Thứ Hai, 6 tháng 7, 2020

- HỘI THÁNH THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO KÍNH MỪNG NGÀY ĐỨC QUÁN THẾ ÂM THÀNH ĐẠO 19/6 ÂM LỊCH 2020




NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-Ð
KỶ NIỆM HUỲNH-ĐẠO THIÊN-KHAI NĂM THỨ 10
ĐÀN LỊNH TẢ
"QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH"
(Ðàn Chấp Bút lúc 4g07ph sáng 15-5-1986)
* * * * * * *
THI:
 đồ một giải biếc màu xanh,
TIÊN thể hằng xa chốn thị thành,
NỮ nam tròn Ðạo ngày cư thế,
Sau đặng vui nhàn tận cõi thanh.
      Nam Mô A-Di-Ðà Phật.
      Nam Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật Thế-Tôn.
      Trước thấp mình lễ Phật, cung phụng triều bái Ðấng Chí-Tôn, Diêu-Trì cùng chư Tiên Thánh.
      Sau thi lễ chào quí Thiện-Ðạo Chưởng-Quản Bạch-Diệu-Hoa.
      Bần Nữ HÀ-TIÊN-CÔ phi lai cấp báo hỷ tin. Quý thiện đạo tịnh tâm đảnh lễ tiếp lịnh Ðấng CHÍ-TÔN ngự bút. Bần Nữ thi lễ hộ Ðàn...
      (Tiếp điển:)
      THẦY hoan hỷ tứ phước. Con hãy đại tịnh tiếp tròn ân điển. Thầy mừng các con, chúc các con thăng vinh phúc lạc.
      Thầy ban ơn và đồng thời giáo khuyến các con kiên trì tâm hạnh tu tiến mọi công năng vun bồi phước đức. Ấy là các con nêu cao gương sáng lẫn nhau hầu noi bước Ðạo cao để tròn mãn mọi công năng đạo hạnh tu thân cùng độ chúng.
      Giữa thời mạt hậu cuộc ác chiến đã hầu kề, thì công đức độ nhân nơi các con càng phải tinh tiến dũng mãnh hơn. Các con cần phải lưu bố mọi quyền năng hóa độ của Bề-Trên, tức là phổ biến những bài Thánh-Ngôn cần thiết, ấy là các con góp tâm trợ lực nơi Ðạo mầu, tiếp sức cùng Bề-Trên rưới giọt nước Ma-Ha lợi sanh cho đại thế chúng.
      Nay là ngày kỷ niệm Khai Minh an lập mối Ðệ-Nhị Ðạo Huỳnh, thể hiện chi Phật-Tông Chánh-Giáo để cho cơ nghi Ðại-Ðạo thành lạc đủ Ngũ-Chi. Thập niên khai hóa nay đã hình thành, các con nên dụng ngày nầy mà làm một ngày hạnh lạc thứ nhứt. Trước là chung mừng cho cơ Ðại-Ðạo viên thành, sau là mừng cho công hạnh của các con đã vun bồi nền Ðạo-pháp ngay từ thuở ban sơ, kể biết bao là khó nhọc, thắng hết mọi chướng duyên, dụng tâm lực góp tay nhau trợ Ðạo giúp Thầy. Nay đã hoàn thành cơ hữu Ðạo báu, để cho các Ðấng Phật Thánh Tiên dùng làm nơi sở trụ mà cứu thế. Thật là vô biên thắng phước! Vậy nay muốn thể hiện ân lành cho các con một ân huệ hiện tại để các con được niềm vui nơi cảnh Ðạo, Thầy ân tứ sắc ban Ngự-tửu, mỗi con đồng đẳng một chung bồ-đào thưởng thức hương vị. Vậy sau buổi Lễ Ðại-Ðàn, các con sẽ được rót Ngự-tửu mà trao tặng cho nhau để chứng niềm hạnh hữu. Thì giờ kém ít, Bạch-Diệu-Hoa hãy tịnh tâm tả một đoạn thi bài.
         THI BÀI:
       Ngày kỷ niệm Khai Minh cứu thế,
       Mối Ðạo Huỳnh trợ tế Nguơn Ba,
              Nhơn sanh khắp cõi Ta-Bà,
Tri cơ thế mạt quỉ ma lộng quyền.
       Thời vật chất khắp miền đua nở,
       Cõi trược trần nhiều nợ máu xương,
              Nhìn xem địa cảnh chán chường,
Khuyên con tỉnh trí dò đường Ðạo chơn.
       Cuộc Thánh-Ðức là Nguơn Tái-Tạo,
       Kịp hồi chơn thiện bảo nầy con,
              Thầy thương giáo cạn bút mòn,
Trần lao thấy trẻ vẫn còn luyến mê.
       Lòng từ mẫn năng kề ngũ dục,
       Cùng con thơ giũ phước trao lời,
              Nhưng còn nặng quả con ơi,
Mãi mong ương ngạnh lắm lời siểm chê.
       Ðời trọng trược lầm mê vật chất,
       Ngủ say vùi trong giấc huỳnh-lương,
              Con ôi! khá tỉnh mộng trường,
Trần ai cõi tạm muôn đường khổ gay.
       Phương giải thoát là ngày chuộc lỗi,
       Trường học tu sám hối hồi đầu,
              Cải tà quy chánh cho mau,
Trì trai thiện niệm một câu Di-Ðà.
       Dầu vạn quỉ thiên ma nảo hại,
       Nhờ phước sanh tự tại không sờn,
              Cõi trần ức vạn thiên nhơn,
So loài quỉ đạo số hơn loài người.
       Ma quỉ cứ theo người giục khiến,
       Giục lòng người ác kiến lẫn nhau,
              Khiến xui giết lẫn đồng bào,
Giục tâm ác niệm hại nhau dẫy đầy.
       Họa diệt thế do đây sanh nở,
       Khiến loài người gây nợ máu xương,
              Giết người chẳng chút lòng thương,
Hại nhau mà chẳng dung nhường mảy chi.
       Thức giấc mộng tư duy tự tỉnh,
       Gợi lòng lành chơn chính thương nhau,
              Dứt tâm bất mục đồng bào,
Thì Nguơn Thánh-Ðức đặng mau vãn hồi.
       Xương với máu ngưng bồi mặt đất,
       Cảnh tương tàn sớm dứt cõi người,
              Giác rồi nhìn lại hổ ngươi,
Ngộ rồi mới thấy kiếp người có chi.
       Thân lao nhọc, bạc chì thậm giả,
       Có rồi không, ác quả càng dày,
              Vô thường rồi lại phủi tay,
Con ôi! ruộng phước cấy cầy cho mau.
       Giờ nghiêm huấn cùng nhau nhẫn thọ,
       Kịp hồi tâm chớ có diên trì,
              Nguyện cầu mau giảm nạn nguy,
Quan-Âm Cứu-Khổ con thì gắng tâm.
        Nầy Bạch-Diệu-Hoa, sau đây là phần giáo lịnh con hiền được rõ:
      Ðức QUAN-ÂM vì lòng đại-bi đại-nguyện, trong thời gian sắp tới đây, Ngài sẽ biến chiếu điển quang đến cảnh thiền nầy mà giáo pháp một quyển Tâm-Kinh hầu xiển minh phép nhiệm, tuyên dương Phật lực đại-bi đại nguyện, cứu vớt khổ nàn cho toàn thể tứ châu thiên hạ trong thời mạt hầu nầy. Và Thầy cũng hoan hỷ mà nhắc cho toàn cõi nhân sinh được rõ biết sự mầu diệu cứu cánh nơi lòng đại-bi đại-nguyện của Ðấng Quan-Âm: Vì Ngài muốn cho nhân sinh thọ được đại-ân của Ngài độ vớt, thế nên Ngài mới thị hiện tướng mầu để cho nhân sinh nhiếp vào ảnh thiệt tế. Từ nay toàn tất cũng nên dụng thiệt tế Thánh-Ảnh của Ngài mà tôn kính phụng trì. Ngài tự phát nguyện rằng nếu Thánh-Ảnh của Ngài được an trụ nơi nào, xứ sở nào, chùa am nào, hoặc gia trụ nào, nếu mà chủ tâm nơi đó được thành thì hào quang Ngài sẽ chiếu soi hóa độ cho nơi đó được thanh tịnh, được phúc lạc. Ngài quyết không để cho thời cơ tận diệt nầy tàn phá hết chúng sanh theo định luật của ma đạo.
      Giờ điển an sắp mãn, Thầy gia ân cho toàn tất chúng con. Một lần nữa nhắc nhở cho đoàn con kiên bền chí thiện, đường Tu tinh tiến, Ðạo-pháp gắn chặt chớ lơi tâm.
      Thầy thượng giá.
      Thăng...









  

QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH

THÁNH TỰA

     Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
       Nam-mô Bổn-Sư Thích-Tôn.
      Nay nhằm ngày Ðại-Khánh-Ðản Phật Thế-Tôn, là một ngày đại hạnh lạc đến cõi dương trần, là một nguồn ánh sáng vô tận đã chiếu diệu đến cõi Ta-Bà sánh như ngôi mặt nhựt lố mọc từ phương Ðông!
      Vầng Thái-Dương ấy sẽ phát vô lượng ánh quang minh chiếu khắp bầu trời, phá hết cảnh tối tăm nơi màn vô minh giữa đêm dài u tịch. Cõi thế nhân cũng vì sống trong màn vô minh, trong đêm tăm tối ấy nên tạng thức phải mê mờ, nhân đó làm cho tâm thần đảo vọng, phiền não tham sân, khó bề giác tánh. Càng đi sâu vào đời hậu mạt thì Ðạo-Pháp càng rời xa, say nhiễm bả trược trần, lợi danh trói buộc, cơm áo là món tội chướng khổ của con người, khiến phải tạo đoan nhiều hoặc nghiệp nên mãi trôi lăn trong những kiếp tử sanh khó bề thoát họa!
      Là một ngày toàn tất chúng sanh trên cõi Ta-Bà đồng hưởng được pháp lạc thanh tịnh thứ nhứt. Nay Ta cũng nương vào ngày nầy, nhờ phước lực của ÐẤNG THẾ-TÔN, tựa ánh quang dương ấy hầu khai thị quyển TÂM-KINH, từ bi tế khổ vớt kẻ trần lao chìm biển mê tân đưa vào giác ngạn.
      Buổi đời hậu mạt, tai ách dẫy đầy, thế cuộc đồi suy, nhân tâm đảo loạn, vật chất phồn thịnh tới đâu thì hoạn khổ tới đó, là ác chướng tới đó, bịnh chứng nan y, chiến tranh dồn dập, nạn diệt thế mỗi lúc càng chuyển mạnh và đến mau!

      Tại vì sao?

      Vì thời kỳ mạt pháp, hễ càng xa Phật tức phải gần ma! Bọn ngạ-quỷ thừa cơ hội lan tràn quấy nhiễu, thâm nhập vào chúng sanh giục người làm cho não loạn. Giả danh Trời Phật huyển hoặc kẻ mê nhân gây nhiều hoạn họa, giục khiến kẻ tà tâm gieo thêm giống độc, làm cho cang kỷ đảo điên, luân thường xiêu đổ, làm cho thế giới nhân loài phải sống cảnh đục nhơ, giục thúc cho cường độ chiến tranh càng bộc phát! Chúng quyết đưa đẩy khiến nhân loài mau sa chân vào cuộc tận vong, để cho mặt đất trống không chẳng bóng người trần còn lai vãng. Chúng ấy sẽ mặc tình biến chuyển cuộc đời trở thành một thế giới ma đạo! Chúa vương tinh cầm quyền tối thượng trong thế giới ấy cho đến vô số kiếp. Chờ khi Phật xuất sanh thì bọn chúng sẽ xả thân mạng, hồi phục lại cuộc đời gọi là phục thỉ hoàn nguyên tái tạo.

      ÐẤNG CHÍ-TÔN vì vô lượng từ bi tốc bố điển lành khai minh ÐẠI-ÐẠO, quy Tam-Giáo, hiệp Ngũ-Chi là mở đường tận độ. QUAN-ÂM chấp chưởng quyền Tam-Trấn, dụng oai đức đại-từ-bi hàng tà phục oán, pháp-thuyền độ vớt, cam-lộ cứu nguy. Ðức DI-LẶC THIÊN-TÔN hạ lịnh khai nguơn dựng nền Thánh-Ðức, xiển dương Ðạo-pháp cứu cánh nhân loài rấp nhập cảnh họa ương trong thời pháp mạt, gia trì phước lực truyền bá Ðạo mầu tuyên lưu máy nhiệm là hồi chuông cảnh tỉnh, tiếng trống giác mê, giúp cho toàn thể nhân sinh hồi đầu hướng thiện, biết thương yêu lẫn nhau như ruột thịt.

      Ta vì lòng bi mẫn, vì pháp lợi sanh giáo huấn cạn dòng.

      Nguyện cho pháp giới chúng sanh phát khai trí huệ, giải thoát nghiệp mê lầm dứt rời ma chướng, chánh tâm, chánh niệm, Thánh-Ðức phục hồi, thân tâm thường lạc.

      Nguyện cho chư ác đạo hoàn lương tốc tật, thi vi chánh pháp, ngục môn bế tắc, THIÊN-ÐẠO hoát khai, cuộc cứu cánh được hoàn mãn vào Nguơn Thánh-Ðức, thoát khỏi họa diệt.

      Nguyện hành chánh dũng, hộ trì Ðạo-pháp không để diệt dứt, độ tận chúng sanh. Hàng tà ma, trừ yêu quái là bổn nguyện công đức vô tận tạng của BỒ-TÁT QUAN-THẾ-ÂM vậy!

      Những lời tuyên thuyết hãy minh liễu tường tận, thâm nhập trí Như-Lai, phát xuất vô lượng chánh tâm, diệt tà trừ chướng, nhứt niệm nội ngoại hãy lìa xa thì thân tâm thanh tịnh, tâm linh khai ngộ, tướng hảo phát sanh, phục thỉ hườn nguyên, thái bình an lạc.

      Dứt lời Thánh-Tựa...

      Nam-mô Ðại-Bi Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

      Nam-mô A-Di-Ðà Phật.






                PHÁP-BẢO TÂM-KINH
Nam-Mô Ðại-Từ Ðại-Bi Quảng-Ðại Linh-Cảm
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
         Sấm kệ:
      Nam-mô PHẬT-TỔ DI-ÐÀ,
Quang minh phổ chiếu Ta-Bà độ nhân.
      Liên đài ngũ sắc tường vân,
Hằng hà Phật Thánh lai trần hộ Kinh.
      Cõi Trời hiện sắc quang minh,
Hào quang muôn trượng âm thinh vang rền.
      Kim-Tòa NGỌC-ÐẾ ngự đền,
Chư Thiên hộ hựu cõi trên hằng hà.
      Kinh mầu khai xuất truyền ra,
Sánh bằng giọt nước Ma-Ha cứu trần.
      Ta nương vào ngọn bút thần,
Ví như tiếng sấm trong trần hiện vang.
      Thuyết minh cơ nhiệm hành tàng,
Giáo nghiêm diệu-pháp Ðạo vàng xiển dương.
      Kỳ ba ÐẠI-ÐẠO khai trường,
QUAN-ÂM Tam-Trấn oai cường lực nghi.
      Hành tàng Ðại-Nguyện Ðại-Bi,
Hàng tà phục oán thi vi trọn lành.
      Tuần du tế sát hiện hành,
Mười hai Chánh Nguyện dương danh đời đời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Tri cơ thế mạt cõi đời tai nguy.
      Nồi da xáo thịt dị kỳ,
Buôn dân bán quốc loạn ly oán thù.
      Buôn Trời bán Phật mà tu,
Thù Cha, hại Mẹ, thê phu lỗi niềm.
      Ðổi ân làm oán ganh hiềm,
Cạnh tranh giết lẫn càng thêm thỏa lòng.
      Chiến tràng xương núi máu sông,
Xây dần mãi thế mà không thấy rồi.
      Dân càng phiêu dạt nổi trôi,
Khóc than thảm thiết ôi thôi dẫy đầy.
      Gieo mình vào chốn hiểm nguy,
Thể lâm họa diệt, hồn thì vất vơ.
      Thương thay cảnh trạng mê mờ,
Kẻ vay người trả đục nhơ cõi trần.
      Chiến tranh nguyên tử hầu gần,
Ði đâu trốn nạn hồng trần cho kham?
      Họa kia chướng nọ ai làm?
Hay là nhân chủng vì ham lợi quyền?
      Rốt rồi mặt đất còn nguyên,
Loài người vắng bặt của tiền làm chi?
      Tự mình tạo tác thi vi,
Rồi kham thọ lấy quả ni đem vào.
      Xót xa mấy đoạn tâm bào,
Ðại ngôn pháp giáo người mau phục hồi.
      Tư duy từ huấn bao lời,
Hoàn lương chánh niệm dứt rời nghiệp ma.
      Ðoạn nầy hiển thị soi ra,
Thể thời pháp mạt thì ma lộng quyền.
      Vào đời dối thế Phật Tiên,
Gây điều não nhiệt đảo điên tánh người.
      Giục tâm quấy niệm dư mười,
Hoặc khi ám ảnh cho người cuồng ngây.
      Nương theo thể, tánh cõi nầy,
Có thân, có thế, có tay, có quyền.
      Chúng dùng làm một con thuyền,
Thi vi ác nghiệp phỉ nguyền tâm ma.
      Âm mưu những sự gian tà,
Giục gây ác sát để ma no lòng.
      Thức ăn toàn những huyết hồng,
Toàn là thi thể thương vong chiến tràng.
      Ðược lời thiện tín tâm an,
Dày công tưởng niệm phước càng đa sanh.
      Giác mê tự bởi lòng thành,
Mắt phàm khó chứng lời lành của Ta.
      Chiến trường binh lính ngã ra,
Thảy không có đủ quân ma tạm dùng.
      Chúng hằng thôi thúc nhân tâm,
Càng gây chiến cuộc thâu năm nối liền.
      Nỗi niềm thống khổ triền miên,
Tử hồn binh sĩ bố quyền trục thâu.
      Không ai tiết lộ mưu sâu,
Chúa yêu sẵn đủ phép mầu đối tranh.
      Thần thông sẵn đủ hiện hành,
Thị oai ma lực đấu danh cùng Trời.
      Ta vì chúng khổ đòi nơi,
Từ bi vô ngại tuyên lời phổ lưu.
      Tín tâm chơn thật vô ưu,
Chẳng sanh nghi hoặc càng sưu lý mầu.
      Sau nầy rõ đặng máy sâu,
Huyền vi hiển hiện có đâu sai lầm.
      Chúa yêu sân hận Quan-Âm,
Quyết toan đấu phép thậm thâm giữa trời.
      Dốc lòng ám triệt Như-Lai,
Giao phuông trận địa giữa ngoài biển khơi.
      Mây đen mịt mịt khung trời,
Phổ-Ðà khiêu chiến xin mời Quan-Âm.
      Từ bi thanh tịnh quang lâm,
Yêu phun lửa độc tối tăm bầu trời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Mưa chan sấm dậy đất trời chuyển rung.
      Hoàn toàn hắc khí như un,
Chúng sanh cấu nhiễm khó mong đặng tuyền.
      Bảo bùng động địa kinh thiên,
Khí yêu độc địa khói đen ngạt mùi.
      Không gian chẳng thấy mặt trời,
Ðất không hơi thở là thời lâm nguy.
      Khắp nơi Thiên-Thần Ðịa-Kỳ,
Khắp chư Thánh-chúng từ bi giải nàn.
      Bây giờ khắp cõi trần hoàn,
Thi hành diệu pháp cứu an tinh thần.
      Phép mầu sở hữu tùy thân,
Ngày đêm thiện niệm bảo thân nhiệm mầu.
      Nơi nơi đồng nguyện sở cầu,
Cùng môn Cứu-Khổ người hầu niệm mau.
      NHƯ-LAI sát sát trên đầu,
Chư Thiên hộ hựu thì mau phục hồi.
      NGỌC-HOÀNG ngự trị phong lôi,
QUAN-ÂM trí ấn thâu hồi ngạ tinh.
      Ðến khi sấm chớp đặng bình,
Phong ba lẳng lặng ánh minh rọi vào.
      Cõi trần thảm khốc mòn hao,
Thương người thiểu phước làm sao cứu hồi!
      Hàng ma phục oán đã rồi,
Trần dương nay mới vãn hồi bình an.
      Ai ôi! nắm vững Ðạo vàng,
Tu thân là món bảo toàn tâm linh.
      Muốn mau hưởng cuộc thái bình,
Muốn đời an lạc hãy gìn chữ Tâm.
      Tâm là thế chủ đâu lầm,
Tâm là Thiên-Ðạo hãy tầm lý sâu.
      Tâm là Phật chủ diệu mầu,
Hoặc ma làm chủ cũng âu tại mình.
      Vì trong tư tưởng hiện hình,
Cũng mê với giác biến sinh liền liền.
      Nếu Tâm phát giác lập nguyền,
Thì nên tạo phước gieo duyên buổi nầy.
      Rèn lòng niệm Phật ăn chay,
Cải tà quy chánh ngày ngày phát minh.
      Cầu an cho chiến họa bình,
Cấy cầy ruộng phước Thiên-Ðình đặng sung.
      Họa kia tự thể biến lần,
Phước càng tô điểm cõi trần càng thanh.
      Chư căn ngộ pháp lòng thành,
Thức-thần huệ-giác tu hành từ bi.
      Chư linh vào đời cứu nguy,
Thọ thân kịp hội Tam-Kỳ độ tha.
      Gặp thời thì hãy bước ra,
Góp tay trợ Ðạo Kỳ-Ba nạn cùng.
      Trên nhờ NGỌC-ÐẾ nhiêu dung,
Phật ân siêu diệu vô cùng từ bi.
      Vào tu nghiệp lực kéo trì,
Mê vui thích đẹp thiếu gì nghiệp ma.
      Vật chất lôi cuốn hằng sa,
Vô minh đậy mắt Liên-tòa khó trông.
      Hỡi chư Thánh-Chúng trần hồng,
Ðuốc thiêng phổ chiếu khai thông thức thần.
      Nhớ rằng bổn-nguyện vào trần,
Long-Hoa đại thệ thọ thân Ta-Bà.
      Mạt đời là buổi độ tha,
Trần dương hóa Ðạo âu là ngó ngơ.
      Nầy khuyên bá tánh kịp giờ,
Tu nhân tích đức chớ lơ lãng lòng.
      Trì Kinh niệm Chú thuộc thông,
Dầu cơn ngộ biến cũng không ngại gì.
      Có QUAN-ÂM lực phò nguy,
Thành tâm thiện niệm giữ y lời truyền.  
      Nam-Mô A-Di-Ðà Phật.
   (Bạch-Diệu-Hoa bạch: Nam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát. Con xin kính bạch: trước kỉnh lễ, bái Ðức Quan-Âm, vì con gốc cũng phàm phu tánh còn mê tối, cúi nhờ ơn Phật từ bi cho con được vài điều thỉnh vấn. Vì con đã có nghe thấy Kinh Sấm thường tuyên thuyết rằng đến hai ngàn năm cuộc tận thế hiện trạng sẽ bặt khí âm dương, không thấy mặt Nhựt, mặt Nguyệt. Lúc tuyệt khí âm dương như vậy nhân vật sẽ không có hơi thở điều hòa, bầu trời tối mịt suốt năm ngày năm đêm. Bạch Ðức Quan-Âm, có phải đó là trận chúa yêu đấu phép với Phật Quan-Âm đó chăng?)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân khéo hiểu! Ðúng như thế. Nhưng nào phải do Ta toan tranh tài đấu phép với ngoại đạo. Ta chỉ vì rộng lượng cứu thế, thường hành bổn nguyện, nhưng vô lượng bổn nguyện cứu thế của Bồ-Tát tức đại cừu hiềm của chúng ma! Vì lý tánh đối trị hàng phục tà đạo, với quân ma là oán.
      Yêu tà thì chủ động nhiệt não, gieo giống cấu trược, dục vọng điên đảo vì nghiệp chướng vây bủa như sấm sét, như mây giăng, như cuồng phong, như sóng bảo. Kiếp khổ như bức não, như lửa đốt, như dầu sôi! Thường chịu đau nhức như búa đánh, như dao bầm. Sợ hãi như sắp bị người xô đạp vào hầm lửa, núi đao, không một phút nào được an ổn!
      Quanh năm suốt kiếp phải luôn chịu đói khát, khô gầy chỉ còn da bọc lấy xương! Kiếp sống của ngạ-quỷ vô lượng khổ não, dầu một ngày, một tháng, một năm đến mười năm, trăm năm, ngàn năm cũng không được một giờ, một phút đến nửa phút hưởng an lạc thanh tịnh!
      Nếu có được sự ăn uống thì chỉ là máu, mủ, xác thúi, giòi nhặn, phân, tiểu, nước miếng, bọt, dãi, những miệng mũi răng của kẻ thiểu thực; hoặc huyết bẩn uế nhơ, hoặc những ghè hủ nhổ nước bọt, trầu cau, cặn bả, cấu uế, tất những mùi hôi tanh có màu đỏ; hoặc miểng chậu, miểng lu mái, miểng bát, miểng chai, vỏ ốc thúi, chúng phải nhai nuốt như vậy dầu miệng lưỡi bị tuôn chảy máu me đầm đìa; hoặc tựa theo trụ cầu đón xác thúi, giòi nhặn của thú tử mà làm thức ăn, hoặc ăn tro, ăn đất cát dưới các chổ sanh sản!!!
      Tất cả những sự thọ thực của ngạ-quỷ đều tùy nghiệp lực mà được dùng mỗi thứ đều khác. Thoảng như tìm không được những thức ăn phù hợp như vậy thì cam chịu đói khát, khô gầy, rên khóc kêu la khô khan cả cổ họng, kêu không nên tiếng, chỉ bò lăn dưới đất cát nóng như lửa than, phỏng vuột tay chân lại ngã lăn như trục trục, dầu cho nước đầy sông tràn hồ cũng không được uống!!! May thay gặp thời pháp mạt, thế cuộc chuyển xoay, lòng người xa Ðạo, tu hành rất hiếm kẻ, Ðức-Thánh Nhân-Hiền mỗi lúc càng suy giảm, vật chất đa sanh, văn minh đồi loạn, lòng người thêm dục vọng, tham, sân, làm cho trần dương sự cấu nhiễm, tội lỗi tăng gia, ấy là tạo cơ hội, đem tất cả phương tiện đến cho ma quân tạo lợi thế, chúng được nắm thế ưu mới gây cuộc sống động, hoành hoại cõi dương đưa đẩy loài người vào tội ác để cho nhân nhân, quả quả dày nặng như núi Tu-Di, làm đà tiến triển rốt ráo đến họa diệt thế.
 (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Kính bạch Ðức Quan-Âm: vừa nghe qua mọi khổ não của bọn ngạ-quỷ, con liền phát tâm thương xót, và những cái mầm mống giao khởi cấu tạo thời cuộc như vậy, con nguyện thỉnh ý Quan-Âm vì sao tâm hạnh từ bi nơi đại hải Bồ-Tát và Ðức Quảng-Ðại Quan-Thế-Âm lại chẳng cứu độ, vớt hồn ngạ-quỷ khỏi chốn trầm luân đưa về cõi siêu lạc, thứ nhứt là lợi cho ma đạo thoát khổ thọ lạc, thứ hai dầu thời pháp mạt nhưng loài người cũng đở phải động lực của bọn ác quỷ ám ảnh để hoành hoại mà đưa đến cơ tận diệt. Và thoảng như hiện trạng ngày nay cuộc chiến tranh nguyên tử rủi bùng nổ thình lình, như vậy những người có tham gia trong cuộc chiến hoặc những kẻ chủ động, hoặc những người đã gây tạo nhiều tội trọng thì việc thọ báo đã đành; nếu kẻ vô tội, người thiện đức hoặc người tu hành, hoặc chư vị Bồ-Tát thọ thân hóa độ, rủi họ vướng phải họa lây thì có oan khúc chi cho họ chăng?
      Và Cơ Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ khai sáng ra mối Ðệ Nhị Huỳnh-Ðạo nơi hải ngoại ngày nay, thời kỳ thế chiến thứ ba quá cận kề thì thế gì hóa độ cho kịp? Hơn nữa là đời nay đức tin rất yếu ớt, lòng nghi hoặc lại mạnh lớn hơn vô biên, thế gì hóa độ chúng sanh cho được hoàn mãn trong kỳ đại họa sắp tới???)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân vừa khai thị những lời thỉnh nguyện đại lành như thế! Hãy khéo nghe cho kỹ, biên chép cho rành rõ, phổ cập đúng thời những lời lành Ta nay tuyên thuyết, ấy là phương thức lợi hành thứ nhứt.
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Ðại-Bồ-Tát tâm từ vô lượng, dầu cho nước nơi đại-hải không bì được, và tâm vô ngại đại-bi chẳng chổ rốt ráo sánh như hư không, nhưng vì sao chẳng thể độ dứt chúng sanh nơi ba đường ác?
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Chư Ðại-Bồ-Tát đối với chúng sanh như bi-mẫu, dầu căn tánh lợi, độn, dầu cho thiện ác thắng liệt như thế nào đối chư Bồ-Tát vẫn một tánh bình đẳng không hai, với ÐẤNG CHÍ-TÔN cũng như vậy. Còn Ðạo pháp ví như ngọn minh-đăng. Những Kinh điển pháp giáo lưu bá phổ cập khuyến cáo ví như sức mạnh chư Ðại-Bồ Tát từ trên thuyền bè đưa tay xuống nơi ba đào nước cuốn lầy lội đục nhơ mà vớt người sắp bị chết đắm. Chết đắm vì sóng mồi vật chất; chết đắm vì cặn bả đục nhơ nơi ngũ-dục; chết đắm vì nước biển tam độc cuốn nhanh! Nhưng nếu Tam Thế Chư Phật hằng hóa độ chúng sanh chẳng ngớt, thì chúng sanh ở trong tam sanh kiếp vẫn lưu trử tập nghiệp chứa nhóm tam độc. Ðời nào cũng có kẻ thiện người ác, kiếp nào cũng có lành có dữ, có giác có mê, có thiện giác, có ác giác. Huống nay cuối đời pháp mạt, thế giới nhân loài càng ảnh hưởng kiếp trọng trược nặng nề, từ hai ngàn năm qua loài người hoặc chướng, ác giác đã vân tập như mây che!
            Vì chúng sanh khổ, vì cứu vớt hiểm nạn nơi ba đường ác nên Chư Ðại-Bồ-Tát hằng dùng con thuyền Ðạo-Pháp làm phương tiện cứu cánh, dùng Kinh điển giáo hóa chúng sanh như dùng món thuốc hồi sinh cứu người bịnh ngặt đang cơn hấp hối. Tuy nhiên, chẳng phải hoàn toàn trọn đủ tất mỗi căn trí chúng nhân. Thiện-nhân! Chính Phật Thế-Tôn còn phải trừ lại hạng Nhứt-Xiển-Ðề. Lại huống chi nay nhằm thời Pháp mạt, trong vòng hai ngàn năm qua lại hiếm gì hạng người bất giác như vậy, trừ khi tại cõi thế nhân đã dứt hết căn ác giác Nhứt-Xiển-Ðề và tam độc Thân, Ngữ, Ý nghiệp thì ba đường ác đạo tự nhiên chấm dứt.
Nếu áp lực cơ diệt hóa tới cùng nhân loại chậm hay mau sẽ có ba yếu tố, và ba cái yếu tố đó sẽ bài tiết rất tỏ rõ ở trong cuộc sống của nhân loại hằng ngày, mà nhân loại sẽ là nắm quyền tối hậu quyết định lấy cho chính mình, chớ không phải quyền tối hậu quyết định ấy là do nơi ma đạo.
YẾU TỐ THỨ NHỨT
Là nhân loại ngày nay đã xét thấy cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử có lẽ sẽ đến với thế giới một sớm một chiều, và xét thấy khắp nơi trên cõi Ta-Bà xiển dương Ðạo-Pháp, Kinh điển lưu bá một cách khẩn trương và đủ trong Tam-Thừa Cửu-Phẩm. Như vậy, tất cả căn trí thắng liệt phải khéo tư duy, khéo hồi minh cảnh trí, ngộ sám hoàn lương cải tà quy chánh, tu niệm cho được phù hợp với căn cơ mình, trước lợi mình, sau lợi người, chăm học Kinh điển để dứt trừ tập nghiệp, thường niệm Di-Ðà cầu phước huệ vinh thăng.
      Ðược như vậy hết thảy thì cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử sẽ tự tiêu hủy, đó là "Bất chiến tự nhiên thành", ấy là cái phúc lạc thanh tịnh chính người phải tự lập.

YẾU TỐ THỨ HAI
      Là toàn tất Chư Linh có nhẫn thọ hành trì Bổn-Nguyện cứu cánh nhân loài, xả thân tu cầu hồi hướng công đức lợi tha cho chúng sanh hay chăng là yếu tố thứ hai. Nếu các chư Linh-Căn chẳng quyết tâm đem sức thiện căn của mình, phúc đức của mình, công năng của mình mà hồi hướng gia trì phước lực tăng tấn cho chúng sanh, thì chúng sanh dầu có ăn năn cũng chưa thấm bổ với nghiệp lực tập thể giữa nhơn loài trong thời Pháp mạt ngũ trược tăng tấn, khoa văn minh tấn hóa cực tiến như hiện nay!
      Lại xét cuộc họa diệt nơi cõi Ta-Bà trong thời đại nói chung, bất cứ với hình trạng diệt hóa tập thể nào: thiên tai, địa ách, thế chiến hoặc chiến tranh lẻ, hoặc trong quốc độ nào, châu bộ nào thì số nạn vong tập thể đó tuy không trọn hẳn được lành dữ thiện ác, thì số nạn nhân đó phải có đủ căn đủ nghiệp, có thiện có ác, nhưng đại đa số là những người thiếu tu niệm, ít phước đức. Những xứ sở đó, quốc độ đó đã nhiều kiếp chẳng được chư Bồ-Tát trụ xứ để hóa độ. Vì sao? Vì chẳng đó Ðức-tin nơi Phật-pháp nên Thánh-linh chẳng đến. Tuy nhiên, vẫn phải có kẻ lương thiện, có bực hiền nhân lẫn lộn với số rất tối thiểu, thế nên chẳng đủ phước lực để che chở hiểm họa chung phần! Vì thiếu diễm phúc nên chẳng được ÐẠI-ÐẠO quảng truyền, Kinh pháp chẳng được lưu bá, chư vị Bồ-Tát cùng các Thánh-Linh chẳng đến lưu trụ, cơ TẬN-ÐỘ chẳng được phổ cập đúng thời để cứu cánh!
      Nhưng vào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như vậy. Những kẻ nhiều tội ác thì tất phải thọ quả ác. Người lương thiện thọ nạn như vậy tức là thọ phước. Vì sao? Vì những kẻ tội ác hiểm độc nếu chết là hiểm nạn, chết là khổ não, chết là thối hóa, chết là mất mạng, mất lộc, mất lợi, mất thân, mất thể.
      Người hiền lương, sống thường tu tạo phước đức, chết là hủy khổ sanh lạc, chết là chuyển nữ sanh nam, bần khổ sanh phú quý; nếu tướng mạo thô ác xấu tật lại chuyển sanh tướng hảo, căn trí hạ liệt chuyển sanh nhà tôn quý, được gần gủi thiện-nhân, học thông Ðạo-lý thành bực đa văn.
      Vậy lúc thọ hiểm nạn tuy đồng, chỉ dứt một tấc hơi khổ lạc đều khác hẳn, tất chẳng có gì là oan cả.

YẾU TỐ THỨ BA
      Nó sẽ hoàn toàn ảnh hưởng trong hiện tượng của hai yếu tố trên mà dung nạp thành quả.
      Thoảng như hết thảy nhân loại nói chung, tất cả người Việt từ quốc độ Việt-Nam tị nạn chánh trị, mang danh nghĩa Ðại-Ðạo lưu trú khắp thế giới nói riêng, trong số đó có đủ căn đủ trí, đủ Tam-Giáo Ngũ-Chi, chư vị Bồ-Tát, Thánh- Linh, căn cơ thắng liệt, thiện ác, hiền lương, hiểm hung, độc dữ, tu niệm, thánh đức, hiền nhân chẳng thiếu, mà sứ mạng Tận-độ là cái sứ mạng chánh của quốc độ Việt-NamÐược một sứ mạng hy hữu như vậy dầu rằng một quốc độ tiểu nhược nhưng hậu lai sẽ tràn đầy thắng phước, công đức dân tộc ấy như nước biển chẳng lường! Một diễm phúc tối cao được Bề-Trên chọn cuộc khai sáng cơ nghi ÐẠI-ÐẠO ngay trong thời Pháp mạt. Gồm năm nhánh dựng thành cơ hữu Tận-Ðộ, cứu cánh đúng thời, sánh như dựng lên một tòa nhà bằng Pháp-Bảo giữa trung vị đường ngã năm. Ngôi nhà kia chứa đầy Pháp vị, sắm đủ các món ăn nuôi dưỡng tinh thần, đủ các loại thuốc cứu nguy bịnh ngặt.
      Còn số kiếp nhơn loài ngày nay sánh như những khách bộ hành đang lở bước hành trình gặp lúc hoàng hôn giữa rừng thiêng núi hiểm, không tìm ra lối thoát, thành ấp lưu trụ hãy còn xa..., họa diệt thế cùng tập nghiệp chúng sanh như rấp nhập cảnh hoàng hôn bán lộ! Thì tòa nhà Pháp-Bảo kia là nơi tá túc mà lánh họa hiểm cùng. Sống nơi tòa nhà Pháp-Bảo kia đã sẵn đủ phương tiện, chẳng đói khát, không sợ hãi, chẳng còn thành vách ngăn che giữa màu sắc, giữa phái tông, mà chỉ dung thông sự Bình-Ðẳng, nối kết tình cốt nhục tương quan, thương yêu lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau, dùng Ðạo-Pháp mà làm món ăn nuôi dưỡng tinh thần cho được khôn lớn, được lành mạnh. Dụng THIÊN-NHÃN làm ánh sáng mặt trời, sự soi sáng tâm hồn ngõ tìm nguồn thiện phước mà phục thỉ hồi chơn...
      ...Dầu cho muôn Kinh ngàn điển, Tam-Giáo, Ngũ-Chi, triết môn, huyền học, rốt ráo cũng trở về một nguồn Ðạo vô thượng đệ nhứt nghĩa là chỗ tối hậu pháp yếu.
      Còn cơ ÐẠI-ÐẠO khai minh, NHÃN mục thần dương là lý, biểu tượng ÐỨC NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ÐẾ, sự soi sáng là lằn thượng diệu điển quang. Dầu Ngài chẳng thọ thân vì thời Pháp mạt, sự giáo Ðạo chỉ dùng lối vô hình phối trí cùng hữu vi để hóa Ðạo. Ngoài ra, những nền tảng giáo pháp kinh tạng, Nho, Lão, Thích, giới luật, điều qui, văn ngôn, luận ngữ, luân lý giáo điều tất đều đầy dẫy, thừa sức thông dùng cho tất hàng hữu học, trừ khi lòng người chẳng mộ ưa cầu học thì rất khó nghĩ bàn.
      Tuy nhiên, Ðạo khai dùng thuyết Tận-Ðộ, tức phải tùy thuộc căn cơ chúng sanh, bổ túc Kinh điển được phù hợp căn trí, phù hợp bối cảnh, tương ứng nguyện vọng, điều thuận sự ngăn chia, hòa nhu thời ác chiến, như dùng những giọt mưa bằng nước Ma-Ha tưới ngọn lửa phiền não đã bừng cháy khắp cõi đại địa, ấy gọi là phương châm cứu cánh tận độ.
      Ngoài còn diệu lực gia trì vô năng thắng nơi Bề-Trên đại-bi, đại-từ nhiếp niệm. Hằng hà chư Ðại-Bồ-Tát, ức vạn chư Thiên bủa tràn thắng phước tăng tấn sức thiện căn, giúp chư thiện chúng hành trì Ðạo-Pháp được kiên nhẫn, thâu nhiếp các thiện nguyện lợi tha, giảm hoặc chướng, tăng phước lực, làm cho cõi đại địa mây chướng mòn tan, ánh quang đãng thượng diệu mặt Nhựt rọi vào, muôn loài vạn vật được nhờ hơi ấm thiên nhiên cùng ánh sáng vô nhị ấy mà hưởng được phúc lạc thanh tịnh.
      Vậy toàn cõi thế nhân hãy lưu tâm định ý phục nguyện hoàn lương, gieo giống thiện căn, tài bồi ruộng phước, tự giác tự tu mà độ mình cứu người hầu được khỏi phụ lòng Trời Phật, và để cho biển phước thế nhân luôn được chứa đầy nước mát mùi thơm, đời đời chẳng bị khô cạn. Ðó là kết ba yếu tố đem lại thành quả vậy...
QUAN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT



      




                              Thi bài:
      Cơ cứu thế mạt đời gieo rải,
      Thức tâm hồn nhơn loại ngủ say,
            Thiên-Cơ tuy chẳng lộ bày,
Nhân duyên kiếp mạt hằng ngày tấn mau.
      Dòng suối nghiệp tuôn trào ngập bể,
      Cuộc đáo đầu nguơn hệ kỳ ba,
            Sấm Kinh khuyến thiện hằng hà,
Hồi chơn tỉnh thế Ta-Bà giải nguy.
      Cõi đại-địa trong kỳ diệt hóa,
      Lòng Trời thương khai xá Ðạo mầu,
            Hóa hoằng tận độ Ngũ-Châu,
VIỆT-NAM trọng trách hoàn cầu lợi tha.
      ÐẠI-ÐẠO như tòa nhà Pháp-Bảo,
      Ẩn vào đây nương náu đêm dài,
            Bốn bề hiểm trở chông gai,
Hùm beo rắn độc muôn loài bao quanh.
      Phật nhập diệt, bộ hành lở tối,
      Mạt pháp đời, hấp hối tai nguy,
            Ðạo khai tận độ tam kỳ,
Dựng nhà giữa cuộc đường đi lỡ chừng.
      Bồ-Tát chúng hóa thân che chở,
      Chư Thánh-Linh khắp ở tứ châu,
            Nguyện trong bá tánh hồi đầu,
Chấp tay niệm Phật mà cầu vãng sanh.
      Chuyên tập sửa tánh lành phát hóa,
      Thì họa ương bất khả xâm thân,
            Chớ nên vọng nhiễm mùi trần,
Công danh phú quí xa lần mới kham.
      Phước đức trọng Dà-Lam che chở,
      Lợi danh cao hơi thở phập phồng,
            Của đời tuy có mà không,
Nay đây mai đó cùng trong não phiền.
      Ðạo là món ăn hiền pháp vị,
      Vừa thanh lương, khai trí trụ thần,
            Xa lìa hiểm nạn bảo thân,
Mé bờ Cực-Lạc thấy gần kề bên.
      Người tu niệm Ơn-Trên thường giúp,
      Kẻ lăng loàn lặn hụp biển trần,
            Hằng ngày tam độc nhiễm thân,
Ngộ luồng ác khí khó mong cứu hồi.
      Dòng nước bợn cuốn trôi kẻ yếu,
      Yếu tinh thần lại thiếu tu thân,
            Sống vui với cuộc giả trần,
Nào hay bẫy rập vướng chân hiểm nàn.
      Tu là tạo sen vàng cửu phẩm,
      Tu là trừ ngũ ấm dứt rời,
            Ba độc trừ dứt nhớ lời,
Ngọn đèn trí huệ sáng ngời trước sau.
      Ao Thất-Bửu nhìn màu chiếu lạ,
      Nước tịnh minh siêu hóa diệu mầu,
            Tẩy lòng hoặc chướng dứt mau,
Bồ-đề giữ chặt ma nào dám lung?
      Ma ngoài dữ muôn trùng khó sánh,
      Ma nội tâm hay đánh giác hồn,
            Dại mà tu niệm: dại khôn,
Khôn đường thế sự xác hồn khổ thâm.
      Ðời đảo loạn chủ tâm không đảo,
      Cuộc hổn nàn Tam-Bảo móng nền,
            Tu tâm luyện tánh vững bền,
Gieo trồng ruộng phước ghi tên bảng vàng.
      Kiếp người thế canh tàn ảo mộng,
      Như rừng đêm cọp rống voi rền,
            Khôn thời thuyền Ðạo bước lên,
Thoát vòng khổ lụy kề bên sớm chiều.
      Ngàn thuở mới ngân-kiều gặp hội,
      Biết bao phen chìm nổi ngục trần,
            Mạt đời bẫy cạm vướng chân,
Buổi đời trọng ác muôn phần khổ gay.
      Cuộc đại-chiến chờ ngày phát họa,
      Lễ Cầu-An tua khá lưu tâm,
            Trì Kinh Cứu-Khổ Quan-Âm,
Cầu-An Sám-Hối ân thâm hộ trì.
      Ngày đêm niệm A-Di thường nhớ,
      Là phương châm tế trợ hiểm nàn,
            Tại trần cũng được vạn an,
Ðến kỳ thoát hóa Tây-Phang liền kề.
      Nhìn thế mạt ê chề vật chất,
      Miếng đỉnh chung thực vật đủ mùi,
            Trăm ngàn thú cuộc trò vui,
Miếng mồi câu nhử loài người đọa mê.
      Từ chỗ vui trở về tăm tối,
      Từ cao sang mượn lối ngục tù,
            Biết thời gìn một chữ Tu,
Thuộc lòng nhẫn nhục ngàn thu cảnh nhàn.
      Vì cuộc thế sôi tràn quả nghiệp,
      Lòng từ bi minh thiệp bày lời,
            Liễu tâm chánh huấn kịp thời,
Kia thuyền Bát-Nhã độ người thoát mê.
      Bờ ngạn-giác trở về hội hiệp,
      Lánh biển mê trong kiếp mạt đời,
            Sóng trần trôi dạt mòn hơi,
Hạ-Nguơn kiếp mạt, đáo đời họa lây.
      Hỡi thiện-căn! chớ chầy bổn nguyện,
      Góp tâm thành thực hiện Ðạo chơn,
            Tu tâm gương hậu thế nhân,
Tu cầu phúc lạc tha thân buổi cùng.
      Chư thiện-tín đồng chung hạnh ngộ,
      Ðược lời chơn hãy cố tâm gìn,
            Rèn lòng niệm Phật trì Kinh,
Phước cầu tăng tấn, thái bình dựng mau.
  Nầy Thiện-nhân, thời PHỔ-CHIẾU TÂM-KINH sắp mãn, nay còn điều chi tối cần Thiện-nhân khá bạch trình lên.
      (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Nam mô A-Di-Ðà Phật! Kính bạch Ðức Quan-Âm: vì con nhớ kỳ Ðàn Cơ-Bút ngày 15 tháng 5 dương lịch, Ðấng Chí-Tôn dạy rằng: Ðức Quan-Âm thị hiện cỡi rồng nơi biển Nam-Hải ấy là có ý ban cho bá tánh một bức Thánh-Ảnh chơn thật, để cho tất cả trăm họ bốn phương thờ kính phụng trì. Ðức Quan-Âm sẽ ban hành diệu lực cứu khổ phò nguy trong thời kỳ mạt pháp nầy. Vì nhiều khổ nạn đến trong chúng sanh cấp thiết, vì nạn vô minh che chướng mà chúng sanh chưa được minh liễu sự lợi ích cho mình và cho người, nên khi lâm nạn hoặc cấp, hoặc trì, hoặc sắp đến, hoặc bịnh chứng nguy cấp, hoặc nan y, kẻ biết cầu Quan-Âm cứu khổ cứu nạn thì rất ít, mà người chưa biết đại diệu lực cứu khổ nạn nơi Quan-Âm thì rất nhiều!
      Nay Ðức Quan-Âm Như-Lai phổ minh quyển Tâm Kinh nầy vào đại thế chúng, vậy con kính lạy Quan-Âm xin nhờ chỉ giáo cho biết cách thờ phượng cũng như nghi thức, hoặc phương tụng niệm để được khỏi sai lạc. Ðây là một niềm đại ân phúc đến cõi thế nhân, ví như biển nước Ma-Ha toàn đầy vị ngọt, mát mẻ thanh trong, và nguồn nước tám công đức vô lượng nầy được lưu vận vào tất cả sông ngòi cho tất chúng sanh đồng được uống để giải trừ nạn khát, hoặc từ lâu vì quá khát phải uống nhằm nước độc, mặn, nay đã sắp chết, gặp được bát nước trong mát ngọt, tức thì được hồi phục sự sống.
      Hoặc sánh như số người đang ngủ quên trong ngôi nhà rộng lớn kia, nửa đêm bị lửa bốc cháy, tất cả người đều chẳng có lối thoát, bỗng gặp ân nhân đem nước tới tưới lửa dẫn ra khỏi nạn chết. Thì đây là một đại-diễm-phúc cho nhân loại, là do nhờ ơn đức đại từ bi của Ðức Quan-Thế-Âm, công đức bổn nguyện mười hai hoằng thệ thâm như đại hải! Sau khi lời bạch trình cầu thỉnh Phật ngôn giáo điều cần thiết, con xin thay mặt cho toàn thể chúng nhân, khắp thiện-nam tín-nữ, khắp hết đạo-đồ các nơi, thành tâm kỉnh lễ Ðức Quan-Âm trước đây trăm lạy, ấy gọi là thay mặt chúng sanh dưng chút lễ rất nhỏ mọn trong lúc nghèo cùng, phước, trí chẳng có, công lao cùng bảo phẩm quí giá cũng không! Chỉ dâng hiến món tâm thành vô lượng ngỏ báo Phật ân, và cầu Phật gia trì cho hết thảy chúng nhân đồng thụ hưởng phúc lạc thanh tịnh thứ nhứt, cầu được cõi âm đồng siêu liễu, cõi dương được thái bình, đồng hạnh lạc nhờ nơi phước lực đại từ bi và đại công đức cứu khổ nàn nơi Phật lực. Nam mô Ðại Từ Ðại-Bi Linh Cảm Ứng Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.)
      - A-Di-Ðà Phật! Lành thay! Niệm ý lành thay! Nầy Thiện-nhân! Như quyển TÂM-KINH ngày nay được phổ cập nhân sinh, một là nơi bổn nguyện độ thế trong phần thiểu vị nơi lòng từ mẫn của Quan-Âm thôi! Ngoài đây lại còn biết bao nhiêu công năng nơi thiện-nam tín-nữ, tức là Bồ-Tát lực phối tác nhơn lực mới gieo rải duyên lành. Nếu quên lãng công đức nơi chư căn thiện-nam tín-nữ thì Bồ-Tát lực nơi cõi siêu diêu thế gì tạo tác phần hữu thể.
      Sự tán dương công đức nơi Quan-Âm Ta rất cảm, nhưng đối công năng chư Ðại-Bồ-Tát chúng, và tất chư bổn nguyện lợi tha, dũng lực đại bi, tâm từ mẫn thiệp nơi chư Ðại-Bồ-Tát chúng thì Ta chưa nhằm được vi ti trong xứ sa mạc, lại đâu thể gọi đây là đại công đức.
      Cũng như chính Ta thuở quá khứ vì lòng thương xót kẻ nạn nhân, những khi hành thuyền lâm nạn, hoặc bảo tố, hoặc giặc cướp, hoặc thuyền xiêu biển cả, Ta bèn tự tay cắt mái tóc xanh thả trôi dòng đại hải, biến thành tám vạn bốn ngàn Thần Hải-Ngư, tất những Thần Hải-Ngư đồng lực thần thông, tầm thinh cứu khổ y như Bồ-Tát Quan-Thế- Âm, nhưng đối với chư Ðại-Bồ-Tát cũng chưa sánh được công đức vậy. Huống nay chỉ bộ Kinh. Tuy dầu đối với Bồ Tát thì chẳng mộ xưng công, nhưng bổn tánh Kinh điển báu lạ vô biên, giúp giải họa đời sánh như ao nước bát công đức! Ta nguyện đem phước lực này mà bố hóa toàn diện cho hết thảy chư chúng sanh, cho hết thảy thiện-nam tín-nữ, người thành tâm hiếu mộ, đọc tụng, tin ưa, phụng trì thiết thực, thờ phượng chơn thật Thánh-Ảnh, tin sâu lời giáo pháp không nghi chấp, không quên lãng.
      Và những người thiện-tín trọn thành tâm gom công góp sức bồi bổ vào công cuộc ấn tống Kinh, hoặc cúng dường bằng công năng, bằng tài hóa, hoặc thành tâm đem Kinh điển giao tận tay, tận nhà cho người được ngộ nhận, thì phước lực đồng đẳng cả không sai.
      Tất cả chư căn thiện-tín đạo đời hãy vững vàng tâm niệm, diệu lực phước báo nơi công đức ấn tống Kinh nầy sẽ được tài bồi hậu hữu, tiêu giảm chướng căn, tập nghiệp mòn tan, giải trừ hoạn họa, sánh như người được tắm gội Cam-Lồ vậy!
      Ngoài phần nội dung Tâm-Kinh thì những Kinh thường tụng tại gia chư thiện-tín thì chỉ dùng Cứu-Khổ Kinh vào mỗi thời trong ngày. Nếu vì bận bịu thời giờ và không đủ phương tiện lập Thiên-Bàn, chỉ một Thánh-Ảnh Quan-Âm thì hãy thành tâm cầu bận Kinh Cứu-Khổ, vậy cầu cho đệ tử tên họ mình (người tụng đọc: nhứt gia ly khổ nạn). Ngoài thời trì Kinh thì ít hơn hết là mỗi gia đạo phải có một hoặc hai người vào phụng trì môn niệm Phật, tràng hạt chuỗi 108 xem như bửu-pháp hộ mạng ở thời khốn mạt tai ách quá kề. Thì đó là phương châm thoát họa đệ nhứt và môn Cứu-Khổ Quan-Thế-Âm mà thôi.
      Lại quyển TÂM-KINH QUAN-ÂM nầy mọi phương cách xin được thuần thục vào giác quan để nhắc lòng hầu hối ngộ ăn năn hồi chơn phục thỉ.
      Ðiều cần yếu tối trọng là những lúc về sau bất cứ lúc nào, bất cứ sự sợ hãi nào xảy đến hoặc sắp xảy thì tất cả đều vào niệm Cứu-Khổ thành tâm và chuỗi A-Di-Ðà phải kiên cố. Ðó là phép tốc tật giải nàn trong những thời gian cấp thiết quá hạn hẹp mà không thể dùng kịp những pháp môn khác.
            Ngoài đây hãy còn sự tế cấp diệu lực Bề-Trên gia trì hộ hựu chẳng ngớt. Khuyến cáo toàn thể tín-nữ thiện-nam tin sâu nơi diệu-pháp, dứt hẳn lòng nghi, hộ trì Chánh-Giáo là góp sức thiện-căn chung tay cùng chư Ðại-Bồ-Tát mà thi thố bổn nguyện cho được thành mãn CƠ TẬN-ÐỘ vậy!

          Kệ rằng:
Hậu phước thay cho trong thời pháp mạt,
Cả chư linh năng phát tác nghiệp lành,
CƠ TẬN-ÐỘ nầy cần trí giác giữa nhơn sanh,
Chư Thánh-chúng mới trọn thành bổn-nguyện.
Bực căn-trí năng thuần đường tu luyện,
Chư thiện-tâm cùng phát nguyện hộ trì,
Kẻ chưa, thời vào nhập Pháp qui y,
Người Phật-tử gắng hành trì câu niệm Phật.
Còn xử thế hãy gìn lòng chơn thật,
Ai cũng phải cần manh áo với cơm,
Sống làm sao giữ được tiếng danh thơm,
Nghèo cơm áo, quí hơn giàu nhơ bợn.
Nghèo tiền bạc, giàu lòng nhơn đức,
Kẻ nghèo nầy sánh bực thượng-lưu,
Cơm ngày hai tâm trí vẫn vô ưu,
Thức giấc ngủ huân lưu câu niệm Phật.
Xét cho cạn kiếp người là sự thật,
Cõi vô thường, nhân vật mãi vần xoay,
Biển luân hồi muôn kiếp mãi lưu đày,
Nhơn thể mất, biết bao ngày tìm lại được?
Dòng ái dục cuộn trào như thác nước,
Ba món độc làm cho lợi trước hại về sau,
Như cá gặp mưa lực vận nhảy hố hào,
Chẳng suy cạn nơi nào là cạm bẫy.
Người có trí khôn ngoan hơn biết mấy,
Vật chất là chỗ thấy giục lòng tham,
Máu với xương thảm họa chúng đành cam,
Nguyên-Tử chiến cũng vì ham bá chủ.
Người độc ác ấy vì mê giấc ngủ,
Trống canh tàn bạch thủ chốn âm ty,
Hỡi chư căn, tỉnh giác kịp hồi quy,
Sen chín phẩm nơi Liên-trì còn đợi mãi.

NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT.