Ngày đại lễ đức DI ĐÀ : 17/11 âm lịch.
GIẢI NGHĨA LỤC TỰ DI ĐÀ
Thiên-Lý Bửu-Tòa, Đàn Dậu thời, mùng 9 tháng 2 âm lịch năm Tân Dậu (14-3-1981)
Đồng-tử: Bạch Diệu Hoa
Thủ hộ đàn: Ngọc Chơn Thanh, Ngọc Thu Hồng
Điển ký: Nguyễn Hoàng Trinh, Trần Ngọc Nữ
Hầu đàn: 24 vị
Thi:
HỒNG đào cúc tửu thấy khang trang,
HUỆ nở hương xông khói đượm màn,
CHƠN thần đại định lo tiếp giá,
TIÊN Thánh triều nghinh ĐỨC PHỤ HOÀNG.
Bần-Đạo: HỒNG-HUỆ CHƠN-TIÊN, xin chào mừng quí vị đạo tâm lưỡng đài và xin cấp báo đàn trung hãy nghiêm tịnh thủ lễ nghinh tiếp ĐỨC CHÍ-TÔN lâm đàn. Bần-Đạo cùng chư Tiên Thánh xuất ngoại triều nghinh. Hãy đọc mừng Cơ...
(Tiếp điển:)
Thi:
ĐẠI đồng khai hội muốn thành công,
TỪ mỗi đạo tâm phải một lòng,
PHỤ sức gom tài quên sự khó,
THẦY đà bảo hộ chớ nào không!
THẦY hoan hỷ ban ơn, các con hãy bình thân an tọa lắng nghe. Thầy rất vui thay ngày giờ các con hội diện và cũng là một ngày giờ mà các con được biện minh tâm trạng để cùng nhau được hiểu biết mọi nỗi nơi lòng. Các con ơi! các con đã vì Thầy mà không quản ngại chi điều khó nhọc thì Thầy cũng rất thương tâm!
Giờ nay trước hết các con hãy nghe Thầy trần thuyết đôi lời để cho các con thấm ngẫm. Các con đã từng dấn bước trên đường Thiên-Đạo, qua những kinh nghiệm rõ ràng thì nay các con cũng nên rút tỉa những gì được khá hơn để mà áp dụng cho đường lối Đại-Đạo mà giữa thời kỳ của các con đang đảm trách nhiệm vụ của Thiên ban.
Các con! đã có con nào giải nghĩa được sáu chữ Lục Tự Di Đà thì hãy giải hộ cho Thầy rõ biết.
(Cơ chờ ......... mà không ai trả lời...)
Nếu như các con không giải được thì Thầy xin giải thích cho các con được tỏ tường.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT vốn là sáu chữ mà từ cổ chí kim thì đường tu luyện phải mượn nó mà giải thoát luân hồi, nhưng chỉ dùng nó biết muôn triệu tỷ nào mà không biết cái tên đó là để dùng cho cái chi.
Chữ NAM tức là phải trau dồi hạnh kiểm là trước nhứt.
Chữ MÔ vốn là phải gồm cả các đức tính tốt đẹp, toàn thiện, toàn mỹ. Nếu như hạnh kiểm mà không biết gìn giữ thì đã tu mà còn phạm nhằm pháp luật và tất cả những gì xấu xa thì kẻ ấy chưa phải là người tu. MÔ nếu không qui tụ được các đức tính cho toàn thiện, toàn mỹ thì không có đức, mà không có đức thì không phải người tu.
Chữ A tức là phải cố tầm chơn pháp, chơn lý. Dầu cho chơn lý và chơn pháp nó ở nơi đâu khó khăn vô cùng cực mà kẻ muốn tu giải thoát thì cũng phải mạo hiểm, xả thân mà tìm tòi ở trong mọi cái khó khăn, nguy hiểm thì mới tầm được chơn lý. Tầm được cái chơn lý rồi thì sẽ thấy cái chơn pháp rõ ràng. Đã thấy rõ ràng rồi thì phải lấy và giữ.
Chữ DI tức là hễ lấy được rồi thì phải trau dồi phanh luyện. Sự trau dồi phanh luyện là một cái việc làm mà ta phải luôn luôn làm mãi cho đến khi nào ta đặng thành công.
Chữ ĐÀ vốn là chịu đựng. Ta phải dùng ta mà làm một cái sức chịu đựng tất cả mọi sự việc. Và những cái gì mà nặng nề, xấu xa, khổ cực, cay đắng, khảo đảo... ta phải rèn đúc tâm chí cho đặng trở thành sắt thép, đại hùng, đại lực, đại từ bi. Đó là phải lì lợm chịu đựng để mà đưa đón chúng-sanh lên bờ Cực Lạc. Và mức chịu đựng sẽ là không có giới hạn thì mới phải là tu chơn.
Chữ PHẬT vốn là chữ thành công và kết luận trong mọi chịu đựng của năm chữ trước. Nếu ta chịu đựng được vậy và làm được như vậy thì ta mới là PHẬT.
Như vậy các con xem thấy Thầy giải lý ấy là đúng hay sai? Ngọc Minh Lý hãy bạch cho Thầy rõ biết.
(- Ngọc Minh Lý bạch: “Bạch Đức Từ Phụ, Đức Từ Phụ dạy chúng con, chúng con rán sưu tầm học hỏi. Từ Phụ dạy không có gì là không đúng đối với chúng con. Duy chúng con không đủ sáng suốt để thông hiểu lời dạy của Từ Phụ.”)
Thầy ban ơn, con hãy an tọa. Thì nay các con nên sưu tầm, học hỏi và áp dụng, bởi vì đường Đạo thì phải trải qua khó khăn cực nhọc từ thể chất lẫn đến tâm hồn, lẫn đến của cải. Nhưng các con ơi! các con nhọc nhằn vì Đạo thì các con mới được thi thố quả công. Dầu cho mỗi việc nào của con bỏ công vào cho đường hành đạo, thì quả công của các con sẽ có Thần Thánh chép ghi. Của cải các con đem dùng cho việc hữu ích chung thì luật định thiên nhiên cũng sẽ đền bồi lại cho các con đều đủ, các con sẽ không mất mát chi đâu. Còn phần đệ huynh thì phải cố gắng hết lòng mà thuận hòa thương mến và xem nhau cũng như tình cốt nhục thì mới tìm đặng sự tốt đẹp thành công.
Về phần thỉnh nguyện thì trưởng phái đoàn hãy thủ lễ đọc qua từng mục nơi điện Cửu Trùng, ấy là điều minh bạch mà thủ lễ với Ơn-Trên.
(- Ngọc Minh Lý trình bày thỉnh nguyện .........)
Thầy đại hỷ, con hãy bình thân. Các điều thỉnh nguyện của con là những điều rất nên tốt đẹp đối với Thầy với Đạo cũng sánh như hoa nở mùa Xuân. Thầy xin tỏ lòng cám ơn và xin ban bố hồng ân cho các con hạnh hưởng. Nhưng con nên suy nghiệm kỹ càng hơn là vì việc tổ chức thành lập Đại Đạo với danh nghĩa đại đồng thì thời kỳ đệ nhị vốn là khai hội Long-Hoa, tổ chức Đạo áp dụng hình Long. Con ơi! cái hình Long vốn là vĩ đại vô cùng cực chứ không phải tầm thường! Con Rồng ấy vốn là toàn mảnh đất đai trên vũ trụ hiện hữu nầy. Nhưng ngày giờ khai sáng, tức là cũng như trong thời kỳ phôi thai. Con Rồng nằm trên mảnh đất của vũ trụ quan: đầu Rồng ở tại vùng Đông Nam Á, lưỡi rồng và hỏa châu là tại quốc Việt-Nam……(Đoạn này được kiểm duyệt và dạy việc nội bộ nên không đăng)….
Thầy xin đại hỷ và ban ơn lòng tốt của con, hãy bình thân. Thủ hộ đàn hãy sắm ly tách và bồ đào để rót đủ ra, rồi các con hãy thân mến cùng nhau một buổi tiệc trước điện Cửu Trùng gọi là tỏ tấm thạnh tình cùng nhau hòa hiệp.
Về phần nội bộ … (Đoạn này dạy việc nội bộ thời bấy giờ nên không đăng)
Như vậy thì cũng đã tạm xong. Giờ nay mãn điển, Tý thời tái cầu vì giờ đây chơn đồng mãn điển thì Thầy không thể tiếp tục dạy thêm. Thầy xin ban ơn. Các con hãy an nghĩ, thảo luận việc thành lập nội qui. Chơn đồng an tịnh. Thầy xin thượng ỷ.
Thăng…
Tiền Thân Đức Phật A Di Đà
Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật đã là một đấng lịch sử trong cõi Ta Bà, ngoài mấy nghìn năm, hình ảnh ngài vẫn in sâu nơi ký ức của nhơn loại, do truyện ký cùng di tích, nhứt là nét vàng rực rỡ trong Tam Tạng. Ðức Từ Phụ A Di Ðà Phật cũng là một đấng hoàn toàn lịch sử của thế giới Cực Lạc, trên vài mươi thế kỷ, hồng danh mãi vang lên nơi miệng, nơi tâm của tất cả, y cứ nơi kim ngôn của đức Bổn Sư, đấng chơn thật ngữ. Ðức Bổn Sư trước khi hiện thân thành đạo vô thượng ở cội Bồ Ðề, để rồi trở nên vị Giáo Chủ cao cả của cõi Ta Bà, ngài là Thiện Huệ Bồ Tát dưng hoa trải tóc cúng dường Phật Nhiên Ðăng và là Hộ Minh Bồ Tát ngự ở cung trời Ðâu Suất v.v... Ðức Từ Phụ cũng thế, trước khi viên thành quả Chánh Giác giữ ngôi Pháp Vương ở Cực Lạc thế giới, ngài cũng có nhơn địa của ngài: Vua Vô Tránh Niệm thời kỳ Phật Bảo Tạng, Vương Tử Thắng Công Ðức trong pháp hội của Phật Bảo Công Ðức, Bồ Tát Sa Di con trai của đức Ðại Thông Trí Thắng Phật, v.v... Trước khi tìm hiểu đến thân và cõi hiện tại của đức Từ Phụ, ta cần nên rõ nhơn địa của ngài, để biết rằng kết quả vô thượng đây tất do nơi nhơn thù thắng thuở trước đây.
Đức Phật Thích Ca luôn ân cần khuyên chúng ta cầu vãng sinh Tây Phương Cực lạc. Chẳng những một đức Thích Ca ở cõi Ta Bà mà đông tây nam bắc trên dưới mười phương, hằng hà sa thế giới, mỗi thế giới đều có Phật, tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng quang minh, nói lời thành thật rằng: “Chúng sinh ngươi nên tin Phật A Di Đà công đức không thể nghĩ bàn. Ai nấy tịnh tín, chí tâm hồi hướng căn lành đều có thể cầu về An Lạc”.
Đại nguyện của Đức Phật A Di Đà
Một hôm, bỗng nét mặt đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật rạng rỡ như khối vàng rực sáng. Tôn giả Anan hầu cận ngạc nhiên vội vàng thưa hỏi nguyên do.
– Lành thay! Lành thay, lời hỏi công đức vô lượng. Tương lai hàm linh nhân câu hỏi này mà được giải thoát. Bởi vì ta đang nghĩ về quá khứ lâu xa, thời đức Thế Tự Tại Vương Như Lai. Có đại quốc vương nghe pháp vui mừng, xuất gia tu hạnh Samôn, hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Lập nguyện tạo một cảnh giới thù thắng. Hào quang tiếp dẫn sáu nẻo luân hồi về hưởng bình an, tiến tu vô thượng Bồ-đề. Quyết định suốt đời vị lai đưa chúng sinh về cảnh Phật.
Đức Thế Tự Tại Vương Như Lai biết người cao minh, liền vì nói 210 ức cõi Phật, giúp thần lực cho thấy các cõi ấy. Thời pháp trải ngàn ức năm. Rồi lại trải 5 kiếp suy tư, Pháp Tạng Tỳ kheo thông đạt rõ ràng phải tu những hạnh thanh tịnh thế nào để trang nghiêm cõi An Lạc của mình.
Đức Phật khuyên: “Lành thay! Nay thật phải lúc, ông nên tác bạch, đại chúng chứng minh”.
Pháp Tạng Tỳ kheo phát 48 đại nguyện. Nguyện nào cũng nhấn mạnh nếu không viên mãn quyết không thành Phật.
Nguyện thành Phật hiệu A Di Đà (Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Biên Công Đức). Chúng sinh chỉ cần niệm 10 lần danh hiệu, chí tâm hồi hướng, quyết định vãng sinh duy trừ ngũ nghịch và phỉ báng chính pháp. Trong nước không có cái tên ác đạo huống là có thật.
Trời người ai cũng đủ sáu thần thông, thọ mạng không lường, hưởng thọ khoái lạc như lậu tận Tỳ kheo, đủ 32 tướng đại nhân, rốt ráo đều tới nhất sinh bổ xứ.
Pháp Tạng Tỳ kheo trụ tuệ chân thật, nương chân đế xa lìa hết thảy hư vọng (vọng thân, vọng cảnh, vọng tâm). Dũng mãnh tinh tấn nhất hướng chuyên chí trang nghiêm cõi diệu. Cảnh giới rộng lớn nghiêm tịnh, quang lệ cực diệu, không đâu sánh bằng. Hương thơm huân khắp mười phương thế giới, mười phương Bồ-tát nhận được hương này đều viên mãn Phật hạnh.
Cõi Tây Phương An Lạc
Cõi An Lạc, một khi đã kiến lập rồi, không suy không biến. Đức Pháp Tạng Tỳ kheo thành Phật, nay đã 10 kiếp, ở cõi An Lạc phương Tây, cách Diêm-phù- đề, trăm ngàn câu-chi na-do-tha cõi. Hiện đang thuyết pháp. Vô lượng vô số Bồ-tát kính thọ tu hành.
Cõi An Lạc từ tính chân không hiện các diệu hữu nên không thể nghĩ bàn. Chỉ cần thấy quang sắc hoặc nghe âm thanh hay ngửi được hương thơm, hoặc nếm quả vị hay chạm diệu xúc, hoặc nhớ diệu cảnh liền được sáu căn thanh tịnh, thông triệt minh tỏ, trụ bất thoái chuyển cho đến thành Phật.
Oai thần quang minh Phật A Di Đà tối tôn bậc nhất, chiếu khắp mười phương. Quang minh rực rỡ nên Ngài có 12 tên:
1- Vô Lượng Quang.
2- Vô Biên Quang.
3- Trí Tuệ Quang.
4- Thường Chiếu Quang.
5- Thanh Tịnh Quang.
6- Hoan Hỷ Quang.
7- Giải Thoát Quang.
8- An Ổn Quang.
9- Vô Ngại Quang.
10- Vô Đẳng Quang.
11- Siêu Nhật Nguyệt Quang.
12- Bất Tư Nghì Quang.
Chí tâm xưng tán quang minh Phật A Di Đà, ngày đêm chuyên cần, sẽ được như nguyện vãng sinh cõi An Lạc.
Nơi đây chúng Thanh-văn thần trí thông triệt, oai lực tự tại đầy khắp trong nước. Phật cho một thí dụ: Giả sử mười phương chúng sinh đều thành Duyên-giác, thọ vạn ức tuổi, thần thông
Như đức Đại Mục Kiền Liên. Cùng nhau tính đếm cũng chẳng thể biết được một phần ngàn vạn con số Thanh-văn bên cõi An Lạc. Ví như lấy một sợi lông chấm vào biển cả. Chỗ đếm biết được của các Mục Kiền Liên kia ví như nước dính ở sợi lông. Còn chỗ chưa biết được ví như nước toàn biển cả.
Gió động lá cây, gợn sóng nước, đều vang tiếng pháp, khuyên niệm Phật niệm Pháp niệm Tăng. Giảng về vô ngã, tính vô sinh, tu tập từ bi hỷ xả, tăng trưởng Bồ-đề. Chỉ toàn âm thanh vui vẻ nên gọi là An Lạc.
Chúng sinh cõi ấy đầy đủ thọ dụng. Những ai đã sinh, đang sinh, sẽ sinh về An Lạc, đều sắc thân vi diệu, trí tuệ sáng suốt, thần thông tự tại. Y phục mũ áo, các thứ trang sức, tự nhiên đầy đủ tại thân. Nhà ở phòng xá trang nghiêm diễm lệ. Lầu gác điện đường muốn chi có nấy. Vuông tròn tùy ý, rộng hẹp tùy tâm. Muốn ở trên hư không, liền có nhà trên hư không. Muốn nghỉ trên mặt đất bằng, liền có nhà trên đất bằng. Nghĩ tới liền hiện. Vạn thứ cần dùng không thiếu không dư. Gió đức nhè nhẹ lướt xuyên màn cửa, len trong lá cây, diễn giảng vô thường vô ngã 10 ba-la-mật. Gió thoảng hương thơm, tiêu trừ tập khí trần lao. Xúc chạm gió đức, thân tâm an hòa điều thích.
Ngày đêm sáu thời mưa hoa từng loại từng màu không xen tạp.
Nơi ao nước tám công đức, hoa sen xanh vàng đỏ trắng, quang minh rực rỡ, vi diệu hương khiết. Lại còn những ngọc ma ni sáng choang, hóa hiện vạn ức Phật Bồ-tát. Tiếng pháp nhiệm mầu an lập chúng sinh vào vô thượng đạo.
Phật A Di Đà nguyện đưa mười phương chúng sinh, suốt đời vị lai, vào cõi An Lạc, lên đường Niết-bàn. Khiến cho họ giáo thọ nhau, độ thoát nhau. Người trước dẫn người sau mãi mãi. Như muôn sông ngày đêm đổ vào biển mà biển vẫn y nhiên không tăng không giảm. Cõi An Lạc dù bao nhiêu chúng sinh đổ về vẫn thường như sáng đẹp vui vẻ.
Khuyên ai nấy tinh tấn, nỗ lực cầu về cõi An Lạc, ắt triệt để siêu thoát. Cảnh chân thật thanh tịnh. Đóng chặt cửa ác thú. Cắt đứt nẻo luân hồi. Giải thoát nạn sinh tử. Thẳng bước lên bờ giác. Đạo thù thắng vô biên. Cõi An Lạc đón mời, thật dễ đến. Chỉ cần hành đạo đức, ắt sẽ được trường sinh, an vui không cùng cực. Có hai Bồ-tát tối tôn bậc nhất. Oai thần quang minh chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới chúng ta. Quán Thế Âm Bồ-tát và Đại Thế Chí Bồ-tát đều đã tu Bồ-tát hạnh ở cõi Ta Bà, vãng sinh về An Lạc, hầu cận hai bên đức A Di Đà. Hiện nay nhân dân cõi Ta Bà gặp tai nạn sợ hãi, quy y Bồ-tát Quán Thế Âm, đều được giải thoát.
Bồ-tát Đại Thế Chí nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật, khiến lìa ba đường ác, được vô thượng lực, đồng sinh An Lạc, viên mãn các Ba-la-mật, đầy đủ Bồ-tát hạnh, xứng tính vô sinh bất diệt, đi khắp mười phương lợi ích tất cả thế gian và xuất thế gian.
Người đời lo cung dưỡng thân sinh già bệnh chết. Vất vả kinh doanh, tạo bao ác nghiệp, chiêu vời quả khổ. Sang hèn giàu nghèo, lớn nhỏ nam nữ, lo nghĩ đêm ngày, vọng tâm sai sử. Ruộng nhà tiền của. Không có lo cho được có. Được 1 muốn 10. Sợ hãi oan gia nước lửa giặc trộm. Tâm tham ý chấp, bo bo bỏn sẻn. Mạng chung xuôi tay, đâu có ai mang theo được gì.
Hàng ngày sân giận tranh cãi. Kiếp này chống trái ganh ghét, kiếp sau thành đại oán. Cho nên gấp gấp hòa giải, gấp gấp làm lành. Tâm bình khí hòa để ra đi thanh thoát.
Tâm mê thần ám, bừa bãi tạo nghiệp. Chẳng nghĩ thiện ác họa phúc. Mờ mờ mịt mịt, không tin kinh pháp, chẳng nghĩ lo xa. Chỉ biết thỏa thích hiện tại. Tham tiền đắm của. Tuổi thọ hết rồi, đối phó sao đây? Cưu mang sát nghiệp, ác khí nặng nề. Vọng tâm buông lung, trái nghịch trời đất, đọa thẳng ác đạo, bao giờ tỉnh ra.
Ai nấy suy nghĩ chín chắn. Siêng năng tránh ác, chọn đường lương thiện.
Giàu sang tình ái là thứ vô thường, là gốc sầu não, chẳng thể tin cậy. Hãy mau tỉnh ngộ, cầu về An Lạc. Nơi đây trí tuệ sáng suốt, công đức thù thắng.
Đời trước nếu không tu phước tuệ.
Ngày nay đâu được nghe chính pháp.
Phải đã từng cúng dàng rất nhiều Phật.
Mới vui tin kinh Vô Lượng Thọ.
***
Tà kiến như mù trong bóng tối.
Chẳng tin vi diệu pháp Như Lai.
Huống còn biết khai mở cho kẻ khác.
Thọ trì đọc tụng và biên chép.
***
Thiện căn sâu nguyện cứu đời.
Quyết định cầu về cõi An Lạc.
Biển phúc đức Như Lai sâu rộng.
Chỉ Phật cùng Phật mới rõ biết.
***
Thân người khó được, Phật khó gặp.
Diệu pháp nhất thừa nay được nghe.
Thọ trì rộng độ đường sinh tử.
Bậc này chân thật là bạn hiền”.
Đức Thế Tôn nói xong, tam thiên đại thiên thế giới sáu thứ chấn động. Đại quang minh chiếu khắp mười phương. Chư thiên trỗi nhạc rải hoa. Cõi sắc giới vang lên tiếng khen: “Chưa từng có”.
I. Vua Vô Tránh Niệm:
Trích thuật theo kinh “Bi Hoa”
Đức Phật A-Di-Đà là một vị giáo chủ bên cõi Lạc bang, oai đức không cùng thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta Bà đem về Tịnh độ.
Trong kinh Bi Hoa nói rằng: “Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện Trì”. Khi ấy tại cõi San-đề-lam, có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông Thắng Thần Châu, hai là Nam Thiệm Bộ Châu, ba là Tây Ngưu Hóa Châu, và bốn là Bắc Cu Lô Châu; tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ; nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng ái kính.
Trong kinh Bi Hoa nói rằng: “Về khoảng hằng sa kiếp trước, có một đại kiếp gọi là Thiện Trì”. Khi ấy tại cõi San-đề-lam, có vua Chuyển Luân Thánh Vương, tên Vô Tránh Niệm, thống lãnh cả bốn xứ thiên hạ: một là Đông Thắng Thần Châu, hai là Nam Thiệm Bộ Châu, ba là Tây Ngưu Hóa Châu, và bốn là Bắc Cu Lô Châu; tiếng nhơn hiền đồn dậy bốn phương đức từ thiện đượm nhuần khắp xứ; nên hết thảy nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng ái kính.
Vua ấy có nhiều người con và có một vị Đại thần, tên là Bảo Hải, con dòng Phạm chí, rất tinh thông về việc xem thiên văn.
Ông Bảo Hải lại có một người con trai tướng tốt lạ thường, từ dưới chân lên đến trên đầu đều có ba mươi hai tướng tốt.
Khi con ông mới sanh ra, thì có các hàng khách tôn quí đem nhiều đồ lễ vật đến dâng cho, nhân vậy mà đặt tên là Bảo Tạng.
Lúc khôn lớn, thì Bảo Tạng xem biết việc đời là thống khổ thân mạng lại vô thường, tự nhiên sanh lòng chán ngán, bỏ cuộc vinh hoa, liền xuất gia tu hành, chẳng đặng bao lâu mà đã thành Phật, hiệu là Bảo Tạng Như Lai, đủ các đạo pháp nhiệm mầu, thần thông rộng lớn. Khi thành Phật rồi, thì Ngài dạo khắp các nơi mà hóa độ chúng sanh; có nhiều hàng đệ tử đã chứng đặng quả Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát, nên nhân dân ai nấy cũng sẵn lòng hoan nghinh.
Có một bữa kia, vua Vô Tránh Niệm nghe Phật Bảo Tạng cùng đại chúng đến giảng đạo tại vườn Diêm phù, gần bên thành, thì tự nghĩ rằng: “ Nay ta muốn đến chỗ Phật, đặng xem coi giảng đạo lý gì mà thiên hạ tín ngưỡng đông như thế !”
Nghĩ như vậy rồi, vua cùng các vị vương tử, đại thần và quyến thuộc bèn đến vườn Diêm phù lễ Phật vừa xong, liền đi chung quanh ba vòng, rồi ngồi bên ngài mà nghe pháp.
Vua Vô Tránh Niệm xem thấy Đức Bảo Tạng Như Lai khoanh chân ngồi trên bảo tọa có hình con sư tử, rất bực trang nghiêm, đủ tướng tốt đẹp, chung quanh thân Ngài có ánh sang nhiều sắc chói lòa.
Còn trong pháp hội thì thấy: nào là những người đã xuất gia làm đệ tử của Phật cạo tóc đắp y, nào là những hàng vương tử đại thần mặc đồ anh lạc, nào là cung nga mỹ nữ dung mạo tốt xinh, nào là sĩ, nông, công, thương, áo xiêm chỉnh đốn, kẻ thì chấp tay ngồi im lặng, người thì quỳ gối thưa hỏi, xem bộ ai nấy cũng chăm ngó Phật mà nghe pháp cả.
Vua Vô Tránh Niệm quan sát khắp đủ mọi lẽ, bèn nhắm nhìn thân mình, rồi trở lại ngó Phật, mắt sững không nháy, lòng thiệt hoan nghinh, cái tâm niệm tín ngưỡng tự nhiên phát lộ, liền đảnh lễ Ngài và đi xung quanh ba vòng, rồi cũng ngồi xuống một bên Ngài mà chăm nghe lời giảng dạy.
Vua nghe Đức Bảo Tạng Như Lai diễn đủ các pháp, thì lòng đã mở thông, căn thân thanh tịnh, rõ đường giải khổ, biết sự làm lành, liền quì xuống chấp tay mà thưa rằng: “Bạch Đức Thế Tôn ! Nay tôi muốn sắm đủ những đồ ăn uống: áo chăn, mền nệm và thuốc men, đặng dâng cúng cho ngài và đại chúng luôn trọn ba tháng ở đây mà giảng đạo. Xin ngài từ bi ai nạp “.
Vua Vô Tránh Niệm thấy Phật nhận lời, liền trở về truyền lệnh sắm sửa đủ mọi lễ, cứ đúng buổi mà dâng cúng không hề trễ nải.
Vua lại khuyên bảo các vị vương tử, đại thần, quyến thuộc và nhân dân rằng: ”Các ngươi có biết hay không? Nay trẫm đã mở lòng bố thí, kính thỉnh Đức Bảo Tạng Như Lai và đại chúng đến mà cúng dường trọn ba tháng. Những đồ báu trọng ngon đẹp của trẫm thọ dụng bấy lâu nay đều đem dâng cúng tất cả. Các ngươi cũng nên thể theo ý trẫm xả bớt huyễn tài mà cúng Phật Tăng đặng cầu phước báo “.
Cả thảy đều vâng lời vua khuyên, hết lòng sắm sửa lễ vật mà dâng cúng Phật.
Có một hôm, quan Đại thần Bảo Hải, là phụ thân Đức Bảo Tạng Như Lai, nằm chiêm bao thấy vua Vô Tránh Niệm làm sự bố thí thì lớn, mà việc cầu phước báo thì nhỏ. Sự ao ước của vua còn thuộc về phước hữu lậu trong cãi nhân thiên, chưa thoát ra khỏi luân hồi sanh tử.
Vậy nên quan Đại thần chẳng đặng vui lòng, vì ý của ông muốn làm sao cho vua phát tâm cầu quả Bồ đề, tu thành Phật đạo mà cứu vớt mọi loài chúng sanh, chớ không muốn cho vua cầu phước báo nhỏ nhen như hàng tiểu dân vậy.
Quan Đại thần suy nghĩ như vậy, bèn đến chỗ Phật Bảo Tạng Như Lai tỏ điềm chiêm bao ấy, và tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: “Muôn tâu Đại vương ! Xin suy nghĩ đến việc này. Về sự sanh tử luân hồi phải bỏ thân này mang lốt khác, nên khó đặng thân người. Nay Đại vương đã cảm lấy phước báo làm đặng vương thân, thiệt là quí báu biết dường nào ! Các Đức Phật tùy cơ duyên của chúng sanh cảm triệu mà ứng hiện ra đời, cũng như bông ưu đàm ứng thời mà nở ; thiệt là ít có ! Nay Đại vương gặp Phật xuất thế, thì phần hân hạnh biết bao ! Dứt trừ lòng dục vọng, làm mọi sự phước duyên, cũng là việc khó mà Đại vương làm đặng như vậy, thiệt là ít ai bì đặng !
Xin Đại vương thứ lỗi cho ngu thần hỏi lời này: Ngày nay Đại vương cúng dường Phật Tăng, dùng phước duyên đó mà cầu nguyện những việc chi, xin cho ngu thần rõ.
Nếu Đại vương muốn cầu sanh về cõi Trời mà làm một vị Thiên tử hưởng sự phước thọ hay là muốn cầu sanh về cõi Nhân gian làm vua Chuyển Luân, thống lãnh bốn châu thiên hạ như ngày nay vậy, thì cũng còn ở trong khổ hải, chớ chưa ra khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Thưa Đại vương ! Hai sự phước báo tôi đã trần tấu đó đều là tướng vô định, đều là sự vô thường, thí như cơn gió thổi, dường tợ đám mây tan, có chắc chắn lâu dài chi đâu mà phải cầu nguyện !
Nếu sanh về cõi Trời, khi hưởng sự khoái lạc mà có tạo ác nghiệp, thì cũng phải đọa vào Địa ngục, đặng chịu khổ. Còn như sanh về cõi Nhân gian, thì lại chịu mọi sự khổ não phần thì oán cừu gặp gỡ, phần thì ân ái chia lìa cái khổ trạng ấy không thể kể xiết.
Vì Đại vương nhờ nhân duyên tu phước đời trước, nên mới hưởng đặng sự tôn vinh như vầy. Nếu nay Đại vương giữ gìn giới luật, thì sẽ đặng phước báo lớn hơn nữa. Còn như tu học chánh pháp, thì sẽ thành chưởng trí.
Vậy xin Đại vương nên phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề, chớ đừng cầu nguyện những việc phước nhỏ nhen như hạng người thường kia vậy.
Vua Vô Tránh Niệm nghe quan Đại thần Bảo Hải khuyên thỉnh như thế, thì tâm lượng tự nhiên mở rộng, liền đáp rằng: “ Trẫm muốn trải khắp trong đường sanh tử. làm sự bố thí , trì giới, hầu nghe những pháp mầu nhiệm, tu hạnh Bồ tát và cứu vớt chúng sanh ; do nhân duyên ấy mà phát tâm Bồ Đề “.
Đại thần Bảo Hải lại nói rằng: “ Bồ đề là một đạo rất trong sạch sáng suốt, rất ngay thẳng chính đáng rất trang nghiêm tốt đẹp, rất rộng lớn cao sâu, khắp cả hư không, trùm cả sa giới rất có oai thần mãnh lực.
Vả lại đạo Bồ đề là hạnh bố thí, sẽ đặng giàu sang ; là hạnh trì giới, sẽ đặng thanh tịnh ; là hạnh nhẫn nhục, sẽ đặng vô ngã ; là hạnh tinh tấn, sẽ đặng bất thoái ; là hạnh thiền định, sẽ vắng lặng ; là hạnh bát nhã, sẽ đặng sáng suốt.
Tu được như vậy mới đến chỗ An lạc và mới chứng đặng quả Niết bàn. Vậy xin Đại vương nên phát tâm mà cầu đạo ấy.
Vua Vô Tránh Niêm đáp rằng: “ Này khanh ! Đương thời kỳ trung kiếp, mỗi người sống lâu chỉ có tám vạn tuổi mà thôi ! Nay Đức Bảo Tạng Như Lai ứng hiện ra đời mà giáo hoá chúng sanh, hoặc có kẻ chứng pháp Tam muội, hoặc có người đặng bực Bồ tát, hoặc đặng thọ ký làm Phật, hoặc đặng quả báo nơi cõi Nhân thiên. Trong hàng chúng sanh có một người nào không trồng căn lành mà Đức Như Lai chẳng nói pháp đoạn khổ. Tuy Ngài là phước điền của chúng sanh, song những người không có căn lành thì Ngài không có thể hóa độ cho dứt đặng mọi sự khổ não “.
Nay Trẫm phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát hạnh, học đạo Đại thừa, chứng pháp môn rất mầu nhiệm, chuyên làm Phật sự mà giáo hóa chúng sanh. Trẫm muốn cầu làm sao cho khi thành đạo Bồ đề thì Thế giới đặng trang nghiêm thanh tịnh chúng sanh không còn có một chút khổ gì. Nếu đặng như vậy thì trẫm sẽ chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vua Vô Tránh Niệm nói như vậy rồi, bèn đi với quan Đại thần Bảo Hải đến chỗ Đức Bảo Tạng Như Lai, thấy ngài đương nhập định. Lại dùng phép thần thông biến hóa và phóng hào quang sáng suốt, hiện cả mười phương thế giới của Chư Phật ra trước mặt cho chúng hội xem: hoặc có cõi Phật đã Niết bàn rồi, hoặc có cõi Phật đương Niết bàn, hoặc có cõi các vị Bồ tát mới ngồi nơi đạo tràng dưới cây Bồ đề, đương hàng phục chúng ma hoặc có cõi Phật mới thành đạo và mới nói Pháp, hoặc có cõi Phật thành đạo đã lâu, đương còn nói pháp, hoặc có thế giới toàn là các bực Bồ tát, hoặc có thế giới toàn là những hàng Thanh văn và Duyên giác, hoặc có thế giới không có Phật, Bồ tát, Thanh văn và Duyên giác chi hết, hoặc có thế giới đủ năm món ác trược, hoặc có thế giới đủ các thứ trang nghiêm, hoặc có thế giới hèn kém dơ nhớp, hoặc có thế giới tốt đẹp lạ thường, hoặc có thế giới mà nhân dân sống lâu vô cùng, hoặc có thế giới mà nhân dân thọ mạng ngắn ngủi, hoặc có thế giới thường bị tai nạn thủy hỏa, hoặc có thế giới hằng bị tai nạn gió bão, hoặc có thế giới gần thành tựu, hoặc có thế giới đã thành tựu rồi.
Đại thần Bảo Hải thấy vậy, bèn tâu với vua Vô Tránh Niệm rằng: “Nay Đại vương nhờ sức oai thần của Đứ Như Lai mà đặng thấy các thế giới ; vậy Đại vương phát Bồ đề tâm muốn cầu lấy thế giới nào”.
Vua chấp tay mà thưa với Đức Bảo Tạng Như Lai rằng: “Bạch Đức Thế Tôn ! Chẳng biết các vị Bồ tát tu hạnh gì mà được đặng cõi Phật tốt đẹp trang nghiêm, tu nghiệp gì mà được đặng thế giới xấu xa ác trược, do nghiệp gì mà đặng thọ mạng lâu dài, tạo nghiệp gì mà số mạng ngắn ngủi ? Xin ngài chỉ dạy cho tôi biết mà tu học “.
Đức Bảo Tạng Như Lai nói rằng: “Vì bởi các vị Bồ tát có sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới thanh tịnh, không có các điều ác trược, nên sau khi thành đạo được về ở cõi rất trang nghiêm. Còn các vị Bồ tát nào do sức thệ nguyện, muốn ở cõi thế giới ngũ trược đủ sự phiền não, nên sau khi thành đạo về ở cõi ngũ trược phiền não ấy “.
Vua Vô Tránh Niệm lễ Phật rồi lui trở về trong cung, một mình ngồi im lìm mà suy nghĩ đến sự thệ nguyện của mình, mong cầu cho đặng cõi cực kỳ tốt đẹp, đặng tiếp dẫn chúng sanh.
Suy nghĩ rồi vua bèn trở lại lễ Phật mà thưa rằng ; “Bạch Đức Thế Tô ! Vì tôi muốn chứng đạo Bồ đề, nên đem công đức cúng dường Ngài và đại chúng trong ba tháng mà cầu đặng cõi Phật rất thanh tịnh trang nghiêm.
1. Bạch Đức Thế Tôn ! Nay tôi nguyện sau này khi tôi thành Phật, làm sao đặng một Thế giới đủ sự vui đẹp, hình dạng nhân dân trong cõi ấy toàn là sắc vàng và không có những đường Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh xen ở chung lộn. Hết thảy chúng sanh nơi cõi ấy chẳng khi nào còn phải thoái chuyển mà đọa vào trong ba đường dữ đó nữa, và người nào cũng đủ sáu phép thần thông và căn thân tốt đẹp.
2. Tôi nguyện tất cả chúng sanh được về cõi ấy, đều thành đàn ông tươi tốt vô cùng, không còn thọ báo sắc thân đàn bà và cũng chẳng còn có danh hiệu của người đàn bà nữa. Hết thảy chúng sanh, khi được về đó, thần thức đầu thai trong bông sen, lúc bông nở ra thì căn thân xinh tốt, thọ mạng lâu dài, không kể xiết đặng.
3. Tôi nguyện cõi ấy đặng trang nghiêm, cảnh vật thậtt xinh đẹp, không có mọi sự nhiễm trược, hằng có hoa tốt hương thơm mùi bay các hướng.
4. Tôi nguyện cho chúng sanh trong cõi ấy, ai nấy cũng đều đặng ba mươi hai tướng tốt, sáu phép thần thông, trong giây phút dạo khắp các cõi Phật trong mười phương, đặng cúng dường và nghe pháp, rồi trở về cũng chưa trễ buổi ăn.
5. Tôi nguyện nhân dân trong cõi ấy đều đặng mọi sự thọ dụng tự nhiên, đúng giờ ăn thì có đủ các món ngon vật lạ hiên ra trước mắt ; còn muốn bận đồ gì thì có áo xiêm tốt đẹp hiện ra bên mình, không cần phải sắm sửa như trong cõi nhân gian vậy.
6. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ rày về sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh Bồ tát, làm sự hi hữu mà tạo thành cõi Tịnh độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ đề mà thành quả Chánh giác, phóng hào quang soi các Thế giới cho các đức Phật đều xem thấy, đặng khen ngợi danh hiệu của tôi.
7. Tôi phát nguyện cầu đặng cõi Phật như vậy, đặng từ rày về sau, đời đời kiếp kiếp, thường tu hạnh Bồ tát, làm sự hi hữu mà tạo thành cõi Tịnh độ, đến thời kỳ chứng đạo thì ngồi dưới cây Bồ đề mà thành quả Chánh giác, phóng hào quang soi các Thế giới cho các đức Phật đều xem thấy, đặng khen ngợi danh hiệu của tôi.
8. Tôi nguyện khi thành Phật rồi, những loài chúng sanh ở các Thế giới đã phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, muốn sanh về cõi tôi, thì đến khi mạng chung, tôi và đệ tử tôi đều hiện thân đến trước mặt người ấy đặng tiếp dẫn.
9. Tôi nguyện khi tôi nhập diệt, trải vô số kiếp về sau những người nữ nhân ở trong các thế giới nghe danh hiệu tôi mà chăm lòng vui mến và phát Bồ đề tâm, cho đến lúc thành Phật cứ cảm báo đặng làm thân đàn ông hoài, chớ không khi nào còn mang lấy thân đàn bà nữa.
10. Bạch Đức Thế Tôn ! Tôi nguyên đặng cõi Phật như vậy, chúng sanh như vậy, mọi sự thanh tịnh trang nghiêm như vậy, thì tôi mới chịu thành Phật.
Đức Bảo Tạng Như Lai nghe vua vô Tránh Niệm nguyện mấy lời ấy rồi khen rằng: “Hay thay! Hay thay! Đai vương phát nguyện sâu lớn, muốn cõi thanh tịnh. Kia Đại Vương hãy xem qua hướng Tây, cách trăm ngàn muôn ức cõi Phật, có một thế giới gọi là Tôn Thiện Vô Cấu, giáo chủ cõi ấy hiệu là Tôn Âm Vương Như Lai, hiện nay đương vì các bực Bồ tát mà giảng dạy pháp Đại thừa, giáo hóa các người thượng căn, chớ không điển thuyết các pháp quyền tiểu”.
Trong cõi ấy cũng không có chúng sanh căn trí Thiểu thừa và cũng không có một ngưòi nữ nhân. Nhưng y báo và chánh báo của Phật Tôn Âm Vương Như Lai thật thanh tịnh trang nghiêm, rất xứng hiệp với chỗ cầu nguyện của Đại vương đó! Vì Đại vương có thệ nguyện muôn cõi thanh tịnh, nên nay ta đổi hiệu Đại vương là Vô Lượng Thanh Tịnh.
Khi Vô Lượng Thanh Tịnh mãn một trung kiếp, thì Đức Phật Tôn Âm Vương Như Lai nhập Niết bàn, chánh pháp truyền bá đặng mười trung kiếp. Đến khi diệt rồi, trải qua sáu mươi trung kiếp, thì cõi Tôn Thiện Vô Cấu đổi tên lại là: Di Lâu Quang Minh có đức Phật, hiệu là Bất Khả Tư Nghị Công Đức Vương Như Lai, ứng hiện ra đời mà hóa đạo chúng sanh. Sau khi đức Phật ấy nhập Niết Bàn rồi, trải vô số hằng sa kiếp và vô lượng Phật diệt độ, thì cõi Di lâu Quang Minh đỗi tên lại là: An Lạc. Đến thời kỳ Vô Lượng Thanh Tịnh chứng quả về cõi đó mà thành Phật thì hiệu là: A Di Đà Như Lai sống lâu vô cùng, tiếp dẫn vô lượng chúng sanh trong các thế giới về đó, rồi giáo hóa cho thành Phật đạo tất cả.
Vua Vô Tránh Niệm thưa rồi, đương cúi đầu thi lễ, tức thì mười phương thế giới thảy đều vang động.
Vua ở trong pháp hội nghe Chư Phật đều thọ ký cũng như lời Đức Phật Bảo Tạng đã nói trên đó, thì rất đỗi vui mừng, liền chấp tay đảnh lễ, rồi ngồi nghe Phật Bảo Tạng thọ ký cho các vị Bồ Tát khác.
Từ đó về sau, vua Vô Tránh Niệm mạng chung thọ sanh ra các đời khác, kiếp nào cũng giữ lời bổn nguyện, tu hành Bồ tát cứu độ chúng sanh, trải vô lượng kiếp quả mãn công viên hiện thành chánh giác, đến nay đã mười đại kiếp rồi, ngài ở cõi Cực Lạc Thế Giới bên Tây phương, đương giảng dạy các pháp Đại thừa và hằng tiếp dẫn chúng sanh đem về cõi ấy.
II. Bồ Tát Sa Di :
Trích thuật theo kinh “Pháp Hoa” phẩm “Hóa Thành Dụ” thứ 7
Ðức Ðại Thông Trí Thắng Phật khi còn ở ngôi Quốc Vương, có 16 người con trai. Lúc Quốc Vương bỏ ngai vàng xuất gia thành Phật, thời 16 vị Vương Tử đồng vào pháp hội xin xuất gia làm Sa Di. Trải qua một thời gian tu học, 16 vị Sa Di chứng ngộ diệu lý, đều đặng thần thông trí huệ.
Sau khi giảng kinh Diệu Pháp Liên Hoa cho đại chúng trong pháp hội, đức Ðại Thông Trí Thắng Phật liền nhập tịnh thất trụ trong đại định.
Thời gian đức Phật ngồi yên lặng nơi tịnh thất, 16 vị Bồ Tát Sa Di đều thăng pháp tòa giảng rộng nghĩa lý kinh Pháp Hoa cho đại chúng. Mỗi vị Bồ Tát Sa Di độ được sáu trăm tám mươi muôn ức na do tha hằng hà sa người.
Mười sáu vị Sa Di đó hiện nay đều đã thành Phật ca, đang ngự trong đạo tràng ở mười phương thế giới. Vị Sa Di thứ 16 thành Phật ở cõi Ta Bà hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Và vị thứ 9 hiện tại thành Phật ở Cực Lạc thế giới, tức là đức Từ Phụ A Di Ðà Phật.
III. Thái Tử Thắng Công Ðức :
Trích thuật theo kinh “Nhứt Hướng Xuất Sanh Bồ Tát"
Về thuở quá khứ có ông Thái Tử tên là Bất Tư Nghì Thắng Công Ðức. Năm 16 tuổi, Thái Tử được nghe kinh “Pháp Bổn Ðà La Ni” nơi đức Phật Bảo Công Ðức Tinh Tú Kiếp Vương Như Lai.
Nghe kinh xong Thái Tử tinh tấn tu tập trong bảy muôn năm, không ngủ nghỉ, mà cũng không nằm, không dựa. Nhờ sức dõng mãnh ấy, nên lần lần Thái Tử được gặp chín mươi ức trăm nghìn đức Phật. Bao nhiêu kinh pháp của chư Phật dạy truyền, Thái Tử đều có thể thọ trì tu tập cả. Về sau Thái Tử xuất gia làm Sa-môn, lại tu tập “Pháp Bổn Ðà La Ni” chín muôn năm và giảng truyền chánh pháp cho mọi người.
Tinh tấn tu hành và cần mẫn giáo hóa, trong một đời hoằng pháp Thái Tử độ được tám mươi ức na do tha người phát Bồ Ðề tâm, trụ bực bất thối chuyển.
Thái Tử Thắng Công Ðức là tiền thân của Ðức Từ Phụ A Di Ðà Phật.
IV. Pháp Tạng Bồ Tát:
Trích thuật theo kinh “Phật thuyết Vô Lượng Thọ” cũng gọi là “Ðại Bổn A Di Ðà Kinh”.
Một hôm nhơn thấy dung nhan của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật tươi tắn sáng rỡ khác hẳn ngày thường, Tôn Giả A Nan bèn ra lễ Phật rồi bạch hỏi duyên cớ.
Ðức Bổn Sư tán thán lời bạch hỏi đây, công đức lớn hơn công đức cúng dường vô lượng vị Thanh Văn cùng Duyên Giác, mà cũng lớn hơn công đức bố thí cho vô lượng hàng chư Thiên, nhơn dân cầm súc trong nhiều kiếp. Vì chư Thiên, nhơn dân nhẫn đến các loài cầm súc đều nhờ lời bạch hỏi này mà được đạo pháp giải thoát.
Rồi đức Bổn Sư cho biết rằng, hôm nay ngài đang nghĩ đến bổn sự, bổn nguyện và bổn hạnh của Ðấng giáo chủ Cực Lạc thế giới, đức Phật A Di Ðà.
Ðức Bổn Sư phán tiếp:
- Vô lượng vô số kiếp về trước, nhằm lúc đức Thế Tự Tại Vương Như Lai xuất thế giáo hóa chúng sanh, có một Quốc Vương nghe đức Phật thuyết phán lòng rất vui thích, liền phát Bồ Ðề tâm, từ bỏ ngai vàng xuất gia làm Sa Môn hiệu là Pháp Tạng.
Sa Môn Pháp Tạng đến đảnh lễ Phật Thế Tự Tại vương, và sau khi thuyết tụng ca ngợi đức Phật, người cần cầu đức Phật truyền dạy công hạnh trang nghiêm Tịnh Ðộ nhiếp thủ chúng sanh, để người y theo tu hành.
Rõ biết Sa Môn là bực cao minh, chí nguyện sâu rộng, đức Phật Thế Tự Tại Vương vì Sa Môn Pháp Tạng mà giảng nói y báo đồng thời lại hiện tất cả ra cho thấy.
Khi nghe và được thấy y báo chánh báo trang nghiêm của các quốc độ xong, Sa Môn Pháp Tạng phát khởi tâm nguyện thù thắng vô thượng. Rồi trong thời gian năm kiếp, người suy gẫm chọn lấy công hạnh trang nghiêm thanh tịnh Phật độ (Bổn Sư nói với A Nan: “Thời kỳ ấy, đức Phật thọ 10 kiếp”).
Khi tu tập xong, Sa Môn Pháp Tạng đến đảnh lễ đức Thế Tự Tại Vương Như Lai, và cầu đức Phật chứng giám cho người thuật 48 điều đại nguyện mà người đã lập thệ quyết thực hiện để tiếp độ tất cả chúng sanh.
Lúc Pháp Tạng Bồ Tát đối đức Phật Thế Tự Tại Vương thuật 48 điều đại nguyện xong, thời khắp cõi đất đều rung động, hoa báu mưa xuống trên mình người, và giữa hư không tự nhiên tiếng nhạc vang lừng: “Quyết chắc sẽ thành Phật!”.
Sau đó trải qua vô lượng vô số kiếp, Pháp Tạng Bồ Tát tu hành thực hiện hoàn toàn các điều nguyện trên, và người đã thành Phật đến nay được mười kiếp hiệu là A Di Ðà, hiện đang ngự thuyết pháp tại Cực Lạc thế giới, cách đây mười muôn ức cõi về hướng Tây.
Tài liệu lấy từ sách Đường Về Cực Lạc của HT Thích Trí Tịnh
Thiên Châu Sưu Tập