THI
Thiện tâm kỉnh lễ Vô-vi,
Tài công đức lập trường thi đại đồng.
Đồng chung tất cả Thiên phong,
Tử triều kiến trước bệ rồng ngày nay.
Hữu danh Đồng Tử Thiện Tài,
Chân nương Ngọc bệ Kim đài giáng lâm.
Thừa vâng sắc chỉ Quan Âm,
Truyền trong nam nữ thành tâm kính mừng.
Quan Âm đến Điện khai Xuân,
Thiện nam tín nữ thừa vâng tiếp triều.
Cũng đồng bổn phận cao siêu,
Pháp chơn, lý chánh Thiên điều ban phê.
Quan Âm Nam Hải ngự về,
Thành tâm triều kính chỉnh tề cung nghinh.
Triều thăng
Hải Nam Quan Âm Từ Bi cứu khổ.
THI
Nam thiên chiếu hóa hiện đàn linh,
Hải đức oai nghiêm chuyển Đạo-Huỳnh,
Quan điển chiếu soi truyền Đạo lý,
Âm đề chơn pháp thị cao minh.
Từ quan kính hiện giờ thanh tịnh,
Bi chuyển Đạo Vàng vững đức tin,
Cứu độ chúng sanh qua cảnh khổ,
Khổ lòng nhân loại ráng lo trình.
***
Trình tấu từ bi Mẹ chứng lòng,
Các con an tọa định tâm không,
Trong ngoài nghiêm chỉnh nghe lời giáo,
Từ Mẫu ban ân xuống phúc hồng.
Nam Hải Quan Âm Từ Bi cứu khổ. Mẹ ban ân lành cho chung toàn Hội Thánh Huỳnh Đạo cùng toàn thể Bửu liên nơi Long Vân Tịnh Thất.
THI
Đạo đức giồi trau tập quả trình,
Các con trần thế trọn lòng tin,
Nghe lời Từ Mẫu ban chân lý,
Học hỏi giồi trau mối Đạo-Huỳnh.
***
Điển chung Mẹ ngự chiếu hào quang,
Dược thủy Mẹ ban trước đại đàn,
Cam lộ phất tay nhành liễu chuyển,
Hồng Từ Mẹ ngự chiếu hào quang.
BÀI
Long Vân Tịnh Thất Mẹ về,
Ngày Xuân đoàn kết, tựu tề về đây.
Con ơi một Đạo, một Thầy,
Quyết lòng lo liệu, sau nầy cho an.
Nơi đây Từ Mẫu bố ban,
Bửu Liên đồng đẳng tịnh an nghe bài.
***
Con Thiên Tinh trong ngoài lẳng lặng,
Cuộc đời mê cay đắng thêm nhiều,
Biết tu trở lại cầu kiều,
Bến thương, bến khổ nặng điều hư danh.
Mẹ ban giống hạt lành con trẻ,
Hãy gieo trồng vẹn vẻ phước duyên,
Nơi đây Đạo hạnh dịu hiền,
Thấy con tất cả kỉnh thiền thành tâm.
Đạo chân lý siêu thâm học hỏi,
Mẹ từ bi soi rọi đèn tâm,
Con tu chẳng có mấy lầm,
Đạo là giải thoát cao thâm tuyệt mầu.
Chữ Bát-Nhã cao sâu rèn luyện,
Tập cho lòng rung chuyển từ bi,
Ma-ha bát-nhã huyền vi,
Đạo Vàng con nguyện pháp y vững vàng.
Ráng hành trì gian nan không ngại,
Con bước tu đừng ngại điều gì,
Vẹn tròn đức độ từ bi,
Quan Âm chuyển hóa trường thi đại đồng.
Con Bửu Liên ân hồng Mẹ dạy,
Bước đường đời chướng ngại gian nan,
Đường tu con nguyện vững vàng,
Từ bi Phật Mẫu bố ban căn lành.
Nơi Tịnh thất con hành pháp Đạo,
Tỉnh mộng trần bước dạo đài mây,
Long Vân huệ điển nơi nầy,
Quan Âm chuyển hóa một bài linh văn.
Hỡi các con đại căn, đại vị,
Ráng lập thành tâm trí vững vàng,
Cuộc đời ai khỏi gian nan,
Biết tu phải bước vững vàng nghe con!
Hàng Thiên Tinh bảng son rực rỡ,
Nguyện từ đây nặng nợ với Thầy,
Làm con ân đức đủ đầy,
Phước lành Cha, Mẹ Tổ, Thầy bố ban.
Nơi Tịnh Thất điển quang Mẹ chiếu,
Chữ Long Vân con hiểu như vầy,
Rồng mây tương hợp là đây,
Các con đầy đủ phước dầy thâm công.
Các con có một tấm lòng chơn thật,
Quyết tu hành bản chất hiền lương,
Ngày nay Chánh Điện Phật đường,
Dược Sư ban bố mười phương gội nhuần.
Nay là đúng Tiết Xuân Mẹ dạy,
Xuân Nhâm Thìn hăng hái tiến lên,
Xuân nầy con được may hên,
Đạo mầu con chẳng bỏ quên nơi lòng.
Dầu đất khách xa trong cách trở,
Cõi Nam miền thương nhớ thiết tha,
Hiếu ân còn một mẹ già
Tình thương mãi mãi bao la nghìn trùng.
Sống kiếp tạm hiền, hung chưa biết,
Nhưng ở đời chân thiệt hiếu từ,
Các con một được sánh mười,
Ráng lo vun tưới cho tươi cây tùng.
Hòa chị em đồng chung một dạ,
Việc tu hành công quả, công phu,
Công trình con chẳng mờ lu,
Đạo Vàng con nguyện đường tu sáng ngời.
Tâm Phật Đạo tuyệt vời muôn thuở,
Gốc Bồ-Đề rạng rỡ hào quang,
Bồ-Đề kiên cố vững vàng,
Con ơi hành Đạo khoa tràng thi công.
Chữ pháp y một lòng gìn giữ,
Để lo tròn hành sự hằng ngày,
Vững bền theo Đức Như Lai,
Vì thương Phật Tổ hoằng khai độ trì.
Gìn cho đúng pháp y chơn giáo,
Giữ cho tròn tâm Đạo huyền linh,
Con ơi trong cõi trần tình,
Biết rằng hai chữ nhục vinh trên đời.
Tu giải thoát chiều mơi trở lại,
Chốn trần gian tồn tại chi đâu?
Ngựa xe xa mã đài lầu,
Rốt rồi cũng chẳng bền đâu con à!
Chỉ chữ tâm Di Đà trì niệm,
Quyết một lòng tầm kiếm Vô-Vi,
Huyển-Chơn hai lẽ hành y,
Có không-không có huyền vi an bày.
Lỡ sanh kiếp nhân loài cõi hạ,
Xác thân nầy bị đọa khổ sầu,
Vì thân tứ đại không lâu,
Trăm năm rồi cũng ngõ hầu rã tan.
Dầu văn minh trần gian thế mấy,
Nhưng linh hồn việc ấy linh thông,
Dạy con đồng nhứt một lòng,
Chị em thuận thảo ngoài trong lo tròn.
Vì Đạo-đức vàng son muôn thuở,
Vì hiếu ân không nỡ xa lìa,
Các con gìn khóa, giữ chìa,
Nghe lời Mẹ dạy sớt chia nghĩa tình.
Nay Hội-Thánh Đạo-Huỳnh mừng lễ,
Về Long Vân trước bệ Phật tiền,
Để mừng gia đạo con hiền,
Chúc cầu tất cả bình yên mọi nhà.
Chơn pháp lý Phật Bà chỉ điểm,
Biết tu rồi năng tiến lo hành,
Biết câu vô tự cao thanh,
Vẹn tròn bí pháp học hành từ nay.
Chữ Đại Bi hằng ngày thường tụng,
Pháp mầu siêu ứng dụng độ nàn,
Giải trần trừ bịnh thế gian,
Độ cho chánh Đạo vững an muôn đời.
Huỳnh-Đạo chuyển lịnh Trời Ngọc-Đế,
Hỡi nầy chư môn đệ Đạo Vàng,
Các con phận sự chăm ngoan,
Quyết lòng lo liệu bước thang Thượng Thừa.
Con sống kiếp mây mưa trần hạ,
Gió sương nhiều rời rã tâm mê,
Con ơi khai chú Chuẩn Đề,
Để tâm con hướng quy về chơn không.
Đốt đi con cho lòng mát mẽ,
Đốt cho trần được nhẹ oan khiên,
Chữ tâm là chữ thảo hiền,
Chữ thương, chữ mến kết liền từ nay.
Nghe Mẹ dạy một bài chơn lý,
Các con còn khảo thí bên trong,
Từ đây hãy lắng lại lòng,
Chung vui nghĩa Đạo tình nồng nghĩa Cha.
Lời Bồ-Tát phân qua tất cả,
Con nữ nam hỉ hả ngày Xuân,
Về đây con trẻ vui mừng,
Nghĩa tình Đạo-đức Tân Xuân huy hoàng.
Mẹ ban chung đại đàn nam nữ,
Ráng đi con phận sự lo hành,
Đạo Vàng không cạnh, không tranh,
Đạo Vàng là một tinh anh của Trời.
Nhứt nguyện nghe những lời dạy dỗ,
Tu là nhiều kiếp khổ ngày nay,
Ngựa hay, ráng chạy đường dài,
Con hay thi đức, thi tài kỳ ba.
Lời Bồ-Tát phân ra chân lý,
Nghiệm cho tường học kỷ cho thông,
Sự đời lúc thẳng lúc cong,
Đạo mầu cũng biết ân phong lo tròn.
Vậy Bồ-Tát điểm son phân tỏ,
Giã các con gắng bó Đạo Vàng,
Giờ trưa Mẹ chiếu điển quang,
Ban chung tất cả đại đàn hôm nay.
Liên đài Mẹ vội bước ngay,
Giã từ con trẻ trần ai Mẹ về.
Thăng
PHẨM "QUÁN-THẾ-ÂM BỔ-TÁT PHỔ MÔN”
*******
*******
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát do nhân duyên gì mà tên là Quán-Thế-Âm?"
Phật bảo ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các sự khổ não, nghe Quán-Thế-Âm Bồ-Tát này một lòng xưng danh Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, do vì sức oai thần của Bồ-Tát này vậy.
Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ-Tát liền đặng đến chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm các thứ châu báu như vàng, bạc, lưu ly, xa-cừ, mã-não, san-hô, hổ-phách, trân châu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió bảo thổi ghe thuyền của kẻ trôi tắp nơi nước quỉ La-sát, trong do nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời những người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán-Thế-Âm.
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời dao gậy của người kia cầm liền gãy từng khúc, mà đặng thoát khỏị.
Nếu quỉ Dạ-xoa cùng La-sát đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên muốn đến hại người, nghe người xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời tên quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng .
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam-thiên đại-thiên, có một vị thương chủ dắt đoàn người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng : "Các Thiện-nam-tử! Chớ có sợ sệt, các ông phải nên một lòng xưng danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, vị Bồ-Tát đó hay đem pháp vô-úy thí cho chúng sanh, nếu các ông xưng danh hiệu thì sẽ đặng thoát khỏi oán tặc nầy".
Đoàn người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát!" vì xưng danh hiệu Bồ-Tát nên liền được thoát khỏi.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát sức oai thần to lớn như thế.
Nếu có chúng sanh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền đặng ly lòng dâm ý dục.
Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền đặng lìa lòng giận hờn.
Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền đặng lìa ngu si.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có những sức oai thần rộng lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ đến ngài
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần như thế.
Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng-hà-sa Bồ-Tát lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhơn đó có nhiều chăng?
Vô-Tận-Ý thưa: "Bạch Thế-Tôn! Rất nhiều".Phật dạy: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước đức của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô-Tận-Ý! Thọ trì danh hiệu Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế."
Ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát dạo đi trong cõi Ta-bà như thế nào? Vì chúng snah nói pháp như thế nào? Sức phương tiện của Ngài như thế nào?"
Phật bảo Vô-Tận-Ý Bồ-Tát: "Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát liền hiện thân Phật vì đó mà nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Duyên-giác đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Duyên-giác vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Thanh-văn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thanh-văn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Phạm-vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Phạm-vương vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Đế-Thích đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đế-Thích vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tự-tại-thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tự-tại-thiên vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Đại-tự-tại-thiên đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Đại-tự-tại-thiên vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Thiên-đại-tướng-quân đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Thiên-đại-tướng-quân vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ-sa-môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ-sa-môn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tiểu-vương đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tiểu-vương vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Trưởng-giả đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Trưởng-giả vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Cư-sĩ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Cư-sĩ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tể-quan đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tể-quan vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Bà-la-môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Bà-la-môn vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-ba-di vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng-giả, Cư-Sĩ, Tể-quan, Bà-la-môn đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân phụ nữ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân đồng-nam, đồng-nữ đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân đồng-nam, đồng-nữ vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn cùng phi nhơn đặng độ thoát, Bồ tát liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Nơi đáng dùng thân thần Chấp-Kim-Cang đặng độ thoát, Bồ tát liền hiện thân thần Chấp-Kim-Cang vì đó nói pháp.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, như thế vì vậy các ông phải một lòng cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát.
Quán-Thế-Âm Bồ-Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban cho sự vô-úy, cho nên cõi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị "Thí-vô-úy".
Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế-Tôn! Con nay xin cúng dường Quán-Thế-Âm Bồ-Tát". Ngài liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu giá trị trăm nghìn lượng vàng nơi cổ, đem cúng dường cho ngài Quán-Thế-Âm mà nói rằng : "Xin Ngài nhận chuỗi ngọc trân bảo pháp thí này".
Khi ấy Quán-Thế-Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô-Tận-Ý lại thưa cùng Quán-Thế-Âm Bồ-Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ Phật bảo ngài Quán-Thế-Âm Bồ-Tát: "Ông nên thương Vô-Tận-Ý Bồ-Tát và hàng tứ chúng cùng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-dà, nhơn và phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.
Tức thời Quán-Thế-Âm Bồ-Tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhơn, phi-nhơn v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: Một phần dâng đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật, một phần dâng vào tháp của đức Phật Đa-Bảo.
Vô-Tận-Ý! Quán-Thế-Âm Bồ-Tát có sức oai thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta Bà".
Lúc đó, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát nói kệ hỏi Phật rằng:
Thế-Tôn đủ tướng tốt!
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhân duyên gì?
Tên là Quán-Thế-Âm?
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô-Tận-Ý:
Ông nghe hạnh Quán-Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn đức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi.
Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Hầm lửa biến thành ao.
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán-Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng
Hoặc ở chót Tu-di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán-Âm
Như mặt nhật treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim-Cang
Do sức niệm Quán-Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán-Âm
Đều liền sanh lòng lành.
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán-Âm
Dao liền gãy từng đoạn.
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán-Âm
Tháo rã đặng thoát khỏi
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán-Âm
Trở hại nơi bổn-nhân
Hoặc gặp La-sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán-Âm
Liền đều không dám hại.
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vuốt nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán-Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng.
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán-Âm
Nghe tiếng tự bỏ đi.
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán-Âm
Liền được tiêu tan cả.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán-Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện.
Các loài trong đường dữ:
Địa-ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bịnh, chết khổ
Lần đều khiến dứt hết.
Chơn-quán thanh tịnh quán
Trí-huệ quán rộng lớn
Bi-quán và từ-quán,
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhật phá các tối
Hay phục tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian.
Lòng bi rắn như sấm
Ý tứ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Cãi kiện qua chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán-Âm
Cừu oán đều lui tan.
Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm
Phạm-âm, Hải-triều-âm
Tiếng hơn thế gian kia,
Cho nên thường phải niệm.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bậc tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy.
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Bấy giờ, ngài Trì-Địa Bồ-Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Đạo-nghiệp Tự-Tại, Phổ-Môn Thị-Hiện sức thần thông nầy, thời phải biết công đức người đó chẳng ít".
Lúc Phật nói phẩm Phổ-Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm vô-đẳng-chánh-giác.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Phổ Môn
chơn ngôn viết:
An đa rị, đa rị, đốt đa rị, đốt đốt đa rị, ta-bà ha (3 lần)
Lục tự đại minh chơn ngôn:
Án ma ni bát di hồng
(niệm 108 lần)
PHỔ MÔN TÁN
Phổ môn thị hiện
Cứu khổ tầm thinh
Từ bi thuyết pháp độ mê tân
Phó cảm ứng tùy hình
Tứ hải thanh ninh
Bát nạn vĩnh vô xâm
THẬP NHỊ NGUYỆN
******
12 đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm:
1- Nguyện thứ nhất Khi thành Bồ Tát (Quán Âm Bồ Tát đệ nhất nguyện)
Danh hiệu tôi tự tại quán âm
Viên thông thanh tịnh căn trần
Nơi nào đau khổ tầm thanh cứu liền
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
2- Nguyện thứ hai Không nài gian khổ (Quán Âm Bồ Tát đệ nhị nguyện)
Nguyện một lòng cứu độ chúng sanh
Luôn luôn thị hiện biển đông
Vớt người chìm đắm khi giông gió nhiều
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
3- Nguyện thứ ba Ta bà ứng hiện (Quán Âm Bồ Tát đệ tam nguyện)
Chốn u minh nhiều chuyện khổ đau
Oan gia tương báo hại nhau
Nghe tiếng than thở mau mau cứu liền
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
4-Nguyện thứ tư Hay trừ yêu quái (Quán Âm Bồ Tát đệ tứ nguyện)
Bao nhiêu loài ma quỷ gớm ghê
Độ cho chúng hết u mê
Dứt trừ nguy hiểm ko hề nhiễu nhương
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
5- Nguyện thứ năm Tay cầm dương liễu (Quán Âm Bồ Tát đệ ngũ nguyện)
Nước cam lồ rưới mát nhân gian
Chúng sanh điên đảo đảo điên
An vui mát mẻ ưu phiền tiêu tan
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
6- Nguyện thứ sáu Thường hành bình đẳng (Quán Âm Bồ Tát đệ lục nguyện)
Lòng từ bi thương sót chúng sanh
Hỉ xả tất cả lỗi lầm
Không còn phân biệt sơ thân mọi loài
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
7- Nguyện thứ bảy Dứt ba đường dữ (Quán Âm Bồ Tát đệ thất nguyện)
Chốn ngục hình ngạ quỷ súc sanh
Cọp beo thú dữ vây quanh
Quán Âm thị hiện chúng sanh thoát nàn
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
8- Nguyện thứ tám giải thoát tù lao (Quán Âm Bồ Tát đệ bát nguyện)
Tội nhân bị trói hành hình rồi lại khảo tra
Thành tâm lễ bái thiết tha
Quán âm phù hộ thoát ra nhẹ nhàng
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
9-Nguyện thứ chín làm thuyền Bát Nhã (Quán Âm Bồ Tát đệ cửu nguyện)
Giúp cho người vượt khúc lênh đênh
Bốn bề biển khổ chông chênh
Quán Âm độ hết an nhiên niết bàn
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
10- Nguyện thứ mười tây phương tiếp dẫn (Quán Âm Bồ Tát đệ thập nguyện)
Vòng hoa thơm, kỹ nhạc lọng vàng
Tràng phan, bảo cái trang hoàng
Quán Âm tiếp dẫn đưa đường về tây
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
11-Nguyện thứ mười một Di Đà thọ ký (Quán Âm Bồ Tát đệ đệp thập nhất nguyện)
Cảnh tây phương tuổi thọ không lường
Chúng sanh muốn sống mien trường
Quán âm nhớ niệm tây phương mau về
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
12- Nguyện thứ mười hai Tu hành tinh tấn (Quán Âm Bồ Tát đệ thập nhị nguyện)
Dù thân này tan nát cũng đành
Thành tâm nỗ lực thực hành
Mưới hai câu nguyện độ sanh đời đời
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
CỬ TÁN
Quán Âm Đại Sĩ
Phổ hiệu Viên Thông
Thập nhị đại nguyện thệ hoằng thâm
Khổ hải phiếm từ phong
Phổ tế tâm dung
Sát sát hiện vô cùng
Nam mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát
(niệm 108 lần)
BỔ KHUYẾT TÂM KINH
Tâm trí tuệ thinh thinh rộng lớn
Sáng trong ngần chẳng bợn mây trần
Làu làu một tánh thiên chơn
Bao trùm muôn loại chẳng phân Thánh phàm.
Vẫn tâm ấy lặng trong sáng suốt
Cõi bờ kia một bước đến nơi
Trải lòng tròn đủ xưa nay
Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.
Hàng Bồ-tát danh Quán Tự Tại
Khi tham thiền vô ngại đến trong
Thẩm vào trí huệ mở thông
Soi thấy năm uẩn đều không có gì.
Độ tất cả không chi khổ ách
Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra
Sắc, Không, chung ở một nhà
Không chẳng khác Sắc, Sắc nào khác Không.
Ấy Sắc tướng cũng đồng Không tướng
Không tướng y như tượng Sắc kia
Thụ, Tưởng, Hành, Thức phân chia
Cũng lại như vậy, cũng về chân không.
Tòa sắc tướng nhơn ông tạm đó
Các pháp kia tướng nọ luống trơn
Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn
Chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng sờn, chẳng thêm.
Cớ ấy nên cõi trên không giới
Thể làu làu vô ngại thường chơn
Vốn không ngũ uẩn ấm thân
Sáu căn chẳng có, sáu trần cũng không.
Thấy rỗng không mà không nhãn giới
Biết hoàn toàn thức giới cũng không
Tánh không sáng suốt đại đồng
Vô minh chẳng có mựa hòng hết chi.
Vẫn không có thân gì già chết
Huống chi là hết chết già sao
Tứ đế cũng chẳng có nào
Không chi là trí, có nào đắc chi.
Do vô sở đắc ly tất cả
Nhơn pháp kia đều xả nhị không
Vận lòng trí huệ linh thông
Bờ kia mau đến tâm không ngại gì.
Không quái ngại có chi khủng bố
Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên
Tâm không rốt ráo chu duyên
Niết bàn quả chứng chơn nguyên hoàn toàn.
Tam thế Phật, y đàng Bát Nhã
Đáo Bồ Đề chứng quả chánh chơn
Cho hay Bát nhã là hơn
Pháp môn tối thắng cõi chơn mau về.
Thiệt thần chú linh tri đại lực
Thiệt thần chú đúng bực quang minh
Ấy chú tối thượng oai linh
Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần.
Trừ tất cả nguyên nhân các khổ
Thức tỉnh lòng giác ngộ vô sư
Thiên nhiên chơn thiệt bất hư
Án lam Thần chú Chơn Như thuyết rằng:
Yết-đế, Yết-đế, Ba La Yết-đế, Ba La Tăng Yết-đế, Bồ-Đề Tát Bà Ha (3 lần)
VÃNG-SANH THẦN CHÚ
Nam-mô a di đa bà dạ, Ða tha dà đa dạ, Ða địa dạ tha.
A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tì ca lan đế, A di rị đa, tì ca lan đa,
Dà di nị dà dà na, Chỉ đa ca lệ ta-bà ha.
(3 lần)
BÀI KỆ TÁN ĐỨC QUÁN THẾ ÂM
Đức Quán-Âm oai thần lồng lộng
Khắp thế gian đều trọng danh Ngài
Chúng-sanh hết thảy ai ai
Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua.
Bởi vì thế gần xa ngưỡng mộ
Quán-Thế-Âm cứu khổ độ sanh
Nếu ai có một niệm lành
Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền
Dầu trọng bệnh liên miên khổ cực
Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay
Bao nhiêu tai nạn hằng ngày
Chí tâm niệm tới danh Ngài cũng qua.
Vô lượng kiếp Ta-bà thế-giới
Ngài giáng sanh xuống cõi nhân gian
Hóa thân Công chúa đoan trang
Diệu Trang vương nữ, ngai vàng vua cha
Diệu Thanh ấy chính là chị cả
Sau cũng tu chứng quả Văn-Thù
Diệu Âm chị thứ cũng tu
Phổ-Hiền chứng thánh đền bù công lao.
Trọn một nhà được vào cảnh Phật
Lòng từ bi chơn chất đáng ghi
Tuổi nhỏ trí cả ai bì
Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu.
Trọn chín năm chẳng từ lao khổ
Mong công thành cứu độ chúng-sanh
Thời kỳ trai giới tu hành
Tại động Hương-Tích bắc thành Việt Nam.
Một cảnh tiên mây lam che phủ
Cỏ Cam Tuyền thạch nhũ bao quanh
Cảnh tốt dành cho người lành
Kim đồng, Ngọc nữ ứng danh theo hầu
Dưới bệ ngọc chia hai sớm tối
Chầu hai bên không lỗi đạo Thầy
Luôn luôn chơn chánh thẳng ngay
Hành theo ý chỉ của Thầy ban ra.
Quán-Thế-Âm danh là Tự Tại
Khắp tam thiên qua lại dạo chơi
Từ bi Ngài muốn độ đời
Mười hai đại nguyện thiệt thời cao xa
Nguyện nào cũng đều là rốt ráo
Chuyên tâm về chánh đạo độ tha
Biển Nam Hải, núi Phổ Đà
Trụ ở nơi ấy cũng là hương sơn.
Trong một phẩm Phổ Môn thị hiện
Đức Như-Lai thuật chuyện khen ngài
Oai thần linh hiển không hai
Tầm thanh cứu khổ chẳng nài công phu.
Nếu có kẻ muốn tu cư sĩ
Hay cũng là tùy ý muốn chi
Ngài liền ứng hiện tức thì
Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ cho.
Hay có kẻ qua đò mắc nạn
Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường
Chí thành đốt nén tâm hương
Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền.
Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy
Đức Như-Lai truyền dạy không sai
Chúng ta chớ có quản nài
Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho.
Trong khổ hải, đò từ vẫn đợi
Vớt chúng-sanh đưa tới Lạc Bang
Chín từng sen báu đài vàng
Di Đà thọ ký rỡ ràng thảnh thơi.
Từ bi cứu khổ độ đời
Tầm thanh giải nạn đến nơi hòa bình.
Nam mô Thập Phương thường trụ Tam Bảo (3 lần)
SÁM PHÁT NGUYỆN QUY Y TAM BẢO
Đệ tử hôm nay quỳ trước điện,
Chí tâm đảnh lễ đấng Từ tôn
Đã bao phen sanh tử dập dồn,
Trôi lăn mãi trong vòng lục đạo
Thế Tôn đã đinh ninh dạy bảo
Mà con còn đắm đuối mê say
Mắt ưa xem huyền cảnh hằng ngày
Tai thích tiếng mật đường dua nịnh
Mũi quen ngửi mùi thơm bất tịnh
Lưỡi dệt thêu lắm chuyện gay go
Thân ham dùng gấm vóc sa sô
Ý mơ tưởng bao la vũ trụ
Bởi nhục dục lòng tham chưa đủ
Lấp che mờ trí tuệ từ lâu
Hôm nay con giác ngộ hồi đầu
Xin sám hối phơi bày tỏ rõ
Nguyện tội ác từ nay lìa bỏ
Chuyển sáu căn ra khỏi lầm mê
Trước đài sen thành kính hướng về
Tịnh tam độc quy y Tam Bảo
Phật giới cấm chuyên trì chu đáo
Dứt tận cùng gốc rễ vô minh
Chí phàm phu tự lực khó thành
Cầu Đại giác từ bi gia hộ
Dù phải chịu muôn ngàn gian khổ
Con dốc lòng vì đạo hy sinh
Nương từ quang tìm đến bửu thành
Đặng tự giác giác tha viên mãn
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
(3 lần)
HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC
Phúng tụng công đức thù thắng hạnh.
Vô biên thắng phước giai hồi hướng
Phổ nguyện pháp giới chư chúng-sanh.
Tốc vãng Vô Lượng Quang Phật sát
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não. Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo
Nguyện sanh Tây-phương Tịnh độ trung.
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu
Hoa khai kiến Phật ngộ Vô sanh.
Bất thối Bồ-tát vi bạn lữ
Nguyện dĩ thử công đức.
Phổ cập ư nhất thiết
Ngã đẳng dữ chúng-sanh.
Giai cộng thành Phật đạo.
TAM QUY Y
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo đạo cả phát lòng vô thượng. (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh, thấu rõ kinh tạng, trí huệ như biển. (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (1 lạy)