đã cho con là Ngôi Hai xuống thế-gian chịu chết để chuộc tội cho tổ- tông loài người (Theo Thánh kinh Tân-ước).
    Theo Thánh-ngôn Cao-Đài giáo, thì Thượng-Đế là Đấng có đầy hồng-oai (quyền-uy lớn), thưởng-phạt nghiêm-minh, nhưng cũng là Đấng đầy hồng-từ (từ-bi lớn), luôn thương yêu, ban phước, giảm tội cho chúng-sanh; theo đức-tin Cao-đài giáo tình-yêu của Thượng-Đế dành cho chúng-sanh trong đó có loài người thật là vô-lượng, vô-biên, Đức Chí-Tôn đã xác-nhận điều này như sau:
      " Thầy thường nói với các con rằng: Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu, Thầy mới tạo thành càn-khôn thế-giới và sinh-dưỡng các con" (TNHT/Q2/trang 63)
    Tình yêu này đã thể-hiện trong sự tôn-trọng mạng sống, nên Đức Chí-Tôn còn dạy thêm rằng :
      " Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.
      " Nếu ai giết chết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai...
      " Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy. (TNHT/Q2/ trang 62).
    Do đó giới-luật đầu tiên của Cao-Đài giáo là cấm sát sanh, chơn-truyền của Cao-Đài giáo còn dạy rằng Thượng-Đế là Ôâng Cha rất hiền-lành nên tôn-vinh Ngài là Đại Từ-Phụ, Ngài luôn luôn tha-thứ tội-lỗi cho loài người, chẳng bao giờ có ý muốn trừng-phạt. Thánh-giáo Chí-Tôn có câu :
      "Các con nghe : Thầy buộc phải nói rõ cho các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành-hạ con-cái bao giờ, Thầy đã đến dìu dắt từng đứa, thì lẽ nào lại đành lòng xô-đuổi (TNHT/QI/ trang 52).
    Đức Chí-Tôn đối với những người lầm-lỗi đã không trách-phạt mà còn tạo cơ-hội cho họ cải tà qui-chánh nên Ngài đã cho biết :
      " Từ khai thiên; Thầy đã sinh ra các con, sự yêu mến của một ông cha nhân-từ thế quá lẽ, làm cho đến nỗi con cái khinh-khi, phản nghịch lại, cũng như Kim-quang-sứ là A-tu-la, Thánh-giáo gọi là Lucifer phản nghịch... Thầy chẳng đã trách phạt Kim-quang-sứ lẽ nào lại trách-phạt các con. (TNHT/QI/ trang 100).
    Không phải Đức Chí-Tôn không có quyền-hành trừng-phạt, nhưng vì lòng bác-ái và vì máy thiên-cơ nên Ngài không muốn :
      " Máy thiên-cơ các con chưa rõ. Các con cứ tưởng lầm rằng Thầy không kèm chế kẻ vô-lương đặng. Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hình-phạt nhãn-tiền thì mới vừa lòng các con, nhưng Thánh-ý Thầy không phải vậy đâu... (TNHT/QI/ trang 97).
    Thượng-Đế có đủ quyền hành vô-lượng, có thể tiêu-diệt những kẻ tội-lỗi, nhưng vì phép công-bình thiêng-liêng mà thôi.
      "Cầm cả quyền-hành vô-lương nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu-diệt chúng nó đặng, nhưng mà phép công-bình thiêng-liêng chẳng phải nên vậy. (NTHT/QI/ trang 44).
    Đối với kẻ tội-lỗi Đức Chí-Tôn chỉ muốn cho họ cải-tà qui-chánh mới lập Đạo để cứu-vớt, vì đời không có tội-lỗi thì Thượng-Đế nhọc công lập Đạo làm gì, nên Thánh-giáo Chí-Tôn đã dạy rằng :
      " Thầy lại nói buổi lập Thánh Đạo. Thầy đến độ-rỗi kẻ có tội-lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu đến nhọc công Thầy (TNHT/QI/ trang 41).
    Qua các trích-dẫn trên chúng ta thấy tình-yêu của Thượng-Đế thật là vô- biên. với lòng thương-yêu vô tận, Ngài đã luôn-luôn săn-sóc cho thế-gian được an-lành, cho loài người được tiến-hoá đến ngang hàng với ngôi vị Trời Phật.

    Thượng-Đế là Đấng Chí-Tôn, là Thầy, là Đại Từ-phụ, nhưng bản-thể của Ngài lại quá ư huyền-diệu, vượt ra ngoài tầm tri-thức hửu-hạn của con người, nên con người không có thể dùng lý-trí để nghĩ bàn được, do đó mỗi chúng ta tuỳ theo căn-cơ và duyên-phận mà cảm-nhận được quyền-năng của Ngài dưới nhiều giác-độ khác nhau, và đón nhận ân-huệ và Ngài không hoàn-toàn giống nhau.
    Còn bản-nguyên của Đức Chí-Tôn, thì ngay các Đấng Thiêng-Liêng cùng các Bậc Giáo-chủ siêu-phàm cũng không có thể dùng ngôn-ngữ hửu hạn của con người để giải rõ được. Nên Đức Hộ-Pháp đã nói rằng:
      "Đức Chí-Tôn là Đấng tự-hửu hằng-hửu mà từ thuở đến giờ, bất kỳ một Đấng Thiêng-Liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Người đặng.
      "Theo lời Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn nói, thì chính Ngài cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng vô-đối của Người mà thôi. (Trích thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp đêm 15 tháng 3 Đinh-Hợi (1947).
    Tuy vậy Đức Hộ-Pháp cũng đã đề-cập đến bản-nguyên và quyền-năng của Thượng-Đế như sau:
      " Trước khi không có chi trong Càn-Khôn Thế-giới là vô-vi. Thoạt-nhiên, hai lằn không-khí chẳng biết gốc nơi đâu, kêu là "hư-vô chi khí" đụng nhau mới có chơn-linh của Thầy và Ngôi của Thầy là Thái-Cực. Trái lửa Thái-Cực là cơ của hửu-hình, vâng lịnh Thầy mà phân ra Lưỡng-Nghi, Tứ-Tượng và biến Bát-Quái…rồi sanh ra vàn-vàn muôn-muôn địa-cầu cùng khắp Càn-Khôn Thế- Giái…
      "Khi chia mình mà lập ra Càn-Khôn Thế-Giái rồi, thì khối lửa Thái-Cực của Thầy tiêu mất trở lại vô-vi…
      "Aáy là một cuộc hửu-hình, mà trọn cuộc hửu-hình này dường như vâng mạng-lịnh của một quyền-hành Thầy rất lớn, nhứt nhứt có trật-tự… không xâm-phạm lẫn nhau…(Trích diễn văn của Đức Hộ-Pháp đọc tại Tòa-Thánh Tây-ninh ngày 14 tháng 2 năm Mậu-Thìn (1928)
    Như vậy Cao-Đài giáo, đã tin rằng bản-nguyên của Thượng-Đế vốn tự hữu, hằng hữu, nghĩa là từ chỗ không mà tự mình có, luôn luôn hiện diện trong không-gian vô-biên và thời gian vô-cùng, từ những tinh-cầu to lớn trong không trung, cho đến những hạt tiềm nguyên-tử ly-ty trong cơ-cấu vật-chất, đều có điểm linh-quang của Ngài. Nên xưng tụng Ngài là Đấng Huyền-Khung Cao Thượng-đế Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn.
    Muốn tìm hiểu nguồn-gốc loài người, trước tiên chúng ta cần biết rõ bản- thể và quyền-năng của Thượng-Đế.
    Theo thuyết-đạo của Đức Hộ-Pháp thì trước khi muốn biết loài người do đâu mà đến, thì ta nên tìm hiểu trước Tạo-Đoan là Cha cả vạn vật đã ... Đức Ngài đã cho biết về Đức Chí-Tôn như sau :
      "... Chúng ta đã nhìn trong kinh-điển hồi trước để lại, thấy cả cơ-quan hữu-vi nhãn-tiền nầy, làm cho ta biết và nhìn Đấng Tạo-Đoan ấy là Đại Từ-Phụ. Chẳng luận giống dân nào và các nhà triết-lý của các tôn-giáo cũng vậy, đều nhìn Đấng Tạo-Đoan Càn-khôn thế-giới sanh-hóa vạn-vật và loài người là Đấng Cha của chúng-sanh... Đấng ấy đã có đến ở cùng loài người, cũng chịu bao-nhiêu thống-khổ, đau-đơn, biết luân-luân, chuyển-chuyển từ phẩm người đến Thần, Thánh, Tiên, Phật. Đấng ấy nắm cả quyền-năng vô-đối, huyền-vi mầu-nhiệm trong tay, tạo nên càn-khôn thế-giới, định phép công-bình, lành có lành trả, ác có ác trả hiển-nhiên, nên loài người tôn-sùng Đấng ấy là Đức Thượng-Đế, cầm quyền thống-ngự vạn-linh, ấy Hoàng-Đế tối-cao của vũ-trụ này."Các tôn-giáo nói có Đức Thượng-Đế là Đấng không nhìn thấy được, vì không hình, không ảnh, nhưng không một việc nào mà Ngài không biết. Trong Đạo-giáo có câu : "Thiên-võng khôi khôi, sơ nhi bất thất". Nghĩa là Trời cao lộng lộng mà mảy hào nào cũng không qua khỏi tay Ngài và lưới thiêng-liêng của Ngài, nên xưng Ngài là Thiên-Tôn, cầm quyền vạn-linh, mực-thước như một Ông quan tòa trị thế.
      "Đấng tạo ra vạn-vật càn-khôn vũ-trụ, sanh ra nuôi-nấng, tạo ra bảo-bọc, hằng để trong mỗi thi-hài một tâm-linh, mới được khôn-ngoan hiểu biết rằng : Có người mới có ta, nên ta nhìn Đấng cho ta cái tâm-linh, là Cha của ta. Ngoài Đấng ấy thì không ai nữa làm chúa-tể của vạn-linh đặng, tôn-sùng như thế là thấy Đấng Cha cao-thượng hơn ông cha phàm, vì thế mới xưng tụng Ngài là Đại Từ-Phụ."...
      " Đại Từ-Phụ là Cha cả vạn-linh, chúng ta là con cái của Ngài, không phải chỉ hưởng phần hữu-hình tại thế mà thôi, Ngài lại dành một phần quý-trọng hơn là nhứt điểm linh-quang, nhờ đó mà từ vật-chất tiến đến thú-cầm, nhơn-loại, mới tiến đến Phật-vị, mà ngang phẩm cùng Ngài, Đức Từ-phụ là Phật, Ngài muốn cho con cái của Ngài cũng thành Phật, đặng đạt quyền-năng bí-mật như Ngài, rồi lập càn-khôn thế-giới khác. Luật thiên-nhiên một ông cha lập nghiệp, thì con theo nghiệp cha mà tạo ta nghiệp khác nữa... (Trích thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp ngày 29 tháng 04 Đinh Hợi 1947 tại Đền Thánh).
    Như vậy Thượng-Đế là Đấng rất linh-hiển và đầy quyền phép, nên còn gọi là Đấng Chí-linh. Ngài luôn hiện-hữu trong ta, ngay trong những giờ phút vinh-quang, cũng như đau khổ nhất của cuộc đời. Ngài chăm nom soi-dẫn chúng ta suốt cuộc hành-trình tại thế-gian cũng như bên kia cõi tử, rồi chung quy Ngài sẽ dìu-dắt chúng ta trở về hội-hiệp cùng Ngài.
    Trong kinh Ngọc-Hoàng Thượng-Đế đã nói về Đức Chí-Tôn như sau :
    " Vũ trụ như là một tấm lưới lớn, các tầng Trời, các tinh-cầu, các Đấng Thiêng Liêng và vạn-linh sanh-chúng, cả hữu sắc và vô sắc đang vận-hành trong không-gian như hằng-hà-sa-số mắt lưới của một tấm lưới bao la, mà cái giềng mối giữ vững tấm lưới ấy là Đấng Thái-Cực Thánh-Hoàng, Ngài cầm cả quyền-năng sinh-hoá, dưỡng-dục quần-linh và thống-ngự vạn-vật (Đại la Thiên-Đế Thái-Cực Thánh-Hoàng, hoá dục quần sanh, thống-ngự vạn-vật.../Kinh Thiên-Đạo).
    "... Ngài vốn như thiệt, như hư, im-lìm không nói năng mà tỏ bày được đức hoá-sanh rộng lớn (nhược thiệt, nhược hư, bất-ngôn nhi mặc tuyên đại hoá /Kinh Thiên-Đạo).
    "... Vừa là hư-không, vừa có sắc-tướng, không làm bất-cứ một việc gì rõ-ràng mà sai-sử được các Đấng Thiêng-liêng cũng như sanh chúng (thị không, thị sắc, vô-vi nhi dịch sử quần linh/Kinh Thiên-đạo).
    Qua các kinh-điển trích-dẫn nêu trên, kết-hợp với sự chiêm-nghiệm trong thực-tại, Cao-Đài giáo tin rằng cái thiên-lực vận-hoá để sinh-thành vũ-trụ, không phải là một sự ngẫu-nhiên, mà từ vô-thỉ, mỗi hiện-tượng đã xảy ra trong thiên-thể đều tuân theo một quy-luật, trật-tự, gọi là trật-tự vũ-trụ; những quy-luật này đã nói lên sự hiện-hữu cái nguồn sống của đất trời, mà từ nguồn sống này đến sự sống con người là mạch sống nối liền. Chúng ta có thể ví-dụ một cách cụ-thể rằng Nguồn sống của Thượng-Đế là ngọn đuốc còn sự sống của chúng-sanh là một tia lửa, cả hai đồng phẩm chứ không đồng lượng.
    Ngài luôn ngự trong tâm-linh mỗi người, nên Ông Thiệu-Khương-Tiết một bậc Hiền-triết của Trung-Hoa đã nói rằng: 
      " Nhơn-tâm sanh nhứt niệm, thiên địa tất giai tri" (Trong lòng con người phát-sinh ra một ý-nghĩ gì thì Trời Đất ắt đều biết / Minh-tâm Bửu giám / Thiên-lý) .
    Ngày nay Thánh-giáo của Đức Chí-Tôn cũng xác nhận rằng : " Trong lòng Thầy ngự, động Thầy hay". (TNHT/QI/ trang 115).
    Đức Chí-Tôn là Thầy, là Đấng Cha lành đã thương xót chúng ta, nên Ngài đã hứa luôn luôn chấp-nhận những lời cầu xin chân-thành của chúng ta.
      " Muốn đến với Thầy thì phải cầu-nguyện. Thầy không bao-giờ không cảm-ứng với những lời cầu-nguyện chân-thành... Các Con chỉ cần cầu-nguyện Thầy với danh-hiệu Cao-đài thì sẽ có cảm-ứng chấp-thuận.. (TNHT/QI/ trang 124).
    Điều nầy chính người xưa cũng đã nhận ra được, nên mới có câu :
    " Người xin làm điều lành Trời ắc chiều theo". (Nhơn hữu thiện nguyện Thiên tắc tùng chi /Minh-Tâm Bửu-giám)
    Ngày nay Đức Hộ-Pháp cũng nói rằng : 
      "Chúng ta hãy cầu-nguyện để trọn tâm-đức chắc-chắn nơi Chí-tôn thì Chí-Tôn chẳng hề khi nào hẹp lượng... (Thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp tại Đền Thánh đêm 24 tháng chạp Đinh Hợi/1948).
    Cho nên trong cuộc sống nếu chúng ta giữ thân-tâm thanh-tịnh, thì có thể giao-cảm và thông-công với Ngài, cầu-nguyện cũng như cảm-tạ ơn Ngài, bất kỳ ở đâu và giờ phút nào.
    Vào thởi Thượng-cổ nhân-loại còn sống từng bộ-lạc riêng rẻ, tâm-tính còn thuần-phát thiên-lương, nhưng trình-độ văn-minh thì còn tình-trạng bán khai lạc-hậu. Nên Đức Chí-Tôn tùy từng địa-phương mà giáng-trần mang hình-thể khác nhau. Ở Trung-Đông Đức Chí-Tôn lấy hình-thể Jéhovah, ở Âùn-độ lấy hình-thể Brahma, ở Trung-hoa lấy hình-thể của Hồng-Quân Lão-tổ cốt để khai-hóa dân-trí. Chúng-sanh mỗi địa-phương nhìn và vâng-phục Thượng-Đế qua hình-ảnh của người đồng chủng với mình. Ngay khi họ đắc Đạo thoát xác về cỏi Thiêng-Liêng Hằng Sống, do quyền phép của Thượng-Đế, khiến họ cũng nhìn thấy Thượng Đế qua hình-ảnh như vậy, như Dân Do-Thái thì thấy Ngài là Jéhovah, người Aán-Độ thì nhìn Ngài là Bahma, người Tàu nhìn Ngài bằng hình ảnh của Hồng-Quân Lão-Tổ (Theo Lời thuyết đạo của Đức Hộ-Pháp về Con Đường Thiêng-Liêng Hằng sống).
    Vào thời trung-cổ con người đã xa rời thánh-đức, chơn-truyền của các Tôn-giáo đã bị làm sai lạc, nên Thượng-Đế đã cho các vì Giáo-chủ giáng-trần mở Đạo, tuỳ theo trình-độ của mỗi mơi mà tuỳ thời để lập giáo, ở Trung-đông có Đức Jésus Christ, ở Aán-độ có Đức Thích-Ca, ở Trung-hoa có Đức Lão-Tử, Khổng-Tử, thời-kỳ này nhân-loại còn sống riêng-rẻ, chỉ biết nội tư-phương của mình mà thôi, nên các vì Giáo-chủ đã tuỳ theo trình-độ dân-trí, và sự sai-lầm phổ-biến trong địa-phương đó mà thuyết giáo. Thời kỳ này gọi là Nhị-kỳ Phổ-độ.
    Ngày nay, nhân-loại đã tiếp-cận với nhau, sự liên-lạc trên toàn thế-giới dêõ-dàng, xem như sự liên-lạc với nhau trong một làng mạc nhỏ bé, còn vũ-trụ tuy bao-la, nhưng nhân-loại cũng đã biết được nhiều thiên-thể ở ngoài trái đất, hơn nữa trình độ loài người đã tiến hoá cao, nhiều giáo-lý không còn phù-hợp, hoặc đã sai-lạc chân-truyền, và các giáo-điều của nhiều tôn-giáo lại trái ngược lẫn nhau, lại nữa bản-chất của nhân-loại cũng vẫn còn kỳ-thị chủng-tộc, phân-biệt giai-cấp, chia-rẻ tôn-giáo… nên đã gây nên sự đối-nghịch trầm-trọng giữa các tôn-giáo với tôn-giáo, các dân-tộc với các dân-tộc.
    Trong Tam-kỳ Phổ-Độ ngày nay, Đức Thượng-Đế không giáng-trần mang hình thể con người nữa, mà Ngài đã đích-thân giáng-linh dùng huyền-diệu cơ-bút để lập Đạo, quy tụ lương-sanh trên khắp thế-giới làm thành Hội-Thánh, cùng chúng-sanh các sắc dân làm Thánh-thể của Ngài để thay mặt Ngài tại thế-gian, Hội-Thánh là đầu não, chúng sanh là tay chân máu thịt, để sự truyền-giáo không bị ngăn ngại, vì bất-kỳ hình-ảnh môït con người của một sắc dân nào đó, cũng không thể nào tượng-trưng đầy đủ cho hình-thể của Thượng-Đế, để cho mọi sắc dân tín-ngưỡng vâng-phục, viø Thánh-Thể của Thượng-Đế là toàn cả vũ-trụ và vạn-hửu chúng-sanh.
    Có lẽ cũng vì thế mà trong Tam-Kỳ Phổ-Độ ngày nay, Đức Chí-Tôn đã dạy dùng biểu-tượng Thiên-Nhãn (Con Mắt) để tượng trưng cho Ngài. Việc thờ Thiên-Nhãn được coi là huyền-bí, tuy vậy Đức Chí Tôn cũng giải sơ-lược về Thiên-Nhãn như sau:
      "… Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh-Tượng "Con Mắt" mà thờ Thầy, song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
        Nhãn thị chủ tâm.
        Lưỡng quang Chủ tể.
        Quang thị Thần.
        Thần thị Thiên.
        Thiên giả, Ngã giả.
        (TNHT / Q1/ trang 11)
    Chúng ta còn thấy rằng, ngoài những ý-nghĩa nêu trên, nó còn mang tính-chất tránh cho nhân-loại sự kỳ-thị chủng tộc, màu da sắc tóc, nếu chọn một con người thuộc một sắc dân nào đó, để tượng-trưng hình-ảnh của Thương-Đế, thì không đủ sức thuyết-phục toàn-thể nhân-loại.
    Cũng do đó, nên trong Tam-kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn cũng không giao chánh-giáo cho một vị Giáo-chủ hay Tiên-tri tại phàm-trần, mà Ngài giáng linh dùng cơ-bút để khai Đạo, tức là Ngài trực-tiếp giáo-hoá và độ-rổi toàn thể nhân-loại, không qua trung-gian một người như trước đây.
    Khai Đạo kỳ thứ ba này Thượng-Đế không sáng-lập một tôn-giáo mới có một giáo-lý khác lạ, mà mục-đích khai Đạo lần này là qui Tam-giáo, hiệp Ngũ-chi, đem các mối Đạo hữu-hình trở về cội nguồn. Điều nầy Đức Chí-Tôn đã dạy rằng:
      " Vốn từ trước Thầy lập ra Ngũ-chi Đại-Đạo là Nhơn-Đạo, Thần-Đạo, Thánh-Đạo, Tiên-Đạo, Phật-Đạo. Tùy theo phong-hóa của nhân-loại mà gầy chánh-giáo, vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn-loại duy có hành-đạo nội tư-phương mình mà thôi.Còn ngày nay nhơn-loại đã hiệp-đồøng, Càn Khôn dĩ tận thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhân-loại nghịch lẫn nhau ; nên Thầy mới nhứt định quy-nguyên phục-nhứt . Lại nữa trước Thầy giao chánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh-giáo mà làm ra phàm giáo. Thầy lấy làm đau đớn, hằng thấy gần trót mười ngàn năm, nhân-loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt-kiếp chốn A-tỳ.Thầy nhứt-định đến chính mình Thầy độ rỗi các con, chẳng chịu giao Chánh-giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh-thể, có lớn nhỏ đặng để thế cho các con dìu-dắc lẫn nhau, anh trước em sau mà đến nơi Bồng-Đảo. (Thánh-ngôn Hiệp tuyển Quyển I trang 16).
    Trên đây là khái-nệm về chương-trình độ-rỗi của Thượng-đế dùng để cứu vớt nhân-loại qua các thời-kỳ, từ khi có loài người cho đến nay. Nên đức-tin Cao-Đài giáo tôn-thờ Đức Thượng-đế là phẩm Chí-Tôn, chủ-tể vạn-vật, là Cha chung của muôn loài.

    TAM NHỰT DU TIÊN

    TÔI BẠCH DIỆU HOA ĐƯỢC THĂNG THIÊN CUNG
    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
    Hôm nay là đúng vào ngày Rằm tháng Tư âl, phụng hành giáo điển chẳng dám đơn sai. Đúng 11 giờ trưa tôi vào tắm gội với nước hương thơm, y phục nghiêm trang thì đồng hồ chỉ 11 giờ 30 phút. Tôi vào chánh điện phần hương, nguyện Phật rồi 3 lạy kính lễ, xong bèn nghiêm thân bước vào vị trí là nơi sẵn dành cho thể xác được nghỉ an qua mấy ngày thần thức ra đi.
    Lúc tôi vừa nằm yên bỗng đâu cảm thấy đau thắt ngang lưng, rồi lần lượt đau khắp hết dài xuống cuối lưng, đau mỏi xuống tới cả hai đùi chân thiệt là trăm bề khó chịu, cảm như thân thể rã rời cả vậy, bỗng lại tiếp tục cảm giác như khắp thân người đều bị tê cứng hết, xem như chẳng còn cử động được nữa, nhưng tâm trí tôi vẫn còn tỉnh táo y như bình thường, vẫn nghe các vị hộ xác nói chuyện thì thầm nho nhỏ. Đương lúc bây giờ trí tôi còn suy nghĩ rằng, theo bản pháp lịnh thì Đức QUAN ÂMdạy rất rõ là mình không chết, mà tại sao bây giờ nghe đau mỏi toàn thân, có thể vì ngài phương tiện để mình an tâm, còn ngay nơi đây có thể là lúc bỏ thân chăng? Cũng như nhớ lại trong kinh Niết Bàn lúc Phật nhập diệt, Phật có nói với Ngài A NAN rằng ta đau lưng lắm. Nhưng thôi tôi cứ an tâm số phận nầy cứ phó thác cho Phật định. Vừa đang suy nghĩ bỗng chợt nghe có những tiếng động như có một đoàn người tới ghé thẳng vào ĐẠO TRÀNG, nhưng bây giờ thì còn dừng tại trước cầu thang, tôi lại nói thầm tại sao các người hộ xác ở đây mà chẳng chịu đón khách mời vào đi cửa sau, cứ ngồi im bặt coi như vô sự vậy kìa! Kế đó đoàn người cứ tự nhiên bước vào mà chẳng nghe tiếng mở cửa, tôi thấy nguyên đoàn người vào đứng ngay chánh điện xá lễ bàn thờ Phật! Lúc đó chắc chắn tôi đã mê rồi nhưng sở vì tôi chưa biết thôi. Kế đó tôi thấy tôi gượng thân ngồi dậy tiếp xúc mấy người khách rất vẻ tự nhiên và chẳng nghe thân mình còn đau mỏi nữa, trong số khách thấy tất cả là 6 người, một lớn hơn côi như là Thầy của 5 người kia vậy, người tướng hơi cao lớn dong dảy mà tốt đẹp lắm chưa quyết đoán ra được là nam hay nữ, thì kế liền nhận được ra là nữ, vì thân đắp y trắng, gương mặt giống người Tàu, đội mũ lúp trắng tay cầm một bông sen tươi mà lớn quá, tôi vừa nhìn người Ngài vừa nhìn bông sen, chưa kịp nghĩ gì thì lại quay nhìn 5 người kia, thấy 5 người nầy mang áo giáp nhiều màu coi như người Tàu, trong vai đóng làm chánh tướng v.v… Bốn người nam và một người nữ, người nào cũng vẽ oai nghi hùng tráng, y như tuồng hát Tàu mà các vị đây là trong những vai võ sĩ đại tướng đang lúc xuất trận vậy! Tôi xem lạ mắt cứ nhìn hoài và nghĩ thầm ở đây là chùa mà! Sao tướng soái thiệt hay là kép đóng vai mà tới đây làm gì kìa! Bỗng người lớn kia làm dấu khoát tay lúc đó tôi liền nhớ lại biết đây là Đức QUAN ÂM, còn 5 người kia đứng lại một bên tôi không để ý nữa và cũng chẳng thấy các người hộ xác đâu. Trong khi Ngài bước tới nắm tay tôi coi như thân mật lắm, rồi để bông sen xuống lạ sao mà hồi nãy thì bông sen còn búp, chỉ mới tíc tắc thì bông lại nở ra quá to lớn. Nhìn sự biến hiện nhanh làm như ảo thuật, còn cọng sen lại to lớn y như cây cột bằng sắt hay là bằng gỗ màu xanh, cọng sen tươi và đẹp phi thường, to như là vòng hai tay ôm chẳng giáp. Nhìn lại thì xung quanh đây cũng chẳng có người nào cả, ngay lúc bây giờ tôi đã nhớ biết là Đức QUAN ÂM đang dẫn tôi đi.
    Ngài bèn chỉ tay bảo tôi bước lên đài sen, tôi vừa bước lên thì nhanh thay bông sen tự nhiên ốp kín lại mà tưởng chừng như lớn bằng nguyên một căn nhà lầu rộng rãi thên thang và cửa kiến đục, mà nhiều màu chiếu ra hồng trắng tím lợt đỏ lợt mà đẹp vô cùng cực mỗi màu gì thì hào quang chiếu sắc đó chớp nháy long lanh, mà khi xếp lại cũng nhanh như cửa tự động.
    Lúc bây giờ tôi đang ngắm tòa nhà hoa rất hy hữu màu đẹp và mùi thơm nồng nhẹ phưởng phất, vừa đẹp lạ vừa thơm bưng hơn tất cả mùi thơm gì ở cõi trần gian, dưới chân tôi đứng đi đó là phần nhụy sen trải phủ qua tòa gương, nhụy sen màu vàng rực rỡ tươi, mùi thơm bay nhẹ mũi phần nhụy sen ngay dưới chân tôi xem rất tinh vi và mầu đẹp báu lạ phi thường, trở thành như một thứ nệm thảm gì, chân tôi đứng trên đó vừa mát vừa êm thơm lên mùi khỏe khoắn hy hữu không thể nghĩ bàn.
    Còn xung quanh vách thì chẳng biết ánh sáng bên ngoài như thế nào, mà chiếu vào bên trong nhìn thấy như hào quang khắp hết, lóng lánh chớp lanh như hột xoàn, chiếu ra đủ màu trắng, tím, đỏ, xanh pha lẫn hồng vàng, mùi thơm càng lúc càng làm cho người tôi cảm giác thêm khỏe nhàn tịch tỉnh, đang đứng đi trong đó mà cảm nghĩ mình đã là một vị Phật vậy, sánh chỗ thế gian chưa bao giờ ai có được diễm phúc hay lạ và thảnh thơi tự tại như thế nầy cả! Thật rõ ràng là chơn như giải thoát!
    Nhưng dầu thấy vậy song tôi vẫn biết thân tôi còn ở thế gian, chỉ vì ngày nay được Đức QUAN ÂM đưa đi dự hội.

    Tôi mãi còn suy tư sợ mau tới chổ rồi phải bước ra, hoặc khi về trần thì diễm phúc đây đâu có nữa. Diễn tả thì dài dòng mà thực chơn thì mau như nháy mắt, chỉ một sát na thì bông sen lại hạ xuống, suy tư chưa thấy đủ, ý tôi chưa muốn bước ra ngoài, thì tự nhiên tòa liên hoa, tức ngôi nhà lầu vĩ đại kia cửa tự động đều mở tung ra nhanh chưa bằng nháy mắt, ngôi nhà thiện mỹ kia chẳng còn mà chỉ là còn tôi đang đứng trên tòa sen, ánh sáng chiếu ra thấy khung cảnh bên ngoài toàn là những gì xem thôi lạ mắt xưa nay chưa từng thấy, hay lạ thay! Thứ gì cũng đẹp, thứ gì cũng to lớn, từ kiển vật bông hoa những hàng cây báu, thứ gì cũng chớp nhoáng chiếu hào quang, có những luồng gió thơm như từ mùi hương vị của các thứ bông hoa hai bên đường. Vừa mau thay tôi mãi ngơ ngác nhìn thì liền đó Đức QUAN ÂM một tòa liên hoa bên cạnh tôi hiện ra coi như Ngài cũng vừa đáp xuống một lượt với tôi vậy.
    Bỗng nhiên tôi thoạt thấy trong tay phải tôi đang cầm cây phất trắng, vừa nhìn Đức QUAN ÂM thì Ngài cũng cầm cây phất y như tôi. Lúc bây giờ tôi nhìn lại thân tôi sao mà kinh hồn quá lẽ, thân vừa cao vòi vọi, vừa lớn quá chừng thôi, mà toàn thân cứ hiện đầu chồng chất cao lên, rồi biết bao nhiêu đầu, mỗi đầu đều có thân vai và tay nhiều không đếm hết, cứ số đầu mặt hiện chồng chập lên thì tay hiện ra theo, mỗi tay đều có cầm món bửu pháp khác nhau, cứ mỗi tay và bửu pháp trên tay và đầu mặt đều chiếu tỏa hào quang rất nhiều màu sắc, từ năm màu, bảy màu, chín màu, tới vô số màu, làm tôi không dám cử động nhúc nhích, vì hễ máy máy một tí thì ánh hào quang chớp theo, nên ráng đứng lặng yên y như pho tượng gỗ. Đưc QUAN ÂM dạy rằng PHÁP SƯ đừng lo sợ, đây là thân tướng thành đạo từ vô thỉ của PHÁP SƯ nay xuất khỏi thân phàm thăng tới Thiên Cung thì thật tướng vẫn phải hiện ra, để khi vào đàn hội mới có đủ đạo lực hầu khi cần vào sở học có ĐứcNGỌC HOÀNG và đủ mặt Cửu Phẩm Thần Tiên thì chẳng phải thân tướng như cõi phàm trần mà được đến cùng chung với các hàng đại Phật Thánh được rõ nghe! Từ đây tôi rất an tâm.

    Từ đây tôi mới dám cử động và nhìn ngắm hai bên đường, thì thôi đủ thứ kiển vật bông hoa, nào là những pho tượng đắp bằng thứ gì mà y như bằng pha lê, nào là tượng các vị Thánh Tiên đại danh thì để theo các sân cảnh nguy nga lộng lẫy, Đức QUAN ÂM dạy rằng các pho tượng đây là những các bực đại Thánh Tiên vào đời dị cổ ở trên các cõi trời, nay nơi đây toàn là những cổ tích. Còn dài theo đường vào cổng thì kiển vật bông hoa, và những pho tượng kỳ lân, trên lưng có tòa ngồi, tượng voi, tượng sư tử, tượng cọp, tượng hạc, tượng chim loan, tóm tắt là đủ thư pho tượng dài theo hoa kiển và dưới gốc cây đều có tòa ngồi trên lưng v.v… Nhưng lạ là mỗi thứ các pho tượng ấy đều có cử động, hoặc nháy mắt hoặc nhúc nhích hai tai, hả miệng hoặc nhúc nhích thân mình hoặc cúi đầu hoặc liếc mắt đủ mọi cách. Còn trong sân cảnh hoặc dưới đường thì không phải là đất hoặc đá hay tráng nhựa, mà xem như toàn bằng nhung, gấm xem như bông dệt nổi lên khác hơn nền nhung, bông nhiều kiểu đẹp lạ thế gian không lấy gì sánh được, qua các màu như nền nhung thì màu đỏ rất tươi không phải đỏ chói mắt, màu bông nổi trong đó thì hồng lợt, màu trắng, xanh như lá cấy sậm lợt, nước biển sậm lợt, màu cẩm thạch sậm lợt, màu hồng sậm lợt, màu vàng sậm lợt, tươi tốt nổi lên tùy theo bông hoa cành lá, màu nào cũng tươi nhẹ. Còn nền nhung đỏ thì có thứ chiếu lên như kim tuyến mà chiếu lớn sáng chớp đẹp hy hữu.


     Đài sen bay rất nhanh, chỉ một sát na đã nhìn thấy cổng Tam Quan, tức là cổng chánh môn vào đền Bạch Ngọc. Cửa cổng nầy trông qua vô cùng vĩ đại và mầu đẹp báu lạ vô biên, bề cao ngước mặt tới hết cổ mà chưa thấy hết bề cao, coi như cao chọc trời và bề rộng cũng chẳng biết tới bao nhiêu nhưng chỉ kể là lớn lắm, lúc liên hoa dừng tại đó thì tôi cũng chỉ ngơ ngác chẳng biết phải làm gì, Ngài bèn dạy tôi cầm phất đưa lên cao đi! Tôi y theo lời cầm phất đưa cao lên thì tự nhiên người tôi cứ cao thêm, và lớn thêm ra gấp trăm lần hơn trước, tôi bèn thấy được nguyên thân hình dáng cửa ngõ Tam Quan, ôi thôi xinh đẹp làm sao vô biên tuyệt hảo. Hai bên cửa chánh là hai cây cột vĩ đại giống chất ngọc pha lê chiếu chớp trùng trùng hào quang muôn sắc, hai cột lớn nơi cổng nầy có hai con rồng thiệt, quấn theo 2 cây cột tôi chắc không phải là rồng chạm khắc vô, vì là rồng vẫn có cựa quậy uốn mình cử động vảy, và có nháy mắt thấy rất đẹp xinh nhưng mà ghê tởm lắm, vì tướng đẹp mà trông hung dữ quá! Miệng ngậm hột hỏa châu (màu đỏ) thân rồng màu vàng, bìa vảy viền màu đỏ xanh, hào quang chiếu ra thêm nhiều màu sắc đó, chỉ trong sát na tôi nhìn lên tới tấm biển trên giữa cổng chỉ lửng lơ trên không, không cấu kết vào đâu hay máng trên cái gì, mà vẫn đứng lơ lửng tại chỗ không gian, dùng sức chiếu diệu của ánh hào quang mà làm nơi an trụ biển.



    Trong nền biển màu đỏ có 4 chữ lớn vĩ đại, chữ đọc theo hàng ngang từ trái sang phải, nhưng tôi chưa đọc được là chữ gì, thì ngay lúc đó Đức QUAN ÂM ra dấu bảo tôi kiết ấn theo tay Ngài, đó là ấn thập thông ngữ ngôn đà la ni, và niệm chơn ngôn hiệp chưởng thì sẽ đọc được là chữ gì, tôi bèn lập tức kiết ấn thì tôi liền đọc được 4 chữ đó là BẠCH NGỌC THIÊN CUNG, chữ màu vang y như chơn kim. Nhanh thay thì nghe vang động lên những tiếng nhạc trổi từ trên không trổi lên như trăm ngàn thứ tiếng ăn rập nhịp nhàng, nào tiếng đờn, trống kèn, loa diệu hòa thanh nhã. Kế đó là hằng trăm hằng ngàn thứ bông từ trên rải bay xuống ngập trời coi như trời đang sắp mưa, nhưng lạ thay, nhạc trổi vang rền rung chuyển mà không thấy người hành nhạc, hoa rải ngập trời cũng chẳng thấy ai là người đem rải hoa kia, thế là chỉ thấy hoa bông nhiều thứ, màu sắc đẹp tươi nhưng là hoa mà không cành cứ bay bay rơi xuống, tới dưới đệm thảm nhung thì chẳng thấy cánh hoa đâu! Thế là không người hành nhạc mà nhạc tiếng vang vang, chẳng ai rải hoa mà hoa bay như mưa đổ, rồi lại ngưng bặt. Đức QUAN ÂM ra dấu bảo tôi bay vào cổng, mà rất hay thay hễ ý mình muốn đi thì đài sen tự nhiên đi theo ý mình, muốn mau thì nó cũng bay mau, nếu muốn chậm đều tùy ý. Khi tôi và ĐứcQUAN ÂM cứ bay theo đường thẳng bon bon, tuy thấp là là khỏi đất chừng khoảng độ vài thước để nhìn thoáng hai bên đường thì mỗi bên có 1 hàng cây đẹp lắm, cây chi mà rất báu lạ giống như cây dừa tây mà không phải, màu trắng ngả về xanh vàng rất lợt y như đọt dừa non mới trổ, thân cây cũng chặt bẹ y như loại dừa kiển, nhưng khác hơn, bẹ nầy từ dưới lên trên tuy chặt mà bẹ non tươi trắng, mỗi nách bẹ có một vầng hào quang chiếu ra y như có cái bóng đèn điện, nhưng chiếu ra tia sáng đủ màu sắc và chói rất xa. Hút tuốt lên trên thì lại có một chùm lá xanh rất đẹp, khi gió thổi nhẹ tới lá khua thì kêu lên như là tiếng đờn tranh.
    Còn dưới thấp thì đủ thứ kiển đủ thứ bông hoa thứ nào cũng đẹp, cũng có những pho tượng giống như các người lính hầu, đứng xen kẽ theo hoa kiển, khi thì hình thú hình chim đủ thứ, và xa ra hai bên thì các hàng cây và vườn tiên, nơi đó có đủ thứ đẹp trang nghiêm, thế gian nầy làm gì có. Nói thì lâu dài dòng, mà hiện tại thì mau như từng sát na vậy. Khi sắp tới ngã tư đường thì đã lố dạng một ngôi điện đền kiến trúc kiểu chi mà tuyệt hay cổ dị và cao lớn phi thường, từ xa thì tưởng như là núi mà cao gần chọc trời, tới gần mới thấy là một ngôi đền đài thôi đồ sộ vô biên không thể tả, đây chính là ngôi ĐỀN BẠCH NGỌC KINH, là chổ Đức NGỌC HOÀNG ngự, tuy cũng chẳng được tới gần thì đã gặp đường ngã tư xẻ ngang. Đức QUAN ÂM ra dấu cho tôi quẹo trái, bay sang qua một khu vườn rồi tới một cửa ngõ khác, dừng lại đây thì tiếng âm thiều nhả nhạc lại trổi lên y như trước, sánh còn nhiều hơn, cũng chẳng thấy người hành nhạc, bông hoa từ trên vẫn bay xuống tấp nập ngoài vườn thì đủ thứ chim bay rần rần kêu leo cheo lét chét. Đài sen dừng tại đây thì trên cổng cũng có tấm Biển lớn đề 5 chữ, tôi kiết ấn đọc là ĐẠI HỘI HẬU DIÊN HỒNG, bèn nghe luôn tiếng lũ chim hót đó là chúng nói rằng chào Thầy mới tới! Chào QUAN ÂM mới tới! Mạnh giỏi mạnh giỏi hả! Tôi buồn cười nói với nó rằng cám ơn! Cám ơn! Mạnh giỏi mạnh giỏi lắm! Cám ơn! Thì lũ chim rần lên bay hết. Lúc đó tiếng trống đại cổ dóng lên một hồi, kế tiếng Đại Hồng Chung tiếp theo dóng 3 tiếng rồi qua một hồi trống bát nhã liên thinh đủ thứ âm rồi bặt dứt. Khi đó cánh cửa vĩ đại nơi cổng tự động xếp, mở hết ra, tôi và Đức QUAN ÂM cầm phất lịnh đưa lên cao rồi bay thẳng vào. Tuy kể lại thì phải chậm mà hiện hữu thì quá mau, khi bay vào tới nơi thì đài sen dưới chân tự biến mất, tôi vàQUAN ÂM cầm phất tuần tự bước vào, tôi liền quán sát nơi đây thì tất cả người vào cuộc hội nầy ai cũng áo mão chỉnh tề trang nghiêm y như hàng các quan mà vào đền chầu vua vậy. Ngồi thì bên dưới không phải ghế mà là tòa bông hồng. Mỗi tòa bông hồng không phải nhỏ như mình tưởng, mỗi tòa bông lớn bằng cái bồ lúa chứa khoảng 100 giạ lớn, bề cao cỡ chừng ba thước 6 hoặc lối đó, thân cọng của nó đẹp lắm! Coi giống như bằng nhựa ny lông, màu xanh pha lẫn trắng hồng vàng, còn tai bông trên thì năm tai có 5 màu, hồng trắng đỏ vàng và tím lợt như hoa cà, màu nào cũng sáng đẹp hy hữu, coi như bông thiệt chớ không phải là nhân tạo. Còn tất cả những người ngồi trên tòa bông đó, hằng hà sa số đó là tất cả cửu phẩm Thần Tiên trong hàng có phận sự trên Ngọc Kinh chớ chẳng phải là người thường ở trên cõi trời mà được vào dự hội, mỗi người nầy trên tay cũng đều có cầm cây phất, và ngồi tòa cũng theo ngôi phẩm hết thảy trong chín bực.
    Khu vườn hồng nầy rộng lớn minh mông như một cánh rừng, còn những cây bông hồng thì lớn y như cây cổ thọ, cây nào cũng bằng nhau cả, thân gốc cây lớn như cây đại thọ ở rừng, mà khác hơn vì cây hoa hồng cổ thọ nầy đều ngay hàng, cứ khoảng cách ba hàng tòa ngồi thì tới 1 hàng cây, những tàng cây nầy đều được che bóng mát cho toàn sân vườn hồng, giống như trong ngôi nhà mát, hoa lá chen nhau đầy cây mùi thơm rất thanh phưởng phất nhẹ mũi, mỗi cơn gió phất tới là mát thơm rợn người.
    Trong số chư vị đã ngồi trên tòa hoa hồng nầy nhiều vô lượng người, khi tôi và Đức QUAN ÂM bước tới thì hết thảy người đều đứng lên và đều cầm phất đưa cao lên rồi phất qua phất lại, quơ nhanh đều hết nhìn đẹp và vui vẻ lắm đó là dàn chào! Tôi và Đức QUAN ÂM cũng đưa cao phất lên quơ nhanh đáp chào lại! Riêng có 3 tòa lớn bên trên đối diện lại, đó là tòa giữa tuyệt cao, có Long ngai để bên trên tòa bông hồng, tòa nầy rất lớn, Long ngai đã lớn như vậy để trên tòa bông mà chẳng thấy hề hấn gì tới cánh hoa cả, đây là tòa Long ngai của Đức THƯỢNG ĐẾ ngự, còn ngai bên hữu thì tòa Song Loan của Đức PHẬT MẪU ngự, tòa bên tả là tòa Sư Tử cũng đứng trên tòa bông hồng đó là của Đức THÁI THƯỢNG LÃO QUÂN ngự. Hai tòa nầy cũng đều nhỏ hơn và thấp hơn. Tòa chính giữa của Đức CHÍ TÔN ngự thì là một tòa hoa hồng màu trắng lớn vĩ đại, tòa bên hữu màu hồng, tòa bên tả màu đỏ tươi ngả về cam.
    Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ chiếc áo Long bào màu trắng, tràng cổ màu vàng như áo Tàu, thêu rồng nổi màu xanh, vảy rồng ửng màu hơi vàng đỏ ngoài bìa, đầu rồng râu đỏ, Ngài đội mão Thiên Đế khác hơn mão Thiên Vương. Đức THÁI THƯỢNG thì mặc áo bát quái, Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU thì áo màu xanh thêu bông mẫu đơn màu hồng, tay thật là rộng. Lúc bây giờ tôi và QUAN ÂMthì cũng có sẵn tòa bông hồng còn để trống đối diện nhưng tòa thấp hơn, Đức QUAN ÂM ra dấu bảo tôi theo Ngài vào trình lễ xá Đức NGỌC ĐẾ ra mắt Ngài và PHẬT MẪU, tôi thì định lạy luôn, nhưng mới vừa xá xuống lúc ngẩng lên thì tự nhiên thấy Đức CHÍ TÔN đứng trước đỡ tay ra dấu không cho lạy, và ngửa luôn bàn tay ra dấu miễn lễ, và chỉ lại tòa ngồi, tôi cũng xá PHẬT MẪU vàĐỨC THÁI THƯỢNG rồi lui lại thì bỗng nhiên có tòa sen dưới chân đỡ luôn lên tòa hồng.
    Khi đó Đức QUAN ÂM nhắc tôi cần kiết ấn để nghe Đức CHI TÔN giảng pháp. Phụng hành theo sở học tối cần, hầu khi trở lại cõi thế trần còn đem nhiều lợi lạc cho khắp cõi tha nhơn, phổ hoằng truyền tập đem pháp lạc hầu tế cấp cho cõi trần miền, y như đi tìm được món thuốc thần về cứu nguy cho bịnh ngặc! Kịp thời phải lúc đón dẫn chúng mê sanh, và tất hết những căn linh đang lạc bước giữa rừng đêm tối độc hiểm nguy. Pháp lạc thuần chơn sánh cũng như là ánh mặt trời mọc lên giữa buổi ban mai, soi dẫn lại nguồn chơn để chúng tránh họa đời tối độc hiểm thâm muôn tai vạn khổ đang ngươn kỳ mạt hạ diễn tiến đến v.v…
    Đức QUAN ÂM ý bảo tôi kiết ấn mau lên, để thính pháp vì thời giờ ít lắm tôi kiết ấn niệm chơn ngôn liền. Bỗng nhiên những lời truyền thuyết từ nơi kim khẩu Đức CHÍ TÔN vang lên bằng ngữ ngôn của người Việt miền Nam tôi, chơn thật như y rất là thuần túy, mà oai nghiêm, vọng tiếng vang to âm thanh vừa rền ngân dội cả khu vườn xem như xung quanh có bắc chín mười cái loa vậy. Tôi vừa suy nghĩ chắc tiếng Pháp nầy CHÍ TÔN giảng đây là khắp ba cõi đều nghe hết mới phải. Sự vang dội như vầy thần lực như vậy là phải thấu triệt hết mới đúng. Luôn đó thì ánh sáng từ nơi Thiên Nhãn chiếu ra, làm cho tôi chịu không nỗi phải bụm mắt lại mà vẫn còn muốn té, hết thảy mắt tay đều phải bịt lại hết.
    Đức QUAN ÂM liền dạy kiết ấn Tam Muội dẫn đạo cho mau, tôi lập tức kiết ấn Tam Muội dẫn đạo liền, nếu tôi trễ một chập nữa chắc là nguyên thân tôi phải cháy vì sức nóng của ánh sáng vô lượng kia. Lúc đó hào quang tôi phản chiếu trở lại gần tương tựa, vì tất cả đầu mặt tôi chỗ liên mi đều chiếu sáng vô lượng, mắt tôi và đầu đều chiếu, các tay và bửu pháp đều chiếu tỏa trùng sa ánh sáng, làm che bớt sức nóng đó và cả ánh sáng nơi Thiên Nhãn.
    Lúc bây giờ tôi được mở mắt ra như bình thường, tôi nay mới được diện kiến tôn nhan Ngài, xem thiệt rất là tuyệt hữu vô nhị.
    Tôi sẽ chơn thành diễn tả vào phẩm sau. Phẩm thứ nhứt tới đây xin chấm hết.
    * * * * * * * * *

    PHẨM THỨ HAI
    TÔI ĐƯỢC DIỆN KIẾN TÔN NHAN ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ  VÀ SỞ HỌC


    NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
    Hôm nay là một ngày đại lành, tôi diện kiến tôn nhan thật sự, và lời giảng huấn của Đức CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG, sau đây tôi xin phép Ngài để tả hình dáng trước, rồi lược tới các pháp.
    Kể từ thoạt đầu tôi nhìn thấy Đức NGỌC ĐẾ có một sắc tướng rất hy kỳ đặc biệt. Tôn dung Ngài nhìn thoáng qua rất trang nghiêm tuyệt hảo, nhưng rất rùng rợn khác thường, trước hết sự nhìn tổng quát thì tướng Ngài sự to lơn cao mỗi mỗi đều bằng cỡ mười người thường ở trên trời, người trên trời thì mỗi người lớn cỡ bằng năm hay 7 người mình ở đây. Tướng Ngài cao lớn như vậy mà vô lượng uy mãnh, và hảo tuyệt phi thường, Ngài có ba cái mắt, hai mắt thường thì cũng y như người mình mà mắt pháp là cái mắt Thiên Nhãn thì ở ngay giữa trán Ngài, mắt nầy to như gần trùm hết khu trán rộng kia, cũng là mắt trái, mắt Thiên Nhãn nầy sáng vô lượng vô biên không thể dùng ánh sáng gì để ví được. Chỉ ví một lẽ là nếu trong cửu phẩm Thần Tiên ở trên trời mà vị nào tu hành chưa đủ đạo lực thì chẳng bao giờ dám đối diện Ngài, và có thể diện kiến được tôn nhan, vì sẽ bị ánh sáng đốt cháy luôn đừng nói chi tới nhìn được thấy Tôn dung. Khuôn mặt Ngài vuông hơi bề dài mà sáng hảo lắm! Hai tai Ngài to khác thường, trái tai Ngài thòng gần chấm vai mà hào quang chiếu y như trái tai bằng ngọc. Nếu như cõi thế gian này hay là người thường ở trên trời khi thấy Ngài ở tận từ khoảng xa thì chỉ thấy Thiên Nhãn trên trán Ngài thôi, chẳng cách gì nhìn thấy được tới nguyên thân hay là khuôn mặt Ngài được cả, vì thân Ngài như bóng, từ vô thỉ Ngài chưa hề vào thai mẹ ở cõi hữu hình, rồi tu hành chứng đạo về ngôi mới làm thành NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ! Ngài từ vô thỉ hóa thân bằng một khói hào quang độc nhứt vô nhị, còn cái mắt THIÊN NHÃN ở trán ngài đây là gốc từ đạo hào quang tuyệt sáng vô nhị đó mà hình thành, Mắt Thiên Nhãn nầy tức cái mắt thần thông vô nhị, để quán chiếu mà thống trị cả ba ngàn thế giới gồm một tay thâu, và quả càn khôn DIÊM PHÙ THỦY DIỆU ĐẠI ĐỊA nầy, đều được minh triệt chẳng lọt mảy lông chim còn chưa thoát khỏi ra ngoài, mạng lưới trời không bủa không ngăn mà khó tránh! Thoảng như tất những người đời mà có tâm thị ngã, thường hay chế ngạo rằng Đạo Cao Đài thờ một con mắt.  Điều nầy trước tôi chẳng dám biên, nhưng nay buộc lòng phải chỉnh lại nói cho đủ! Nếu người đời chẳng chịu học tầm cho thấu đáo, kể từ nay mà còn buông lời thiếu đạo lễ như vậy tái phạm như vậy ắt mang tội trọng với trời không chỗ sám hối vậy!

    Và tất cả cửu phẩm Thần Tiên đồng ở trên trời và tất cả người trên trời nếu tu hành chưa đủ đạo lực mà đối diện với Ngài e bị sức nóng thần diệu nầy mà cháy tiêu hồn xác




    Qua các tiết-mục nêu trên nên chúng ta càng nhận thấy sự tín-ngưỡng vào Đấng Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng-Đế của Cao-Đài giáo, cũng được biểu-lộ dưới nhiều hình-thức cá-biệt. Đối với bậc hạ-thừa, và những người có kiến-thức bình-thường họ tin-tưởng Thượng-Đế bằng một đức-tin tôn-giáo giản-đơn, tuyệt-đối trông cậy, phó-thác mình nơi Thượng-Đế Chí-Tôn, họ không bao giờ nghi-ngờ quyền-năng vô-đối của Ngài. Còn đối với những bậc Thượng-thừa có kiến-thức thì tin-tưởng Thượng-Đế bằng một đức-tin có hệ-thống triết-lý hướng-dẫn. Cả hai đều nhắm mục-tiêu đưa con người đến với Đạo.
    Trong phạm-vi tín-ngưỡng Đức Chí-Tôn đã xác-nhận rằng chúng ta chỉ cần đặt trọn đức-tin đi theo con đường Ngài đã vạch để tiến đến phẩm-vị của mình, siêu- phàm nhập Thánh, không cần phải nhọc-nhằn lần từng bước trong rừng kinh-điển. Nên Chí-Tôn đã dạy rằng :
      " Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh, chẳng khác chi đủa ăn cơm, kẻ có cơm bốc tay ăn cũng đặng. Các con coi kinh-điển lại, rồi thử nghĩ lại công-bình thiêng-liêng mà suy-ngẫm cho hay lẽ phải. Thầy khuyên các con theo sau Thầy mà đến phẩm-vị mình thì hay hơn tuông bờ lước bụi, đi quanh kiếm quất, nghe à! (TNHT/Q2/ trang 5).
    Lời dạy trên không phải Đức Chí-Tôn cho rằng kinh-điển không quan-trọng, nhưng nó chỉ giống như đủa ăn cơm mà thôi, điều cốt lõi là phải có cơm để ăn, còn ăn bằng cách nào cũng được. Con người trước tiên là phải có Đạo, đặt trọn đức tin nơi Đạo, tức là quyết-tâm đi theo Thầy cho đến cùng, thì cũng như ta đã có sẵn cơm rồi, khỏi cần đủa, có thể ăn bốc cũng no đặng. Nêu lên điều này là Đức Chí-Tôn đã rõ rằng phần đông con cái của Ngài tư-chất đơn-sơ không đủ điều-kiện nghiên-cứu nhiều kinh-điển, nếu nói rằng phải rõ thông kinh-điển thì mới mong siêu-phàm nhập Thánh, thì đại-đa số con cái của Ngài làm sao đạt đặng, nên con cái của Ngài chỉ cần có một đức-tin cao độ, để sống trọn với Đạo, lập- công bồi-đức thì cũng đắc-thành quả-vị. Còn kinh-điển chẳng qua là phương-tiện, nếu người học Đạo rõ thông kinh-điển thì vấn-đề đạt Đạo dễ-dàng hơn một chút thôi, nó không phải là cứu-cánh.
    Do đó muốn tìm về với Thượng-Đế chỉ có đức-tin là cần-thiết. Thánh-giáo Đức Chí-Tôn đã dạy rằng :
      " Thầy khuyên các con nhớ hoài rằng Thầy của các con là Ôâng Thầy Trời, nên biết một Oång mà thôi, thì đủ, nghe à ! (TNHT/QI/ trang 45).
    Từ khi Thượng-Đế sáng lập ra thế-gian tạo-dựng ra con người, vì cưu-mang thế-gian, nên thời-kỳ nào Ngài cũng đã đến cùng chúng ta, Nên Thánh-giáo Đức Nguyệt-Tâm Chơn-Nhơn nói về Ngài như sau :
    "Làm cha nuôi nấng ân cần,
    "Làm Thầy lại nhượng phẩm Thần ngôi Tiên. (Theo thuyết-đạo về Con đường Thiêng-liêng hằng sống của Đức Hộ-Pháp).
    Ngoài cương-vị là Đấng Thiên-Tôn trị thế, cầm cân công-bình, để có lành siêu dữ đoạ. Đức Chí-Tôn còn đến thế-gian với cương-vị là Cha, là Thầy, luôn ân-cần nuôi-nấng và dạy-dỗ chúng ta.
    CHUNG
    Liên Thanh Sưu Tập

      TƯ-LIỆU THAM-KHẢO- Thánh-ngôn hiệp-tuyển các quyển 1 và2.
      - Thánh-kinh Cựu-ước và Tân-ước.
      - Đạo-Đức Kinh Lão-Tử.
      - Kinh Thiên-Đạo Thế-Đạo.
      - Quan Âm Tân Kinh
      - Đại-Thừa Chơn-giáo.
      -Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp các quyển 1,2,3,4,5,6.
      - Con Đường Thiêng-Liêng Hằng Sống/Thuyết-Đạo của Đức Hộ Pháp.
      - Bí-Pháp /Thuyết-Đạo của Đức Hộ-Pháp.
      - Diễn-văn Đức Hộ-Pháp đọc tại Toà-Thánh Tây-ninh ngày 14/2 Mậu-thìn (1928).
      - Giáo-lý Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ của Ngài Tiếp-Pháp Trương-văn-Tràng.
      - Minh Tâm Bửu giám.

    Liên Thanh Sưu Tập .