Thứ Ba, 14 tháng 2, 2017

- KÍNH MỪNG ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ĐẢN SANH NGÀY 19/02 ÂM LỊCH






Đầu cúi lạy Phổ Đà Phật Tổ,
Quan Thế Âm cứu độ hồng trần,
Từ bi phổ tế lê dân,
Muôn loài nhuần gội oai ân đức Ngài.
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng,
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên,
Gió dông sa đọa ghe thuyền,
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan.
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc,
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu,
Nhờ ơn bố khắp bốn châu,
Tiếng than xúc động tầm âu độ người.
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa,
Ở hiền lành mắc họa thình lình,
Rất thành khẩn vái Thánh minh,
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn.
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ,
Đức Từ Hàng chẳng bỏ người lành,
Tà ma nghe đến oai danh,
Mắt không dám ngó, khó hành hại thân.
Cảm thử thấp, tâm thần trầm trệ,
Mang bịnh căn, thân thể xốn xang,
Hôn mê, chợt tỉnh trí ngoan,
Quan Âm niệm đặng, tai nàn tán tiêu.
Người vô tự quạnh hiu sau trước,
Sửa tấc lòng, tác phước khẩn cầu,
Từ bi linh hiển phép mầu,
Cho trai hiển đạt, gái hầu thuần lương.
Lòng lê thứ nhiều phương tin tưởng,
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân,
Xót thương trợ kẻ phàm trần,
Dẫn dìu thuyết pháp, chóng gần Phật Tiên.
Trí ngu muội, đảo nguyền minh mẫn,
Tánh sân si, cầu khẩn giải oan,
Như lòng tà dục dấy loàn,
Sớm khuya tụng niệm, đặng an tinh thần.
Cơn nước lửa, khó phần trốn tránh,
Lúc hiểm nguy, tâm tánh kinh hoàng,
Thật lòng khẩn vái khỏi nàn,
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ.
Đệ tử chí tâm quy mạng lễ,
Mong Ơn Trên phổ tế mười phương,
Chúng sanh thoát chốn tai ương,
Tỵ nơi khổ não, lánh đường chông gai.
Nhờ Bồ Tát Như Lai lân mẫn,
Độ cho tôi tinh tấn tu hành,
Bền lòng chặt dạ kỉnh thành,
Lâm chung may đặng vãng sanh Thiên Đàng.
Cầu cha mẹ bình an, khương thái,
Thất tổ đồng thượng giái siêu thăng,
Muôn dân phước, lộc, thọ tăng,
Nhà yên nước thạnh người năng làm lành.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.



Ngày 25 Tháng 2 năm 2012
Dậu thời, Mùng 3 tháng Giêng năm Nhâm Thìn


THI
Thiện nguyện thiện tùng chiếu điển thanh,
Tài hoa xuất chúng gắng năng hành,
Đồng tâm hiệp lực lo bồi đắp,
Tử kiến Như-Lai xuống điển lành.
Thiện Tài Đồng Tử Tiểu Thánh chào mừng chung toàn Hội-Thánh lưỡng đài, thừa lịnh Nam Hải Quan Âm Như Lai báo tin. Tất cả nghiêm trang kỉnh lễ. Tiểu Thánh triều thăng.



                               THI
     Nhành dương cam lộ chuyển muôn màu,
     Nam Hải Đại Từ pháp huệ cao,
     Cứu khổ chúng sanh qua bờ giác,
     Như Lai chuyển hóa hiện linh trào.
     Điện tiền Bửu Vị đồng nghiêm chỉnh,
     Kỉnh lễ lòng thành buổi hiệp giao,
     Xuân kiến từ-bi ban phước huệ,
     Thiên-Khai Huỳnh-Đạo ý thanh cao.

Từ Bi Cứu Khổ Nam Hải Quan Âm, Bần Đạo ban ân lành tất cả.

                                            THI BÀI
     Cầm nhành liễu chuyển bầu linh dược,
     Nước cam lồ ban phước cho chung,
          Nơi nầy thành nguyện cúc cung,
Tịnh an nghe rõ lời chung điểm truyền.
     Đồng tất cả tâm yên lặng lẽ,
     Nghe những lời của Mẹ Quan Âm,
          Dạy cho hậu tấn suy tầm,
Từ bi cứu khổ ân thâm muôn đời.
     Ráng niệm Phật xa rời bản ngã,
     Chữ tư duy con khá học hành,
          Pháp tài lữ địa cao danh,
Hiệp hòa huynh tỷ muội anh một nhà.
     Xuân Nhâm Thìn nghe qua lời giáo,
     Tỉnh mộng trần tìm Đạo Thiên Khai,
          Quan Âm Nam Hải Như Lai,
Hồng ân chiếu hóa hoằng khai chân truyền.
     Mừng các con Bửu-Liên Huỳnh-Đạo,
     Mừng Thiên-Tinh quý báu trai lành,
          Con nào biết niệm hồng danh,
Từ bi Mẹ chiếu huệ lành bình an.
     Đức từ-bi bủa tràn khắp chốn,
     Đem lòng từ chỉnh đốn mọi nơi,
          Con ơi vai Đạo, vai Đời,
Làm tròn bổn phận chiều mơi trở về.
     Xuân Nhâm Thìn Mẹ phê một đoạn,
     Để các con tường hãn lý mầu,
          Cuộc đời cồn vực bể dâu,
Trăm năm là chiếc đoản sầu trần mê,
     Biết cõi giác Bồ-Đề tầm học,
     Để trau giồi viên ngọc lưu ly,
          Chơn Như ánh sáng diệu kỳ,
Thần quang hiện chiếu huyền vi rạng ngời.
     Con buông bỏ nghiệp đời trần hạ,
     Bởi nghiệp mình căn quả ngày nay,
          Lỡ sanh trong kiếp lạc loài,
Thương đoàn hậu tấn đắng cay muôn điều.
     Đời con phải chắt chiu trôi nổi,
     Biết đâu là nguồn cội ngày xưa,
          Con ơi Chánh pháp đại thừa,
Huệ căn muôn thuở sớm trưa trau giồi.
     Căn Bồ-Tát cao ngôi Phật vị,
     Xuống trần gian cảnh trí chưa thành,
          Nên con phải chịu chấp tranh,
Đời mê Đạo giác trược thanh phân tường.
     Gìn hai chữ rau tương chay lạt,
     Tịnh lòng trần tự giác xa mê,
          Nhớ câu pháp chú Chuẩn-Đề,
Từ bi giác ngộ quay về cửa không.
     Bởi tứ đại ngoài trong ràng buộc,
     Thân của con não ruột nặng nề,
          Làm sao xa khỏi bờ mê,
Để tìm bến giác Bồ-Đề thiện duyên.
     Mẹ khai Xuân tại tiền Bửu-Vị,
     Ban hồng ân pháp thí đại đồng,
          Thấy con nam nữ có lòng,
Từ Bi Mẹ chiếu huệ hồng ngày nay.
     Dầu bao việc đắng cay trần hạ,
     Đó là do căn quả của mình,
          Khuyên con đầy đủ đức tin,
Tấm lòng bác ái hy sinh cho tròn.
     Mẹ nhìn thấy các con thân mến,
     Biết đâu bờ, đâu bến ngày nay,
          Không ham danh lợi tiền tài,
Quyết tu giải thoát về đài liên hoa.
     Mẹ không phải cách xa con trẻ,
     Gần kế bên nào trẻ hiểu tường,
          Bao giờ bác ái rộng thương,
Cam lồ Mẹ rưới khắp đường mọi nơi.
     Để cứu con qua hồi thống khổ,
     Để dìu con qua chổ loạn ly,
          Ngày ngày trần thế ai bi,
Biết bao tai nạn biệt ly ưu sầu.
     Con nhìn thấy năm châu biến động,
     Nơi đất bằng thành sóng bao la,
          Con ơi đài các xa hoa,
Chỉ trong giây phút tan ra còn gì?
     Thấy như thế đường đi phải tránh,
     Biết nẻo tà phải lánh cho mau,
          Đường chơn lối Phật bước vào,
Tâm minh trí huệ chùi lau cho tròn.
     Mẹ dạy  Đạo cho con phải hiểu,
     Kiếp đời con bận bịu thê nhi,
          Chồng con nghiệp chướng kéo trì,
Làm cho lòng trẻ sầu bi não nùng.
     Nay biết Đạo, đại hùng, đại lực,
     Luyện pháp mầu gắng sức nghe con,
          Làm sao bổn phận cho tròn,
Ngày sau trở lại kim thoàn đài hoa.
     Chốn Phổ-Đà cao xa mát mẽ
     Cõi Niết-Bàn vui vẻ nhàn thanh,
          Mỗi con đều  được thân lành,
Ngày nay Mẹ dạy tu hành ráng lo.
     Lòng bác ái không lo, không tính,
     Dạ từ bi cung kỉnh Thiêng-Liêng,
          Nơi đây Pháp Nữ Bửu Liên,
Các con đoàn tụ quy nguyên bái chầu.
     Con mừng Mẹ lời châu Mẹ dạy,
     Quan Âm đài Nam Hải cao xa,
          Con ơi chân mối Phổ-Đà,
Mau mau triều kiến đài hoa huy hoàng.
     Kìa ánh sắc sen vàng đua nở,
     Là Bửu-Liên rực rỡ muôn màu,
          Thương con thoát kiếp tù ao,
Để về nơi chổ thanh cao Mẹ hiền.
     Mẹ hóa thân dịu hiền điểm Đạo,
     Cho các con thuận thảo tu hành,
          Cuộc đời thì đấu thì tranh,
Đạo thì hòa hiệp chị anh lo lường.
     Quyền Chưởng Giáo từ chương Mẹ dạy,
     Mẹ Quan Âm Nam Hải truyền ban,
          Con ơi nâng Đạo lý toàn,
Để cho Huynh Đệ hiệp đàng tu chơn.
     Quyền Giáo Tông linh đơn Mẹ chuyển,
     Đời của con tai biến cũng nhiều,
          Thương con ruột đứt trăm chiều,
Ráng lo bổn phận Thiên điều Thầy ban.
     Thiên Nhựt nguyện tâm vàng hành Đạo,
     Pháp Tam Thiên quý báu vô cùng,
          Con ơi! Đại lực, đại hùng,
Tuổi cao chí quyết hiệp chung lo tròn.
     Kim thân chiếu sắc son từ huệ,
     Hộ pháp nghe lời thệ chứng minh,
          Con ơi vì Đạo vẹn tình,
Thiên-phong Bửu-vị niềm tin vững vàng.
     Hiệp Chưởng con Đạo tràng rực rỡ,
     Ráng từ đây xong nợ lo hành,
          Phận duyên Đạo thể cao danh,
Ráng lo gieo giống hạt lành nghe con.
     Quyền Hộ Pháp điểm son Mẹ chiếu,
     Luyện cho thuần cửu khiếu khai thông,
          Âm dương hiệp nhứt hòa đồng,
Chơn-Như ánh sáng huyền thông diệu mầu.
     Lời Mẹ dạy lo âu hành sự,
     Thiên Sơn con vẹn giữ niềm tin,
          Lạt chay con trẻ vẹn gìn,
Trau giồi Đạo pháp lòng tin vững vàng.
     Thương các con Đại đàn Mẹ giáng,
     Lòng từ-bi thoát nạn trần-ai,
          Quyết tu về đến Diêu-Đài,
Trần mê dứt bỏ bên ngoài nghĩ chi?
     Thiên Nhân ráng trường thi Đạo thượng,
     Mẹ Quan Âm quy hướng đại đồng,
          Biết rằng trong thiệt có không,
Có đây rồi cũng hườn không thế nầy.
     Mẹ Quan Âm chuyển xây cơ pháp,
     Đức diệu huyền hòa hạp căn cơ,
          Như Lai Thiên Án đợi chờ,     
Căn lành con thảo trần nhơ không màng.
     Lời chuyển hóa Đạo tràng tất cả,
     Nữ phái con công quả công trình,
          Đủ đầy hai chữ đức tin,
Nghe đây chơn điển huyền linh Mẹ truyền.
     Bửu Liên Định cao duyên pháp báu,
     Ráng luyện rèn quy tạo kim thân,
          Hiệp chung trong một ý thanh,
Để rồi con sẽ xuất thần ngày mai.
     Giờ hạnh đức đường dài thẳng tiến,
     Quyết một lòng thực hiện ý chơn,
          Lắng nghe Mẹ khải điệu đờn,
Hồng từ, hồng lực ban ân con hiền.
     Bửu Liên Trầm cao nhiên trí huệ,
     Hiểu trước sau Đạo thể huy hoàng,
          Luyện thần cho được ánh quang,
Chơn Như sáng suốt rõ ràng tâm linh.
     Làn hơi tỏa trong mình xoay chuyển,
     Là Chơn-Như thể hiện trong ngoài,
          Con ơi không nghĩ trần-ai,
Trần ai con bỏ ngoài tai không màng.
     Điện pháp nữ kim thoàn Mẹ chiếu,
     Ban cho con mở khiếu khai thông,
          Từ đây không phải bận lòng,
Quyết tu giải thoát trần hồng xa mê.
     Bửu Liên Trinh trọn bề con thảo,
     Quyết tu hành học Đạo vuông tròn,
          Lời Vàng Mẹ dạy cho con,
Cam lồ diệu thủy vẹn tròn Mẹ ban.
     Bửu Liên Thu Đạo tràng con nguyện,
     Lòng thật tâm bước tiến Đạo tràng,
          Từ đây con nguyện nghe lời,
Vì Thầy, vì Đạo không rời tâm linh.
     Bửu Liên Gương chân tình Mẹ dạy,
     Mẹ Quan Âm Nam Hải từ-bi,
          Thương con tâm Đạo kiên-trì,
Quyết tu giải thoát không vì trần mê.
     Bửu Liên Giao Bồ Đề tâm pháp,
     Đức Di-Đà chuyển nạp từ quang,
          Minh châu xá lợi rõ ràng,
Khai thông chơn pháp Đạo tràng ngày nay.
     Bửu Liên Chơn trước đài Mẹ dạy,
     Bước tu hành hồ hải không màng,
          Mẹ thương, chiếu huệ linh quang,
Cứu con qua khỏi tai nàn đau thương.
     Lời Mẹ dạy từ chương tất cả,
     Các con đồng công quả công phu,
          Đèn tâm không thể ám lu,
Chữ tâm chữ ý công phu vững vàng.
     Con tâm Đạo hiền ngoan nhứt dạ,
     Quyết tu hành Đạo cả giồi trau,
          Tình thương nay Mẹ chùm bao,
Trước sau tiến tới thanh cao một lòng.
     Vậy các con điện hồng thanh vắng,
     Truyền cho con cố gắng hành trì,
          Pháp nguyên rèn luyện thành y,
Con ơi chơn pháp vô-vi lo tròn.
     Bửu Liên Bình nầy con Đạo lý,
     Phải học hành cao quý quả công,
          Tình thương bác ái đại đồng,
Mẹ hiền ban bố ân hồng ngày nay.
     Vậy Mẹ có một bài vắn tắt,
     Nhắc nhở chung trạm khắc niềm tin.
          Bước tu theo mối Đạo Huỳnh,
Cũng nhờ Thiên điễn huyền linh soi lòng.

                         ***
     Con quyết lo tu chẳng ngại ngùng,
     Bồ Đào dược thủy Mẹ ban chung,
     Các con hưởng lạc ngày Xuân nhựt,
     Đồng đẳng hôm nay chữ thuận tùng.

          Ngày Xuân đoàn tụ sum vầy,
Mẹ thương Xuân đáo Xuân nầy Mẹ khai.
          Các con dù gái hay trai,
Cũng đồng con Mẹ Như Lai liên tòa.

     Thiên Thọ đài mây Mẹ sắc truyền,
     Thánh Tăng Mẹ tặng gắng tu hiền,
     Bao nhiêu thử thách không hề nản,
Đạo-đức kiên trì đắc Phật Tiên.
Một kiếp tỳ kheo  con vẹn phận,
Tu hành tinh tấn đến  đài nguyên,
Hồng ân Ngọc Đế ban từ huệ,
     Phật Tổ hồng ân chiếu diệu huyền.
     Con đã nhứt tâm vì Đạo Đức,
     Quan Âm tâm ấn nguyện tròn duyên,
     Từ Bi Bác Ái công bình vẹn,
Đạo-đức trau giồi ráng nhẫn kiên,
Lời Mẹ Quan Âm ban diệu dược,
Nhành dương rưới mát trẻ trần miền,
Xuân nầy ban bố con nam nữ,
Đạo đức trau giồi đắc quả duyên,
Vắn tắt lời thơ con tất cả,
Dạy nhiều, hiểu ít phải năng,
     Hiểu nhiều, dạy ít là cao quý,
     Đạo đức sáng lòng đó tự nhiên,
     Nghe rõ  rồi con mờ ảo tưởng,
     Nghe chưa thông đạt lý siêu huyền.

                          ***
Muốn biết lý (siêu)huyền (con)nên tỉnh ngộ
     Tịnh tâm thiền Phật Tổ bố ban,
          Những gì trong cõi trần gian,
Vốn là hư ảo đừng mang nơi lòng.
     Tu chỉ có chữ không là quý,
     Định tâm không Phật vị an nhàn,
          Mỗi con trong lúc lập đàn,
Thành tâm tịnh thủ điển quang bao trùm.
     Thay với đổi cộng chung xào xáo,
     Đổi với thay làm Đạo ngữa nghiêng,
          Nơi nào định vị cho yên,
Để nghe  chơn điễn huyên thuyên dạy bài.
     Con nhìn thấy tam tài, tam bửu,
     Tinh, Khí, Thần kết tụ hay chưa?
          Tam tài con biết sớm trưa,
Nhựt, nguyệt, tinh tú, gió, mưa, bão bùng.
     Mẹ vắn tắt đại hùng, đại lực
     Mừng Xuân triều nguyện với Chơn không,
          Là Chơn-Huyển ở ngoài trong
Con ơi biết rõ chữ không thế nào !
                                  Có rồi không vì sao như thế ?
     Chữ Ba-La-Mật để hành trì,
          Biết rồi không biết hiểu chi,
Đó là chơn-lý huyền-vi vô cùng.

                           ***
          Giã con ở lại trần gian,
Cam lồ Mẹ đã rưới chan khắp cùng.
          Cho con nam nữ hòa chung,
Bửu Liên Nữ Điện thung dung tu hành.

                          ***
Liên Trầm một dạ quyết lo xong,
Không nãn ưu chi bởi nghiệp chồng,
Chí quyết hy sinh đường Đạo pháp,
Để tu  giải thoát trở về không.
Trần ai không bận điều chi nữa,
Vui vẻ đi con sắc đẹp hồng,
Kết chặt tình thương Huỳnh-Đạo chuyển,
Thiên Tinh, Bửu Vị trọn ân phong.

                      ***
Ân phong của Mẹ rất cao dày,
Ban trẻ từ đây thoát đắng cay,
Nghĩa Đạo, tình đời không hệ lụy,
Tâm con bác ái chẳng hề phai.
Tấm lòng từ thiện lo bồi đắp,
Công đức trau giồi thoát đắng cay,
Mẹ vốn Quan Âm truyền pháp bảo,
Cam lồ diệu dược Mẹ trao tay.
Nhành dương Mẹ phất xa mùi tục,
Lánh cõi trần mê chuyển Phật đài.

     Giã con nam nữ trong ngoài,
     Mẹ hồi điện báu Như Lai Mẹ về.



NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-Ð
KỶ NIỆM HUỲNH-ĐẠO THIÊN-KHAI NĂM THỨ 10
ĐÀN LỊNH TẢ
"QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH"
(Ðàn Chấp Bút lúc 4g07ph sáng 15-5-1986)
* * * * * * *
THI:
 đồ một giải biếc màu xanh,
TIÊN thể hằng xa chốn thị thành,
NỮ nam tròn Ðạo ngày cư thế,
Sau đặng vui nhàn tận cõi thanh.
      Nam Mô A-Di-Ðà Phật.
      Nam Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật Thế-Tôn.
      Trước thấp mình lễ Phật, cung phụng triều bái Ðấng Chí-Tôn, Diêu-Trì cùng chư Tiên Thánh.
      Sau thi lễ chào quí Thiện-Ðạo Chưởng-Quản Bạch-Diệu-Hoa.
      Bần Nữ HÀ-TIÊN-CÔ phi lai cấp báo hỷ tin. Quý thiện đạo tịnh tâm đảnh lễ tiếp lịnh Ðấng CHÍ-TÔN ngự bút. Bần Nữ thi lễ hộ Ðàn...
      (Tiếp điển:)
      THẦY hoan hỷ tứ phước. Con hãy đại tịnh tiếp tròn ân điển. Thầy mừng các con, chúc các con thăng vinh phúc lạc.
      Thầy ban ơn và đồng thời giáo khuyến các con kiên trì tâm hạnh tu tiến mọi công năng vun bồi phước đức. Ấy là các con nêu cao gương sáng lẫn nhau hầu noi bước Ðạo cao để tròn mãn mọi công năng đạo hạnh tu thân cùng độ chúng.
      Giữa thời mạt hậu cuộc ác chiến đã hầu kề, thì công đức độ nhân nơi các con càng phải tinh tiến dũng mãnh hơn. Các con cần phải lưu bố mọi quyền năng hóa độ của Bề-Trên, tức là phổ biến những bài Thánh-Ngôn cần thiết, ấy là các con góp tâm trợ lực nơi Ðạo mầu, tiếp sức cùng Bề-Trên rưới giọt nước Ma-Ha lợi sanh cho đại thế chúng.
      Nay là ngày kỷ niệm Khai Minh an lập mối Ðệ-Nhị Ðạo Huỳnh, thể hiện chi Phật-Tông Chánh-Giáo để cho cơ nghi Ðại-Ðạo thành lạc đủ Ngũ-Chi. Thập niên khai hóa nay đã hình thành, các con nên dụng ngày nầy mà làm một ngày hạnh lạc thứ nhứt. Trước là chung mừng cho cơ Ðại-Ðạo viên thành, sau là mừng cho công hạnh của các con đã vun bồi nền Ðạo-pháp ngay từ thuở ban sơ, kể biết bao là khó nhọc, thắng hết mọi chướng duyên, dụng tâm lực góp tay nhau trợ Ðạo giúp Thầy. Nay đã hoàn thành cơ hữu Ðạo báu, để cho các Ðấng Phật Thánh Tiên dùng làm nơi sở trụ mà cứu thế. Thật là vô biên thắng phước! Vậy nay muốn thể hiện ân lành cho các con một ân huệ hiện tại để các con được niềm vui nơi cảnh Ðạo, Thầy ân tứ sắc ban Ngự-tửu, mỗi con đồng đẳng một chung bồ-đào thưởng thức hương vị. Vậy sau buổi Lễ Ðại-Ðàn, các con sẽ được rót Ngự-tửu mà trao tặng cho nhau để chứng niềm hạnh hữu. Thì giờ kém ít, Bạch-Diệu-Hoa hãy tịnh tâm tả một đoạn thi bài.
THI BÀI:
       Ngày kỷ niệm Khai Minh cứu thế,
       Mối Ðạo Huỳnh trợ tế Nguơn Ba,
              Nhơn sanh khắp cõi Ta-Bà,
Tri cơ thế mạt quỉ ma lộng quyền.
       Thời vật chất khắp miền đua nở,
       Cõi trược trần nhiều nợ máu xương,
              Nhìn xem địa cảnh chán chường,
Khuyên con tỉnh trí dò đường Ðạo chơn.
       Cuộc Thánh-Ðức là Nguơn Tái-Tạo,
       Kịp hồi chơn thiện bảo nầy con,
              Thầy thương giáo cạn bút mòn,
Trần lao thấy trẻ vẫn còn luyến mê.
       Lòng từ mẫn năng kề ngũ dục,
       Cùng con thơ giũ phước trao lời,
              Nhưng còn nặng quả con ơi,
Mãi mong ương ngạnh lắm lời siểm chê.
       Ðời trọng trược lầm mê vật chất,
       Ngủ say vùi trong giấc huỳnh-lương,
              Con ôi! khá tỉnh mộng trường,
Trần ai cõi tạm muôn đường khổ gay.
       Phương giải thoát là ngày chuộc lỗi,
       Trường học tu sám hối hồi đầu,
              Cải tà quy chánh cho mau,
Trì trai thiện niệm một câu Di-Ðà.
       Dầu vạn quỉ thiên ma nảo hại,
       Nhờ phước sanh tự tại không sờn,
              Cõi trần ức vạn thiên nhơn,
So loài quỉ đạo số hơn loài người.
       Ma quỉ cứ theo người giục khiến,
       Giục lòng người ác kiến lẫn nhau,
              Khiến xui giết lẫn đồng bào,
Giục tâm ác niệm hại nhau dẫy đầy.
       Họa diệt thế do đây sanh nở,
       Khiến loài người gây nợ máu xương,
              Giết người chẳng chút lòng thương,
Hại nhau mà chẳng dung nhường mảy chi.
       Thức giấc mộng tư duy tự tỉnh,
       Gợi lòng lành chơn chính thương nhau,
              Dứt tâm bất mục đồng bào,
Thì Nguơn Thánh-Ðức đặng mau vãn hồi.
       Xương với máu ngưng bồi mặt đất,
       Cảnh tương tàn sớm dứt cõi người,
              Giác rồi nhìn lại hổ ngươi,
Ngộ rồi mới thấy kiếp người có chi.
       Thân lao nhọc, bạc chì thậm giả,
       Có rồi không, ác quả càng dày,
              Vô thường rồi lại phủi tay,
Con ôi! ruộng phước cấy cầy cho mau.
       Giờ nghiêm huấn cùng nhau nhẫn thọ,
       Kịp hồi tâm chớ có diên trì,
              Nguyện cầu mau giảm nạn nguy,
Quan-Âm Cứu-Khổ con thì gắng tâm.
        Nầy Bạch-Diệu-Hoa, sau đây là phần giáo lịnh con hiền được rõ:
      Ðức QUAN-ÂM vì lòng đại-bi đại-nguyện, trong thời gian sắp tới đây, Ngài sẽ biến chiếu điển quang đến cảnh thiền nầy mà giáo pháp một quyển Tâm-Kinh hầu xiển minh phép nhiệm, tuyên dương Phật lực đại-bi đại nguyện, cứu vớt khổ nàn cho toàn thể tứ châu thiên hạ trong thời mạt hầu nầy. Và Thầy cũng hoan hỷ mà nhắc cho toàn cõi nhân sinh được rõ biết sự mầu diệu cứu cánh nơi lòng đại-bi đại-nguyện của Ðấng Quan-Âm: Vì Ngài muốn cho nhân sinh thọ được đại-ân của Ngài độ vớt, thế nên Ngài mới thị hiện tướng mầu để cho nhân sinh nhiếp vào ảnh thiệt tế. Từ nay toàn tất cũng nên dụng thiệt tế Thánh-Ảnh của Ngài mà tôn kính phụng trì. Ngài tự phát nguyện rằng nếu Thánh-Ảnh của Ngài được an trụ nơi nào, xứ sở nào, chùa am nào, hoặc gia trụ nào, nếu mà chủ tâm nơi đó được thành thì hào quang Ngài sẽ chiếu soi hóa độ cho nơi đó được thanh tịnh, được phúc lạc. Ngài quyết không để cho thời cơ tận diệt nầy tàn phá hết chúng sanh theo định luật của ma đạo.
      Giờ điển an sắp mãn, Thầy gia ân cho toàn tất chúng con. Một lần nữa nhắc nhở cho đoàn con kiên bền chí thiện, đường Tu tinh tiến, Ðạo-pháp gắn chặt chớ lơi tâm.
      Thầy thượng giá.
      Thăng...


QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH

THÁNH TỰA

     Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
       Nam-mô Bổn-Sư Thích-Tôn.
      Nay nhằm ngày Ðại-Khánh-Ðản Phật Thế-Tôn, là một ngày đại hạnh lạc đến cõi dương trần, là một nguồn ánh sáng vô tận đã chiếu diệu đến cõi Ta-Bà sánh như ngôi mặt nhựt lố mọc từ phương Ðông!
      Vầng Thái-Dương ấy sẽ phát vô lượng ánh quang minh chiếu khắp bầu trời, phá hết cảnh tối tăm nơi màn vô minh giữa đêm dài u tịch. Cõi thế nhân cũng vì sống trong màn vô minh, trong đêm tăm tối ấy nên tạng thức phải mê mờ, nhân đó làm cho tâm thần đảo vọng, phiền não tham sân, khó bề giác tánh. Càng đi sâu vào đời hậu mạt thì Ðạo-Pháp càng rời xa, say nhiễm bả trược trần, lợi danh trói buộc, cơm áo là món tội chướng khổ của con người, khiến phải tạo đoan nhiều hoặc nghiệp nên mãi trôi lăn trong những kiếp tử sanh khó bề thoát họa!
      Là một ngày toàn tất chúng sanh trên cõi Ta-Bà đồng hưởng được pháp lạc thanh tịnh thứ nhứt. Nay Ta cũng nương vào ngày nầy, nhờ phước lực của ÐẤNG THẾ-TÔN, tựa ánh quang dương ấy hầu khai thị quyển TÂM-KINH, từ bi tế khổ vớt kẻ trần lao chìm biển mê tân đưa vào giác ngạn.
      Buổi đời hậu mạt, tai ách dẫy đầy, thế cuộc đồi suy, nhân tâm đảo loạn, vật chất phồn thịnh tới đâu thì hoạn khổ tới đó, là ác chướng tới đó, bịnh chứng nan y, chiến tranh dồn dập, nạn diệt thế mỗi lúc càng chuyển mạnh và đến mau!

      Tại vì sao?

      Vì thời kỳ mạt pháp, hễ càng xa Phật tức phải gần ma! Bọn ngạ-quỷ thừa cơ hội lan tràn quấy nhiễu, thâm nhập vào chúng sanh giục người làm cho não loạn. Giả danh Trời Phật huyển hoặc kẻ mê nhân gây nhiều hoạn họa, giục khiến kẻ tà tâm gieo thêm giống độc, làm cho cang kỷ đảo điên, luân thường xiêu đổ, làm cho thế giới nhân loài phải sống cảnh đục nhơ, giục thúc cho cường độ chiến tranh càng bộc phát! Chúng quyết đưa đẩy khiến nhân loài mau sa chân vào cuộc tận vong, để cho mặt đất trống không chẳng bóng người trần còn lai vãng. Chúng ấy sẽ mặc tình biến chuyển cuộc đời trở thành một thế giới ma đạo! Chúa vương tinh cầm quyền tối thượng trong thế giới ấy cho đến vô số kiếp. Chờ khi Phật xuất sanh thì bọn chúng sẽ xả thân mạng, hồi phục lại cuộc đời gọi là phục thỉ hoàn nguyên tái tạo.

      ÐẤNG CHÍ-TÔN vì vô lượng từ bi tốc bố điển lành khai minh ÐẠI-ÐẠO, quy Tam-Giáo, hiệp Ngũ-Chi là mở đường tận độ. QUAN-ÂM chấp chưởng quyền Tam-Trấn, dụng oai đức đại-từ-bi hàng tà phục oán, pháp-thuyền độ vớt, cam-lộ cứu nguy. Ðức DI-LẶC THIÊN-TÔN hạ lịnh khai nguơn dựng nền Thánh-Ðức, xiển dương Ðạo-pháp cứu cánh nhân loài rấp nhập cảnh họa ương trong thời pháp mạt, gia trì phước lực truyền bá Ðạo mầu tuyên lưu máy nhiệm là hồi chuông cảnh tỉnh, tiếng trống giác mê, giúp cho toàn thể nhân sinh hồi đầu hướng thiện, biết thương yêu lẫn nhau như ruột thịt.

      Ta vì lòng bi mẫn, vì pháp lợi sanh giáo huấn cạn dòng.

      Nguyện cho pháp giới chúng sanh phát khai trí huệ, giải thoát nghiệp mê lầm dứt rời ma chướng, chánh tâm, chánh niệm, Thánh-Ðức phục hồi, thân tâm thường lạc.

      Nguyện cho chư ác đạo hoàn lương tốc tật, thi vi chánh pháp, ngục môn bế tắc, THIÊN-ÐẠO hoát khai, cuộc cứu cánh được hoàn mãn vào Nguơn Thánh-Ðức, thoát khỏi họa diệt.

      Nguyện hành chánh dũng, hộ trì Ðạo-pháp không để diệt dứt, độ tận chúng sanh. Hàng tà ma, trừ yêu quái là bổn nguyện công đức vô tận tạng của BỒ-TÁT QUAN-THẾ-ÂM vậy!

      Những lời tuyên thuyết hãy minh liễu tường tận, thâm nhập trí Như-Lai, phát xuất vô lượng chánh tâm, diệt tà trừ chướng, nhứt niệm nội ngoại hãy lìa xa thì thân tâm thanh tịnh, tâm linh khai ngộ, tướng hảo phát sanh, phục thỉ hườn nguyên, thái bình an lạc.

      Dứt lời Thánh-Tựa...

      Nam-mô Ðại-Bi Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

      Nam-mô A-Di-Ðà Phật.



  PHÁP-BẢO TÂM-KINH


Nam-Mô Ðại-Từ Ðại-Bi Quảng-Ðại Linh-Cảm
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Sấm kệ:
      Nam-mô PHẬT-TỔ DI-ÐÀ,
Quang minh phổ chiếu Ta-Bà độ nhân.
      Liên đài ngũ sắc tường vân,
Hằng hà Phật Thánh lai trần hộ Kinh.
      Cõi Trời hiện sắc quang minh,
Hào quang muôn trượng âm thinh vang rền.
      Kim-Tòa NGỌC-ÐẾ ngự đền,
Chư Thiên hộ hựu cõi trên hằng hà.
      Kinh mầu khai xuất truyền ra,
Sánh bằng giọt nước Ma-Ha cứu trần.
      Ta nương vào ngọn bút thần,
Ví như tiếng sấm trong trần hiện vang.
      Thuyết minh cơ nhiệm hành tàng,
Giáo nghiêm diệu-pháp Ðạo vàng xiển dương.
      Kỳ ba ÐẠI-ÐẠO khai trường,
QUAN-ÂM Tam-Trấn oai cường lực nghi.
      Hành tàng Ðại-Nguyện Ðại-Bi,
Hàng tà phục oán thi vi trọn lành.
      Tuần du tế sát hiện hành,
Mười hai Chánh Nguyện dương danh đời đời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Tri cơ thế mạt cõi đời tai nguy.
      Nồi da xáo thịt dị kỳ,
Buôn dân bán quốc loạn ly oán thù.
      Buôn Trời bán Phật mà tu,
Thù Cha, hại Mẹ, thê phu lỗi niềm.
      Ðổi ân làm oán ganh hiềm,
Cạnh tranh giết lẫn càng thêm thỏa lòng.
      Chiến tràng xương núi máu sông,
Xây dần mãi thế mà không thấy rồi.
      Dân càng phiêu dạt nổi trôi,
Khóc than thảm thiết ôi thôi dẫy đầy.
      Gieo mình vào chốn hiểm nguy,
Thể lâm họa diệt, hồn thì vất vơ.
      Thương thay cảnh trạng mê mờ,
Kẻ vay người trả đục nhơ cõi trần.
      Chiến tranh nguyên tử hầu gần,
Ði đâu trốn nạn hồng trần cho kham?
      Họa kia chướng nọ ai làm?
Hay là nhân chủng vì ham lợi quyền?
      Rốt rồi mặt đất còn nguyên,
Loài người vắng bặt của tiền làm chi?
      Tự mình tạo tác thi vi,
Rồi kham thọ lấy quả ni đem vào.
      Xót xa mấy đoạn tâm bào,
Ðại ngôn pháp giáo người mau phục hồi.
      Tư duy từ huấn bao lời,
Hoàn lương chánh niệm dứt rời nghiệp ma.
      Ðoạn nầy hiển thị soi ra,
Thể thời pháp mạt thì ma lộng quyền.
      Vào đời dối thế Phật Tiên,
Gây điều não nhiệt đảo điên tánh người.
      Giục tâm quấy niệm dư mười,
Hoặc khi ám ảnh cho người cuồng ngây.
      Nương theo thể, tánh cõi nầy,
Có thân, có thế, có tay, có quyền.
      Chúng dùng làm một con thuyền,
Thi vi ác nghiệp phỉ nguyền tâm ma.
      Âm mưu những sự gian tà,
Giục gây ác sát để ma no lòng.
      Thức ăn toàn những huyết hồng,
Toàn là thi thể thương vong chiến tràng.
      Ðược lời thiện tín tâm an,
Dày công tưởng niệm phước càng đa sanh.
      Giác mê tự bởi lòng thành,
Mắt phàm khó chứng lời lành của Ta.
      Chiến trường binh lính ngã ra,
Thảy không có đủ quân ma tạm dùng.
      Chúng hằng thôi thúc nhân tâm,
Càng gây chiến cuộc thâu năm nối liền.
      Nỗi niềm thống khổ triền miên,
Tử hồn binh sĩ bố quyền trục thâu.
      Không ai tiết lộ mưu sâu,
Chúa yêu sẵn đủ phép mầu đối tranh.
      Thần thông sẵn đủ hiện hành,
Thị oai ma lực đấu danh cùng Trời.
      Ta vì chúng khổ đòi nơi,
Từ bi vô ngại tuyên lời phổ lưu.
      Tín tâm chơn thật vô ưu,
Chẳng sanh nghi hoặc càng sưu lý mầu.
      Sau nầy rõ đặng máy sâu,
Huyền vi hiển hiện có đâu sai lầm.
      Chúa yêu sân hận Quan-Âm,
Quyết toan đấu phép thậm thâm giữa trời.
      Dốc lòng ám triệt Như-Lai,
Giao phuông trận địa giữa ngoài biển khơi.
      Mây đen mịt mịt khung trời,
Phổ-Ðà khiêu chiến xin mời Quan-Âm.
      Từ bi thanh tịnh quang lâm,
Yêu phun lửa độc tối tăm bầu trời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Mưa chan sấm dậy đất trời chuyển rung.
      Hoàn toàn hắc khí như un,
Chúng sanh cấu nhiễm khó mong đặng tuyền.
      Bảo bùng động địa kinh thiên,
Khí yêu độc địa khói đen ngạt mùi.
      Không gian chẳng thấy mặt trời,
Ðất không hơi thở là thời lâm nguy.
      Khắp nơi Thiên-Thần Ðịa-Kỳ,
Khắp chư Thánh-chúng từ bi giải nàn.
      Bây giờ khắp cõi trần hoàn,
Thi hành diệu pháp cứu an tinh thần.
      Phép mầu sở hữu tùy thân,
Ngày đêm thiện niệm bảo thân nhiệm mầu.
      Nơi nơi đồng nguyện sở cầu,
Cùng môn Cứu-Khổ người hầu niệm mau.
      NHƯ-LAI sát sát trên đầu,
Chư Thiên hộ hựu thì mau phục hồi.
      NGỌC-HOÀNG ngự trị phong lôi,
QUAN-ÂM trí ấn thâu hồi ngạ tinh.
      Ðến khi sấm chớp đặng bình,
Phong ba lẳng lặng ánh minh rọi vào.
      Cõi trần thảm khốc mòn hao,
Thương người thiểu phước làm sao cứu hồi!
      Hàng ma phục oán đã rồi,
Trần dương nay mới vãn hồi bình an.
      Ai ôi! nắm vững Ðạo vàng,
Tu thân là món bảo toàn tâm linh.
      Muốn mau hưởng cuộc thái bình,
Muốn đời an lạc hãy gìn chữ Tâm.
      Tâm là thế chủ đâu lầm,
Tâm là Thiên-Ðạo hãy tầm lý sâu.
      Tâm là Phật chủ diệu mầu,
Hoặc ma làm chủ cũng âu tại mình.
      Vì trong tư tưởng hiện hình,
Cũng mê với giác biến sinh liền liền.
      Nếu Tâm phát giác lập nguyền,
Thì nên tạo phước gieo duyên buổi nầy.
      Rèn lòng niệm Phật ăn chay,
Cải tà quy chánh ngày ngày phát minh.
      Cầu an cho chiến họa bình,
Cấy cầy ruộng phước Thiên-Ðình đặng sung.
      Họa kia tự thể biến lần,
Phước càng tô điểm cõi trần càng thanh.
      Chư căn ngộ pháp lòng thành,
Thức-thần huệ-giác tu hành từ bi.
      Chư linh vào đời cứu nguy,
Thọ thân kịp hội Tam-Kỳ độ tha.
      Gặp thời thì hãy bước ra,
Góp tay trợ Ðạo Kỳ-Ba nạn cùng.
      Trên nhờ NGỌC-ÐẾ nhiêu dung,
Phật ân siêu diệu vô cùng từ bi.
      Vào tu nghiệp lực kéo trì,
Mê vui thích đẹp thiếu gì nghiệp ma.
      Vật chất lôi cuốn hằng sa,
Vô minh đậy mắt Liên-tòa khó trông.
      Hỡi chư Thánh-Chúng trần hồng,
Ðuốc thiêng phổ chiếu khai thông thức thần.
      Nhớ rằng bổn-nguyện vào trần,
Long-Hoa đại thệ thọ thân Ta-Bà.
      Mạt đời là buổi độ tha,
Trần dương hóa Ðạo âu là ngó ngơ.
      Nầy khuyên bá tánh kịp giờ,
Tu nhân tích đức chớ lơ lãng lòng.
      Trì Kinh niệm Chú thuộc thông,
Dầu cơn ngộ biến cũng không ngại gì.
      Có QUAN-ÂM lực phò nguy,
Thành tâm thiện niệm giữ y lời truyền.  
      Nam-Mô A-Di-Ðà Phật.
   (Bạch-Diệu-Hoa bạch: Nam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát. Con xin kính bạch: trước kỉnh lễ, bái Ðức Quan-Âm, vì con gốc cũng phàm phu tánh còn mê tối, cúi nhờ ơn Phật từ bi cho con được vài điều thỉnh vấn. Vì con đã có nghe thấy Kinh Sấm thường tuyên thuyết rằng đến hai ngàn năm cuộc tận thế hiện trạng sẽ bặt khí âm dương, không thấy mặt Nhựt, mặt Nguyệt. Lúc tuyệt khí âm dương như vậy nhân vật sẽ không có hơi thở điều hòa, bầu trời tối mịt suốt năm ngày năm đêm. Bạch Ðức Quan-Âm, có phải đó là trận chúa yêu đấu phép với Phật Quan-Âm đó chăng?)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân khéo hiểu! Ðúng như thế. Nhưng nào phải do Ta toan tranh tài đấu phép với ngoại đạo. Ta chỉ vì rộng lượng cứu thế, thường hành bổn nguyện, nhưng vô lượng bổn nguyện cứu thế của Bồ-Tát tức đại cừu hiềm của chúng ma! Vì lý tánh đối trị hàng phục tà đạo, với quân ma là oán.
      Yêu tà thì chủ động nhiệt não, gieo giống cấu trược, dục vọng điên đảo vì nghiệp chướng vây bủa như sấm sét, như mây giăng, như cuồng phong, như sóng bảo. Kiếp khổ như bức não, như lửa đốt, như dầu sôi! Thường chịu đau nhức như búa đánh, như dao bầm. Sợ hãi như sắp bị người xô đạp vào hầm lửa, núi đao, không một phút nào được an ổn!
      Quanh năm suốt kiếp phải luôn chịu đói khát, khô gầy chỉ còn da bọc lấy xương! Kiếp sống của ngạ-quỷ vô lượng khổ não, dầu một ngày, một tháng, một năm đến mười năm, trăm năm, ngàn năm cũng không được một giờ, một phút đến nửa phút hưởng an lạc thanh tịnh!
      Nếu có được sự ăn uống thì chỉ là máu, mủ, xác thúi, giòi nhặn, phân, tiểu, nước miếng, bọt, dãi, những miệng mũi răng của kẻ thiểu thực; hoặc huyết bẩn uế nhơ, hoặc những ghè hủ nhổ nước bọt, trầu cau, cặn bả, cấu uế, tất những mùi hôi tanh có màu đỏ; hoặc miểng chậu, miểng lu mái, miểng bát, miểng chai, vỏ ốc thúi, chúng phải nhai nuốt như vậy dầu miệng lưỡi bị tuôn chảy máu me đầm đìa; hoặc tựa theo trụ cầu đón xác thúi, giòi nhặn của thú tử mà làm thức ăn, hoặc ăn tro, ăn đất cát dưới các chổ sanh sản!!!
      Tất cả những sự thọ thực của ngạ-quỷ đều tùy nghiệp lực mà được dùng mỗi thứ đều khác. Thoảng như tìm không được những thức ăn phù hợp như vậy thì cam chịu đói khát, khô gầy, rên khóc kêu la khô khan cả cổ họng, kêu không nên tiếng, chỉ bò lăn dưới đất cát nóng như lửa than, phỏng vuột tay chân lại ngã lăn như trục trục, dầu cho nước đầy sông tràn hồ cũng không được uống!!! May thay gặp thời pháp mạt, thế cuộc chuyển xoay, lòng người xa Ðạo, tu hành rất hiếm kẻ, Ðức-Thánh Nhân-Hiền mỗi lúc càng suy giảm, vật chất đa sanh, văn minh đồi loạn, lòng người thêm dục vọng, tham, sân, làm cho trần dương sự cấu nhiễm, tội lỗi tăng gia, ấy là tạo cơ hội, đem tất cả phương tiện đến cho ma quân tạo lợi thế, chúng được nắm thế ưu mới gây cuộc sống động, hoành hoại cõi dương đưa đẩy loài người vào tội ác để cho nhân nhân, quả quả dày nặng như núi Tu-Di, làm đà tiến triển rốt ráo đến họa diệt thế.
 (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Kính bạch Ðức Quan-Âm: vừa nghe qua mọi khổ não của bọn ngạ-quỷ, con liền phát tâm thương xót, và những cái mầm mống giao khởi cấu tạo thời cuộc như vậy, con nguyện thỉnh ý Quan-Âm vì sao tâm hạnh từ bi nơi đại hải Bồ-Tát và Ðức Quảng-Ðại Quan-Thế-Âm lại chẳng cứu độ, vớt hồn ngạ-quỷ khỏi chốn trầm luân đưa về cõi siêu lạc, thứ nhứt là lợi cho ma đạo thoát khổ thọ lạc, thứ hai dầu thời pháp mạt nhưng loài người cũng đở phải động lực của bọn ác quỷ ám ảnh để hoành hoại mà đưa đến cơ tận diệt. Và thoảng như hiện trạng ngày nay cuộc chiến tranh nguyên tử rủi bùng nổ thình lình, như vậy những người có tham gia trong cuộc chiến hoặc những kẻ chủ động, hoặc những người đã gây tạo nhiều tội trọng thì việc thọ báo đã đành; nếu kẻ vô tội, người thiện đức hoặc người tu hành, hoặc chư vị Bồ-Tát thọ thân hóa độ, rủi họ vướng phải họa lây thì có oan khúc chi cho họ chăng?
      Và Cơ Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ khai sáng ra mối Ðệ Nhị Huỳnh-Ðạo nơi hải ngoại ngày nay, thời kỳ thế chiến thứ ba quá cận kề thì thế gì hóa độ cho kịp? Hơn nữa là đời nay đức tin rất yếu ớt, lòng nghi hoặc lại mạnh lớn hơn vô biên, thế gì hóa độ chúng sanh cho được hoàn mãn trong kỳ đại họa sắp tới???)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân vừa khai thị những lời thỉnh nguyện đại lành như thế! Hãy khéo nghe cho kỹ, biên chép cho rành rõ, phổ cập đúng thời những lời lành Ta nay tuyên thuyết, ấy là phương thức lợi hành thứ nhứt.
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Ðại-Bồ-Tát tâm từ vô lượng, dầu cho nước nơi đại-hải không bì được, và tâm vô ngại đại-bi chẳng chổ rốt ráo sánh như hư không, nhưng vì sao chẳng thể độ dứt chúng sanh nơi ba đường ác?
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Chư Ðại-Bồ-Tát đối với chúng sanh như bi-mẫu, dầu căn tánh lợi, độn, dầu cho thiện ác thắng liệt như thế nào đối chư Bồ-Tát vẫn một tánh bình đẳng không hai, với ÐẤNG CHÍ-TÔN cũng như vậy. Còn Ðạo pháp ví như ngọn minh-đăng. Những Kinh điển pháp giáo lưu bá phổ cập khuyến cáo ví như sức mạnh chư Ðại-Bồ Tát từ trên thuyền bè đưa tay xuống nơi ba đào nước cuốn lầy lội đục nhơ mà vớt người sắp bị chết đắm. Chết đắm vì sóng mồi vật chất; chết đắm vì cặn bả đục nhơ nơi ngũ-dục; chết đắm vì nước biển tam độc cuốn nhanh! Nhưng nếu Tam Thế Chư Phật hằng hóa độ chúng sanh chẳng ngớt, thì chúng sanh ở trong tam sanh kiếp vẫn lưu trử tập nghiệp chứa nhóm tam độc. Ðời nào cũng có kẻ thiện người ác, kiếp nào cũng có lành có dữ, có giác có mê, có thiện giác, có ác giác. Huống nay cuối đời pháp mạt, thế giới nhân loài càng ảnh hưởng kiếp trọng trược nặng nề, từ hai ngàn năm qua loài người hoặc chướng, ác giác đã vân tập như mây che!
            Vì chúng sanh khổ, vì cứu vớt hiểm nạn nơi ba đường ác nên Chư Ðại-Bồ-Tát hằng dùng con thuyền Ðạo-Pháp làm phương tiện cứu cánh, dùng Kinh điển giáo hóa chúng sanh như dùng món thuốc hồi sinh cứu người bịnh ngặt đang cơn hấp hối. Tuy nhiên, chẳng phải hoàn toàn trọn đủ tất mỗi căn trí chúng nhân. Thiện-nhân! Chính Phật Thế-Tôn còn phải trừ lại hạng Nhứt-Xiển-Ðề. Lại huống chi nay nhằm thời Pháp mạt, trong vòng hai ngàn năm qua lại hiếm gì hạng người bất giác như vậy, trừ khi tại cõi thế nhân đã dứt hết căn ác giác Nhứt-Xiển-Ðề và tam độc Thân, Ngữ, Ý nghiệp thì ba đường ác đạo tự nhiên chấm dứt.
Nếu áp lực cơ diệt hóa tới cùng nhân loại chậm hay mau sẽ có ba yếu tố, và ba cái yếu tố đó sẽ bài tiết rất tỏ rõ ở trong cuộc sống của nhân loại hằng ngày, mà nhân loại sẽ là nắm quyền tối hậu quyết định lấy cho chính mình, chớ không phải quyền tối hậu quyết định ấy là do nơi ma đạo.
YẾU TỐ THỨ NHỨT
Là nhân loại ngày nay đã xét thấy cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử có lẽ sẽ đến với thế giới một sớm một chiều, và xét thấy khắp nơi trên cõi Ta-Bà xiển dương Ðạo-Pháp, Kinh điển lưu bá một cách khẩn trương và đủ trong Tam-Thừa Cửu-Phẩm. Như vậy, tất cả căn trí thắng liệt phải khéo tư duy, khéo hồi minh cảnh trí, ngộ sám hoàn lương cải tà quy chánh, tu niệm cho được phù hợp với căn cơ mình, trước lợi mình, sau lợi người, chăm học Kinh điển để dứt trừ tập nghiệp, thường niệm Di-Ðà cầu phước huệ vinh thăng.
      Ðược như vậy hết thảy thì cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử sẽ tự tiêu hủy, đó là "Bất chiến tự nhiên thành", ấy là cái phúc lạc thanh tịnh chính người phải tự lập.

YẾU TỐ THỨ HAI
      Là toàn tất Chư Linh có nhẫn thọ hành trì Bổn-Nguyện cứu cánh nhân loài, xả thân tu cầu hồi hướng công đức lợi tha cho chúng sanh hay chăng là yếu tố thứ hai. Nếu các chư Linh-Căn chẳng quyết tâm đem sức thiện căn của mình, phúc đức của mình, công năng của mình mà hồi hướng gia trì phước lực tăng tấn cho chúng sanh, thì chúng sanh dầu có ăn năn cũng chưa thấm bổ với nghiệp lực tập thể giữa nhơn loài trong thời Pháp mạt ngũ trược tăng tấn, khoa văn minh tấn hóa cực tiến như hiện nay!
      Lại xét cuộc họa diệt nơi cõi Ta-Bà trong thời đại nói chung, bất cứ với hình trạng diệt hóa tập thể nào: thiên tai, địa ách, thế chiến hoặc chiến tranh lẻ, hoặc trong quốc độ nào, châu bộ nào thì số nạn vong tập thể đó tuy không trọn hẳn được lành dữ thiện ác, thì số nạn nhân đó phải có đủ căn đủ nghiệp, có thiện có ác, nhưng đại đa số là những người thiếu tu niệm, ít phước đức. Những xứ sở đó, quốc độ đó đã nhiều kiếp chẳng được chư Bồ-Tát trụ xứ để hóa độ. Vì sao? Vì chẳng đó Ðức-tin nơi Phật-pháp nên Thánh-linh chẳng đến. Tuy nhiên, vẫn phải có kẻ lương thiện, có bực hiền nhân lẫn lộn với số rất tối thiểu, thế nên chẳng đủ phước lực để che chở hiểm họa chung phần! Vì thiếu diễm phúc nên chẳng được ÐẠI-ÐẠO quảng truyền, Kinh pháp chẳng được lưu bá, chư vị Bồ-Tát cùng các Thánh-Linh chẳng đến lưu trụ, cơ TẬN-ÐỘ chẳng được phổ cập đúng thời để cứu cánh!
      Nhưng vào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như vậy. Những kẻ nhiều tội ác thì tất phải thọ quả ác. Người lương thiện thọ nạn như vậy tức là thọ phước. Vì sao? Vì những kẻ tội ác hiểm độc nếu chết là hiểm nạn, chết là khổ não, chết là thối hóa, chết là mất mạng, mất lộc, mất lợi, mất thân, mất thể.
      Người hiền lương, sống thường tu tạo phước đức, chết là hủy khổ sanh lạc, chết là chuyển nữ sanh nam, bần khổ sanh phú quý; nếu tướng mạo thô ác xấu tật lại chuyển sanh tướng hảo, căn trí hạ liệt chuyển sanh nhà tôn quý, được gần gủi thiện-nhân, học thông Ðạo-lý thành bực đa văn.
      Vậy lúc thọ hiểm nạn tuy đồng, chỉ dứt một tấc hơi khổ lạc đều khác hẳn, tất chẳng có gì là oan cả.

YẾU TỐ THỨ BA
      Nó sẽ hoàn toàn ảnh hưởng trong hiện tượng của hai yếu tố trên mà dung nạp thành quả.
      Thoảng như hết thảy nhân loại nói chung, tất cả người Việt từ quốc độ Việt-Nam tị nạn chánh trị, mang danh nghĩa Ðại-Ðạo lưu trú khắp thế giới nói riêng, trong số đó có đủ căn đủ trí, đủ Tam-Giáo Ngũ-Chi, chư vị Bồ-Tát, Thánh- Linh, căn cơ thắng liệt, thiện ác, hiền lương, hiểm hung, độc dữ, tu niệm, thánh đức, hiền nhân chẳng thiếu, mà sứ mạng Tận-độ là cái sứ mạng chánh của quốc độ Việt-NamÐược một sứ mạng hy hữu như vậy dầu rằng một quốc độ tiểu nhược nhưng hậu lai sẽ tràn đầy thắng phước, công đức dân tộc ấy như nước biển chẳng lường! Một diễm phúc tối cao được Bề-Trên chọn cuộc khai sáng cơ nghi ÐẠI-ÐẠO ngay trong thời Pháp mạtGồm năm nhánh dựng thành cơ hữu Tận-Ðộ, cứu cánh đúng thời, sánh như dựng lên một tòa nhà bằng Pháp-Bảo giữa trung vị đường ngã năm. Ngôi nhà kia chứa đầy Pháp vị, sắm đủ các món ăn nuôi dưỡng tinh thần, đủ các loại thuốc cứu nguy bịnh ngặt.
      Còn số kiếp nhơn loài ngày nay sánh như những khách bộ hành đang lở bước hành trình gặp lúc hoàng hôn giữa rừng thiêng núi hiểm, không tìm ra lối thoát, thành ấp lưu trụ hãy còn xa..., họa diệt thế cùng tập nghiệp chúng sanh như rấp nhập cảnh hoàng hôn bán lộ! Thì tòa nhà Pháp-Bảo kia là nơi tá túc mà lánh họa hiểm cùng. Sống nơi tòa nhà Pháp-Bảo kia đã sẵn đủ phương tiện, chẳng đói khát, không sợ hãi, chẳng còn thành vách ngăn che giữa màu sắc, giữa phái tông, mà chỉ dung thông sự Bình-Ðẳng, nối kết tình cốt nhục tương quan, thương yêu lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau, dùng Ðạo-Pháp mà làm món ăn nuôi dưỡng tinh thần cho được khôn lớn, được lành mạnh. Dụng THIÊN-NHÃN làm ánh sáng mặt trời, sự soi sáng tâm hồn ngõ tìm nguồn thiện phước mà phục thỉ hồi chơn...
      ...Dầu cho muôn Kinh ngàn điển, Tam-Giáo, Ngũ-Chi, triết môn, huyền học, rốt ráo cũng trở về một nguồn Ðạo vô thượng đệ nhứt nghĩa là chỗ tối hậu pháp yếu.
      Còn cơ ÐẠI-ÐẠO khai minh, NHÃN mục thần dương là lý, biểu tượng ÐỨC NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ÐẾ, sự soi sáng là lằn thượng diệu điển quang. Dầu Ngài chẳng thọ thân vì thời Pháp mạt, sự giáo Ðạo chỉ dùng lối vô hình phối trí cùng hữu vi để hóa Ðạo. Ngoài ra, những nền tảng giáo pháp kinh tạng, Nho, Lão, Thích, giới luật, điều qui, văn ngôn, luận ngữ, luân lý giáo điều tất đều đầy dẫy, thừa sức thông dùng cho tất hàng hữu học, trừ khi lòng người chẳng mộ ưa cầu học thì rất khó nghĩ bàn.
      Tuy nhiên, Ðạo khai dùng thuyết Tận-Ðộ, tức phải tùy thuộc căn cơ chúng sanh, bổ túc Kinh điển được phù hợp căn trí, phù hợp bối cảnh, tương ứng nguyện vọng, điều thuận sự ngăn chia, hòa nhu thời ác chiến, như dùng những giọt mưa bằng nước Ma-Ha tưới ngọn lửa phiền não đã bừng cháy khắp cõi đại địa, ấy gọi là phương châm cứu cánh tận độ.
      Ngoài còn diệu lực gia trì vô năng thắng nơi Bề-Trên đại-bi, đại-từ nhiếp niệm. Hằng hà chư Ðại-Bồ-Tát, ức vạn chư Thiên bủa tràn thắng phước tăng tấn sức thiện căn, giúp chư thiện chúng hành trì Ðạo-Pháp được kiên nhẫn, thâu nhiếp các thiện nguyện lợi tha, giảm hoặc chướng, tăng phước lực, làm cho cõi đại địa mây chướng mòn tan, ánh quang đãng thượng diệu mặt Nhựt rọi vào, muôn loài vạn vật được nhờ hơi ấm thiên nhiên cùng ánh sáng vô nhị ấy mà hưởng được phúc lạc thanh tịnh.
      Vậy toàn cõi thế nhân hãy lưu tâm định ý phục nguyện hoàn lương, gieo giống thiện căn, tài bồi ruộng phước, tự giác tự tu mà độ mình cứu người hầu được khỏi phụ lòng Trời Phật, và để cho biển phước thế nhân luôn được chứa đầy nước mát mùi thơm, đời đời chẳng bị khô cạn. Ðó là kết ba yếu tố đem lại thành quả vậy...
QUAN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT

                              Thi bài:
      Cơ cứu thế mạt đời gieo rải,
      Thức tâm hồn nhơn loại ngủ say,
            Thiên-Cơ tuy chẳng lộ bày,
Nhân duyên kiếp mạt hằng ngày tấn mau.
      Dòng suối nghiệp tuôn trào ngập bể,
      Cuộc đáo đầu nguơn hệ kỳ ba,
            Sấm Kinh khuyến thiện hằng hà,
Hồi chơn tỉnh thế Ta-Bà giải nguy.
      Cõi đại-địa trong kỳ diệt hóa,
      Lòng Trời thương khai xá Ðạo mầu,
            Hóa hoằng tận độ Ngũ-Châu,
VIỆT-NAM trọng trách hoàn cầu lợi tha.
      ÐẠI-ÐẠO như tòa nhà Pháp-Bảo,
      Ẩn vào đây nương náu đêm dài,
            Bốn bề hiểm trở chông gai,
Hùm beo rắn độc muôn loài bao quanh.
      Phật nhập diệt, bộ hành lở tối,
      Mạt pháp đời, hấp hối tai nguy,
            Ðạo khai tận độ tam kỳ,
Dựng nhà giữa cuộc đường đi lỡ chừng.
      Bồ-Tát chúng hóa thân che chở,
      Chư Thánh-Linh khắp ở tứ châu,
            Nguyện trong bá tánh hồi đầu,
Chấp tay niệm Phật mà cầu vãng sanh.
      Chuyên tập sửa tánh lành phát hóa,
      Thì họa ương bất khả xâm thân,
            Chớ nên vọng nhiễm mùi trần,
Công danh phú quí xa lần mới kham.
      Phước đức trọng Dà-Lam che chở,
      Lợi danh cao hơi thở phập phồng,
            Của đời tuy có mà không,
Nay đây mai đó cùng trong não phiền.
      Ðạo là món ăn hiền pháp vị,
      Vừa thanh lương, khai trí trụ thần,
            Xa lìa hiểm nạn bảo thân,
Mé bờ Cực-Lạc thấy gần kề bên.
      Người tu niệm Ơn-Trên thường giúp,
      Kẻ lăng loàn lặn hụp biển trần,
            Hằng ngày tam độc nhiễm thân,
Ngộ luồng ác khí khó mong cứu hồi.
      Dòng nước bợn cuốn trôi kẻ yếu,
      Yếu tinh thần lại thiếu tu thân,
            Sống vui với cuộc giả trần,
Nào hay bẫy rập vướng chân hiểm nàn.
      Tu là tạo sen vàng cửu phẩm,
      Tu là trừ ngũ ấm dứt rời,
            Ba độc trừ dứt nhớ lời,
Ngọn đèn trí huệ sáng ngời trước sau.
      Ao Thất-Bửu nhìn màu chiếu lạ,
      Nước tịnh minh siêu hóa diệu mầu,
            Tẩy lòng hoặc chướng dứt mau,
Bồ-đề giữ chặt ma nào dám lung?
      Ma ngoài dữ muôn trùng khó sánh,
      Ma nội tâm hay đánh giác hồn,
            Dại mà tu niệm: dại khôn,
Khôn đường thế sự xác hồn khổ thâm.
      Ðời đảo loạn chủ tâm không đảo,
      Cuộc hổn nàn Tam-Bảo móng nền,
            Tu tâm luyện tánh vững bền,
Gieo trồng ruộng phước ghi tên bảng vàng.
      Kiếp người thế canh tàn ảo mộng,
      Như rừng đêm cọp rống voi rền,
            Khôn thời thuyền Ðạo bước lên,
Thoát vòng khổ lụy kề bên sớm chiều.
      Ngàn thuở mới ngân-kiều gặp hội,
      Biết bao phen chìm nổi ngục trần,
            Mạt đời bẫy cạm vướng chân,
Buổi đời trọng ác muôn phần khổ gay.
      Cuộc đại-chiến chờ ngày phát họa,
      Lễ Cầu-An tua khá lưu tâm,
            Trì Kinh Cứu-Khổ Quan-Âm,
Cầu-An Sám-Hối ân thâm hộ trì.
      Ngày đêm niệm A-Di thường nhớ,
      Là phương châm tế trợ hiểm nàn,
            Tại trần cũng được vạn an,
Ðến kỳ thoát hóa Tây-Phang liền kề.
      Nhìn thế mạt ê chề vật chất,
      Miếng đỉnh chung thực vật đủ mùi,
            Trăm ngàn thú cuộc trò vui,
Miếng mồi câu nhử loài người đọa mê.
      Từ chỗ vui trở về tăm tối,
      Từ cao sang mượn lối ngục tù,
            Biết thời gìn một chữ Tu,
Thuộc lòng nhẫn nhục ngàn thu cảnh nhàn.
      Vì cuộc thế sôi tràn quả nghiệp,
      Lòng từ bi minh thiệp bày lời,
            Liễu tâm chánh huấn kịp thời,
Kia thuyền Bát-Nhã độ người thoát mê.
      Bờ ngạn-giác trở về hội hiệp,
      Lánh biển mê trong kiếp mạt đời,
            Sóng trần trôi dạt mòn hơi,
Hạ-Nguơn kiếp mạt, đáo đời họa lây.
      Hỡi thiện-căn! chớ chầy bổn nguyện,
      Góp tâm thành thực hiện Ðạo chơn,
            Tu tâm gương hậu thế nhân,
Tu cầu phúc lạc tha thân buổi cùng.
      Chư thiện-tín đồng chung hạnh ngộ,
      Ðược lời chơn hãy cố tâm gìn,
            Rèn lòng niệm Phật trì Kinh,
Phước cầu tăng tấn, thái bình dựng mau.
  Nầy Thiện-nhân, thời PHỔ-CHIẾU TÂM-KINH sắp mãn, nay còn điều chi tối cần Thiện-nhân khá bạch trình lên.
      (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Nam mô A-Di-Ðà Phật! Kính bạch Ðức Quan-Âm: vì con nhớ kỳ Ðàn Cơ-Bút ngày 15 tháng 5 dương lịch, Ðấng Chí-Tôn dạy rằng: Ðức Quan-Âm thị hiện cỡi rồng nơi biển Nam-Hải ấy là có ý ban cho bá tánh một bức Thánh-Ảnh chơn thật, để cho tất cả trăm họ bốn phương thờ kính phụng trì. Ðức Quan-Âm sẽ ban hành diệu lực cứu khổ phò nguy trong thời kỳ mạt pháp nầy. Vì nhiều khổ nạn đến trong chúng sanh cấp thiết, vì nạn vô minh che chướng mà chúng sanh chưa được minh liễu sự lợi ích cho mình và cho người, nên khi lâm nạn hoặc cấp, hoặc trì, hoặc sắp đến, hoặc bịnh chứng nguy cấp, hoặc nan y, kẻ biết cầu Quan-Âm cứu khổ cứu nạn thì rất ít, mà người chưa biết đại diệu lực cứu khổ nạn nơi Quan-Âm thì rất nhiều!
      Nay Ðức Quan-Âm Như-Lai phổ minh quyển Tâm Kinh nầy vào đại thế chúng, vậy con kính lạy Quan-Âm xin nhờ chỉ giáo cho biết cách thờ phượng cũng như nghi thức, hoặc phương tụng niệm để được khỏi sai lạc. Ðây là một niềm đại ân phúc đến cõi thế nhân, ví như biển nước Ma-Ha toàn đầy vị ngọt, mát mẻ thanh trong, và nguồn nước tám công đức vô lượng nầy được lưu vận vào tất cả sông ngòi cho tất chúng sanh đồng được uống để giải trừ nạn khát, hoặc từ lâu vì quá khát phải uống nhằm nước độc, mặn, nay đã sắp chết, gặp được bát nước trong mát ngọt, tức thì được hồi phục sự sống.
      Hoặc sánh như số người đang ngủ quên trong ngôi nhà rộng lớn kia, nửa đêm bị lửa bốc cháy, tất cả người đều chẳng có lối thoát, bỗng gặp ân nhân đem nước tới tưới lửa dẫn ra khỏi nạn chết. Thì đây là một đại-diễm-phúc cho nhân loại, là do nhờ ơn đức đại từ bi của Ðức Quan-Thế-Âm, công đức bổn nguyện mười hai hoằng thệ thâm như đại hải! Sau khi lời bạch trình cầu thỉnh Phật ngôn giáo điều cần thiết, con xin thay mặt cho toàn thể chúng nhân, khắp thiện-nam tín-nữ, khắp hết đạo-đồ các nơi, thành tâm kỉnh lễ Ðức Quan-Âm trước đây trăm lạy, ấy gọi là thay mặt chúng sanh dưng chút lễ rất nhỏ mọn trong lúc nghèo cùng, phước, trí chẳng có, công lao cùng bảo phẩm quí giá cũng không! Chỉ dâng hiến món tâm thành vô lượng ngỏ báo Phật ân, và cầu Phật gia trì cho hết thảy chúng nhân đồng thụ hưởng phúc lạc thanh tịnh thứ nhứt, cầu được cõi âm đồng siêu liễu, cõi dương được thái bình, đồng hạnh lạc nhờ nơi phước lực đại từ bi và đại công đức cứu khổ nàn nơi Phật lực. Nam mô Ðại Từ Ðại-Bi Linh Cảm Ứng Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.)
      - A-Di-Ðà Phật! Lành thay! Niệm ý lành thay! Nầy Thiện-nhân! Như quyển TÂM-KINH ngày nay được phổ cập nhân sinh, một là nơi bổn nguyện độ thế trong phần thiểu vị nơi lòng từ mẫn của Quan-Âm thôi! Ngoài đây lại còn biết bao nhiêu công năng nơi thiện-nam tín-nữ, tức là Bồ-Tát lực phối tác nhơn lực mới gieo rải duyên lành. Nếu quên lãng công đức nơi chư căn thiện-nam tín-nữ thì Bồ-Tát lực nơi cõi siêu diêu thế gì tạo tác phần hữu thể.
      Sự tán dương công đức nơi Quan-Âm Ta rất cảm, nhưng đối công năng chư Ðại-Bồ-Tát chúng, và tất chư bổn nguyện lợi tha, dũng lực đại bi, tâm từ mẫn thiệp nơi chư Ðại-Bồ-Tát chúng thì Ta chưa nhằm được vi ti trong xứ sa mạc, lại đâu thể gọi đây là đại công đức.
      Cũng như chính Ta thuở quá khứ vì lòng thương xót kẻ nạn nhân, những khi hành thuyền lâm nạn, hoặc bảo tố, hoặc giặc cướp, hoặc thuyền xiêu biển cả, Ta bèn tự tay cắt mái tóc xanh thả trôi dòng đại hải, biến thành tám vạn bốn ngàn Thần Hải-Ngư, tất những Thần Hải-Ngư đồng lực thần thông, tầm thinh cứu khổ y như Bồ-Tát Quan-Thế- Âm, nhưng đối với chư Ðại-Bồ-Tát cũng chưa sánh được công đức vậy. Huống nay chỉ bộ Kinh. Tuy dầu đối với Bồ Tát thì chẳng mộ xưng công, nhưng bổn tánh Kinh điển báu lạ vô biên, giúp giải họa đời sánh như ao nước bát công đức! Ta nguyện đem phước lực này mà bố hóa toàn diện cho hết thảy chư chúng sanh, cho hết thảy thiện-nam tín-nữ, người thành tâm hiếu mộ, đọc tụng, tin ưa, phụng trì thiết thực, thờ phượng chơn thật Thánh-Ảnh, tin sâu lời giáo pháp không nghi chấp, không quên lãng.
      Và những người thiện-tín trọn thành tâm gom công góp sức bồi bổ vào công cuộc ấn tống Kinh, hoặc cúng dường bằng công năng, bằng tài hóa, hoặc thành tâm đem Kinh điển giao tận tay, tận nhà cho người được ngộ nhận, thì phước lực đồng đẳng cả không sai.
      Tất cả chư căn thiện-tín đạo đời hãy vững vàng tâm niệm, diệu lực phước báo nơi công đức ấn tống Kinh nầy sẽ được tài bồi hậu hữu, tiêu giảm chướng căn, tập nghiệp mòn tan, giải trừ hoạn họa, sánh như người được tắm gội Cam-Lồ vậy!
      Ngoài phần nội dung Tâm-Kinh thì những Kinh thường tụng tại gia chư thiện-tín thì chỉ dùng Cứu-Khổ Kinh vào mỗi thời trong ngày. Nếu vì bận bịu thời giờ và không đủ phương tiện lập Thiên-Bàn, chỉ một Thánh-Ảnh Quan-Âm thì hãy thành tâm cầu bận Kinh Cứu-Khổ, vậy cầu cho đệ tử tên họ mình (người tụng đọc: nhứt gia ly khổ nạn). Ngoài thời trì Kinh thì ít hơn hết là mỗi gia đạo phải có một hoặc hai người vào phụng trì môn niệm Phật, tràng hạt chuỗi 108 xem như bửu-pháp hộ mạng ở thời khốn mạt tai ách quá kề. Thì đó là phương châm thoát họa đệ nhứt và môn Cứu-Khổ Quan-Thế-Âm mà thôi.
      Lại quyển TÂM-KINH QUAN-ÂM nầy mọi phương cách xin được thuần thục vào giác quan để nhắc lòng hầu hối ngộ ăn năn hồi chơn phục thỉ.
      Ðiều cần yếu tối trọng là những lúc về sau bất cứ lúc nào, bất cứ sự sợ hãi nào xảy đến hoặc sắp xảy thì tất cả đều vào niệm Cứu-Khổ thành tâm và chuỗi A-Di-Ðà phải kiên cố. Ðó là phép tốc tật giải nàn trong những thời gian cấp thiết quá hạn hẹp mà không thể dùng kịp những pháp môn khác.
            Ngoài đây hãy còn sự tế cấp diệu lực Bề-Trên gia trì hộ hựu chẳng ngớt. Khuyến cáo toàn thể tín-nữ thiện-nam tin sâu nơi diệu-pháp, dứt hẳn lòng nghi, hộ trì Chánh-Giáo là góp sức thiện-căn chung tay cùng chư Ðại-Bồ-Tát mà thi thố bổn nguyện cho được thành mãn CƠ TẬN-ÐỘ vậy!

Kệ rằng:
Hậu phước thay cho trong thời pháp mạt,
Cả chư linh năng phát tác nghiệp lành,
CƠ TẬN-ÐỘ nầy cần trí giác giữa nhơn sanh,
Chư Thánh-chúng mới trọn thành bổn-nguyện.
Bực căn-trí năng thuần đường tu luyện,
Chư thiện-tâm cùng phát nguyện hộ trì,
Kẻ chưa, thời vào nhập Pháp qui y,
Người Phật-tử gắng hành trì câu niệm Phật.
Còn xử thế hãy gìn lòng chơn thật,
Ai cũng phải cần manh áo với cơm,
Sống làm sao giữ được tiếng danh thơm,
Nghèo cơm áo, quí hơn giàu nhơ bợn.
Nghèo tiền bạc, giàu lòng nhơn đức,
Kẻ nghèo nầy sánh bực thượng-lưu,
Cơm ngày hai tâm trí vẫn vô ưu,
Thức giấc ngủ huân lưu câu niệm Phật.
Xét cho cạn kiếp người là sự thật,
Cõi vô thường, nhân vật mãi vần xoay,
Biển luân hồi muôn kiếp mãi lưu đày,
Nhơn thể mất, biết bao ngày tìm lại được?
Dòng ái dục cuộn trào như thác nước,
Ba món độc làm cho lợi trước hại về sau,
Như cá gặp mưa lực vận nhảy hố hào,
Chẳng suy cạn nơi nào là cạm bẫy.
Người có trí khôn ngoan hơn biết mấy,
Vật chất là chỗ thấy giục lòng tham,
Máu với xương thảm họa chúng đành cam,
Nguyên-Tử chiến cũng vì ham bá chủ.
Người độc ác ấy vì mê giấc ngủ,
Trống canh tàn bạch thủ chốn âm ty,
Hỡi chư căn, tỉnh giác kịp hồi quy,
Sen chín phẩm nơi Liên-trì còn đợi mãi.

NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT.






42 Thủ Nhãn Ấn Pháp Theo Kinh 


Đại Bi Tâm Đà La Ni


-o0o-






Thể hiện ý nghĩa, chân ngôn, công dụng, với hai loại hình Mật Tông và Thiền Tông.


Kinh Đại Bi Tâm Đà Ra Ni

Đời Đường, Sa môn Dà Phạm Đạt Mạ
Dịch Giả: Thích Thiền Tâm

-o0o-



Như thế tôi nghe, một thời đức Phật Thích Ca Mâu Ni (2) ngự nơi đạo tràng Bảo Trang Nghiêm, trong cung điện của Quán Thế Âm Bồ Tát ở tại non Bổ Đà Lạc Ca (3), đức Phật ngồi nơi tòa sư tử, tòa này trang nghiêm thuần bằng vô lượng ngọc báu tạp ma-ni, xung quan treo nhiều tràng phan bá bảo.



Khi ấy, đức Như Lai ở trên pháp tòa, sắp muốn diễn nói môn tổng trì đà ra ni (5), có vô lương số Bồ Tát ma ha tát câu hội, các vị ấy là: Tổng Trì Vương Bồ Tát, Bảo Vương Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Hoa Nghiêm Bồ Tát, Đại Trang Nghiêm Bồ Tát, Bảo Tạng Bồ Tát, Đức Tạng Bồ Tát, Kim Cang Tạng Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát (7), Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (8)...



Những vị Bồ Tát như thế đều là bậc quán đảnh đại pháp vương tử (9). Lại có vô lượng vô số đại thanh văn đều là bậc A La Hán (10), tu hạnh thập địa câu hội. Trong ấy, ngài Ma Ha Ca Diếp (11) làm thượng thủ. Lại có vô lượng Phạm Ma La Thiên (12) câu hội. Trong ấy, ngài Thiện Tra Phạm Ma (13) làm thượng thủ. Lại có vô lượng chư thiên tử ở cõi trời Dục giới câu hội. Trong ấy, ngài Cù Bà Dà thiên tử (14) làm thượng thủ.



Lại có vô lượng hộ thế tứ thiên vương câu hội (15) trong ấy, ngài Đề Đầu Lại Tra (16) làm thượng thủ. Lại có vô lượng Thiên, Long, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Dà, Nhơn, Phi nhơn (17) câu hội. Trong ấy, ngài Thiên Đức đại long vương làm thượng thủ. Lại có vô lượng chư thiên nữ ở cõi trời Dục giới câu hội, trong ấy, ngài Đồng Mục Thiên nữ làm thượng thủ.


Lại có vô lượng Thần Hư không, Thần Giang hải, Thần Tuyền nguyên, Thần Hà chiểu, Thần dược thảo, Thần Thọ lâm, Thần xá trạch, Thần cung điện, cùng Thủy thần, Hỏa thần, Địa thần, Phong thần, Thổ thần, Sơn thần, Thạch thần v.v.. đều đến tập hội.

Bấy giờ, đức Quán Thế Âm Bồ Tát ở trong đại hội, mật phóng ánh thần thông quang minh, chiếu sáng 10 phương sát độ và cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều thành sắc vàng. Từ thiên cung, long cung cho đến cung điện của các vị tôn thần thảy đều chấn động. Biển cả, sông nguồn, núi Thiết Vi (18), núi Tu Di (19), cùng thổ sơn, hắc sơn, cũng đều rung động dữ dội. Ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, và châu báu và lửa đều bị ánh kim quang rực rỡ kia lấn át làm cho ẩn mất không hiện.

Lúc đó, ngài Tổng Trì Vương Bồ Tát thấy tướng trạng hy hữu ấy, lấy làm lạ cho là việc chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay, dùng lời kệ hỏi Phật, để biết tướng thần thông kia do ai làm ra, kệ rằng:
Ai thành chánh giác trong ngày nay?
Khắp phóng ánh sáng như thế này,
Mười phương sát độ thành sắc vàng
Cả cõi đại thiên cũng như vậy,
Ai được tự tại trong ngày nay?
Phổ diễn thần lực ít có này.
Không ngằn cõi Phật đều rung động,
Cung điện long thần cũng long lay,
Sức thần thông này ai làm ra
Là ánh quang minh đấng Phật Đà
Là của bồ tát, đại thanh văn,
Hay trời Đế Thích, cùng Phạm ma?
Nay trong chúng hội đều sanh nghi,
Chẳng biết đây là nhân duyên gì?
Muốn cầu hiểu rõ, tâm thành kính,
Hướng trông về ngôi đại từ bi.
Đức Phật bảo Tổng Trì Vương Bồ Tát:
'Thiện nam tử! Các ông nên biết trong pháp hội này, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát, tên là Quán Thế Âm Tự Tại, từ vô lượng kiếp đến nay đã thành tựu tâm đại từ bi, lại khéo tu tập vô lượng Đà la ni môn. Vị Bồ Tát ấy vì muốn làm cho chúng sanh được lợi ích an vui, nên mới mật phóng sức thần thông như thế'.



Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: ''Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm đà ra ni, nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sanh được an vui, được trừ tất cả bịnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi doãn hứa.



Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú (20) để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế.



Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tôi nhớ vô lượng ức kiếp về trước, có Phật ra đời, hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như Lai, đức Phật ấy vì thương nghĩ đến tôi và tất cả chúng sanh nên nói ra môn Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngài lại dùng tay sắc vàng xoa nơi đầu tôi mà bảo: Thiện nam tử! Ông nên thọ trì tâm chú này và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi nước ở đời vị lai mà làm cho họ được sự an vui lớn.



Lúc đó tôi mới ở ngôi sơ địa, vừa nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Bấy giờ tôi rất vui mừng, liền phát thệ rằng:



Nếu trong đời vị lai, tôi có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân tôi liền sanh ra ngàn tay ngàn mắt.



Khi tôi phát thệ rồi, thì ngàn tay ngàn mắt đều hiện đủ nơi thân, lúc ấy, cõi đất 10 phương rung động 6 cách (21), ngàn đức Phật trong 10 phương đều phóng ánh quang minh soi đến thân tôi, và chiếu sáng 10 phương vô biên thế giới. Từ đó về sau, tôi ở trong vô lượng pháp hội của vô lượng chư Phật, lại được nghe và thọ trì môn đà ra ni này. Mỗi lần nghe xong, tôi khôn xiết vui mừng, liền được vượt qua sự sanh tử vi tế (22) trong vô số ức kiếp. Và từ ấy đến nay, tôi vẫn hằng trì tụng chú này, chưa từng quên bỏ. Do sức trì tụng ấy, tùy theo chỗ sanh, tôi không còn chịu thân bào thai, được hóa sanh nơi hoa sen, thường gặp Phật nghe pháp. Nếu có vị Tì khưu, Tỳ khưu ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di (23) hay đồng nam, đồng nữ nào muốn tụng trì chú này, trước tiên phải phát tâm từ bi đối với chúng sanh, và sau đây y theo tôi mà phát nguyện:

Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau biết tất cả pháp.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được mắt trí huệ.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau độ các chúng sanh,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được phương tiện khéo.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau lên thuyền bát nhã.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm được qua biển khổ,
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau được đạo giới định.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm lên non Niết Bàn.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con mau về nhà vô vi.
Nam mô đại bi Quán Thế Âm,
nguyện con sớm đồng thân pháp tánh.
Nếu con hướng về nơi non đao,
non đao tức thời liền sụp đổ.
Nếu con hướng về lửa, nước sôi,
nước sôi, lửa cháy tự khô tắt.
Nếu con hướng về cõi địa ngục,
địa ngục liền mau tự tiêu diệt,
Nếu con hướng về loài ngạ quỷ.
Ngạ quỷ liền được tự no đủ,
Nếu con hướng về chúng Tu La,
Tu la tâm ác tự điều phục,
Nếu con hướng về các súc sanh,
súc sanh tự được trí huệ lớn.
Khi  phát lời nguyện ấy xong, chí tâm xưng danh hiệu của tôi, lại chuyên niệm danh hiệu bổn sư tôi là đức A Di Đà Như Lai (24), kế đó tiếp tụng đà ra ni thần chú này. Nếu chúng sanh nào, trong một ngày đêm tụng năm biến chú, sẽ diệt trừ được tội nặng trong ngàn muôn ức kiếp sanh tử.

Quán Thế Âm Bồ Tát lại bạch Phật: Bạch đức Thế Tôn! Nếu chúng sanh nào trì tụng thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào 3 đường ác, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được sanh về các cõi Phật, tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi, nếu không được vô lượng tam muội biện tài (25) tôi thề không thành chánh giác. Tụng trì thần chú Đại Bi tất cả sự mong cầu trong đời hiện tại, nếu không được vừa ý, thì chú này không được gọi là Đại Bi tâm đà ra ni, duy trừ cầu những việc bất thiện, trừ kẻ tâm không chí thành. Nếu các người nữ chán ghét thân nữ, muốn được thân nam, tụng trì thần chú Đại Bi, như không chuyển nữ thành nam, tôi thề không thành chánh giác. Như kẻ nào tụng trì chú này, nếu còn sanh chút lòng nghi, tất không được toại nguyện. Nếu chúng sanh nào xâm tổn tài vật, thức ăn uống của thường trụ (26) sẽ mang tội rất nặng, do nghiệp ác ngăn che, giả sử ngàn đức Phật ra đời cũng không được sám hối, dù có sám hối cũng không trừ diệt. Nếu đã phạm tội ấy, cần phải đối 10 phương đạo sư sám hối, mới có thể tiêu trừ. Nay do tụng trì chú Đại Bi liền được trừ diệt. Tại sao thế? Bởi khi tụng chú Đại Bi tâm đà ra ni, 10 phương đạo sư đều đến vì làm chứng minh, nên tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Chúng sanh nào tụng chú này, tất cả tội thập ác ngũ nghịch (27), báng pháp, phá người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ (28), làm nhơ phạm hạnh (29), bao nhiêu tội ác nghiệp nặng như thế đều được tiêu hết, duy trừ một việc: kẻ tụng đối với chú còn sanh lòng nghi. Nếu có sanh tâm ấy, thì tội nhỏ nghiệp nhẹ cũng không được tiêu, huống chi tội nặng? Nhưng tuy không liền diệt được tội nặng, cũng có thể làm nhân bồ đề về kiếp xa sau.

Bạch đức Thế Tôn! Nếu các hàng trời, người tụng trì thần chú Đại Bi, thì không bị 15 việc chết xấu, sẽ được 15 chỗ sanh tốt. Thế nào là 15 việc chết xấu?
1. Không bị chết do đói khát khốn khổ.
2. Không bị chết do gông tù đánh đập.
3. Không bị chết vì oan gia thù địch.
4. Không bị chết giữa quân trận chém giết nhau.
5. Không bị chết do cọp sói cùng ác thú tàn hại.
6. Không bị chết bởi rắn rít độc cắn.
7. Không bị chết vì nước trôi lửa cháy.
8. Không bị chết bởi phạm nhằm thuốc độc.
9. Không bị chết do loài sâu trùng độc làm hại.
10. Không bị chết vì điên cuồng mê loạn.
11. Không bị chết do té cây, té xuống núi.
12. Không bị chết bởi người ác trù ếm.
13. Không bị chết bởi tà thần, ác quỷ làm hại.
14. Không bị chết vì bịnh ác lâm thân.
15. Không bị chết vì phi mạng tự hại.
Tụng trì thần chú Đại Bi, không bị 15 việc chết xấu như thế.
Sao gọi là 15 chỗ sanh tốt?

1. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp đấng quốc vương hiền lành.
2. Tùy theo chỗ sanh, thường ở cõi nước an lành.
3. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp thời đại tốt,
4. Tùy theo chỗ sanh, thường gặp bạn lành.
5. Tùy theo chỗ sanh, thân căn thường được đầy đủ.
6. Tùy theo chỗ sanh, đạo tâm thuần thục.
7. Tùy theo chỗ sanh, không phạm cấm giới.
8. Tùy theo chỗ sanh, thường được quyến thuộc hòa thuận, có ân nghĩa.
9. Tùy theo chỗ sanh, vật dụng, thức ăn uống thường được đầy đủ.
10. Tùy theo chỗ sanh, thường được người cung kính giúp đỡ.
11. Tùy theo chỗ sanh, tiền của châu báu không bị kẻ khác cướp đoạt.
12. Tùy theo chỗ sanh, những việc mong cầu đều được toại nguyện.
13. Tùy theo chỗ sanh, long thiên, thiện thần thường theo ủng hộ.
14. Tùy theo chỗ sanh, thường được thấy Phật nghe pháp.
15. Tùy theo chỗ sanh, khi nghe chánh pháp ngộ giải nghĩa sâu.
Nếu kẻ nào trì tụng chú Đại Bi, sẽ được 15 chỗ sanh tốt như thế! Cho nên tất cả hàng trời, người, đều nên thường tụng trì, chớ sanh lòng biếng trễ.

Khi đức Quán Thế Âm Bồ Tát nói lời ấy rồi, liền ở trước chúng hội, chắp tay đứng thẳng, nở mặt mỉm cười, nói chương cú màu nhiệm Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni rằng:

Nam mô hắc ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà gia. Ma ha tát đỏa bà gia. Ma ha ca lô ni ca da, án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tỏa. Nam mô tất kiết lật đỏa y mông a rị gia bà lô kiết đế thất phật ra lăng bà đà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. tát bà a tha đậu du bằng a thệ dựng. Tát bà tát đá na ma bà tát đa. Na ma bà già. Ma phạt đặc đậu. đát diệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà, tát bà. Ma ra, ma ra. Ma hê, ma hê rị đà dựng. Cu lô, cu lô, yết mông. Độ rô độ rô phạt xà gia đế. Đà ra đà ra, địa rị ni, thất phật ra da. Giá ra giá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê di hê. Thất na thất na. A ra sâm phật ra xá rị. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá giạ. Hô rô hô rô, ma ra. Hô rô hô rô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ, bồ đề dạ. Bồ đà dạ, bồ đà dạ. Di đế rị dạ. Na ra cẩn trì. Địa rị sắc ni na, bà dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dũ nghệ, thất bàn ra dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ ta bà ha. Giả kiết a ra tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta bà ha. Ma bà rị thắng yết ra dạ ta bà ha.

Nam mô hắt ra đát na đá ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế thước bàn ra dạ. Ta bà ha. Án, tất diện đô, mạn đá ra, bạt đà dạ. Ta bà ha.

Bồ tát thuyết chú xong, cõi đất 6 phen biến động, trời mưa hoa báu rơi xuống rải rác, 10 phương chư Phật thảy đều vui mừng, thiên ma ngoại đạo sợ dựng lông tóc. Tất cả chúng hội đều được quả chứng. Hoặc có vị chứng quả Tu đà hoàn, có vị chứng quả Tư đà hoàn, hoặc có vị chứng quả A na hàm (30), có vị chứng quả A la hán, hoặc có vị chứng được sơ địa, nhị địa, tam địa, tứ địa, ngũ địa cho đến thập địa, vô lượng chúng sanh phát lòng bồ đề.Khi ấy Đại Phạm thiên vương từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay cung kính bạch vớI đức Quán Thế Âm bồ tát rằng: Lành thay đại sĩ! Từ trước đến nay, tôi đã trải qua vô lượng phật hội, nghe nhiều pháp yếu, nhiều môn đà ra ni, song chưa từng nghe nói chương cú thần diệu Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni này. Cúi xin đại sĩ vì tôi, nói hình trạng tướng mạo của đà ra ni ấy. Tôi và đại chúng đều ưa thích muốn nghe.

Quán Thế Âm Bồ tát bảo Phạm vương:

Ông vì phương tiện lợI ích cho tất cả chúng sanh, nên hỏi như thế, nay ông khéo nghe, tôi sẽ vì ông mà nói lược qua.

Này Phạm vương! Những tâm đại từ bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm chẳng nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm không chấp giữ, tâm vô thượng Bồ Đề, nên biết các thứ tâm này đều là tướng mạo của môn đà ra ni này. Vậy, ông nên y theo đó mà tu hành.

Phạm vương thưa: Tôi và đại chúng hôm nay mới hân hạnh được biết tướng mạo của môn đà ra ni này, từ đây chúng tôi xin thọ trì chẳng dám lãng quên.

Bồ tát lại nói tiếp: Nếu kẻ thiện nam, thiện nữ nào tụng trì thần chú này, phải phát tâm Bồ Đề rộng lớn, thề độ tất cả muôn loài, giữ gìn trai giới, đối vớI chúng sanh khởi lòng bình đẳng, và thường nên trì tụng chớ cho gián đoạn. Lại nên ở nơi tịnh thất, tắm gội sạch sẽ, mặc y phục sạch, treo phan, đốt đèn, dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống để cúng dường, buộc tâm một chỗ, chớ nghĩ chi khác, y như pháp mà tụng trì. Lúc ấy, sẽ có Nhựt Quang Bồ Tát, Nguyệt Quang Bồ Tát cùng vô lượng thần tiên đến chứng minh, giúp thêm sự hiệu nghiệm. Bấy giờ ta cũng dùng ngàn mắt chiếu soi, ngàn tay nâng đỡ, khiến cho kẻ ấy từ đó về sau có thể hiểu suốt tất cả sách vở thế gian, thông đạt các điển tịch Vi Đà (31) và tất cả pháp thuật ngoại đạo. Chúng sanh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần. Những kẻ tụng kinh tọa thiền ở nơi non sâu, đồng vắng, bị sơn tinh, tạp mị, các quỉ vọng lượng làm não loạn phá hoại, khiến cho tâm không an định, chỉ cần tụng chú này một biến, các quỉ thần ấy thảy đều bị trói. Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sanh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ.
Tiếp đó, Bồ Tát liền đọc lời kệ sắc lệnh rằng:
Ta sai Mật Tích, Kim Cang Sĩ (32)
Ô sô quân đồ ương câu thi (33),
Bát bộ lực sĩ, Thưởng ca la (34),
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Hê Na La Diên (35),
Kim Tỳ La Đà Ca Tỳ La (36)
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Bà Cấp Ta Lâu La (37),
Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La (38),
thường theo ủng hộ bên hành giả
Ta sai Tát Giá Ma Hòa La (39),
Cưu La Đơn Tra Bán Chỉ La (40),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tất Bà Dà La Vương (41),
Ưng Đức Tỳ La Tát Hòa La (42),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Phạm Ma Tam Bát La (43),
Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La (44),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Thích Vương Tam Thập Tam (45),
Đại Biện Công Đức Bà Đát Na (46),
Thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Đề Đầu Lại Tra Vương,
Các thần Mẫu nữ, chúng Đại Lực (47),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tỳ Lâu Lặc Xoa Vương (48),
Tỳ Lâu Bác Xoa, Tỳ Sa Môn (49),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Kim Sắc Khổng Tước Vương (50),
28 bộ đại tiên chúng,
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Ma Ni Bạt Đà La (51),
Táng Chi đại tướng, Phất La Bà (52),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Nan Đà, Bạt Nan Đà (53),
Bà Dà La Long, Y Bát La (54),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai Tu La, Càn Thát Bà,
Ca Lâu, Khẩn Na, Ma Hầu La,
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Ta sai thủy, hỏa, lôi, điển thần
Cưu Bàn Trà vương, Tỳ Xá Xà (55),
thường theo ủng hộ bên hành giả.
Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ ngườI thọ trì thần chú Đại Bi. Nếu ngườI đó ở nơi núi hoang, đồng vắng, ngủ nghỉ một mình, các vị thiện thần ấy thay phiên nhau canh giữ không cho tai ương, chướng nạn phạm đến thân. Nếu hành giả đi trong núi sâu, lạc mất đường về, tụng trì chú này, thiện thần, long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối. Như hành giả trụ nơi núi rừng, đồng vắng, thiếu thốn nước lửa, long thần vì ủng hộ, hóa ra nước, lửa.

Đức Quán Thế Âm Bồ Tát lại vì ngườI tụng chú, nói bài kệ thanh lương tiêu trừ tai họa rằng:
Hành giả đi trong núi đồng vắng,
gặp những cọp sói, các thú dữ,
rắn, rít, tinh mị, quỉ vọng lượng.
Tụng tâm chú này khỏi bị hại.
Nếu đi biển cả hoặc sông, hồ,
những rồng rắn độc, loài Ma Kiệt (56),
Dạ Xoa, La Sát, cá, rùa lớn
nghe tụng chú này tự lánh xa.
Nếu bị quân trận giặc bao vây,
hoặc gặp người ác đoạt tiền của,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
giặc cướp khởi lòng tự thương xót.
Nếu bị vua quan, quân sĩ bắt,
gông, cùm trói buộc, giam ngục tù,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
vua, quan tự mở lòng ân xá.
Nếu đi vào nhà nuôi sâu độc,
uống ăn để thuốc muốn hại nhau,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
thuốc độc biến thành nước cam lộ,
Nữ nhơn bị nạn khi sanh sản,
khổ vì ma quái làm ngăn cản,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
quỷ tà sợ trốn sanh an ổn,
Gặp rồng, dịch quỷ gieo hơi độc,
nóng bức, khổ đau sắp mạng chung,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
bịnh dịch tiêu trừ, mạng trường cữu,
Rồng, quỉ lưu hành bịnh thũng độc,
ung sang lở lói nhiều khổ đau,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
khạc ra ba lần hơi độc mất,
chúng sanh đời trược khởi lòng ác,
trù ếm hại cho thỏa oán thù,
chí thành xưng tụng chú Đại Bi,
liền phản trở lại người trù ếm,
Chúng sanh cõi trược đời mạt pháp,
lửa dâm dục thạnh, tâm điên đảo,
ngoại tình, xa vợ, bỏ chồng con,
ngày đêm mãi tưởng điều sai quấy,
nếu hay xưng tụng chú Đại Bi,
lửa dục tiêu trừ, tâm tà dứt,
công lực Đại Bi chỉ lược qua,
nếu ta nói hết không cùng kiếp.
Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát lại bảo Phạm vương rằng:

Này Phạm vương! Nếu chúng sanh nào muốn tiêu trừ tai nạn ma chướng nên lấy chỉ ngũ sắc xe làm một sợi niệt, trước tiên tụng chú này 5 biến, kế tụng 21 biến, cứ tụng xong mỗI một biến lại thắt một gút, rồi đeo nơi cổ hoặc bỏ nơi đãy. Tâm chú Đại Bi đây do 99 ức hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra. Các đức Phật ấy vì thương xót muốn cho người tu hành: công đức lục độ chưa đầy đủ, mau được đầy đủ; mầm bồ đề chưa phát, mau được phát sanh; hàng thanh văn chưa chứng may được chứng quả; các vị thần tiên trong cõi đại thiên chưa phát lòng bồ đề, mau được phát tâm Bồ Đề, nếu chúng sanh nào chưa được tín căn đại thừa, do sức oai thần của đà ra ni này, hột giống đại thừa tự sanh mầm và tăng trưởng, lại do sức từ bi phương tiện của ta, khiến cho sự mong cầu của họ đều được thành tựu.

Lại nữa, trong tam thiên đại thiên thế giới, những chúng sanh ở nơi ba đường ác, ở chỗ sâu kín tối tăm, nghe thần chú của ta đây, đều được lìa khổ. Các vị Bồ Tát chưa lên bậc sơ trụ, mau được siêu lên, cho đến mau chứng ngôi thập trụ. Mau đến quả vị Phật, thành tựu 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tùy hình. Nếu hàng Thanh văn một phen được nghe qua chú này, hoặc biên chép, tu hành môn đà ra ni này, dùng tâm chất trực như pháp mà trụ, thì 4 quả sa môn không cầu tự được. Công lực của thần chú này có thể khiến cho nước sông, hồ, biển cả trong cõi đại thiên dâng trào, vách đá, núi nhỏ, núi thiết vi và núi Tu Di thảy đều rung động, lại có thể làm cho tan nát như bụi nhỏ, những chúng sanh ở trong ấy đều phát tâm Bồ Đề.

Nếu chúng sanh nào trong đời hiện tại muốn mong cầu việc chi,nên giữ trai giới nghiêm sạch trong 21 ngày và tụng trì chú Đại Bi, tất đều được toại nguyện. Nếu thường chí tâm trì tụng, thì từ kiếp sống chết này đến kiếp sống chết khác, tất cả các nghiệp ác đều mau tiêu diệt. Tất cả chư Phật, Bồ Tát, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ thiên vương, thần, tiên, long vương, thảy đều chứng biết cho. Hàng trời, người nào thường thọ trì tâm chú này như tắm gội trong sông, hồ, biển cả, nếu những chúng sanh ở trong đó được nước tắm gội của người này dính vào thân thì bao nhiêu nghiệp nặng tội ác thảy đều tiêu diệt, liền được siêu sinh về tha phương Tịnh Độ, hóa sanh nơi hoa sen, không còn thọ thân thai, noãn, thấp nữa. Các chúng sanh ấy chỉ nhờ chút ảnh hưởng mà còn được như thế, huống chi là chính người trì tụng? Và, như người tụng chú đi nơi đường, có ngọn gió thổi qua mình, nếu những chúng sanh ở sau được ngọn gió của kẻ ấy lướt qua y phục thì tất cả nghiệp ác, chướng nặng thảy đều tiêu diệt, không còn đọa vào tam đồ, thường sanh ở trước chư Phật, cho nên, phải biết quả báo phước đức của người trì tụng chú thật không thể nghĩ bàn!

Lại nữa, người trì tụng đà ra ni này, khi thốt ra lời nói chi, hoặc thiện hoặc ác, tất cả thiên ma ngoại đạo, thiên, long, quỷ thần đều nghe thành tiếng pháp âm thanh tịnh, đối với người ấy khởi lòng cung kính, tôn trọng như Phật.

Người nào trì tụng đà ra ni này nên biết người ấy chính là tạng Phật thân, vì 99 ức hằng hà sa chư Phật đều yêu quý. Nên biết người ấy chính là tạng quang minh, vì ánh sáng của tất cả Như Lai đều chiếu đến nơi mình. Nên biết người ấy chính là tạng từ bi, vì thường dùng đà ra ni cứu độ chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng diệu pháp, vì nhiếp hết tất cả các môn các môn đà ra ni. Nên biết người ấy chính là tạng thiền địnhvì trăm ngàn tam muội thảy đều hiện tiền. Nên biết người ấy chính là tạng hư không, vì hằng dùng không huệ quán sát chúng sanh. Nên biết người ấy chính là tạng vô úy vì thiên, long, thiện thần thường theo hộ trì. Nên biết người ấy chính là tạng diệu ngữ vì tiếng đà ra ni trong miệng tuôn ra bất tuyệt. Nên biết người ấy chính là tạng thường trụ vì tam tai, ác kiếp không thể làm hại. Nên biết người ấy chính là tạng giải thoát vì thiên ma ngoại đạo không thể bức hại. Nên biết người ấy chính là tạng dược vương vì thường dùng đà ra ni trị bịnh chúng sanh.Nên biết người ấy chính là tạng thần thông vì được tự tại dạo chơi nơi 10 phương cõi Phật. Công đức người ấy khen ngợi không thể cùng!

Đức Phật bảo Phạm vương:

- Này thiện nam tử! Nếu kẻ nào chán sự khổ ở thế gian muốn cầu thuốc trường sanh, thì nên an trụ nơi chỗ vắng lặng sạch sẽ, kiết giới thanh tịnh và thật hành một trong các phương pháp như sau: Hoặc tụng chú vào trong áo mà mặc, hoặc tụng chú vào nước uống, thức ăn, chất thơm, dược phẩm mà dùng. Nên nhớ mỗi thứ đều tụng 108 biến, tất sẽ được sống lâu. Nếu có thể kiết giới đúng pháp, và y như pháp mà thọ trì, thì mọi việc đều thành tựu.

Phép kiết giới như thế nào? Hoặc tụng chú vào lưỡi dao sạch, rạch đất xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào nước sạch, rảy 4 phương làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào hột cải trắng, liệng ra bốn phía làm giới hạn. Hay dùng tâm tưởng đến chỗ nào thì chỗ đó là giới hạn. Hoặc tụng chú vào tro sạch, rải xung quanh làm giới hạn. Hoặc tụng chú vào chỉ ngũ sắc, treo vây bốn bên làm giới hạn. Mấy phương pháp trên đây, dùng cách nào cũng được. Nên nhớ mỗi thứ đều phải tụng cho đủ 21 biến. Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả.

Này thiện nam tử! Chúng sanh nào nghe danh tự của môn đà ra ni này còn được tiêu diệt tội nặng sanh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là tụng trì? Nếu người nào được thần chú này mà tụng trì, phải biết kẻ ấy đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, gieo nhiều căn lành. Nếu kẻ nào tụng trì đúng pháp nên biết người ấy là bậc có đủ tâm đại bi, không bao lâu nữa sẽ thành Phật. Cho nên, hành giả khi thấy mọi loài, đều nên vì chúng tụng trì chú này, khiến cho chúng được nghe để cùng gây nhân Bồ Đề, thì sẽ được vô lượng, vô biên công đức.

Nếu kẻ hành trì khéo giữ gìn trai giới, dụng tâm tinh thành, vì tất cả chúng sanh sám hối nghiệp ác đời trước tự mình cũng sám hối những ác nghiệp đã gây ra từ vô lượng kiếp đến nay, nơi miệng rành rẽ tụng đà ra ni này tiếng tăm liên tiếp không dứt, thì trong đời hiện tại liền chứng được bốn đạo quả của bậc Sa Môn. Nếu là hạng lợi căn, có phương tiện huệ quán thì quả vị thập địa còn chứng được không lấy gì làm khó, huống gì là những phước báo nhỏ nhặt ở thế gian. Những việc như thế, nếu có mong cầu, đều được toại nguyện.

- Này thiện nam tử! Nếu người nào muốn sai khiến quỷ, thì tìm một chiếc xương sọ của kẻ qua đời, đem về rửa sạch. Kế đó lập đàn tràng để chiếc xương ấy trước tượng Thiên Nhãn, chí tâm tụng chú, mỗi ngày đều dùng hương hoa, cùng các thứ ăn uống cúng tế vong linh, đúng 7 ngày như thế, quỷ sẽ hiện thân, tùy theo mạng lịnh của người ấy sai bảo.

Như hành nhơn muốn sai khiến Tứ Thiên Vương, thì tụng chú này vào gỗ đàn hương rồi đốt lên, sẽ thấy hiệu quả. Sở dĩ được như thế cũng là do nguyện lực đại từ bi của Quán Thế Âm Bồ Tát sâu nặng, lại cũng do oai thần rộng lớn của đà ra ni này.

Đức Phật lại gọi ngài A Nan mà bảo:

- Này A Nan! Khi trong một nước có tai nạn nổi lên nếu muốn được an ổn, vị quốc vương ở xứ ấy phải biết dùng chánh pháp trị dân, có độ lượng khoan hồng, không làm oan uổng trăm họ, tha kẻ tù phạm, và giữ thân tâm tinh tấn đọc tụng chú này. Hành trì như thế luôn 7 ngày đêm thì trong cõi nước ấy tất cả tai nạn thảy đều tiêu tan, ngũ cốc phong thạnh, dân chúng được an vui.

Lại trong một xứ, nếu gặp những tai ương dồn dập như: bị nước nghịch đem binh xâm lấn, dân tình rối loạn không yên, quan đại thần mưu phản, bịnh dịch lưu hành, mưa nắng trái thời hoặc nhựt, nguyệt sai độ v.v... Muốn diệt các thứ tai nạn như thế ấy, vị quốc vương phải lập đàn tràng, tạo tượng Thiên Nhãn Đại Bi để day mặt về phương Tây, sắm các thứ hương, hoa, tràng phan, bảo cái, hoặc trăm thức ăn uống mà cúng dường, rồi dùng thân tâm tinh tấn, đọc tụng chương cú thần diệu. Hành trì như thế đúng 7 ngày thì nước giặc quy hàng, chánh tình yên ổn, lân bang hòa hảo, thương mến lẫn nhau, trong triều từ vương tử cho đến trăm quan đều hết dạ trung thành, nơi cung vi, phi tần, thể nữ khởi lòng hiếu kính đối với vua, các thiên, long, quỷ thần đều ủng hộ trong nước khiến cho mưa gió thuận hòa, hoa quả tốt, nhân dân vui đẹp.

Lại nếu trong nhà có những tai nạn như ma quái nổi dậy, quyến thuộc đau nặng, tiền của hao mòn, gia đình rối loạn, người ác gieo tiếng thị phi hoặc vu khống để hãm hại, cho đến trong ngoài lớn nhỏ chẳng hòa thuận nhau. Muốn diệt những tai nạn ấy, gia chủ phải lập đàn tràng, hướng về tượng Thiên Nhãn, chí tâm niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát và tụng đà ra ni này đủ ngàn biến, thì tất cả việc xấu như trên thảy đều tiêu diệt, gia đình được vĩnh viễn an vui.

Ngài A Nan lại bạch Phật rằng:

- Bạch đức Thế Tôn! Chú này tên gọi là chi? Con nên thọ trì như thế nào?

Đức Phật bảo: - Thần chú này có những tên như sau:

1. Quảng đại viên mãn đà ra ni.
2. Vô ngại đại bi đà ra ni.3. Cứu khổ đà ra ni.4. Diên thọ đà rani.5. Diệt ác thú đà ra ni.6. Phá ác nghiệp chướng đà rani.7. Mãn nguyện đà ra ni.8.Tùy tâm tự tại đà ra ni.9. Tốc siêu thánh địa đà ra ni.
Ông nên y như thế mà thọ trì.

Ngài A Nan lại bạch Phật: - Bạch đức Thế Tôn! Vị Bồ Tát Ma Ha Tát, bộ chủ của thần chú này, tôn hiệu là chi, mà khéo nói môn đà ra ni như thế?

Đức Phật bảo: - Vị Bồ Tát ấy hiệu là Quán Thế Âm Tự Tại, cũng tên là Nhiên Sách, cũng gọi là Thiên Quang Nhãn.

Này thiện nam tử! Quán Thế Âm Bồ Tát thần thông oai lực không thể nghĩ bàn, trong vô lượng kiếp về trước từng thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì nguyện lực đại bi, vì muốn làm duyên phát khởi cho tất cả các hàng Bồ Tát, vì muốn an vui thành thục cho chúng sanh, ngài mới giáng tích hiện làm Bồ Tát. Vậy ông và đại chúng, các hàng Bồ Tát, Ma Ha Tát, Phạm vương, Đế Thích, Long thần đều nên cung kính, chớ sanh lòng khinh mạn, xem thường. Nếu tất cả hàng trời, người thường xưng niệm, cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, sẽ được vô lượng phước diệt vô lượng tội , mạng chung sanh về cõi nước của Phật A Di Đà.

Đức Phật bảo ngài A Nan: - Thần chú của Quan Thế Âm Bồ Tát nói ra đây, chân thật không dối. Nếu muốn thỉnh Bồ Tát đến, nên tụng chú vào hương chuyết cụ la 21 lần rồi đốt lên (chuyết cụ la chính là an tức hương).

Nếu kẻ nào bị loài ma mèo dựa vào phá khuấy, người thân thuộc nên tìm một bộ xương của con mèo đã chết, đốt tan ra tro, rồi hòa với đất bùn sạch, nắn thành hình mèo. Khi hoàn thành để hình ấy trước tượng Thiên Nhãn, tụng 108 biến chú Đại Bi vào lưỡi dao rồi chặt hình mèo thành 108 đoạn. Nên nhớ cứ mỗi lần tụng xong một biến thì chém xuống một đao, kêu tên loài ma mèo một lần. Làm như thế bịnh nhơn sẽ an lành, ma mèo vĩnh viễn không dám phá hoại.

Nếu người nào bị chất độc của loài sâu cổ làm hại, thì thân nhơn mau dùng hương dược kiếp bố la hòa đồng phân với chuyết cụ la hương vào nước trong, sắc còn một chén. Xong, lại để chén thuốc ấy trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến rồi cho bịnh nhơn uống, liền thấy an lành (dược kiếp bố la hương tức Long não hương).

Nếu bị rắn rít cắn, dùng vị Càn cương tán thành mạt, tụng chú vào đấy 21 biến, rồi dấp lên vết thương, liền hết.

Nếu bị kẻ thù mưu hại, nên dùng đất sạch, hoặc bột, hoặc sáp, nắn thành hình kẻ ấy. Xong, lại để hình nhơn trước tượng Thiên Nhãn, tụng vào lưỡi dao 108 biến Đại Bi, cứ tụng xong mỗi biến lại chém xuống một dao, kêu tên người kia một lần, rồi đem 108 đoạn hình đã chặt đốt tan. Y theo pháp thức như thế, kẻ oan gia thù nghịch sẽ đổi ra trạng thái vui vẻ, thân hậu đối với ta, trọn đời đôi bên quý mến lẫn nhau.

Nếu bị bịnh đau mắt, hoặc mắt kéo màng đỏ, mắt trắng đục, hoặc quáng manh, hoặc hư tròng, không thấy được ánh sáng, nên dùng trái ha lê lặc, trái am ma lặc, trái bệ hê lặc, mỗi thứ một quả, đem nghiền, vắt lấy nước. Khi vắt nước nên ở chỗ vắng lặng, giữ cho sạch sẽ, miệng luôn niệm Phật, chớ để cho mèo, chó, gà, lợn cùng đàn bà mới sanh thấy. Vắt nước xong đem hòa với bạch mật, hoặc sữa người. Sữa này phải là của phụ nhơn sanh con trai, chứ không được dùng sữa của người sanh con gái. Khi hòa thành xong, đem chén thuốc để trước tượng Thiên Nhãn tụng chú 108 biến. Trì chú vào thuốc rồi, bịnh nhơn phải ở nơi nhà kín, tránh gió trong thời gian 7 ngày và dùng thuốc ấy nhỏ vào mắt. Làm như thế, tròng con mắt hư lại sanh, các chứng kia đều lành. Mắt thấy được tỏ rõ (P.C: Ba thứ trái này xứ ta không có, bịnh nhơn nên phương tiện thay 3 thứ trái khác hoặc 3 thứ thuốc khác có tánh cách trị bịnh đau mắt, nếu như chí thành, cũng được linh nghiệm).

Nếu bị bịnh rét hoặc bị loài ma rét dựa, nên dùng da cọp hoặc da beo tụng vào đấy 21 biến chú, rồi phủ lên mình thì bịnh sẽ lành, ma cũng xa lánh. Như được da sư tử thì càng quý.

Nếu bị rắn độc cắn, dùng chất ráy đóng trong lỗ tai của người bị cắn, tụng chú 21 biến, thoa vào vết thương, nọc rắn liền tiêu.

Nếu bị bịnh rét dữ nhập tâm, hôn muội sắp chết, dùng một khối mủ cây đào, lớn ước lượng bằng trái đào, đem hòa với một chén nước trong, sắc còn nửa chén, tụng chú vào đấy bảy biến rồi uống, bịnh sẽ lành. Thuốc này chớ cho phụ nữ sắc.

Nếu bị loài quỷ truyền thi, phục thi làm bịnh, dùng hương chuyết cụ la tụng chú 21 biến, đốt xông vào lỗ mũi. Lại lấy 7 khối hương lớn ước lượng bằng lóng tay cái, cũng gia trì chú 21 biến mà uống, bịnh sẽ lành. Nên nhớ: Bịnh nhơn phải kiêng rượu, thịt, ngũ vị tân (58) và mắng chửi. Một phương pháp nữa là dùng vị Ma Na Thi La hòa với Bạch giới tử và muối hột, gia trì chú 21 biến, rồi đem xông đốt dưới giường người bịnh, quỷ liền vội vã trốn chạy, không dám ở (Ma Na Thi La là vị thuốc Hùng Hoàng).

Nếu bị tai điếc lùng bùng, tụng chú vào dầu mè, rồi nhỏ trong tai, bịnh sẽ lành.

Nếu bị chứng thiên phong, xụi nửa thân mình, tai điếc, mũi không biết mùi, dùmg dầu mè sắc với vị Thanh Mộc Hương, gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi mình. Bịnh sẽ vĩnh viễn tiêu trừ. Lại một phương pháp nữa: dùng sữa ngưu tô thuần chất, tụng vào 21 biến chú mà thoa, bịnh cũng sẽ lành.

Nếu phụ nhơn sanh sản khó, mau dùng dầu mà gia trì chú 21 biến, rồi thoa nơi rún và ngọc môn, liền được dễ sanh.

Nếu phụ nhơn có nghén, thai nhi chết trong bụng, dùng một lượng thuốc A Ba Mộc Lợi Đà, đổ hai chén sắc còn một chén, gia trì chú 21 biến mà uống, thì cái thai liền ra, phụ nhơn không một chút đau đớn. Như thai y (nhau) không ra, cũng uống thuốc này (A ba mộc lợi đà là vị Ngưu Tất)

Nếu bỗng nhiên đau nhói nơi tim chịu không kham, đây gọi là chứng độn thi chú, nên dùng hương Quân Trụ Lỗ, tụng chú vào 21 biến, rồi để trong miệng nhai nuốt không hạn nhiều ít, chừng nào mửa được mới thôi, y như thế bịnh sẽ lành, song nên nhớ phải cữ ngũ tân và rượu thịt (quân trụ lỗ là vị thuốc Huân Lục Hương).

Nếu bị phỏng lửa thành ghẻ, dùng phân trâu đen tụng chú 21 biến mà thoa, bịnh sẽ lành.

Nếu bị sên lải cắn, dùng nửa chén nước tiểu con ngựa kim, như bịnh nặng thì một chén, gia trì chú 21 biến, uống vào loài trùng sẽ quyện ra như sợi dây.

Nếu bị bịnh ghẻ đinh dùng lá Lăng Tiêu đâm lấy nước, gia trì chú 21 biến mà thoa, thì ghẻ liền ra cồi mà lành.

Nếu rủi bị con lằn cắn vào mắt, dùng phẩn mới của con lừa, vắt lấy nuớc, gia trì 21 biến chú, đợi ban đêm trước khi ngủ, nhỏ thuốc ấy vào, bịnh sẽ lành.

Nếu bị đau bụng, dùng nước giếng trong nấu với 21 hột muốn lớn, còn nửa chén gia trì chú 21 biến uống vào, liền hết đau.

Nếu bị bịnh đau mắt đỏ, mắt lồi thịt, mờ mịt không thấy, dùng lá xa xa di đâm lược lấy nước, gia trì chú 21 biến, rồi bỏ đồng tiền có meo xanh vào ngâm một đêm. Xong lại lấy ra, tụng thêm vào đấy 7 biến chú nữa. Dùng thuốc này nhỏ vào mắt, bịnh sẽ lành (Xa xa di là lá câu kỷ).

Nếu người có tật ban đêm sợ hãi ra vào không yên, lấy chỉ trắng xe thành niệt, gia trì chú 21 biến, kết thành 21 gút buộc nơi cổ, thì tật ấy sẽ dứt. Chẳng những trừ được sự khủng bố mà cũng diệt được tội.

Nếu trong nhà sanh nhiều tai nạn, dùng nhánh cây thạch lựu chặt thành 1.080 đoạn ước độ một tấc, mỗi đoạn 2 đầu đều thoa mật tô lạc. Kế đó, đem lò nhỏ để trước bàn Phật, cứ tụng xong một biến chú, liền đốt một đoạn. Khi thiêu hết 1.080 đoạn, tất cả tai nạn thảy đều tiêu trừ.

Nếu ở các nơi đấu tranh, luận nghị, muốn được hơn người dùng cành bạch xương bồ gia trì chú 21 biến, đeo nơi cánh tay mặt, tất sẽ được toại nguyện.

Nếu muốn được trí huệ nên dùng nhánh xa xa di, chặt thành 1080 đoạn, mỗi đoạn 2 đầu thoa sữa ngưu tô thuần chất và sữa ngưu tô hòa với bạch mật, cứ mỗi lần tụng chú lại đốt một đoạn. Nên nhớ trong một ngày đêm chia ra ba thời, mỗi thời tụng chú và đốt 1080 đoạn. Thật hành đúng 7 ngày, chú sư sẽ được trí huệ thông ngộ. (PC: Mỗi thời tụng 1080 biến tất là người tụng quá nhuần, và có định tâm nhiều). 

Nếu muốn hàng phục đại lực quỷ thần, dùng củi cây A rị sắc ca, thoa sữa tô lạc và mật vào, đem trước tượng Đại Bi gia trì, chú 49 biến, rồi đốt trong lửa (A rị sắc ca dịch là Mộc hoạn tử, cũng gọi là vô hoạn tử, một thứ cây có năng lực trừ tà, hạt của trái cây này có thể xỏ làm hạt chuỗi).

Nếu lấy một lượng Hồ Lô giá na, đem đựng trong bình lưu ly, để trước tượng Đại Bi tụng chú 108 biến, rồi dùng thuốc ấy thoa trên trán và nơi thân, thì tất cả Thiên, Long, Quỷ Thần, người cùng loài phi nhơn trông thấy đều hoan hỉ (hồ lô giá na là vị Ngưu Hoàng).

Nếu thân bị xiềng xích, dùng phẩn của con bồ câu trắng, gia trì chú 108 biến, tụng xong đem thoa vào tay chà lên gông xiềng, gông xiềng sẽ tự sút.

Nếu vợ chồng bất hòa, trạng như nước lửa, dùng lông đuôi chim oan ương, đem trước tượng Đại Bi tụng chú 1.080 biến rồi đeo trong mình, tất vợ chồng trọn đời vui hòa, thương yêu nhau.

Nếu lúa mạ hoặc các thứ cây trái bị sâu bọ cắn, dùng tro và cát sạch hòa với nước trong, gia trì 21 biến chú, rảy trên cây, trên mạ cùng bốn bên bờ ruộng, thì sâu bọ không dám phá hại.

Đức Phật lại bảo ngài A Nan: - Quán Thế Âm Tự Tại Bồ Tát có ngàn mắt ngàn tay, mỗi tay đều tiêu biểu cho hạnh tùy thuận các sự mong cầu của chúng sanh. Đó cũng là do tâm Đại Bi của vị Đại Sĩ ấy hóa hiện.

(PC: Những chân ngôn sau đây, chỗ có vạch ngang dài là chữ đọc kéo hơi dài ra, chữ có ngang vắn là hai chữ đọc hiệp lại làm một, muốn cầu điều gì, đọc chân ngôn theo điều ấy). 

1. Nếu chúng sanh nào muốn được giàu lớn, có nhiều thứ châu báu, đồ dùng, nên cầu nơi tay cầm châu như ý.

Chân ngôn rằng: Án--, phạ nhựt ra, phạ đa ra, hồng phấn tra.

2. Nếu muốn trị các thứ bịnh trên thân, nên cầu nơi tay cầm cành dương liễu.

Chân ngôn rằng: Án-- tô tất địa, ca rị, phạ rị, đa nẫm đa, mục đa duệ, phạ nhựt ra, phạ nhựt ra, bạn đà, hạ nẵng hạ nẵng, hồng phấn tra.

3. Nếu muốn trị các thứ bịnh trong bụng, nên cầu nơi tay cầm cái bát báu.

Chân ngôn rằng: Án--, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra.

4. Nếu muốn trị bịnh mắt mờ không thấy ánh sáng, nên cầu nơi tay cầm châu nhựt tinh ma ni.

Chân ngôn rằng: Án--, độ tỉ, ca giả độ tỉ, bát ra phạ rị nảnh, tát-phạ hạ.

5. Nếu muốn hàng phục tất cả thiên ma thần, nên cầu nơi tay cầm bạt chiết la (59).

Chân ngôn rằng: Án-- nễ bệ nễ bệ, nễ bà dã, ma ha thất rị duệ, tát-phạ hạ.

6. Nếu muốn hàng phục tất cả oán tặc, nên cầu nơi tay cầm chày kim cang.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt-ra, chỉ nãnh, chỉ nãnh, bát-ra nễ bát đa dã, tá-phạ hạ.

7. Nếu muốn trừ tánh ở tất cả chỗ sợ hãi không yên, nên cầu nơi tay thí vô úy.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt-ra, nẵng dã, hồng phấn tra.

8. Nếu bị các việc khuấy rối, muốn được an ổn, nên cầu nơi tay cầm dây quyến sách.

Chân ngôn rằng: Án -- chỉ rị, lã ra, mô nại ra, hồng phấn tra.

9. Nếu bị bịnh nhiệt độc, muốn được mát mẻ hết bịnh, nên cầu nơi tay cầm châu nguyệt tinh ma ni.

Chân ngôn rằng: Án -- tô tất địa, yết rị, tát-phạ hạ.

10. Nếu muốn được làm quan, lên chức, nên cầu nơi tay cầm cung báu.

Chân ngôn rằng: Án -- a tả vĩ, lệ, tát-phạ hạ.

11. Nếu muốn được mau gặp các bạn lành, nên cầu nơi tay cầm tên báu.

Chân ngôn rằng: Án -- ca mạ lã, tát-phạ hạ.

12. Nếu muốn hàng phục tất cả quỷ, thần, vọng, lượng, nên cầu nơi tay cầm gươm báu.

Chân ngôn rằng: Án -- đế thế, đế nhá, đổ vĩ nảnh, đổ đề bà đà dã, hồng phấn tra.

13. Nếu muốn trừ những chướng nạn ác bên thân, nên cầu nơi tay cầm cây phất trắng.

Chân ngôn rằng: Án-- bát na di nảnh, bà nga phạ đế, mô hạ dã nhá, nga mô hạ nảnh, tát-phạ hạ.

14. Nếu muốn tất cả người trong quyến thuộc được hòa thuận nhau, nên cầu nơi tay cầm cái hồ bình.

Chân ngôn rằng: Án -- yết lệ thảm mãn diệm, tát-phạ hạ.

15. Nếu muốn xua đuổi loài hổ báo, sài lang và tất cả ác thú, nên cầu nơi tay cầm cái bàng bài.

Chân ngôn rằng: Án -- dược các sam nẵng, na dã chiến nại-ra, đạt nậu bá rị-dã, bạt xá bạt xá, tát-phạ hạ.

16. Nếu muốn trong tất cả thời, tất cả chỗ, lìa nạn quan quân vời bắt, nên cầu nơi tay cầm cây phủ việt.

Chân ngôn rằng: Án -- vị ra dã, vị ra dã, tát phạ hạ.

17. Nếu muốn có tôi trai tớ gái để sai khiến, nên cầu nơi tay cầm chiếc vòng ngọc.

Chân ngôn rằng: Án -- bát na hàm, vị ra dã, tát-phạ hạ.

18. Nếu muốn được các thứ công đức, nên cầu nơi tay cầm hoa sen trắng.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt ra, vị ra dã, tát phạ hạ.

19. Nếu muốn được sanh về 10 phương tịnh độ, nên cầu nơi tay cầm hoa sen xanh.

Chân ngôn rằng: Án -- chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt ra, bộ ra bạn đà hồng phấn tra.

20. Nếu muốn được trí huệ lớn, nên cầu nơi tay cầm cái gương báu.

Chân ngôn rằng: Án -- vĩ tát phổ ra, na ra các xoa, phạ nhựt ra, mạn trà lã, hồng phấn tra.

21. Nếu muốn được diện kiến 10 phương tất cả chư Phật, nên cầu nơi tay cầm hoa sen tím.

Chân ngôn rằng: Án -- tát ra, tát ra, phạ nhựt ra, hồng phấn tra.

22. Nếu muốn lấy được kho báu ẩn trong lòng đất, nên cầu nơi tay cầm cái bảo kíp.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt ra, bát thiết ca rị, yết nẵng hàm ra hồng.

23. Nếu muốn được đạo tiên, nên cầu nơi tay cầm hóa hiện mây ngũ sắc.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt ra, ca rị ra tra hàm tra.

24. Nếu muốn sanh lên cõi Phạm Thiên, nên cầu nơi tay cầm bình quân trì (60).

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt ra thế khê ra, rô tra hàm tra,

25. Nếu muốn được sanh lên các cung trời, nên cầu nơi tay cầm hoa sen hồng.

Chân ngôn rằng: Án -- thương yết lệ, tát phạ hạ.

26. Nếu muốn xua đuổi giặc nghịch ở phương khác đến, nên cầu nơi tay cầm cây bảo kích.

Chân ngôn rằng: Án -- thảm muội dã, chỉ nãnh hạ rị, hồng phấn tra.

27. Nếu muốn triệu tất cả chư thiên thiện thần, nên cầm nơi tay ống loa báu.

Chân ngôn rằng: Án -- thương yết lệ, mạ hạ thảm mãn diệm, tát phạ hạ.

28. Nếu muốn sai khiến tất cả quỷ thần, nên cầu nơi tay cầm cây gậy đầu lâu.

Chân ngôn rằng: Án -- độ nẵng, phạ nhựt ra.

29. Nếu muốn 10 phương chư Phật sớm đến đưa tay tiếp dẫn, nên cầu nơi tay cầm xâu chuỗi ngọc.

Chân ngôn rằng: Nẵng mồ -- ra đá nẵng, đát ra dạ dã, Án -- a na bà đế vĩ nhã duệ. Tất địa tất đà lật đế, tát phạ hạ.

30. Nếu muốn có được tất cả phạm âm thanh tốt nhiệm mầu, nên cầu nơi tay cầm chiếc linh báu.

Chân ngôn rằng: Nẵng mồ bát ra hàm bá noa duệ, án -- a mật lật đảm, nghiễm bệ thất rị duệ, thất rị, chiếm rị nảnh, tát phạ hạ.

31. Nếu muốn được miệng nói biện luận hay khéo, nên cầu nơi tay cầm chiếc ấn báu.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt ra, nảnh đảm nhá duệ, tát phạ hạ.

32. Nếu muốn được thiên thần, long vương thường đến ủng hộ, nên cầu nơi tay cầm cu thi thiết câu.

Chân ngôn rằng: Án - a rô rô, đa ra ca ra, vĩ sa duệ, nẵng mồ tát phạ hạ.

33. Nếu vì lòng từ bi muốn cho tất cả chúng sanh được nhở sự che chở giúp đỡ, nên cầu nơi tay cầm cây tích trượng.

Chân ngôn rằng: Án -- na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế na dạ bát nảnh, hồng phấn tra.

34. Nếu muốn cho tất cả chúng sanh thường cung kính yêu mến nhau, nên cầu nơi tay hiệp chưởng.

Chân ngôn rằng: Án - bát nạp mạng, nhá lăng hất rị. (Theo trong Tạng bản, lại có chân ngôn: Án -- vĩ tát ra, vĩ tát ra, hồng phấn tra).

35. Nếu muốn tùy theo chỗ sanh, thường ở bên Phật, nên cầu nơi tay hiện hóa Phật.

Chân ngôn rằng: Án -- chiến na ra, ba hàm tra rị, ca rị na, chỉ rị na, chỉ rị nỉ, hồng phấn tra.

36. Nếu muốn đời đời kiếp kiếp thường ở trong cung điện Phật, không thọ sanh ở bào thai, nên cầu nơi tay hiện hóa cung điện.

Chân ngôn rằng: Án -- vi tát ra, vi tát ra, hồng phấn tra.

37. Nếu muốn được học rộng nghe nhiều, nên cầu nơi tay cầm quyển kinh báu.

Chân ngôn rằng: Án -- a hạ ra, tát ra phạ ni, nễ dã đà ra, bố nễ đế, tát phạ hạ.

38. Nếu muốn từ thân này cho đến thân thành Phật, tâm bồ đề thường không lui sụt, nên cầu nơi tay cầm bất thối kim luân.

Chân ngôn rằng: Án -- thiết na di tả, tát phạ hạ.

39. Nếu muốn 10 phương chư Phật mau đến xoa đầu thọ ký, nên cầu nơi tay đảnh thượng hóa Phật.

Chân ngôn rằng: Án -- phạ nhựt rị ni, phạ nhựt lãm nghệ tát phạ hạ.

40. Nếu muốn có được cây trái ngũ cốc, nên cầu nơi tay cầm chùm bồ đào.

Chân ngôn rằng: Án -- A ma lã kiếm đế nễ nãnh, tát phạ hạ.

41. Nếu muốn cho tất cả loài hữu tình đói khát được no đủ mát mẻ, nên cầu nơi tay hóa nước cam lộ.

Chân ngôn rằng: Án -- tố rô tố rô bác ra tố rô, bác ra tố rô, tố rô dã, tát phạ hạ.

42. Nếu muốn hàng phục ma oán trong cõi đại thiên, nên cầu nơi tay tổng nhiếp thiên thủ.

Chân ngôn rằng: Đát nễ dã thá, phạ lồ chỉ đế, thấp phạ ra dã, tra ô hạ di dã, sá phạ ha.

- Này A Nan! Những việc có thể mong cầu như thế, kể có ngàn điều. Nay ta chỉ nói lược qua chút ít phần thôi.

Khi ấy Nhựt Quang Bồ Tát vì người thọ trì Đại Bi Tâm đà ra ni nói đại thần chú để ủng hộ rằng:

Nam mô bột đà cù na mê. Nam mô đạt ma mạc ha đê. Nam mô tăng già đa dạ nê, đế chỉ bộ tất đát đốt chiêm nạp ma.

Nhựt Quang Bồ Tát bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này diệt được tất cả tội, cũng đuổi được ma và trừ thiên tai. Nếu kẻ nào tụng chú này một biến, lễ Phật một lạy, mỗi ngày chia ra làm 3 thời tụng chú lễ Phật như thế, trong đời vị lai tùy theo chỗ thọ thân, thường được tướng mạo xinh đẹp, được quả báo đáng vui mừng.

Nguyệt Quang Bồ Tát cũng vì hành nhơn mà nói đà ra ni để ủng hộ rằng:

Thâm đê đế đồ tô tra. A nhã mật đế đồ tô tra, thâm kỳ tra. Ba lại đế. Gia di nhã tra ô đô tra. Câu la đế tra kỳ ma tra. Sá phạ hạ.

Nguyệt Quang Bồ Tát lại bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn! Tụng chú này 5 biến, rồi lấy chỉ ngũ sắc xe thành sợi niệt, gia trì chú vào, buộc tréo nơi tay, chú này do 40 hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói ra, nay tôi cũng nói để vì các hành nhơn mà làm duyên ủng hộ. Chú này có công năng trừ tất cả chướng nạn, tất cả bịnh ác, xa lìa tất cả sự sợ hãi.

Đức Phật bảo ngài A Nan:

- Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà ra ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh trong 3 cõi. Tất cả bịnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng đà ra ni này mà trị thì không bịnh nào chẳng lành, dùng đại thần chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sanh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sanh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bịnh, dùng chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có.

Này thiện nam tử! Sức oai thần của Đại Bi tâm đà ra ni không thể nghĩ bàn! Không thể nghĩ bàn! Khen ngợi không bao giờ hết được, nếu chẳng phải là kẻ từ thời quá khứ lâu xa đến nay đã gieo nhiều căn lành, thì dù cho cái tên gọi còn không được nghe, huống chi là được thấy! Nay đại chúng các ông, cả hàng trời, người longthần, nghe ta khen ngợi phải nên tùy hỉ. Nếu kẻ nào hủy báng thần chú này tức là hủy báng 99 ức hằng hà sa chư Phật kia. Nếu người nào đối với đà ra ni này sanh nghi không tin, nên biết kẻ ấy sẽ vĩnh viễn mất sự lợi ích lớn, trăm ngàn muôn kiếp không bao giờ nghe thấy Phật, Pháp, Tăng, thường chìm trong tam đồ không biết bao giờ mới được ra khỏi.

Khi ấy, tất cả chúng hội, Bồ Tát Ma ha tát, Kim Cang mật tích, Phạm vương, Đế Thích, tứ đại thiên vương, thiên, long, quỷ thần, nghe đức Như Lai khen ngợi môn đà ra ni này xong, thảy đều vui mừng, y lời dạy mà tu hành []



Thích nghĩa: (1) Dà Phạm Đạt Mạ: tiếng Phạm (Bhagavaddharma), dịch là Tôn Pháp, một vị sa môn ngườI „n Độ, du hóa vào Trung Quốc, niên hiệu Khai Nguyên đời nhà Đường.

(2) Thích Ca Mâu Ni: tiếng phạm (Sakyamuni) dịch là Năng Nhân Tịch Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên, ngài giáng sanh ở Trung „n Độ, 25 thế kỷ về trước, tu thành Phật làm vị giáo chủ cõi Ta Bà.

(3) Bổ Đà Lạc Ca: Tiếng Phạm Potalaka, dịch là Quang Minh Sơn, tên một tòa núi ở hải đảo phía Nam „n Độ, núi này hình bát giác, đức Quán Thế Âm trụ tích nơi đây.

(4) Ma ni: tiếng phạm Mani, dịch là trân bảo, ly cấu, như ý. Vì rất quý nên gọi là châu, bảo; vì trong suốt, sáng rỡ nên gọi là ly cấu; vì tuỳ sở biến hiện nên gọi là như ý.

(5) Đà ra ni (dharani), dịch là Tổng Trì, có 3 loại: một chữ, nhiều chữ và không chữ. Vì bao gồm vô lượng pháp nên gọI là Tổng, vì giữ chứa vô lượng nghĩa nên gọI là trì. Tổng trì có công năng phá tà lập chánh, tiêu diệt nghiệp ác, phát sanh phước đức căn lành.

(6) Bồ Tát Ma Ha Tát (bodhisattva mahasattva) bồ tát dịch đại đạo tâm chúng sanh, hoặc giác hữu tình, nghĩa là bậc chúng sanh có lòng đạo lớn, và tuy giác ngộ mà còn có tình thức. Ma ha tát dịch là đại chúng sanh. Nói tóm lại, Bồ Tát Ma Ha tát là đại bồ tát, bậc bồ tát lớn trong hàng Bồ Tát.

(7) Di Lặc (Maitreya), dịch là Từ Thị, tên một vị Bồ Tát, sẽ nối ngôi thành Phật, kế đức Thích Ca.

(8) Văn Thù Sư LợI (Manjusri), có chỗ đọc là Mạn Thù Thất Lỵ, dịch là Diệu Đức, hoặc Diệu Kiết Tường, tên một vị Bồ tát thường hầu bên tả đức Thích Ca, giữ về phần trí huệ.

(9) Quán đảnh đại pháp vương tử: vị bồ tát khi chứng ngôi đẳng giác, trụ nơi cung điện trang nghiêm ở cõi trời Đại Tự Tại, chư Phật 10 phương phóng ánh sáng đến chiếu rót vào đảnh đầu (quán đảnh). Đây là lễ ấn chứng cho chánh thức làm con của đấng Pháp vương (pháp vương tử). Sau này sẽ nối ngôi Phật, lệ như thái tử thọ phong nơi vua.

(10) A la hán (arahat) ngôi cực quả trong hàng tiểu thừa, có 3 nghĩa: a. Ứng cúng: đáng được thọ trời, ngườI cúng b. Vô sanh: đã dứt sự sống chết, không còn luân hồi c. Sát tặc: giết chết giặc phiền não, hoại nghiệp.

(11) Ma ha Ca Diếp (mahàkasyàpa) Ma ha dịch là đại, Ca Diếp dịch là ...m Quang, tên một vị đệ tử lớn của Phật, hạnh đầu đà bậc nhất. Khi ngài mới sanh ra, có ánh sáng lấn át cả ánh sáng nhựt nguyệt.

(12) Phạm ma la thiên (Brahman): gọi tắt là Phạm Thiên, tên một cõi trờI ở Sắc giớI, Phạm nghĩa là trong sạch, vì chư thiên ở cõi này xa lìa sự dâm dục, sống trong cảnh an vui của thiền định.

(13) Thiện tra phạm ma: tên của vị thiên tử làm chủ cõi phạm thiên.

(14) Cù bà dà thiên tử: tên một vị thiên tử ở cõi Dục giớI chuyên giữ pháp lành cho chúng sanh.

(15) Tứ thiên vương: bốn vị thiên chủ ở bốn cung trời ở giữa chừng núi Tu Di: phương đông Trì Quốc thiên vương, phương Nam Tăng Trưởng Thiên Vương, phương Tây Quảng Mục Thiên Vương, phương Bắc Đa Văn Thiên Vương.

(16) Đề Đầu Lại Tra (Dhrtaràstra) cũng gọI là Đề Đa La Tra, tức Trì Quốc Thiên Vương.

(17) Thiên, tiếng Phạm gọI là Đề Bà (Déva) ta gọi là trời. Các vị này do tu thập thiện nên hưởng phước thiên nhiên, sự ăn mặc tùy niệm hiện thành.

Long: tiếng Phạm gọi là Na Già (nagà) ta gọI là rồng, loài này có thần thông biến hóa, hoặc giữ cung điện trờI, hoặc giữ địa luân, hoặc làm mưa gió.

Dạ xoa (Yaksa), còn gọi là Dược Xoa, dịch là Dõng Kiện, Bạo Ác hay Thiệp Tật, một loài quỷ rất hung mãnh, bay đi mau lẹ, có phận sự giữ cung khuyết, cùng thành trì của trời.

A tu la (Asura): dịch là Phi Thiên, một loài thần có phước đức của trời mà đức không bằng trời, có thần thông biến hóa song thân hình thô xấu, vì kiếp trước hay sân hận.

Càn thát bà (gandharva) dịch là Hương ẩm, nhạc thần của trờI Đế Thích, dùng mùi thơm làm thức ăn.

Ca lâu la (garuda): dịch là Kim Súy Điểu, một loại chim thần cánh có lông sắc vàng tốt đẹp, hai cánh xòe ra cách nhau đến 3.360.000 dặm, có thần thông biến hóa.

Khẩn na la (kinnara) dịch là Nghi Nhơn, một loại thần giống người nhưng không phải là người vì trên đầu có sừng, ca múa rất hay, thường tấu pháp nhạc và ca múa cho trờI Đế Thích nghe.

Ma hầu la già (mahoraga) dịch là Đại Mãng, hay Địa long tức là thần rắn.

Nhơn phi nhơn: loại quỉ thần hình như người mà không phải là người, hoặc có sừng, có cánh, có móng vuốt. Đây cũng là danh xưng chung cho bát bộ quỷ thần vì họ không phải là ngườI mà biến ra hình ngườI đến nghe Phật thuyết pháp. Kinh Xá LợI Phất vấn nói: 'Bát bộ đều là phi nhơn',

(18) Thiết vi: tên dãy núi thuần bằng sắt, có 4 hạng thiết vi. Hạng thứ nhứt bao vây một tiểu thế giớI (gồm một núi Tu Di, bốn đại châu và biển cả), hạng thứ nhì bao vây một tiểu thiên thế giới, hạng thứ ba bao vây một trung thiên thế giới, hạng thứ tư bao vây một đại thiên thế giới.

(19) Tu Di (Sumeru) dịch là Diệu Cao, tên một tòa núi đứng giữa bốn đại bộ châu, vì do 4 chất báu tạo thành nên gọI là Diệu, và cao hơn các núi khác nên gọi là Cao.

(20) Thần chú: thần có nghĩa là linh thông, Chú có nghĩa là chúc nguyện, về thể gọI là đà ra ni, về dụng gọI là chú.

(21) Đất rung động 6 cách: 1. Phương đông nổi, phuơng tây chìm 2. Phương tây nổi, phương đông chìm 3. Phương nam nổi, phương bắc chìm 4. Phương nam chìm phương bắc nổi 5. Bốn phương nổi, chính giữa chìm 6. Chính giữa nổi, 4 phương chìm.

(22) Sanh tử vi tế: cũng gọI là biến dịch sinh tử. Đây là ước theo nghĩa vô minh tiêu gọi là tử, pháp thân hiện gọI là sanh, chứ không phải như tướng sống chết của vật loại. Vì sự sanh diệt này rất nhỏ nhiệm, không phải phàm tình biết được. Nên gọi là vi tế.

(23) Tỳ khưu, tì khưu ni (Bhiksu, Bhiksuni) ngườI xuất gia khi đã thọ cụ túc giớI thì nam gọI là Tì khưu, nữ gọI là tỳ khưu ni. Danh từ này có nhiều nghĩa, nhưng lối dịch chánh là khất sĩ. Khất sĩ nghĩa là trên xin chánh pháp để dưỡng tánh huệ, dướI xin thực phẩm để nuôi sắc thân. Ưu Bà tắc, ưu bà di (upàsaka, upasika) dịch là cận sự nam, cận sự nữ, đây là hàng đệ tử nam nữ của Phật sau khi thọ tam quy ngũ giớI mớI có danh từ trên. Cận sự là gần gũi phụng sự ngôi Tam bảo.

(24) A Di Đà (Amita) dịch là vô lượng thọ hoặc vô lượng quang, có nghĩa là đấng có mạng sống, và ánh sáng không lường. Đây là tôn hiệu của đức Phật ở về thế giới Cực Lạc ở phương Tây.

(25) Tam muộI, biện tài. Tam muộI (samadhi) dịch là chánh định, có nghĩa tâm định ở một chỗ không xao động. Biện tài: tài biện luận.

(26) Của thường trụ: của nhà chùa. Vì của này không được phép bán, hay dờI đi đâu, thường ở một chỗ, nên gọI là thường trụ.

(27) TộI thập ác, ngũ nghịch: Thập ác là sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói lờI thô ác, tham lam, giận hờn, si mê, tà kiến. Ngũ nghịch là: làm cho thân Phật ra máu, giết cha, giết mẹ, giết bậc hòa thượng a xà lê, phá sự hòa hợp của tăng chúng.

(28) Tăng kỳ (Samghika) dịch là Chúng số (số đông). Của tăng kỳ tức là của thường trụ, của chung của số đông tăng chúng.

(29) Phạm hạnh: Hạnh thanh tịnh, xa lìa dâm dục.

(30) Tu Đà Hoàn (Srotàpanna phala), dịch là Nhập Lưu, có nghĩa là bậc đã vào dòng thánh. Tu Đà hàm (sakrdàgàmi), dịch là Nhứt Lai, có nghĩa là bậc một phen trở lại cõi trần mớI siêu thoát luân hồi. A Na Hàm (anàgàmi) dịch là bất lai, có nghĩa là không còn trở lại dục giớI nữa, quả vị này sanh ngay lên cõi trờI Ngũ Bất Hoàn, tu cho đến khi chứng quả A La hán.

(31) Vi đà (Vedà) dịch là minh trí, kinh điển của hàng bà la môn, có 4 loại: loại dạy phép dưỡng sanh, loại cúng tế cầu nguyện, loại bói toán và loại phù chú.

(32) Mật tích Kim cang sĩ: thiên thần cầm kim cang xử theo ủng hộ Phật. GọI là mật tích vì thần này thường theo Phật nghe những sự tích bản thệ bí mật, hoặc các vị này do Phật, Bồ Tát thị hiện làm thần, tung tích rất bí mật, chúng sanh không biết.

(33) Ô Sô quân đồ ương câu thi (Ucchusma angùsa) Ô sô quân đồ cũng gọI là Ô Sô Sa Ma, dịch là Uế Tích Kim Cang, Ương câu thi: có nghĩa là Phúc Câu, tên một thứ vũ khí hình như cái móc. Đây là tên của một vị Minh vương thần, có công đức chuyển uế thành tịnh, vị thần này và đầu chân lông đều phun ra lửa, mặt mày phẫn nộ, có bốn cánh tay cầm những thứ vũ khí: gươm, dây roi, xoa hoặc khúc câu.

(34) Bát bộ lực sĩ, Thưởng Ca La: bát bộ lực sĩ chính là thiên long bát bộ. Thưởng Ca La (Sankara) dịch là Cốt Tỏa Thiên, đây chính là tên vị thiên thần bộ thuộc của đức Quán Âm, thống lãnh bát bộ.

(35) Ma Hê Na La Diên (Mahésvara Nàràyana): Ma hê gọI cho đủ là Ma Hê Thủ La, có nghĩa Đại Tự Tại, dịch là lực sĩ hoặc Kiên cố. Đây là tên vị thiên thần rất hùng mãnh, có 3 con mắt, 8 cánh tay, ở cõi Sắc Cứu Cánh.

(36) Kim Tỳ La Đá Ca Tỳ La: gọI tắt là Kim Tỳ La Đà (Kumbhirabà) dịch là Oai Như Vương, thân hình sắc trắng hồng, tay trái cầm bảo cung, tay mặt cầm bảo tiễn

(37) Bà Cấp Ta Lâu La: Ta Lâu La cũng gọI là Ca Lâu La, đây chỉ cho vị thần thống lãnh loài Kim Súy Điểu.

(38) Mãn Thiện Xa Bát Chân Đà La: Chân Đà La tức Khẩn Na La, đây là chỉ cho tên vị thần thống lãnh loài Nhơn Phi Nhơn.

(39) Tát Giá Ma hòa La: Ma Hòa La cũng gọI Ma Dà La (Makara) tức là cá Ma Kiệt, loài cá này rất lớn, cơ thể dài đến 700 do tuần. Đây là tên chỉ cho vị thần thống lãnh loài cá Ma Kiệt.

(40) Cưu Lan Đơn Trà Bán Chỉ La: cũng gọI là Bán Chỉ Ca (panika), tức là vị đại thần đứng vào hàng thứ ba tronghàng 8 vị dược xoa đại tướng.

(41) Tất bà già la vương: tức là thọ thần vương, vị thần làm chủ các loài cây.

(42) Ứng Đức Tì La Tát Hòa La: dịch là Hoan hỉ thần.

(43) Phạm Ma Tam Bát La: tức là Phạm Thiên vương.

(44) Ngũ Bộ Tịnh Cư Diêm Ma La: gọI tắt là Diêm ma thiên (suyàmadeva), vị thiên tử quyết đoán những nghiệp lành dữ của chúng sanh.

(45) Thích Vương Tam thập tam: tức là trờI Đế Thích ở cõi trờI Đao LợI, làm chủ 33 cung trờI, đây là chỉ cho vị Đế Thích cùng 32 vị thiên chủ tùy thuộc.

(46) Đại Biện Công Đức Bà Đát Na: Bà Đát Na dịch là Tăng Ích, đây là chỉ cho Đại Biện Tài Thiên vương.

(47) Thần Mẫu Nữ, chúng đại lực: tức là thần Quỉ Tử Mẫu, thống lãnh đại lực dạ xoa.

(48) Tỳ Lâu Lặc Xoa vương (Virùdhaka): Tăng trưởng thiên vương.

(49) Tỳ Lâu Bác Xoa Tỳ Sa Môn, gọI tắt là Tỳ Sa Môn (Vairasana) tức Đa Văn Thiên Vương.

(50) Kim Sắc Khổng Tước Vương: tên một vị thần thân mình sắc vàng rực, tay tả cầm phướng báu, trên báu có chim khổng tước (chim công).

(51) Ma Ni Bạt Đà La (Manibhadra) tức Bảo Hiền, một trong 8 vị dược xoa đại tướng.

(52) Táng Chi Đại tướng, Phất La Bà: cũng gọI là Phất Bà La Ha (Puspàraha) dịch là Thực Hoa, một trong 8 vị dược xoa đại tướng.

(53) Nan Đà, Bạt Nan Đà (Nanda, Upananda): dịch là Hoan Hỉ, Thiện Hoan Hỉ. Tên của 2 vị long vương huynh đệ, Nan Đà là rồng lớn, Bạt Nan Đà là rồng nhỏ. Hai vị long vương này mỗI vị đều có 7 đầu, tay hữu cầm đao, tay tả cầm dây.

(54) Bà Già La Long Y Bát La: Bà Già La dịch là Hàm Hải Long Vương, Y Bát La dịch là Hương Diệp long vương, mình rồng đầu voi.

(55) Cưu Bàn Trà vương, Tỳ xá xà: Cưu Bàn Trà (Kumbhànda) dịch là Yểm Mị Quỷ, Tỳ Xá Xà (Pisàca) dịch là Đạm Tinh Khí Quỷ. œây là 2 loại quỉ vương trong bát bộ quỉ thần.

(56) Ma kiệt: loại cá lớn, dài từ 300 đến 700 do tuần.

(57) Tam tai ác kiếp: Tam tai là hỏa tai, thủy tai, phong tai. Ác kiếp có nghĩa là kiếp khổ sở, độc dữ. Khi thế giớI này sắp tiêu tan, hỏa tai làm hoại từ địa ngục đến cõi sơ thiền, thủy tai làm hoại đến cõi nhị thiền, phong tai làm hoại đến cõi tam thiền.

(58) Ngũ vị tân: hành, hẹ, tỏi, nén, hưng cừ (hai thứ sau nước ta không có).

(59) Bạt chiết la (vajra): dịch là Kim Cang Xử, đây cũng là một loại chày Kim Cang.

(60) Bình quân trì dịch là tháo bình, tịnh bình, tức là bình để rửa tay

Đại Bi Trì Nghiệm
Thanh Biện Luật sư, người xứ Tây Thiên Trúc, sức học uyên bác, rất thâm về vô tướng tông. Các ngoại đạo nghe danh, đến vấn nạn đều bị ngài dùng nghĩa không mà phá tất cả. Có một lần, luận sư gặp



 một nhà ngoại đạo nổi tiếng là giỏi, 2 bên tranh biện nhau hơn nửa ngày, ngoại đạo bị khuất lý mà vẫn cố chấp không chịu thua. Do đó, tự thân bỗng biến thành đá. Đến 6 tháng sau, nghe sấm nổ mớI phục nguyên lại thành người như trước.



Về sau, ngài xem bộ luận về Hữu Tướng Tông của Hộ Pháp Đại Sư, đem nghĩa học của mình đối chiếu vẫn không phá hoại được, mới than rằng: 'Nếu không phải đức Di Lặc ra đời, thì ai giải quyết được mối nghi ngờ của ta?' Nhân đó, ngài đến trước tượng Quán Tự Tại Bồ Tát, tụng chú Đại Bi tùy tâm đà ra ni 3 năm. Một đêm, đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hiện sắc thân tốt đẹp đến hỏi: 'Ngươi tụng chú để mong cầu điều chi?' Luận sư đáp: 'Con nguyện lưu trụ thân đợi đến lúc Từ Thị Như Lai ra đờI để thưa hỏi về giáo nghĩa'. Bồ Tát nói: 'Thân người mong manh, cõi đời hư huyễn, sao không tu thắng hạnh cầu mong lên trời Đâu Suất, chẳng là mau gặp gỡ hơn ư?' Ngài thưa: 'Đức Di Lặc tuy hiện trụ nơi nội viện cung trời thứ tư, nhưng chưa thành Phật, vì thế con muốn đợi đến lúc ngài hiện thành chánh giác nơi cõi nhơn gian. Chí con đã quyết định, không thể lay chuyển'. Bồ tát bảo: 'Đã như thế, ngươi nên đi qua thành phía nam xứ Đại An Đạt La, thuộc về miền nam Thiên Trúc. Cách đó không xa, có một tòa sơn nham, chính là chỗ ở của thần Chấp Kim Cang. Sau khi đến nơi, ông nên đối trước sơn nham tụng chú Chấp Kim Cang Thần đà ra ni, sẽ được toại nguyện'. 



Luận sư vâng lời, đi đến nơi, hành trì như thế. 3 năm sau, thần hiện ra và hỏi: 'Ông cầu nguyện điều chi?' Đáp : Tôi vưng lời đức Quán Thế Âm Bồ Tát mách bảo, đến đây trì tụng, nguyện lưu thân này sống mãi đợI đến khi Phật Di Lặc ra đời, xin tôn thần cho tôi được thành tựu như ý muốn'. Chấp Kim Cang thần bảo: 'Trong sơn nham này có cung điện của thần A Tu La, ông nên gia trì chú Đại Bi trong hạt cải trắng, rồi liệng vào thì cửa đá sẽ mở. Sau khi ấy, ông nên đi thẳng vào trong, sẽ có phương tiện để cho ông trụ thân lâu dài mà chờ đợi'. Luận sư hỏi: '— trong cung động, cách biệt ngoài trần, khi Phật ra đời làm sao tôi được biết?' Thần nói: 'Chừng ấy, tôi sẽ cho ông hay'. 



Ngài Thanh Biện lại y lời, tinh thành tụng chú trong hạt cải 3 năm, rồi liệng vào sơn nham, bỗng thấy vách đá mở ra, trong ấy hào quang chiếu sáng. Lúc bấy giờ, có rất đông đại chúng tề tựu đến xem, bàn bàn luận luận quên cả trở về. Luận sư tướng trạng an lành, buớc vào cửa đá, rồi day lại nói: 'Tôi nguyện cầu đã lâu, muốn trụ thân này chờ đức Từ Thị ra đời, nhờ sức thánh linh, bổn nguyện từ đây đã toại, vậy đại chúng nên theo tôi, để được ngày kia thấy Phật nghe pháp'. Trong chúng nghe nói sợ hãi, cho là hang loại độc long, đi vào chắc mất thân mạng. Luận sư đôi ba phen gọi bảo, chỉ có 6 ngườI chịu đi theo mà thôi. Ngài từ tạ rồi dẫn 6 ngườI thong thả đi vào trong, cửa đá liền khép lại. 



Lúc ấy đại chúng ở ngoài thấy vậy hết sức hối tiếc, trách mình đã nghĩ nói lỗi lầm. (trích Đường Tây Vực Ký)



- — nước Ma Già Đà xứ Tây Thiên Trúc, có một người phật tử tại gia, tánh ưa sắc đẹp. Một hôm, nhân xem kinh thấy nói hàng A Tu La, người nam tuy xấu, nhưng ngườIinữ lại xinh tốt tuyệt bậc, trong lòng sanh niệm mến thích, ước làm sao cùng được kết mối lương duyên. Không bao lâu, lại nghe nhiều vị bảo trong núi nọ có cung điện A Tu La rất nguy nga tráng lệ, báu lạ như thiên cung, liền quyết tâm trì chú Đại Bi 3 năm, cầu mong được viếng cảnh mầu để thỏa lòng ước nguyện khi trước. 



3 năm đã mãn, ngườI ấy từ tạ thân hữu, và gọI một tên đệ tử cùng đi theo. Khi thầy trò đi đến trước núi, chí tâm tụng chú cầu nguyện, bổng cửa đá vụt mở, trong ấy lộ ra cung điện có quỷ thần canh giữ cực nghiêm. Vị phật tử liền bước đến nói rõ bổn nguyện của mình: trì chú muốn kết duyên cùng thần nữ A Tu La, xin nhờ thông báo, và thỉnh ý giùm. Kẻ giữ cửa vào thưa lại. A Tu La nữ nghe nói tỏ ý vui đẹp, hỏi: Đi đến có mấy ngườI? Đáp: Thưa hai người. Thần nữ bảo: Ngươi ra thuật lại ý ta đã thuận. Thỉnh ngườI trì chú mau vào, còn ông đồng bạn hãy tạm đứng ngoài cửa. Kẻ giữ cửa ra thưa lại, vị Phật tử liền đi vào trong. 

Nhìn theo thầy mình đi rồi, người đệ tử còn đang bàng hoàng, bất giác bỗng tự thấy đã trở về đứng ở phía nam của nhà mình hồi nào không hay. Từ ấy về sau, ông này đã mấy lần đến chỗ cũ, song chỉ thấy vách đá đứng sững. Mây khói mịt mù, không còn được nghe biết tin tức gì bên trong nữa. Nhân đó, người đệ tử phát tâm lìa nhà tu hành, nguyện trọn đời ở nơi già lam cúng dường ngôi Tam bảo. 



Khi ngài Huyền Trang sang Ấn Độ du học, đến trụ ở chùa Na Lan Đà, nghe chính ngườI đệ tử này thuật chuyện lại (trích Tây Quốc Chí). 



-Đời nhà Tống, Huệ Tài pháp sư, ngườI huyện Lạc Thanh, đất Vĩnh Gia, xuất gia hồi thuở còn bé, sau khi thọ đại giới, ngài đi tham học nhiều nơi mà không thông hiểu. Tự hận mình nghiệp chướng sâu dày, pháp sư thường tụng chú Đại Bi cầu cho được trí huệ. Hành trì đã lâu, bỗng một đêm ngài nằm mộng thấy một vị phạm tăng cao vài trượng, cởi áo ca sa đắp lên mình. Sau khi thức dậy, pháp sư thấy tâm trí tỏ sáng, những kinh nghĩa đã nghe từ trước đến giờ, một lúc đều nhớ rõ ràng thông suốt. 



Về sau, ngài tham yết Từ Vân Sám chủ, hằng theo phục dịch gần bên, chỗ giải ngộ càng thêm sâu sắc. Niên hiệu Trị Bình năm đầu, ngài trụ ở Pháp Huệ bảo các, được vua tứ hiệu Quảng Từ. Không bao lâu, pháp sư lại thối cư về ở bên tháp Lôi Phong, tinh tu về môn Tịnh Độ. Ngài thường đứng co một chân trì chú Đại Bi 108 biến, lấy đó làm thường khóa. Lại đứng dở chân 1 ngày 1 đêm niệm thánh hiệu Di Đà. Một đêm, pháp sư mộng thấy mình đến chỗ cảnh giớI sáng suốt, nhiều cung điện lâu các trang nghiêm, có người bảo: 'Tịnh độ trung phẩm là nơi thác sanh của ông'. 



Mùa xuân niên hiệu Nguyên Phong năm đầu, ngài vì hàng đạo tục ngàn người, truyền giới ở Lôi Phong, khi vừa mớì làm phép yết ma, nơi đỉnh tượng đức Quán Thế Âm bỗng phóng ánh sáng rực rỡ, đèn đuốc cùng ánh mặt trời thảy đều lu mờ. Ngài Thủ Nhứt Thiền Sư ở chùa Tịnh Từ vì đó làm bài Giới Quang Ký. 



Ngày 21 tháng 5 niên hiệu Nguyên Phong thứ 6, pháp sư tắm gội thay y phục lên giảng tòa, đề bài kệ khen Phật, rồi bảo đại chúng: 'Ta chắc chắn được sanh về Tịnh Độ', nói xong, ngồi yên lặng mà tịch, thọ được 86 tuổi. (trích Phật Tổ Thống Ký)



- Đời nhà Thanh, Ngô doãn Thăng người ở Huy Châu, huyện Hấp, lúc tuổi trẻ thường qua lại buôn bán ở 2 châu Tô, Hàng. Một hôm, nhân có dịp đi qua Hồ Khâu, tình cờ gặp vị tăng đang hóa trai. Vị này nhìn chăm chú vào mặt ông một lúc lâu rồi nói: Ngươi cũng có căn lành, nhưng tiếc vì đến lúc 29 tuổi bị nạn chết đắm. Biết làm sao? Doãn Thăng sợ quá, cầu phương pháp giải thoát. Vị tăng trầm ngâm giây phút rồi bảo: Từ đây về sau, ngươi nên giớI sát, phóng sanh, niệm Phật và trì chú Đại Bi, may ra có thể khỏi được. Ngô Doãn Thăng y lờI, về nhà trì chú, niệm Phật và thường lấy đó khuyên người. 



Qua năm 29 tuổI, ông thuê thuyền từ Hàng Châu về quê quán, bạn đồng hành có 16 người. Thuyền ra đi được vài mươi dặm, bỗng gió to sóng lớn nổI lên, thế rất nguy cấp. Doãn Thăng chợt nhớ lờI vị tăng nói khi trước, vộI vã chắp tay tụng chú, niệm Phật. Giây phút thuyền chìm, tất cả ngườI đi trong ấy đều bị sóng gió trôi giạt. Trong lúc hôn mê, ông bỗng nghe tiếng nói: Ngô Doãn Thăng có công trì chú niệm Phật và khuyên ngườI, được khỏi tai nạn này! Mở mắt tỉnh ra, nhìn xung quanh, ông thấy mình đã được dân chài lướI vớt lên bờ, y phục ướt đẫm, mũ giày đều bị nước cuốn đi mất, duy nơi tay còn cầm chắc xâu chuỗi 18 hột thường dùng để tụng niệm hằng ngày. Hỏi ra, thì 16 ngườI kia đã bị nước cuốn đi không tìm thấy tung tích. 



Từ đó về sau, ông tin tưởng công đức niệm phật, trì chú không thể nghĩ bàn, từng dùng hương viên đốt nơi cánh tay thành bốn chữ 'cầu sanh Tây phương'. Khi gặp ai ông cũng nói lý nhân quả, khuyên việc tu hành. Có được tiền, ông làm những công đức: tạo tượng, cất chùa, phóng sanh, bố thí, cùng các việc phước thiện khác. Danh lành của ông càng lúc càng truyền xa, cho đến tại vùng Hàng châu, tên Ngô Doãn Thăng đàn bà, trẻ con đều biết..

Ngày mùng một tháng năm, niên hiệu Đạo Quang thứ 9, khi lâm chung, ông giữ chánh niệm phân minh, tự nói: 'Tôi thấy vô số Bồ Tát đi kinh hành ở trước mặt tôi' Nói xong, ngồi yên mà qua đờI, năm đó ông được 66 tuổI (trích Nhiễn Hương Tục Tập)

-Thời Trung Hoa Dân Quốc, ở Thai Châu có vị tăng hiệu Thích Kim Trược, xuất gia nơi chùa Diên Thọ hồi 8 tuổI, đến 20 tuổI, thọ đại giới tại chùa Quốc Thanh. Trên đường tu hành, vị đại đức thầy thế độ của ông, chỉ khuyên tụng chú Đại Bi và trì thánh hiệu Quán Thế Âm, y lời mỗI ngày sư tụng chú 48 biến, ngoài ra chỉ chuyên tâm niệm thánh hiệu không cho gián đoạn. Trì tụng lâu ngày, những thói quen trần nhiễm lúc trước lần lần tiêu mòn, tâm tánh lần lần tỉnh sáng, ông xem danh lợi cuộc đời như mây bay bọt nước. Sư thường vì ngườI trị bịnh rất là hiệu nghiệm, nhưng không thọ tiền thù đáp. Có nhiều kẻ cầu hỏi xin truyền cho phương pháp, ông bảo: 'Tôi chỉ trì chú Đại Bi và niệm Quán Thế Âm mà thôi'. Trong năm Mậu Thìn (dân quốc), sư trụ ở một am nhỏ, ban đêm bị ăn cướp vào khảo tiền. Sau khi chúng xét khắp am, thấy không có chi, nổI giận, đâm ông một dao ở tay mặt và hai dao ở bên trán. Thương thế tuy nặng, nhưng sư không chết. Vết đâm cũng dần lành, để lại ba dấu thẹo lớn ăn sâu vào. Đây cũng là nghiệp trái nhiều kiếp, do công đức trì niệm, nên chuyển quả báo nặng thành ra quả nhẹ ở hiện đời. Mùa hạ năm Kỷ Tị, sư đến Ninh Ba định an cư ở chùa A Dục Vương, nhưng vì số dự chúng đã đủ, mấy lần xin gia nhập, cũng không được hứa nhận. Chưa biết sẽ đi về đâu, ông ngồi tĩnh tọa trọn nửa ngày, không có lời hờn trách, sắc oán hận. Vị giám tự tăng thấy thế, đưa sư đến tạm ở nơi Dưỡng tâm đường. Ngày mãn hạ, vị tăng quản đường lại theo quy lệ, không cho ở. Sư bảo: 'Chẳng bao lâu tôi sẽ sanh về Tây phương, xin từ bi cho tôi lưu lại trong một thời gian ngắn nữa'. Đến ngày 19 tháng 10, sư nói vớI đại chúng rằng: 'Trong vòng 3 hôm nữa, tôi sẽ thoát ly biển khổ, sanh về Cực Lạc, xin khuyên bạn đồng tu thành tâm trì chú niệm Phật hoặc niệm Quán Âm, quyết định sẽ được vãng sanh. Vì Phật không bao giờ nói dối'. Lại bảo đức Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm đài bạc thường hiện ở trước tôi'. Chúng cho là lờI nói phô, tỏ vẻ không tin. Qua ngày 21, trước giờ ngọ, sư đắp y len chánh điện lễ Phật, lại đến trước vị tăng quản đường từ tạ, nói sau giờ ngọ thờI mình sẽ vãng sanh. Lúc ấy, mọI ngườI còn cho là lờI nói dối. œến giờ ngọ, sư cùng đại chúng thọ trai, ăn đủ hai chén như mọI ngày không giảm. Lại bảo bạn đồng liêu rằng: 'Theo quy lệ của nhà chùa, ngườI chết đưa thi hài vào núi sâu, tiền công khiêng đi phải bốn giác. Nay tôi không có vật chi, chỉ còn đôi dép, xin phụng tặng, nhờ thầy lo liệu giùm việc ấy' 

Quả nhiên, sau thờI ngọ một giờ, sư ngồi day mặt về Tây, an ổn mà hóa. (trích Du Huệ Úc Sao Tập) 

- Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng cận đại ở Trung Hoa, thuở sanh bình, hết sức tự tu và hoằng hóa pháp môn tịnh độ, thường khóa của ngài ngoài thờI niệm Phật chánh thức, lại kiêm trì chú Đại Bi. Đại sư tu hành tinh tấn, sức từ bi cảm hóa đến hàng dị loại. 

Năm Dân quốc thứ 19, ngài trụ ở chùa Báo Quốc, tại Thái Bình, trong tịnh thất, bỗng sanh ra vô số rệp, nhiều cho đến nỗi nó bò lên song cửa, trên mặt bàn. Có mấy vị đệ tử lo nghĩ đại sư già cả, không kham chịu sự quấy nhiễu, đôi ba phen xin vào trong thất dọn bắt. Ngài không cho và bảo: 'Việc này chỉ trách mình kém đạo đức mà thôi. Thuở xưa một vị cao tăng cũng bị loài rệp phá rối, chịu không kham. Quở bảo nó phải dờI đi nơi khác, chúng liền đem nhau bò đi. Nay ta tu trì bất lực, nên không được sự cảm ứng như thế, lại còn nói gì?' Ròi đại sư vẫn an nhiên mà ở, không để ý đến. Ít lâu sau, loài rệp bỗng nhiên tuyệt tích, ngài cũng không nói cho ai biết. Lúc ấy, gần tiết Đoan Ngọ, Đức Sum pháp sư chợt nhớ đến việc trước hỏi thăm, ngài bảo: 'đã đi hết từ lâu, không còn con nào nữa'. Pháp sư cho là ngài lớn tuổI, mắt mờ yếu nên không thấy, quyết ý xin vào trong xem lại, quả nhiên chúng đã đi đâu hết sạch. Hay là nó cũng vì ngài dờI chỗ ư? 

Đại sư thường gia trì chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bịnh mà các y sư đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng. Một ngày, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì chú vào nước bảo rưới lên chú nguyện, loài mối cũng kéo nhau đi mất. 

Những đệ tử ở xa bị bịnh dây dưa không hết, ngài khuyên nên trì chú vào gạo nấu ăn cho đến chừng nào hết bịnh mới thôi. Phương pháp đó gọi là Đại Bi Phạn. Cách nấu cơm, theo đại sư, nên khéo nấu gạo nước cho vừa chừng, đừng đổ nước nhiều rồi chắt ra, vì như thế đã hao củi lại mất chất bổ trong cơm, làm phí phạm của tiền mà tổn phước. Thuở còn nhỏ, ngài hay đau yếu, có ngườI giỏi về tướng pháp cho rằng chỉ thọ đến 38 tuổI là cùng. Nhưng sau đại sư sống khoẻ mạnh đến 80 tuổI mớI vãng sanh. NgườI chí tâm tu niệm hay cải đổI số mạng. Việc ấy quả có như thế ư? (trích „n Quang Đại Sư truyện ký)

Lời bạt:

Đời càng đi sâu vào mạt pháp, sự khổ của nhơn loại càng thêm nhiều. Đó cũng là cộng nghiệp của chúng sanh chứa góp từ nhiều kiếp trước đến kiếp này, đã tới kỳ bộc phát. Túc nghiệp đã sẵn, hiện nghiệp lại giúp duyên, như lửa gặp được dầu càng thêm lan cháy! 

Thế giới ngày nay, chiến tranh hết nơi này đến nơi khác, nhiều chứng bịnh lạ nảy sanh, trộm cướp hoành hành, nhơn dân nghèo khổ. Mỗi năm những tin tức bão lụt, động đất, nắng hạn, mất mùa, ở khắp các xứ không biết là bao nhiêu! Cảnh đã như thế, con người phần nhiều càng hung ác, gian xảo, không biết tỉnh thức ăn năn. Những thảm trạng do lòng tham địa vị, tình ái, tiền tài, kết quả gây ra tàn hại lẫn nhau cũng không xiết kể! 

Kinh Hoa Nghiêm nói: 'Tâm như người họa khéo, vẽ vời cảnh thế gian'. Cảnh đời vui khổ đã do hành vi lành dữ phát sanh từ tâm niệm của loài người thì muốn làm dịu bớt thảm trạng ngày nay, mỗi người phải tự tỉnh, ăn năn, giữ tám chữ: trung, hiếu, đễ, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ và tấm lòng chân thật ngay thẳng, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Ngoài ra, muốn tiêu trừ nghiệp chướng, tránh khỏi họa tai, người biết Phật pháp lại cần phải cầu nơi tha lực như tu các hạnh niệm Phật, niệm Quán Thế Âm hoặc thọ trì mật chú nữa. Xem kinh Quán Âm Đại Bi Tâm Đà Ra ni, tôi thấy những công đức an vui, thoát khổ trong ấy rất cần thiết đối vớI hiện cảnh ngày nay, nhân có một Phật tử yêu cầu phiên dịch, tôi liền vui lòng hứa nhận. 

Theo trong Hiển Mật Viên Thông, người tu Chân ngôn về sắc trần cần phải rõ rệt, như quán nước phải ra nước, quán lửa phải ra lửa, chớ không thể khác được. Riêng về thinh trần thì dù tiếng tăm đọc tụng có trại vớI Phạm Âm đôi chút cũng không sao, miễn có lòng tin tưởng chí thành là được công hiệu. Vì thế, từ trước đến nay, hàng Phật tử ở Trung Hoa cho đến VN ta, khi đọc tụng chú, thật ra đều trại vớI chánh âm, song vẫn cảm được oai thần công đức không thể nghĩ bàn. Vậy người học Phật, muốn trì chú, đừng lấy điểm này làm nghi, mà mất phần lợi ích. 

Lại từ trước đến nay, chú ngữ không phiên dịch vì 5 duyên cớ: 

1. Vì tâm niệm bí mật nên không phiên dịch.

Như chúng sanh dùng tâm yên lặng, tin tưởng, thành kính mà niệm chú, tất sẽ khế hợp vớI chân tâm của Phật, Bồ Tát mà được cảm ứng. Nếu biết nghĩa lý thì dễ sanh niệm phân biệt, cho đoạn này nghĩa như vầy, đoạn kia nghĩa như thế, kết cuộc vẫn ở trong vòng vọng tưởng, làm sao thông cảm với Phật tâm? 

2. Vì nghĩa lý bí mật nên không phiên dịch. 

Trong một chữ chân ngôn có nhiều nghĩa, nếu dịch nghĩa này thì mất nghĩa kia. Không được toàn vẹn. Thí dụ, riêng một chữ A đã hàm súc những nghĩa như bất sanh, bất diệt, không, căn bản, chân thể, và nhiều nghĩa khác nữa. 

3. Vì danh tự bí mật nên không phiên dịch: 

Nhiều chữ trong chân ngôn, hoặc chỉ cho danh hiệu Phật, Bồ Tát, Thiên, Long, Quỷ Thần, như chữ Hồng gồm 4 chữ Hạ, A, Ô, Ma hiệp thành, chỉ cho chủng tử của chư thiên. Hoặc có thứ ở phương này không có, như danh từ Diêm Phù thọ chẳng hạn. 

4. Vì âm thanh bí mật nên không phiên dịch: 

Các chữ chân ngôn có khi diễn tả âm thanh của tiếng gió reo, nước chảy, tiếng loài chim kêu, đọc lên có sức linh động, nên để nguyên âm. Thí dụ: câu tô rô tô rô là chỉ cho tiếng lá cây ở cõi Phật rơi xuống. Hoặc như chữ Án (Aum), đọc lên có năng lực thầm kín, làm rung chuyển không gian. Hay như chữ Ta Bà Ha (svaha) có sức truyền cảm như một sắc lịnh. Lại có nhiều danh từ nguyên chữ Phạn sẵn từ trước đến nay, vì thuận theo xưa, nên không dịch ra. 

5. Vì sự sanh thiện bí mật nên không phiên dịch. 

Như danh từ bát nhã, người đọc lên sanh lòng tin tưởng, phát ra niệm lành, nếu dịch là trí huệ thì sanh lòng khinh thường, không quí trọng. 

Trên đây là những nguyên nhân vì sao chú ngữ không dịch ra, chớ chẳng phải là không có ý nghĩa. Người học Phật phải nên xét nghĩ, chớ vội theo chỗ thấy hiểu cạn hẹp của mình, sanh lòng khinh mạn mà mang tội. 

Lại trong kinh có câu: 'Nếu tụng trì đúng pháp, tự nhiên sẽ được hiệu quả'. Vậy tụng trì đúng pháp là sao? Trong đây xin chia ra hai phương diện: 

a. Về mặt giữ gìn giớI hạnh: NgườI trì chú cần phải giữ trai giớI, trừ sát, đạo, dâm, vọng, kiêng cữ rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi cùng các thức ăn hôi hám. Thân thể thường phải năng tắm gộI, thay đổi y phục cho sạch sẽ, chớ để trong người có mùi hôi. Khi đại tiểu xong, phải rửa tay đọc chú. Trước khi trì chú phải súc miệng cho sạch. Lại nữa, trong thời gian kiết thất trì chú, ngườI ấy chớ nên nói chuyện hí hước tạp nhạp, không nên khởi tâm hờn giận, hoặc tham tưởng sự ăn uống ngủ nghỉ hay sự dục lạc ngoài đời. Phải giữ lòng thanh tịnh, tin tưởng, thành kính. 

b. Về mặt lập đàn tụng niệm: 

Theo đúng pháp, người trì chú nào phải thờ vị Bổn Tôn của chú ấy. Như trì chú Đại Bi thì phải thờ tượng Thiên Nhãn, hoặc tượng Quán Âm 24 tay, 18 tay, 8 tay, 4 tay hay ít lắm là tượng Quán Âm thường cũng được. Nên để tượng day mặt về phương Tây. Theo quyển Bách Lục Thỉnh Quán Âm Nghi thì nếu có tượng Bổn Sư nên để tượng Thích Ca hướng về phương Nam, tượng Quán Âm hướng về phương Đông. Đàn tràng nên lựa chỗ vắng lặng sạch sẽ, thường dùng hương, hoa, nước trái cây, cùng các thứ ăn uống cúng dường tôn tượng. Nếu có phương tiện, treo tràng phan, bảo cái lại càng tốt. Thời gian cầu nguyện hoặc 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày nên giữ cho đúng. Trước khi vào đàn, phải kiết giới y như kinh đã chỉ dạy. Trong một ngày đêm, chia ra làm 3, 4 hoặc 6 thờI, tụng niệm tiếp tục, tiếng tụng cần phải rành rẽ, rõ ràng. Ngoài ra, nghi thức lễ bái, trì niệm cũng cần phải biết và học thuộc trước. 

Trên đây là nói về cách lập đàn kiết giới tụng niệm để cầu cho được mau hiệu nghiệm, nếu người thường tụng trì, không bắt buộc phải theo lệ ấy. Nhưng trong 2 phương diện trên, gắng giữ được phần nào lại càng hay. 

Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng, dịch ra quyển này, tôi chỉ kính vâng theo bi nguyện của chư Phật, Bồ Tát, và thuận với sự mong cầu, thích hợp của hành nhơn mà thôi. Nếu vị nào lấy tâm Bồ Đề làm nhân, tùy theo chí nguyện, lựa một pháp môn tu đều có thể giải thoát. Nhưng, chúng sanh đờI mạt pháp, phần nhiều là hàng trung, hạ, ít có bậc thượng căn, cần nương nhờ nơi tha lực mới mong được kết quả chắc chắn. Tịnh tông và Mật Tông đều thuộc về tha lực pháp môn, mà Tịnh tông lại là chỗ quy túc cho các tông khác. Nguyện xin các đồng nhơn, từ đây dứt dữ làm lành, tin sâu lý nhân quả, rồi hoặc chuyên niệm Phật, hoặc lấy niệm Phật làm chánh, tụng kinh, trì chú, tham thiền làm trợ, để tự tu và khuyên người. Như thế mới là mưu hạnh phúc cho chính mình, cho thân nhơn và tất cả sanh loại. Như thế mới có thể chuyển họa thành phước, đổi cảnh trạng thống khổ trước mắt thành cảnh giới an ổn, vui tươi. Để rồi ngày lâm chung, lại được cùng nhau chân bước lên chín phẩm liên đài, thân ra khỏi 3 ngàn thế giới, thấy Di Đà trong hiện kiếp, chứng đạo giác nơi tương lai. Như vậy chẳng quý hơn ư?