THUYẾT MINH CHƠN ĐẠO
******
- NAM MÔ HUYỀN KHUNG CAO THƯỢNG ĐẾ
NGỌC HOÀNG TỨ PHƯỚC HỰU TỘI
ĐẠI THIÊN TÔN
-
NAM MÔ DIÊU TRÌ KIM MẪU VÔ CỤC ĐẠI TỪ TÔN
-
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT
-
NAM MÔ DI LẠC THIÊN TÔN KHAI MÔN CHUYỂN PHÁP
Thừa huệ linh thông, bần Đạo chuyển
tứ huệ linh để cùng tất cả nguyên nhân nam nữ của Huỳnh Đạo đặc biệt là Đại
Thiên phong nam nữ về đây đồng dự lễ Trung Ngươn Thống Hội - Một ngày lễ vô
cùng quan trọng cho cơ Huỳnh Đạo, bắt đầu phát nguyên Hội Thánh Nhị Giang cách
đây mười mấy năm qua, nhờ tài của bậc Đại Thiên Phong đã hy sinh, nhờ đức của
tất cả Bửu Liên góp công, góp sức hầu xây tạo Thánh Đền làm nơi căn cứ của Bửu
Sơn sau này hầu có thống qui Tam ngũ.
Bần
Đạo có đôi lời cùng tất cả Đại Thiên phong, cùng chư nguyên căn hiện tiền. Sở
dĩ mùa Vu Lan đã đến mà Thánh Đền rựa rỡ, công đức đó chẳng riêng ai mà chung
cho tất cả, tất cả đó cũng như bộ máy huyền nhiệm thiêng liêng đã an bày sắp
xếp. Như thế, bần Đạo tạm giảng một phần
lý pháp để cho chư nguyên căn hiểu rành hầu có hợp hòa thượng hạ. Người
luyện Đạo cũng như người học Đạo đều có
một bổn căn gần giống nhau về vô vi lẫn hữu hình, xét ra nơi phần Thượng điền,
Trung điền, các Trung tồn nhe rõ : Nơi phần Thượng Điều đầu tai kia có nghe
cũng không làm cản trở cho mắt kia sự thấy, miệng kia có nói cũng không làm cản
trở cho mũi kia đang hô hấp. Như thế mới đồng hòa nhứt bổn, như thế mới là Tam
Giáo qui nguyên ngũ chi hiệp nhứt, không phải vì thấy mà làm cản trở sự nghe,
không phải vì nghe mà làm cản trở sự nói. Như thế các nguyên nhân nên nhớ : điểm
linh quan duy nhứt là tối trọng huyền năng điều động tất cả linh thể con người,
cũng như khối óc điều động nhãn, nhĩ,
tỹ, thiệt là thế đó vậy. Nếu một trong cơ quan kia bị cản trở, tất nhiên khối
linh quang sẽ bị cản trở, điều cản trở đó không phải do khối Đại Linh Quang mà
do từ các cửa sổ chen vào, các cửa sổ đó nếu không được trong sáng yên
nhàn, không được lọc lừa cho kỹ thì đừng
trách gì ngọn gió ngoài kia len vào xâm nhập nội tâm cũng như khối linh quang kia
phải rúng động.
“Nhãn
thị chủ tâm” không có nghĩa nhãn là tượng trưng cho tâm, tâm là nhãn, nhãn là
tâm nhưng tâm kia không phải là nhãn, nhưng không có nhãn thì không thể tượng
trưng được tâm, một phần tâm ở trong nhãn.
-
“Lưỡng quang chủ tể” đôi mắt kia dù có thấy toàn nhiên điều khiển thân người thì
cũng nên nhớ : dầu chủ tể đó là chủ tể trong lục căn mà có vậy. Trong thất
khiếu để hướng dẫn là một cơ năng cao diệu, chớ không phải chủ tể toàn nhiên
của cơ quan khác, nên nhớ ! cũng như phận sự của một Chưởng Giáo Huỳnh Đạo hữu vi không phải toàn
nhiên điều động hoàn toàn, nhưng phải là người có thứ lớp; xa thì nhìn bằng
mắt, gần có thể nghe bằng tai, tai mắt, kia viên dụng mới đạt thành Đạo lý vậy.
Đừng nghĩ rằng chỉ mắt hấy là đủ, tai kia ngeh mà toàn vẹn mà quên rằng chính
mắt thấy tai nghe viên thông mới đạt Đạo. Tai nghe mắt thấy cũng chưa phải là
tự hào, còn phải các cơ quan kia yễm trợ cho khối đại linh quang mới thành hình
con người, linh hư vạn vật . Cơ Đạo cũng như thế đó, hành Đạo cũng như thế đó,
tam công cũng ở trong đó mà ra vậy. Vậy thì, người hành Đạo nên nhớ : xét lòng,
giữ ý làm thế nào cho sáu ngõ viên dụng mà không bị cản trợ, như thế đó sáu ngõ
là sáu đường yễm trợ cho tam bửu, tam bửu kia nếu có thành thì sáu đường kia
là sáu đường siêu thoát. Nếu sáu đường
kia không gội rửa tam bửu nọ thiống qui cũng lạc vào bàn môn tả Đạo vậy.
Chưởng
giáo xét thấy trong hàng trung tôn hoàng tôn Huỳnh Đạo phần nhiều là người đã
cho sứ mạng thiêng liêng từ Hư Cung Bạch Ngọc hay là nơi Lôi Âm Linh Khứu, tại
sao không hiểu rõ chánh lý minh truyền tuyệt giác ? Sở dĩ chưởng giáo thừa tứ
huệ linh vào giờ này, chẳng phải chỉ dạy lý phổ thông tầm thường trong thập nhị
mà dạy cũng điều giải thoát cao siêu từ tâm, từ ý, từ phần vô vi để giải thoát
hữu chất trầm kha đọa lạc muôn đời vậy. Hãy nhìn những gì muốn nhìn để tượng
trưng tâm pháp, Chưởng giáo tạm thời chỉ
rõ : đôi ngọn bạch lạp nơi bàn huê linh này sự sáng và chất sáp của bạch lạp,
sáp kia không có hình trước, nhưng tại người nhồi nắn nên có hình tướng như thế
này. Vậy thì bổn nguyên bổn tướng của sáp không phải là tròn như ngọn bạch lạp
nơi đây vậy, tại người tạo thành đó gọi là DUYÊN, tạo thành ngọn bạch lạp tròn,
sáp kia không có hình tướng, khi ngọn bạch lạp tàn sáp nọ trở về với bản
thể, nghĩa là vô hình tướng. Đó là duyên
khởi để rồi trở về nguyên bổn do duyên sanh, sáp kia không có hình tướng tại
người tạo nên hình tướng đó là duyên khởi, nên nhớ : khi sáp nọ đèn tàn thì trở
về nguyên bổn của sáp vô hình tướng, đó do duyên sanh rồi tự duyên diệt cũng
như con người trên thế gian vậy. Tứ đại nọ không hình tướng nhưng do duyên khởi
hình tướng phát sanh, khi tứ đại nọ đúng
duyên kỳ số định của tạo hóa, trả về cho vạn vật, cho hữu thế thì trở lại vô
tướng của nó. Nghĩa là trong vô có hữu, trong hữu có vô do duyên khởi mà có, do
duyên tạo mà thành, phật tánh của nó mà không có hình tướng vậy. Hình tướng của sáp, hình tướng của tứ đại không có khuôn viên, không có hình tướng, tại người
tạo ra hình tướng, vì tạo ra hình tướng cho nên duyên mới phát sanh, duyên phát
sanh cho nên quả mới khởi quả khởi cuối cùng trở về với hình tướng vô ngại của
nó, nghĩa là nó cũng vẫn còn nguyên bản thể của nó là chất sáp mà thôi, tứ đại
kia cũng trở về với tứ đại vô hình tướng của
nó trước khi hoàn thành con người vậy.
Điều
tâm pháp này chưởng giáo muốn nhắc nhở: Khi tạo thành con người, con người chỉ
là khối hư linh do duyên khởi biến sanh để rồi mượn lấy tứ đại làm hình, từ tứ
đại đó trải qua vòng luân hồi để rồi cuối cùng trở về với định số. Ngày nay
chơn lý của Huỳnh Đạo là để giải thoát - phần thứ nhứt cho người vẹn vẽ với tam
công đạt pháp, đó là qui tam bửu hợp ngũ hành trở về với khối đại linh tử -
phần thứ hai : nương theo thời kỳ đại xá cứu một số căn duyên còn đang sa trầm
trong đường doãn lạc. Cho nên Thánh Thần Tiên Phật nặng lòng thương thế tục,
tùy duyên phổ hóa, tùy thời hiện sanh, tùy cơ giảng dạy. Thời cơ đó ngày hôm
nay đã hiện rõ nơi Thánh Đền Bửu Sơn ngày Trung Ngươn Thống Hội của Quý Sửu
Niên mà Tiên tri trước kia dành sẵn cho miền Thất Sơn sau này : Quan trọng nơi
thất sơn không phải là quan trọng ở núi cao rừng rậm, mà quan trọng có một số
đại linh căn đang ẩn nhẫn, có những Bậc đắc Đạo tùy thời vận dụng tất cả huyền
linh đợi chờ ngày phán quyết cuối cùng, hay là Long Hoa Đại Hội mới trổ mặt cứu
đời, một phần dùng huyền vi huyền cơ hạ bút dìu dẫn người có duyên trở về với
cõi thanh tịnh, hiểu rõ Đạo lý mầu nhiệm chọn con đường chơn giác để giải thoát
muôn kiếp luân hồi đọa lạc.
Chưởng
Giáo muốn nhắc nhở phần Trung Tôn cùng Bửu Liên mật pháp. Thời cơ đang cận kề,
thời gian nhặt thúc, ráng bền tâm kiên chí, không phải vì thấy Long Hoa còn xa
mà ngại ngùng trên bước đường hành Đạo, cũng không thấy vì đòi dồn dập đau
thương mà e rằng hoạn họa kia là trường khỏi tranh bạo động sẽ lọt vào vòng
nhân quả. Người hành Đạo không mê vòng nhân quả, nương theo nhân quả để đạt
thành, chớ không phải xa lìa nhân quả. Vì con người đã là tứ đại, tất cả đều
phải mang lấy phần hữu vi này, dĩ nhiên phần nhân quả đã định rồi không thể nào
thoát khỏi vậy. Nhưng khi đạt Đạo hiểu
lý chơn như không mê vào nhân quả, dầu phải chấp nhận nhân quả, nhưng nhân quả
đó là một nấc thang, một bước đường để rời xa thế tục, không phải vay trả trả
vay, mà không vay phải trả mới trở về cõi hư linh tịnh diệu vậy. Muốn giải
thoát trăm kiếp luân hồi không phải chỉ luyện Đạo mà thôi còn đắp bồi nhiều
công đức, công đức đó Vô cực đã đại hồng ân xá, đặc biệt cho nguyên vị Đạo
Vàng, thì ngày hôm nay đừng có thở than hay phiền trách, nghiêp quả kia đều
nặng, người hiểu Đạo xem đó tựa lông hồng, thế đời kia dầu có biến xoay nhưng
tâm hồn vẫn như thiết thạch. Đời không có loạn với người luyện pháp cao minh,
chỉ loạn với kẻ thường tình thế tục, tâm của người Đạo không loạn, tâm của
người đời dầu tịnh yên vẫn rối cuồng. Vì thế, khi chấp nhận luyện pháp cao siêu hầu đạt thành vị quả
tâm nọ vẫn như như, nghĩa là ánh chơn như đã rọi chiếu thì không phải vì chút
đời mê mà làm rúng động linh quang, linh quang nọ có đau thương cũng do sáu
đường nhâp vào, người luyện Đạo dùng gươm trí hệ đoạn trừ, nhìn tất cả nhất như
không biến dịch, điều đó mới có thể giải thoát được kiếp luân hồi, mỗi chút mỗi
động tâm mỗi lần than thở, như thế khối linh quang kia lở dở, còn đâu để các vị
cao thanh. Ngày xưa tất cả bậc Thiên Tinh Bồ Tát đạt thành Đạo quả thì chỉ giữ
vững điều “tâm như bất động”, nghĩa là dầu cho sự việc quả nhân vay trả, biết
trước định luật thiên điều thì lòng cũng không bao giờ rúng động. Phần hạ thừa
Thánh Đạo cũng giảng dạy nhiều khi “Phải biết điều gì được biết”, biết rồi dầu
có đến vẫn yên lòng chấp nhận vì sự hiểu biết đã tràn qua, dùng ánh linh quang
rọi lại, đó mới chính thiệt là biết, cái biết đó là người biết, sự biết đó là
sự sống muôn đời của linh tử vậy.
Hàng
Bửu Liên mật pháp, đã từ lâu Tôn Sư A Di Đà truyền pháp, đó là phần dụng của
pháp chứ chưa phải phần giải thoát siêu thâm, phải tầm ra nhiều lý nhiệm so
sánh với lý huyền vi mới vui lòng tu học không chán nãn trên bước đường xa,.
Nên nhớ là lời nào Thần Tiên Thánh Phật truyền ra nếu không đạt lý thì e sa vào
đường chán nãn vây.
Lục
dục, thất tình là điều tầm thường của thế tục, người luyện Đạo cũng không phải
bàn đến nữa, mà biết rằng con người trong định số biết rằng Thiên lý, Thiên cơ
xoay chuyển thì vui lòng chấp nhận kiếp làm người nơi hiện hữu trăm năm trong
cõi trời thanh thoát, bằng đương lúc luyện Đạo tiêu dao bằng ngày giờ đối với
Thiêng Liêng chớ không phải phàm nhơn đêm ngày năm tháng. Ngày nay, luyên Đạo,
phần nữ phái vì thời kỳ đại xá mới thọ đại hồng ân, nên nhớ : Luyện Đạo mà còn vọng pháp thì muôn
đời không bao giờ đạt pháp. Vọng pháp là gì
? Vọng pháp có nghĩa là luyện pháp như thế này để đắc được Như Lai hay
Bồ Tát hay Thánh Mẫu ,Tinh Quân, luyện pháp như thế kia e rằng không tròn với lời dạy, phải thành bực
tầm thường luân hồi nhân quả, chỉ là phương tiện pháp duyên Di Đà truyền dạy
chớ chưa phải là siêu thượng chánh pháp cao minh, A Di Đà mật chỉ là bước đường
đầu Tiên mà thôi, đừng nên vọng pháp, cứ hành pháp tự nhiên không phải chấp
nghi, tất nhiên sẽ đạt Đạo vậy.
Về
phần Trung Tôn mật pháp, nên rõ lý “Trung âm hữu dương Trung dương hữu âm”,
nghĩa là trong chánh có tà, trong tà có chánh, trong âm có dương, trong dương
có âm, trong đời có Đạo, trong Đạo có đời. Đó là lý thường nhiên, Huỳnh Đạo
mang chơn truyền siêu thượng không chấp nhận lý tương đối tầm thường của thế
tục, tạm gọi là Đạo, tạm gọi là pháp, người mượn pháp để về với Đạo, người mượn
Đạo để giải thoát linh hồn, thì đó toàn là không mà thôi vậy. Đừng chấp pháp
này có, pháp kia không, pháp này thành,
pháp kia hoại, không như thế được, cũng không như thế. Tất cả đều là phương
tiện của nhân gian, tất cả đều là nấc thang để bước về con đường giải thoát.
Mượn pháp để đạt Đạo cũng như mượn thuyền kia tách bến, sang sông rồi không cần phải pháp cũng
không cần xuồng kia chi nữa vậy. Khi chưa phải là đại giác chân nguyên còn phải
dùng chân lý, còn phải dùng pháp nguyên, khi đã đạt được chánh pháp siêu thâm,
khi đã đạt được chân lý diệu huyền thì tất cả đều không nói được vậy.
Bài
Ngày Trung Ngươn Cấm Sơn Đại Lễ
Mùa
Vu Lan là lệ của đời
Từ
nay nên khá hiểu lời
Vâng
truyền Phật Thánh trọn đời lo toan
Người
Sứ mạng Đạo Vàng nên nhớ
Rèn
tam công đừng lỡ ý thành
Hiêp
hòa tu tĩnh tinh anh
Mới
tròn bước Đạo hiệp thành mai sau
Kìa
là lối động đào siêu thoát
Nhờ
đường duyên giải thoát tâm trần,
Tiếc
là mang mãi tấm thân
Còn
trong lục Đạo xoay vần đau thương
Đời
Mạt hạ phật vương ra sức
Tuyển
người lành vô cực ban cho
Từ
bi đại xá dặn dò
Con
thuyền Bát Nhã hẹn hò Long Hoa
Đừng
ngại khó đường xa mưa nắng
Rồi
mai sau sẽ đặng thanh nhàn
Muốn
thành vị quả đừng than
Đường
lên đến cõi Niết Bàn khổ nguy
Nay
Chưởng Giáo chuyện gì nhắn nhũ
Ráng
bền tâm hội đủ khí thần
Cho
người tam bửu luyện thân
Cũng
như luyện mạng ân cần hôm nay
Mượn
từ huệ ngày rày thiết giảng
Hiệp
hoa nhau là bạn tu hành
Đừng
vì thế sự lấn tranh
Đừng
vì quyền lợi giựt giành nọ kia
Tình
huynh đệ sớm khuya học Đạo
Tình
anh em hoài bảo nơi này
Đâu
đâu thì cũng Mẹ Thầy
Thiệt
hơn chi nữa nọ này ra sao ?
Lời
Chưởng Giám ấm hao dạy dỗ
Mượn
huyền linh điểm chỗ cao thâm
Trung
ngươn tháng bảy ngày rằm
Huệ
linh Quý Sửu âm thầm ban chio
Người
học Đạo hiệp hòa tam bửu
Thì
nên nghe hôi đủ lý mầu
Thất
tình lục đục cao sâu
Chuyển
thành cho được nhiệm mầu mới nên
Lời
đã dạy đừng quên nhiệm lý
Phải
nghĩ suy cao ý mới tường
Đạo
Vàng chính thiệt tình thương
Là
đường Tất yếu Phật Vương ban truyền
Không
chia rẻ, không quyền, không vị
Tình
đệ huynh xả kỷ mới là
Huống
chi Huỳnh Đạo cao xa
Qui
nguyên tạm giáo rồi ra mới tròn
Người
trên trước sắc son đã định
Kẻ
theo sau phải tính lo lường
Đệ
huynh chung một bước đường
Chông
gai sắp đến mới tường thương yêu
Thầy
mẹ dặn sớm chiều hòa hiệp
Phải
lo toan cho kịp Long Hoa
Dầu
cho đường ấy còn xa
Cố
công mới được gọi là thanh cao
Huỳnh
Đạo chuyển lời nào cũng rõ
Nơi
Thất Sơn nhuộm đỏ máu hồng
Niên
tà dê lục xa trông
Thương
tình nhân chủng đau lòng Phật Tiên
Ba
tiếng sấm diệu truyền sẽ rõ]
Rồi
nơi đây công khó giúp vào
Hội
thi phải mở trước sau
Hai
tòa nhập một hiệp vào nơi đây
Kể
ngoại Tý lời Thầy đã định
Mười
tám sông hợp chín trở đầu
Đó
là cơ nhiệm cao sâu
Cọp
về Núi Cấm âu sầu bốn phương
Mèo
kêu rõ là đường giải thoát
Cho
chúng sanh được đạt cơ huyền
Cũng
là Nhiêm ý thiêng liêng
Lành
còn dữ mất chớ phiền phật gia
Đây
nhắc đoạn san hà cho biết
Đúng
thời kỳ chúng quyết tranh cường
Lời
xưa định sẵn phật vương
Đạo
Huỳnh hoăng hóa mới phương độ về
Nhưng
nơi đây lời thề sáng tỏ
Rồi
ngày sau sẽ rõ huyền vi
Thay
hồi đổi xác lạ kỳ
Người
tu từ đó đi thi mới là
Đừng
tưởng việc ta là dự hội
Đem
thân này cứu rỗi thân kia
Thân
này nếu chẳng khóa chìa
Không
người mượn xác khó lìa trần gian
Mượn
xác tục linh quang hạ thế
Thọ
sắc truyền Ngọc Đế ban ra
Đó
là Đại hội Long Hoa
Mỗi
người đều được Điện Tòa chứng minh
Mượn
xác tụng thượng đình ứng hóa
Vào
dự thi cao cả hội này
Long
Hoa chẳng sớm thì chầy]
Kiếp
này sẽ gặp được Thầy Huyền Khung
Đức
Vô Cực Kim Cung đang hội
Mùa
Vu Lan cứu rỗi cữu huyền
Khuyên
cùng tất cả bửu liên
Trở
về cầu nguyện tịnh yên gia đình
Nên
Khải tấu điện Linh Kim Khuyết
Cho
Cữu Huyền được biết Thiên Khai
Là
giờ Huỳnh Đạo an bày
Chung
cùng Hội Hiêp thiên khai Hội này
Lời
huệ linh nơi đây sáng tỏ
Cùng
bửu liên chỉ rõ pháp huyền
Thiên
phong nam nữ đại duyên
Về
đây dự hội ý nguyền Trung ngươn
Rồi
sau nữa Thất Sơn biến động
Chưởng
Giáo về hiển lộng thần thông
Cho
cùng tất cả dặn lòng
Đợi
ngày đại hội Lạc Hồng là đây
Nguồn
cội đó trên Thầy Mẹ định
Điệp
sắc truyền phụng kỉnh trung ương
Cấm
sơn đề bảng Phật vương
Triển
khai chánh giáo Đạo trường là đây
Nếu
phạm phải luật Thầy Thiên sắc
Đọa
muôn đời hay hoặc tiêu tan
Thương
vì nguyên vị Đạo Vàng
Lộ
nhiều huyền diệu trong hàng Thiên Phong
Nên
nhớ rõ cõi lòng từ ái
Là
uy linh triêm trải Đạo mầu
Thất
sơn nghiệm lý cao sâu
Thần
thông sẽ được biên chầu nơi đây
Tạm
dứt điển lời này ban tứ
Cho
thiên tinh cao ngự dài mây
Nay
là còn lại nơi này
Lộc
trời Thánh đức như vầy cũng vui
Nhưng
xót xa ngậm ngùi linh huệ
Vì
ngày xưa hồng thệ chưa tròn
Kìa
kìa chư vị năm non
Vu
Lan đang ngự hiện còn đâu đây
*******
Giả
từ chung như vầy đầy đủ
Hiệp
hòa nhau đừng phụ công truyền
Nam
mô Tam Giáo qui nguyên,
Đạo
Vàng biến hóa Quân Tiên Lập đời.
NAM MÔ DI LẠC THIÊN TÔN KHAI MÔN CHUYỂN PHÁP
THIÊNG LIÊNG ĐIỂM GIÁO
******
******
Bach
quang ứng diệu tỏa huyền hương
Hạc rẻ
tầng không chiếu Đạo trường
Đồng
đẳng cung nghinh Thầy giáng ngự
Từ
thừa báo linh trước đài chương
Tiểu
Thánh báo đàn Ngươn Thủy Thiên Tôn lâm ngự. Tiểu Thánh chào chung thiên phong
lưỡng phái hiện đàn, cung nghinh pháp giá, triều nghinh...
Thiên
địa biển giao tại hậu kỳ
Tôn
truyền xiển giáo tuyển khoa thi
Ngươn
tàn kiếp vận phân Tam , Ngũ
Thủy Tổ
hoằng khai Đạo hậu kỳ.
Thiên tôn mừng chung Thiên phong nam
nữ hiện đàn. Miễn lễ đồng thịnh tâm tọa thính. Thượng Tổ Đại Tôn Sư sắp lâm
ngự, Thiên Tôn truyền quang điểm bút ngự đàn báo tin, sau dần lược về phần mật
pháp cao vi, nên nghiệm suy cho tường tận.
Nầy thiện phong nam nữ mật pháp
truyền tông : Nên nhớ ba điều dặn dò của Thiên Tôn, ghi lòng tạc dạ kẻo sa vào bàn môn ác trược vậy.
- Điều thứ nhứt : Nếu là người mật
pháp siêu vi trường chay thọ giới, phải luyện pháp đương nhiên từ thời, thừa
Thiên lịnh. Nhưng không phải quá vì pháp mà quên dưỡng thần định trí, nếu suốt
ngày chỉ suy nghĩ có phần pháp nguyên mới đạt được Đạo đại thừa, đó là “muội
pháp”. Nghĩa là vì pháp nguyên mà quên tất cả cuộc trần duyên trong lúc thân tứ
đại này còn phải chuyển luân trong trần hồng khổ nhọc. Một ngày, một năm không
phải pháp kia trọn bước qua con đường giải thóat mà phải từ nấc bước lên, tùy
thời tùy lúc chậm tiến nhưng bền siêng.
- Điều thứ hai : là “chấp pháp” có
nghĩa là dầu đến trước hay sau, ít nhiều cũng vẫn tùy duyên. Nếu người điểm
pháp vì tư ý chia riêng đó là phần tội thiên nhiên chịu lấy, riêng mình chờ
thiêng liêng điểm Đạo hay Thầy tổ ban ân, còn bao nhiêu cứ hành cho vẹn vẻ,
đừng chê thấp, khen cao cũng chẳng màng bước vào đường xa của pháp mới đắc Đạo
Long Hoa, còn phần nhỏ gọi là thấp thỏi, đó là chấp pháp, nếu chấp pháp
thi khổ đoạt được huyền vi.
- Điều thứ ba : là phần trọng yếu.
Từ muội pháp, chấp pháp cho nên sanh ra “biến pháp”. Nghĩa là phần pháp nguyên của chính Thượng tỏ
truyền hay di đà ban xuống cứ giữ nguyên dầu thấy đó là thô thiển nhưng phải cân siêng chớ đứng tư
riêng biến cải, lần hồi sẽ sai tôn lạc chỉ sa vào vòng ác trượt đắm mê, một gậy
khảo đảo não nề từ gia thất, hai là làm cho thối chí nản lòng . Pháp của thiêng
liêng truyền ra trong cõi trần hồng, Di Đà ban xuống là câu theo linh thể, chiếu theo phân hạ ngươn, dầu như thế nào cũng
là con đường chơn để tiến lần đến ngày giải thoát. Nay, cũng như chiếc xe bánh
trên đường , đây là đường về Bạch Ngọc,
nọ cũng là đường tới lôi âm . Nếu lạc lần hồi tìm sang đường rẽ, tuy
cũng vẫn tới nơi nhưng nhiều ngã phần
chia, e rằng chọn đường cao trơn tốt phải vòng quanh còn đường kia tuy gồ
ghề nhưng là con đường đi tắt, không bớt
thêm cũng chẳng gia giảm chỉ cần cố gắng
siêng năng, biện pháp tăng thêm tam đôc
mê si, không tới trường thi của Long Hoa
Đại Hội vậy.
Thiên Tôn có đôi lời nhắn nhủ chung
: Thiên cơ chuyển biến, nghĩa là máy Trời đang vận chuyển cuối hạ kỳ, dập dồn
phong vũ biên cải nơi nơi, vũ trụ sắp an bày cơ cuộc..Vậy thì phần thiên phong
nam nữ bí pháp là món thuốc trường sanh cũng như cứu nạn trong cơn hoạn nạn, ,
nước lửa lan tràn, chớ có ỷ lại nơi Thầy Mẹ Tam Giáo, quên phần trí não đúc
rèn, e đèn kia không chịu nỗi sức gió thì có ngày mất đi ánh sáng vậy. Trong
niên này bắt đầu khởi chuyển, lý của Thông Thiên huyền biến trinh trước Tam
Giáo sáu ân “Nhứt niên chuyển hóa cõi trần, ân đền oán trả”, đó là Kỳ số khai
Đại Phong Thần vậy. Thiên phong nên nhớ tạo công để tránh phần khảo đảo, lập
tức để hưởng vị ngôi, đó là tùy duyên tùy phúc mới đạt đại đại thừa giải thoát
vậy. Triều nghinh...
THI
THI
Giáp chủ Thông thiên ngự trước đàn
Từ nay
thọ sắc hạ trần gian
Ba
mươi sáu động, Ta cho xuống
Thử
thách năm châu mở lớp màn
Lớp
màn vũ trụ chuyển từ đây!
Nhựt
nguyệt thay ngôi lịnh của Thầy
Chớ
khá quên minh thiên sắc hạ
Ê hồi
Nam Bắc rã thi thây.
Thây
chất bằng non máu tợ nguồn
Thông
Thiên cho biết chớ u buồn
Tử
sanh đều lịnh trời ban xuống
Có
pháp huyền vi về tích tuồng
Tuồng
phật, tuồng Tiên lẫn thế trần
Xem
chơi cho biết cõi phù vân
Tuồng
này Tiên phật đồng ra sức
Đấu
với Ma vương thử một lần
Lần
chót khuyên ai ráng vẹn gìn
Đạo là
thương, tín lần hy sinh
Nếu
không trọn vẹn con đường ấy
Hồn
xác đông tiêu giữa pháp đình
Thông thiên có đôi lời mừng chung nam nữ hiện tiền.
Lầu tam thập lục đồng có hạ phàm Đông Tây chuyển động, phong vũ bất kỳ nhưng
trời cha có ban bộ thiết giáp, đó là Đạo đức huyền vi bí pháp siêu mầu, đó là
Đạo đức huyền vi bí pháp siêu mầu, đó là tam công đứng đầu trong thời kỳ Long
Hoa chuyển hóa vậy.
Thông thiên phần rành cơ nhiệm bí yếu nhân gian cho Thiên
phong tường lãm, Từ Đông sang Tây cách rẽ âm dương cũng như nhựt nguyệt, Tây kia
xâm phạm phương Nam Đông kia sẽ tràn phương Bắc, bốn phương tám hướng đồng đều,
trời phật định phân, con người ngắn số. Bởi Đại phong thần chuyển biến cho nên
Tây Âu bày chuyện vây quyện đông phương, gây họa chiến trường trong đôi niên sẽ
rõ... đó là kỳ ân đền oán trả trong trăm kiếp luân hồi, nay thong thả vay đắng
cay xương máu tràn ngập năm châu, đó cũng chung một bầu của cơ trời thưởng phạt
vậy.
Người tu hành ngó thấy nên công quả
bền gan, đời người dầu có lỡ làng cũng không phải buồn than chỉ e rằng mối Đạo
Vàng kia khó gặp, bí pháp nọ không trau, hòa hiệp thương yêu chẳng trọn, tam
công tư ý, bỏ nọ nhận kia, quên sau chấp
trước thì cũng như dã tràng se cát vậy,. Người
hành nên nhớ một con đường đi tới, xác này dầu có trả lại thế gian, thân
này có đọa đày nơi trần nhơ tục lụy nhưng hồn kia không đọa, xác kia có trả
linh nọ, không trừ, người tu hành nhớ rõ lời thư này để noi theo đời giải thoát
. Nên nhớ muôn thành bực Bồ Tát hay Tối Đại Tinh Quân cũng nhớ cuộc trần ta trả
lại cho trần bằng giả thân tạm mượn, chớ không trả bằng linh hồn hay tinh thần
siêu thượng, người trả thân cho trần thì muôn đời vẫn còn luân hồi chuyển thần
mãi mãi vậy. Cũng như cuôc trần ai nghiệp duyên phu thê phụ tử, đắng cay trong
kiếp sống đọa đày thì trả thân này, dầu ngày mai có rã hồn nọ còn kia, o phải
trầm tư thương tưởng mến luyến để cho thần kia phân tán, hồn nọ dập dùi thì
than ôi ! giả thân nọ trả rồi mà hồn kia cũng tán vi luân hồi vạn kiếp...
Thương thay ! thương thay ! ... Triều nghinh.
Thi
Đạo do hòa hiệp lẫn hy sanh
Tổ
pháp là đây phải trọn tin
Thái
cực lưỡng nghi kia vạch sẵn
Thượng
thừa bí pháp thiệt mầu linh
Thái Thượng Đạo Tổ mừng chung Thiên Phong
Lành thay ! lành thay ! Cơ trời diệu hóa nhứt biến nhân
gian, khai mối Đạo Vàng tuyển có bao người mà thần Tiên còn nhọc sức ! Nay vì
Thông Thiên trình cùng Vô cực Tam thập lục động đồng kêu oan, cho nên mở màn Đại
Phong Thần luân chuyển. Phần thiên phong nên nhớ nhứt nguyện trì tâm chớ có lạc lầm tưởng còn xa rồi quên ngày
cùng tận. Đời người ttăm tuổi đó là huyền vận thiêng liêng, nhưng người có phần
hữu chất là riêng, còn vô vi miêng trường, vĩnh cửu. Nay, thân nọ có mất nhưng
hồn nọ còn kia khi người đời lăn lộn dầu
tính bằng trí phàm nhân, nhưng làm rung động cả châu thân càng ngày càng mờ
mịt.
Luyện bí pháp siêu vi cuối cùng của huyền công mật quyết là
“Phá nhứt khiếu chi huyền quang” cho trọn hành mật lý. Nếu người luyện pháp
lòng không rộng mở, trí phàm bởi vật chất làm rung động tâm linh, đó là sáu
đường đang dùng màn vô minh cho phủ. Này như Thiên phong nam nữ, nên nhớ một
chữ “nhẫn” “từ” nếu ngày kia không đến Cung Hư Đạo Tổ này cũng không ngồi Huyền
đồ Đại Pháp.
Thượng Tổ giáng lâm, toàn tất nghiêm trang nghe Đại Tôn Sư
chuyển trần ban pháp , triêu nghinh.
-----
Thầy mừng các con
Thi
Thượng
đài cảm xót hạ trần gian
Tô
ứng huyền cơ hiên đại đàn
Hồng
thệ ráng gìn con đắc Đạo
Quân
truyền bút điển ngự thiên bàn
Thiên
bàn hạ bút động lòng son
Thương
trẻ kỳ ba chịu mất còn
Còn
một tinh anh về thượng giới
Còn
người đọa lạc khổ không tròn
Tròn
Đạo từ bi đến với Thầy
Các
con nam nữ hiện quì đây
Nghe
lời tâm pháp nên ghi nhớ
Muôn
kiếp ngàn năm cũng thế này
Này
được nhìn cha, được trở về
Hư
Cung Bạch Ngọc chiếu tam huê
Có
Thầy, có Mẹ đồng an dưỡng
Chẳng
thẹn ngàn năm đã lỗi thề
Thề
trước ngày xưa giữa điện Vàng
Nay
con luân nghiệp tại trần gian
Ngoài
trần còn có Thầy xem xét
Ráng
ráng con ơi đắc Đạo Vàng
Thầy
miễn lễ chung các con đồng tọa thiền nghe Thầy giảng về mặt pháp siêu vi.
Này
các con ! các con là người sanh ra trong cuộc đời ô trược nhập vào phàm thai tứ
đại, chịu ảnh hưởng của xã hội loài người, bắt đầu các con biết nở nụ cười cũng
như kèm theo tiếng khóc là rõ lý âm dương, các con nên nhớ : Mười sáu đường kia là lục dục. Thầy giảng
về phần tâm pháp đôi phút để các con có lúc nghiệm suy.
Này
các con mắt của các con là thị dục, mắt
của các con nhìn mọi vật ở trần gian dựa vào trí não, trí não đó có phần
thượng, phần hạ, phần thượng nghĩa là phần tàng ẩn diệu huyền minh sinh yểu yểu
hòa đồng cùng thiên địa, phần hạ la phần phàm trí xét đoán quanh quần trần
gian, chỉ làm sao bảo vệ vẹn toàn cho thân này là đầy đủ, đó là hạ trí cũng do
thị dục tạo thành, không rõ mối tinh anh
bị rối cuòng bởi thị dục. Phần nhiều các con sanh ra trong cõi đời ô trược này
thỉnh thoảng mới cần đến thượng trí xét soi, còn bao nhiêu chỉ là hạ trí mà
thôi, hạ trí đó không phải là con mà tất cả
của nhân gian gồm thành, của cha
mẹ anh em, của người lân cân tạo thành hạ trí cho con, điều suy xét tầm thường,
chén cơm, manh áo, danh lợi, tình tiền là do hạ trí luận phân... càng ngày hạ
trí càng lấn áp thượng trí, để rồi thượng trí của các con lu mời cũng như đom
đóm, thượng trí tõa ra bao bọc một vòng tròn nhưng cuối cùng cũng phải thu nhỏ
bởi hạ trí trùng trùng các con nên nhớ hạ trí đó là phần vô minh lấn áp thượng
trí là linh tuệ là tuệ giác là linh đài, là huyền quang khiếu vậy. Các con nên
nhớ : khi đói nhìn thấy miếng ăn nhưng không cần xét phải đoạt được , đó là
phần hạ trí, khi thấy danh muốn cần danh đoạt được đó là phân hạ trí, khi thấy
tinh muốn làm cho thân thỏa mãn, đó là phần hạ trí. Thường ngày các co tiếp xúc với tất cả chung quanh
đều dùng hạ trí xét phân, thì ngày nay
các con bước vào đường Đạo chẳng cần ở hạ trí mà phải dùng thượng trí cao siêu,
dùng từ bi đức độ rộng fãi thương yêu để cho thượng trí kia lấn áp phần hạ trí,
thì các con mới phá nhứt khei61u chi huyền quang, mới tựu về hườn nguyên phản
bổn. Bổn gốc của các con không phải là tình tiền danh lợi không phải là cơm ăn
áo mặc thường ngày, không phải là lo toan hảo huyền nơi trần tục mà các con
phải lo hạnh phúc ngàn đời. Xét ra phần thượng trí của các con, là nếu các con
làm điều gì sai chạy vì tư dục của các con, làm cho người đau khổ đệm ngày ray
rức, thượng trí kia soi sáng một phần rồi chợt tắt đi, cũng như đom đóm nọ giữa
trời cao để ánh trăng soi vào thì còn đâu là yến sáng ! Vậy thì ngày nay Thầy
đem Đạo Vàng tâm pháp là mở vô minh để thượng trí kia soi xét. Mỗi điều nào các
con nhìn bằng mắt không phải suy xét bằng hạ trí nữa, nếu các con chấp ở hạ trí
thì các con còn bị ràng buộc bởi vô mình, làm sao các con đoạt được Đạo Huỳnh
mà hòng mong giải thoát, các con nhìn bằng mắt phải đem về thượng trí nghĩ suy,
nhìn tình huynh đệ bằng mắt không phải so sánh giàu nghèo, pháp cao hay
thấp, không phải coi đó là người thanh
hay ttược, sáng láng hay u mê thấp cao
nặng nề thanh thoảng mà các con nhìn vào
đó cũng là một thân tứ đại hòa hợp như con, ngày kia cũng bỏ xác, cũng đồng về
một nơi, cố gắng dìu nhau tạo đức từ bi hy sinh cho vẹn vẽ, không phải vì chấp
rằng người kia vô lễ, thiếu hạnh, thiếu đức mà các con vội rời xa, hay là vì
chấp có ta mà quên rằng người kia cũng là đồng sanh hóa, là do linh tử của
Thầy, đó là phần hạ trí vậy. Nếu các con xét bằng thượng trí thì tình thương
yêu vô lượng, như cha thương con, như anh em ruột thịt đồng bào thương nhau
không vụ lợi, như tình vợ chồng thương
yêu nhau, tình đó phát xuất từ thượng trí mà có. Nếu vì danh lợi lấn chen, vì
so sánh của phàm nhân, đó là vô minh hạ trí vậy.
Các
con nên nhớ từ đây lớn nhìn nhỏ bằng thượng trí , nhỏ nhin lớn bằng tâm hồn cao
thượng thì mới mong trở về với Linh
Tiêu, Ngọc vị, hàng ngày các con thường nói Linh Tiêu Ngọc Vị, Lôi Âm nhưng các
con không trở về Lôi âm, không tìm về ngọc vị thì muôn đời ngàn kiếp vẫn còn vị
kỷ, hạ trí, luân hồi là tự các con tạo ra rồi không trách than chi nữa vậy.
Từ
đây phải xét bằng thượng trí, nên nhớ nếu xét thượng trí một lần thì thượng trí
cũng như đèn thêm dầu càng sáng, xét hai lần sẽ sáng thêm, xét nhiều lần thượng
trí sẽ lấn áp hạ trí để cho vô minh kia không mờ tối, các con sẽ trở thanh
người hiển đạt đắc Đạo tại trần gian là do thị giác vậy. Cho nên trước kia Ngọc
đế truyền ban “Nhãn thị chủ tâm” là thế đó.
Nhãn
thị chủ tâm là do lòng người, nếu các con xét bằng lòng của thế gian là các con
đi vào lòng của nhân loại, lòng của vạn vật,
lòng của sân nộ mê si, lòng của
luân hồi vạn kiếp, đó là hạ tâm vậy. Nếu các con đưa vào thượng tâm thương xót,
thương yêu. Vì cuộc trần gian các con tạm mượn nơi đây chỉ bao năm rồi cũng trở
về với hư linh tinh diệu, sao các con không thương những người đồng một thời
với con, đồng một thế với con đồng cửa thiên môn với con, đồng huynh đệ với con
rồi ngày kia cũng bỏ xác dầu trước hay sau ? sao các con không xét như thế mà
mở rộng lòng thương yêu để cho thượng trí của con ngày càng sáng láng ? đó là
Xá Lợi là Minh Châu. Sở dĩ Phật kia còn Xá Lợi Thầy vẫn còn hiến hóa chơn như
là do thượng trí nảy nở ra vậy. Thượng trí đó không phải kiếm đâu xa, điều tất
yếu là lòng thương yêu hòa hợp rộn rãi bao la”. Nếu đạt thành Phật mà không
lòng rộng rãi, chẳng vẹn chí hy sanh thì làm sao đắc thành được hỏi con ?
Này
con, Thầy chỉ giảng về “nhãn”, Nghĩa là
pháp giới ẩn trong mắt mà thôi. Thầy không cần giảng nhãn nhỉ, tỉ thiệt làm chi
nữa mà Thầy chỉ cần “nhãn thị chủ tâm”. Tâm của các con có phần “âm thế tục” và
“tâm tiền thiên” tâm tiền thiên của các
con là khi nào tịnh lòng xét suy cho cùng tột đời người một kiếp chớ không phải
xét nay mai.
Con
ơi ! vì con đọa đày Thầy không thể dùng huyền vi mở lòng cho các con được nên
phải dùng lý, lý này không phải là lý cao siêu, nay Thầy dùng lý để dắt dìu,
chỉ cho con, rồi ngay kia khi con đạt lý, lý nọ không dùng, không cần dùng, bao
quang truyền điển mà tự con sẽ thấy rõ vì thượng trí của con mở, thượng trí đó
là tuệ giác, là Châu thiên là Thiên Nhãn , các con nên nhớ ; đó là Huyền quang
Khiêu đó vậy. Nếu các con càng ngày càng xét bằng hạ trí, bằng hạ tâm với trần
tục thì cũng như các con vừa quét nhà vừa đổ thêm rác, nên nhớ, nên nhớ !
Nếu
lòng kia không rộng rãi, trí nọ chẳng xét suy cho cùng tột mà tìm Đạo giải
thoát, thì cũng như con nấu cát mong thành cơm, uổng thay một đời vì Đạo nhưng
chẳng được vẹn tín thành.
-
Đó là “nhãn thị chủ tâm”, còn “lưỡng quang chủ tể” Thầy giảng cho các con đôi
mắt là chúa tể của châu thân, tất cả việc trần gian tai nghe không bằng
mắt, tai dầu nghe nhưng không được thông
suốt bằng mắt kia nhìn được xa. Tất cả mọi việc châu thân đều do mắt quan sát,
tất cả đều ở trần gia đều do mắt thấy, cho nên mắt đáng là chúa ngự cõi châu
thân, chúa ngự ở châu thân là chủ tể đó
vậy. Lưỡng quang chủ tể là đôi mắt của con nhìn thấy trăng con nhận đó trắng,
nhìn thấy đen con nhận đó đen, nhưng trắng đen kia con phải đem về phần thượng
trí để xét suy : tại sao có trắng , tại sao có đen ? Nguồn cội của trắng đen do
đâu mà có? Trắng đen kia kết quả rồi trở về đâu ? Nay nhìn thấy trắng đen lòng
có gợn sầu hay buồn vui thế nào trinh bày trước thượng trí xét sự việc.
Mỗi
lần con nhìn thấy bằng thượng trí cũng như con luyên một thời pháp thât lâu, đó
mới sáng tỏ làu làu đó các con mới tìm về Bạch Ngọc. Đó là lưỡng quan chủ tể.
-
“Quang thị thần” các con nhìn xa là do thần các con truyền xuống. Nếu người mắt
kia không thấy là thần nọ không tinh, khi thần thoát khỏi đôi mắt là xác nọ sẽ
rã rời. Nay thần có trụ nơi đôi mắt, nhờ thân của các con mà các con đưa tất cả
đều nhận thấy trần gian vào thượng trí,
nếu các con phân tán tâm thần thì dầu các con nhìn trước bàn thây, các
con cũng không được thấy Thầy. Nhìn trắng hóa đen, nhìn Vàng hóa đỏ là khi các
con đã loạn thần, khi các con loạn thần rồi các con không có chủ định, không có
chủ định thì làm sao các con trở về ? Gọi là pháp giới nhãn tàng hay là hườn
nguyên phản bổn.
Khi
các con lo âu về trần tục nhiễm vào, các con di cũng không thấy đường, nhìn
người nọ quên người kia, trông điều này hóa điều nọ, đó là phân thân gọi là tán
Thầy. Cho nên ngày nay các con phải định yên, trụ thân định yên tốt hơn các con
đừng để cho lưỡng quang nhìn điều chi, rồi nhập tâm bằng hạ trí suy xét đó các
con sẽ bị tán thần, tán thần là các con chưa đạt được Đạo vậy. Gọi là “Lưỡng
quang chủ tể, Quang thị thần” là thế đó ! Mà thần đó là chỉ ? Khi các con tụ thân
tất nhiên đưa về thượng trí là Thần thị thiên” đưa về trí Thần Thị Thiên đó là thiên môn hay là
huyền quang khiếu kia sẽ mỏng, rồi các con sẽ có ngày xuất du bởi Thiên môn đó,
suy xét đó linh quang kia sẽ mở, khiếu kia sẽ khai, các con nhìn ra ngoài không
phải bằng phàm trí nghĩa là bàng hạ trí nữa mà mỗi lần nhìn ra bằng thượng
trí, lần hồi các con sẽ nhìn xa vạn dặm.
Khỏi cần luyện pháp, khỏi cần học hành các con nhìn người cũng biết người đó
hỏa sanh do can quyên mà có, nhìn sụ
việc cũng biết kết quả cuối cùng. Cũng
như người lớn vậy ! các con nhìn đứa nhỏ đi đường nếu thấy tư cách của nó hay
nó cầm việc chi, các con cũng biết rằng kết quả ra sao, nó đến đoạn nào các con
đều biết được vây.
Ngày
nay các con thấy rèn đúc cho vẹn toàn Thầy mong các con biến hóa chơn quang
bằng thượng trí đó vậy. “Quang Thị Thần, Thần Thị Thiên, Thiên Giả Ngã Giả”
các con xét bằng thượng trí Thầy mới tiếp bằng điển thượng thiên, như thể các
con về đó là hợp nhứt với Thầy đó vậy.
Đó
là Thầy giảng về phần thị giác các con nghe cho rõ ! tuy nhiên các con đã đưa
lưỡng quang về phần thượng trí thì nhĩ kia cũng phải hòa đồng chung một
mối một cảnh kia chia sáu lá, lá chánh
nọ trở về cây, trở về cội còn năm lá kia cũng phải tùy nhánh mà nương tai kia
nếu có con có nghe thì cũng nghe đưa về thượng trí, đừng nghe lấy phàm trí suy
xét càng tăng thêm vẻ vô minh, mũi kia cũng thế ngửi điều gì cũng đưa về thượng
trí suy xét đánh tan tà dục, miệng kia cũng thế, dùng lời thượng trí để thốt ra
chớ không dùng hạ trí phàm nhân sân si bất cập thì sau này không phải là linh khẩu, Thánh khẩu, thiên khẩu mà đó là
phàm khẩu trần gian. Các con nhìn nhân khẩu, phàm khẩu chung quanh, biết bao
người vì phàm khẩu mà phải tai ương hoạn họa, biết bao người vì phàm khẩu mà
phải soa đọa luân trầm. Nếu con người thiên ban có nhân khẩu tất nhiên phải
hiểu rành Thánh khẩu thần khẩu là dùng lời thần mà điểm hóa, lời Thánh mà nói
ra, nếu không phải lời Thánh không thốt, không phải lời thân không ra lời. Như
thế lời thường nhân không thốt tức nhiên trở thành Thánh khẩu, thần khâu mà mỗi
lần con nói như thế là kết quả vẹn toàn ở thiên ý vậy. Nên nhớ ! nên nhớ !
Thầy
truyền pháp chung cho các con về phần mật quyết cuối cùng xuất thần tập tành
như thế, nhưng mỗi lần con tập xuất thần hay đoạn huyền công mật huyết hãy ngồi
trâm tư đưa tất cả những điều về thượng trí suy xét để làm nảy nở ánh quang
minh rồi mới luyện pháp. Như thế mới anh tinh mới huyền đồng cùng võ trụ vậy.
Suy xét đưa về thượng trí từ việc oan
nghiệt gia đình cho tới xã hội, đưa về
thượng trí xét suy nguồn cội, rồi lấy lòng thương yêu từ bi hỉ xả, dùng gươm
trị huệ, dung lý siêu vi đập tan điều ám muội, cũng như con đập lần viên đá để
tìm hạt ngọc trong. Thầy khuyên đó là nhiệm pháp nơi lòng, ráng nghe con Thầy
mong nơi thượng giới.
THI BÀI
Đêm huyền diệu
Thầy khai bút huệ
Hạ trần si linh huệ ban truyền
Từ ngày Huỳnh Đạo khai nguyên
Tuyển hàng nguyên vi cần chuyên phép
mầu
Thầy thương con địa cầu nặng nhọc
Cảnh trần ai lăn lóc bụi mờ
Cuôc trần trong cõi bơ vơ
Nên Thầy truyền pháp ban thơ xuống phàm
Đây la đoạn kỳ tam nhồi quả
Ráng bền tâm thong thả cần chuyên
Nếu con vẹn vẻ trọn nguyền
Con đò bát nhã là thuyền rước qua
Đầu mật pháp di đà diệu lý
Thầy cũng khuyên con nghĩ cạn cùng
Sanh ra trong cõi mịt mùng
Đau thương chồng chất trùng trùng
nghiệt oan
Nay nhờ ánh Đạo vang soi tỏ
Thầy ra công mở ngỏ từ bi
Đường trần con ráng bước đi
Trăm năm mấy chốc, ngại gì con ơi!
Xuân rồi Hạ cuộc đời mưa nắng
Thầy khuyên con cố gắng tu hành
Chen vào trong chốn hôi tanh
Phải chi con được trường sanh cuôc
đời
Thì nên gắng theo lời nhân thế
Thì đua tranh đừng để Phật Tiên
Nếu con biết rõ nhiệm huyền
Trăm năm phải chịu qua miền vô vi
Thì con nhớ lời thi Thầy dạy
Nơi cao thanh con phải trở về
Trước kia vì nặng câu thề
Hạ phàm con nhớ quay về nghe con!
Phải suy xét vuông tròn lý Đạo
Dầu thân con có tạo nghiệt oan
Nhớ xưa Thầy chỉ con đàn
Từ khi chưa có nhân gian cuộc đời
Con vốn của cõi trời cao diêu
Từ hư không con hiểu hay chưa ?
Trở về tứ đại nắng mưa
Trăm năm nhồi quả cho vừa trầm luân
Rồi sau đâu không ngừng khảo thí
Vì nhơn duyên điềm chỉ quay về
Con ơi ! ráng vẹn câu thề
Cuối cùng bỏ xác chẳn hề sai ngoa
Rồi con cũng Điện Tòa trở lại
Một là nương điều phải đắc thành
Hai về trong chốn hôi tanh
Xuống lên qua lại trụ thành hoại
không
Con nên nhớ trong vòng lục Đạo
Phải thoát ra mới tạo ngôi Vàng
Mang thân mang thể chớ than
Tử sanh sanh tử con đàng vấn vương
Con biết thế xem thường sự thế
Phải nghe Thầy rồi để lo tu
Nay kia mây nước ngao du
Vô vị tự tại ngàn thu miên trường
Sông chỉ có trăm đường khổ sở
Sống còn thân con ở nơi đây
Xét ra muôn việc có Thầy
Trước kia chưa có thân nay là đâu ?
Rồi con trở lại bầu trần tục
Phải ra đi giây phút hồng trần
Trở về con chẳng giữ thân
Trở về con chỉ giữ thân mà thôi!
Con rắng nhớ lời rồi Thầy dặn
Vì điển quang chẳng đặng sung cầu
Nên Thầy truyền bút cao sâu
Lần sau điểm Đạo nhiệm mầu cho con
Điển lần hạ bìa son Thầy chứng
Điểm Đạo Vàng xây dựng nơi đây
Truyền qua trong phút giây này
Các con nên nhớ lời Thầy hôm nay
THI
Thầy hạ trần gian chỉ điểm truyền
Các con tâm pháp lý cao nhiên
Từ đây phải học điều siêu lý
Chớ bỏ qua rồi uổng lý nguyên
Nguyên của Thầy trao vạn kiếp còn
Vì thương nên điểm để cho con
Nếu không học hỏi làm sao sáng ?
Chẳng luyện không nên chuyện méo
tròn .
NGÂM
Thượng thiên tỏa ánh quang truyền
Cửu long hạ xuống thượng thiên Thầy
về
KIM NGÂN PHẬT HUẤN
ĐỨC TIN
Tôn sư mừng môn đồ, Bần Đạo mừng
chung
Thi
Di diệu thậm thâm pháp nhiệm huyền
Đà khai cửu khiếu xuất tam duyên
Phật đài hiện trổ hoa muôn sắc
Tổ Đạo minh tâm thị mật truyền
Giáng thế ban lời tâm pháp hóa
Ngự trần giáo Đạo uận đề thiên
Bửu châu biện sắc nương tâm ý
Tỏa ngọc kinh cung rất nhiệm huyền
Miễn
lễ chung nguyên nhân cùng các con yên tọa.
Này
các con ! cơ đời biến hóa, bánh xe pháp chuyển không ngừng, các con khá thâm
tuân những lời thiêng liêng phát lạc. Ôi ! đời kia bi đát, dấn thân vào biển
khổ rừng mê, các con nên nhớ đây là ngọn đuốc soi đường về, đừng để muôn ngàn
kiếp sau em các co chẳng được vào thượng đài hay Long Hoa Đại Hội.
Này
chư nguyên nhân linh tử, cùng đệ tử môn
đồ ! con ôi ! Tôn sư truyền con chơn pháp, Thượng Tổ ban mật quyết huyền công.
Đó là để cho con rõ thông phần linh - diệu dừng nên hiểu theo trí hiểu của phàm
nhân nghĩ suy lựa lầm hay chấp nghi thế tục rồi các con bởi vì dục vọng đưa xa
nguồn cội Đạo mầu. Đạo do đâu ? Có phải chăng chỉ một câu “Di Đà Vô biệt niệm”
Muốn Di đà vô biệt niệm trước Tiên con phải tầm kiếm tự lòng con ra chữ tín làm
chữ tin. Nếu chữ tin không được vẹn toàn thì đừng mong đạt Đạo. Chữ tin đó là
tin nơi cầu Di Đà Vô Biệt niệm, hay tin nơi huyền nhiệm của thiêng liêng hay
Thượng đế ban truyền cũng như Thánh Thần Tiên Phật. Nếu có đã có chữ tin cũng
như các con đã có ngọn đuốc soi đường, cũng như các con đã có nấc thang leo lên
về Hư Cung, Cực lạc. Nếu chữ tin kia không tròn, các con trở về với dục vọng
phàm phu, xét suy đa nghi đa chấp, quẩn quanh cao thâp thì chính các con tự đi
xuống mà vẫn ngỡ đi lên, tự giết mình mà ngỡ là vào đường trường sinh vô diệt.
Chữ tin đó là hột giống lành, nếu con chấp nghi hay nửa đường với trí phàm phu
suy luận, cũng như con dùng biện chứng mà giải lý Đạo mầu hay nghi chấp thượng
hạ cao sâu điển thiên chánh tà, thượng hạ, tục lụy, Tiên Thiên. Đó là các con
tự giết, giống riêng của các con để gần niềm âm cảnh vậy.
Này
các con Tôn sư khuyên các con phần nữ phái phải vẹn toàn lòng hy sinh đức độ
rộng lượng bao la. Kìa muốn thành Tiên Phật phải biết bao nhiêu là cảnh khổ,
hay là thời kỳ phổ độ đại xá tam ngươn, các con là nữ phái lòng giận hơn cao
hơn tất cả vì đó là sa đọa, vì thế mà âm trượt đầy vơi, vì thế mà mang mểnh
cuộc đời suốt ba vạn sáu ngàn ngày không yên nghỉ Các con ơi, nên suy lý, nếu
vì Đạo không có đức hy sinh, không quên mình, không trọn tin. Nay Thầy xuống
bút, mẹ ra cơ, tôn sư truyền dạy, con còn chút nghi ngại thì chính con đã trở
lại với đường tà nhập với ác ma quỷ về với thế tục. Lời khuyên của Thầy là mượn
điển Vàng dục thúc của Tôn Sư từng phúc từng giờ, mang thiên thơ ban truyền cho
con cũng như dắt dìu đứa trẻ thơ tập đi tập đứng. Nếu con thối chuyển đứng lại một nơi cho cơ này giả, bút nọ linh,
lời kia phải, điều nọ trái mà con quên tự xét mình, chính con còn phải trải dịu
linh chính con còn phải thấp cao thanh trượt, chính con còn không được thì đừng
nói đến cơ bút làm chi : Đôi khi con tự chấp nghi rồi tự con cũng âm thầm ra đi
với tâm hồn của con nặng nề u trượt. Tôn sư thương thay ! nếu người vẹn phước
mới trọn vẹn được niềm tin, người thiếu phước dầu dẫn đến Cung đình cũng trở về
với ngục môn sa đọa. Lý thuyết của tôn sư ba là cao cả khuyên với đức hy sinh,
nơi đâu cũng có phật trời chứng giám, hãy quên
mình, quên tình, quên tất cả những gì tục lụy sẽ thấy được cảnh cao
khiết Như Lai. Điều nào còn ở trong tay các con mà các con không tin thì điều
nọ cũng không phải điều lành, điều tốt. Diều nào còn trong tay của các con dầu
điều đó có dỡ mà các con tin là hay, là cao cả thì nó cũng trọng quí như con.
Nếu con không ham Vàng bạc thì Vàng bạc kia với đất cát nào lạ gì ! Bởi vì lòng
si mê cho nên các con nhìn Vàng là cao hơn đất, chớ chính tâm phật nhìn đất là
Vàng, nhìn Vàng như đất nhìn lý còn mất như nhau. Khi nào con nhìn được như thế
, con mới thấy được lẽ chơn như, con mới đoạt được lý huyền hư của tôn sư
truyền xuống vậy. Cũng như Thầy truyền cho các con công quả nơi này, công quả
nơi kia để : - một là sớm khuya các con giồi mài lòng tin - hai là các con tự
quên mình để vì kẻ khác. Nay con an lạc còn thiên hạ rối cuồng, con nỡ nào vui
trong lúc tất cả đều buồn, nỡ nào ngồi yên khi tất cả đều sa đọa mê lầm cao hạ.
Nay Thầy mượn Thánh giáo phật huấn từ chương sấm kinh tuyền bá, chính các con coi
xa lạ ngỡ đó chánh tà phật ma chơn ngụy, rồi không vẹn lòng trọn chí, trong lúc
con thừa khả năng trần tục, con đầy đủ điều vật dục nhân gian, con lại e ngại
trước chơn lý Đạo Vàng của tôn sư là sao vây ? Như thế, tôn sư cũng nhìn thấy
con được lòng của mỗi con thế nào gọi là đức hy sinh, thế nào mới được vuông
tròn, thế nào mới Cữu Huyền Thất Tổ của các con, thế nào chính các con cũng vẫn
còn đa nghi đa chấp, cao thấp chánh tà, phật ma chơn ngụy, rốt cuộc các con chỉ
trong quý điều vật chất mà thôi ! ngày kia khi ban thưởng đến rồi ngọc ngà châu
báu Vàng bạc đầy nơi trung ương của Huỳnh Đạo sợ là sợ lòng con không quý báu
chớ Vàng bạc nào quí báu chi.
Khi
tôn sư truyền ban cho con chuyện gì đều do lý thuyên cơ hợp nhiệm, phật tay
huyền diệu, chiếu ánh hào quang là các con được vẹn toàn tất cả, được thành
Vàng cho các con ngó thấy ! Nhưng các con nhớ đấy, một là huyền nhiêm để đưa
bực đại kiếp đến Chơn Tiên - hai là dục vọng khơi niềm để đưa các con về A tỳ
cấp cấp vậy.
Phú
Ta bà khổ đừng màng trong kiếp khổ
Phải vui lòng nhận khổ để thành công
Tôn sư khuyên đệ tự phải trọn lòng
Cầu Đạo pháp hoài mong nơi đệ tử
Đừng bỏ dỡ cuộc đời trong hung dữ
Đạo từ bi dụng chữ vị tha
Đạo dung nhân nghĩa lễ thuận hòa
Cầu bác ái Di Đà tâm trọn kĩnh
Con nữ phái cuộc đời chưa định tĩnh
Con bôn ba suy tính nhiều khi
Tôn sư khuyên con chớ màng chi
Điều sanh tử chuyện gì con đã thấy ?
Cận bên con, tuổi già gần đấy
Sao con chưa tĩnh ngộ để tu hành
Thầy bởi thương mới xuống điển lành
Mẹ bởi xót mới truyền cơ bút
Tôn sư vì thương con trong hỏa ngục
Mới khai tâm pháp hóa di đà
Chỉ cho con Thánh dược Ma Ha
Để tìm cất nhà nơi đất báu
Tạo cho con đường vào cao ráo
Nào ngại chi mảnh áo trần gian
Hỡi môn đồ ! hãy lắng lời than
Mà thức tĩnh tầm đàng về bến giác
Xa bờ mê đường đời muôn nẽo đạt
Muốn thành công tạo ác với gây oan
Thì các con sẽ được vênh vang
Bằng hiền đức trong cuộc đời tu học
Chịu khổ sở trong ma vương chỉ chọc
Hại cho con tàn khốc khảo con hiền
Ráng vững tậm tin Đạo kính thiêng
liêng
Thì sẽ được Thầy trên hộ trợ
Vậy các con đường tu đừng bỏ dở
Rồi ngày mai oan nợ đó, con à !
Mấy lời nguyền khuyên nhủ thiết tha
Phật Tổ xuống ta bà dục giới
Thương môn đồ từ bi chuyển tới
Ngọc đăng quang cao vợi nghìn trùng
Để đưa con thoát khỏi hiểm hung
Về ngôi vị Ngọc cung hay Cực lạc
Bài
*****
Đêm huyền dịu bút Vàng chuyển tả,
Hạ trần gian đại xá thời kỳ
Tôn sư ban lẽ huyền vi
Là cho con trẻ nghiệm suy tận tường
Đời đọa lạc thảm thương sự thế
Nên rộng lòng Ngọc Đế hạ phân
Con ơi ! muôn việc nơi trần
Đều do Thầy mẹ vạn lần ban ra
Dầu cao thấp chánh tà hơn ngụy
Dầu ngày đêm hay chỉ Đạo mầu
Là lời Thầy mẹ cao sâu
Tôn sư truyền xuống địa cầu cho con
Lối thẳng ngay con còn chờ đợi
Đường quanh co bước tới tâm đi
Niết bàn hé lộ huyền vi
Tay con Thầy nắm dắt đi đến cùng
Rồi tự con ngại ngùng dừng lại
Bước đi về trái phải trần gian
Nghiệm suy luận lý Đạo Vàng
Thấp cao thanh trượt phàn nàn tử
sanh
Rồi tự con Đạo lành vấp ngã
Bỏ mẹ Thầy tất cả vì đời
Đường tu là nẻo thảnh thơi
Cho người trọn dạ nghỉ ngơi linh hồn
Đường tu vốn bảo tồn linh vị
Để ngàn đời cao quý siêu linh
Đường tu là chốn giam mình
Cho người mê muội thất tình vương
mang
Tôn sư chuyển Đạo Vàng cao khiết
Lần cuối cùng là quyết cứu con
Đừng vì sự việc mất còn
Vì đời cao thấp vuông tròn biệt phân
Con có được cõi trần hạnh phúc
Là tôn sư những lúc buồn thương
Mê chi trong cảnh đoạn trường
Rồi con vấp phải vào đường tử sanh
Con lạc lối cha lành buồn khổ
Trái đường duyên gặp chỗ bất nhân
Tự con đày dọa lấy thân
Tự con đi xuống vào lần ngục môn
Dạy cho con bảo tồn linh thể
Truyền cho con từ huệ hồng ân
Réo kêu, kêu réo trăm lần
Mà con những ngỡ cuộc trần có con
Rồi quên cả điêu còn cao diệu
Còn mẹ Thầy sắc chiếu thiêng liêng
Tự mình nhồi nắn hạ huyền
Tự mình ràng buộc trong miền tử sanh
Tôn sư muốn Đạo lành giảng giãi
Về bút cơ thì phải am tường
Nương vào điển huệ Ma Vương
Xưng Thầy xưng mẹ có tường khắp nơi
Nhưng chúng chỉ vẽ vời vời vẽ
Không lý sầu không lẽ cao minh
Không truyền pháp chánh tận tình
Không điều cao khiết hy sinh hồng
trần
Rồi cũng có người thân giả điển
Giả tôn sư hóa biến cuộc đời
Tưởng rằng giả giả ngàn nơi
Tưởng rằng tất cả những lời của ta
Không xét được tầm ra chơn lý
Ngỡ rằng mình cao quý do mình
Không tròn vẹn một niềm tin
Nơi đâu cũng chịu cực hình thảm thê
Đừng có tưởng đường về Bạch Ngọc
Là nhơ con tự học sám kinh
Tự đi, tự biết một mình
Không Thầy dìu dắt ai gìn giữ cho?
Nếu còn tự lần mò đi tới
Là tự cao, tự ngỡi tự tầm
Khác nào con cách xa tâm
Bỏ điều chơn chánh lại tầm tà ma
Tôn sư khuyên đường xa đừng ngại
Bước Đạo vang trái phải nêu gương
Nơi Thầy dùng một chữ thương
Dùng điều bác ái luân thường hợp
nhau
Đừng chia rẻ sắc màu danh lợi
Đừng có quên Đạo ngỡi đệ huynh
Khuyên con phải khá trọng gìn
Thương nhau vì bởi chút tình Thầy
ban
Tôn sư xuống Đạo Vàng biến hóa
Chỉ trước đài cao vá lời phân
Di Đà thật xuống cõi trần
Hỏi con có biết những phần cao sâu ?
Hay ngơ ngẫn cương cầu đa chấp
Đến nơi này cao thấp nghĩ suy
Rồi con yên lặng ra đi
Mang niềm câu chấp biệt ly u hoài
Tôn sư khuyên những ngày học Đạo
Ráng bền tâm hầu tạo duyên lành
Gần ngày tận diệt chúng sanh
Cũng là tận độ hợp thành Long Hoa
Đừng nghe thế cuộc tà dạy dỗ
Rồi con xa những chỗ cao minh
Quấn quanh vào chốn trần tình
Ngàn đời muôn kiếp đọa sinh hồng
trần
Tôn sư khuyên ngàn lần luôn tiếng
Kể từ đây nhứt nguyện nghe con !
Dầu cho trong cảnh mất còn
Nghĩa nhân thành tín vẹn toàn mới nên
Khuyên chung cả móng nền xây dựng
Tự mình lo tự chứng con ơi !
Tôn sư chẳng thốt ra lời
Vì con chi biết có đời con thôi
Con quê rằng đang ngồi tịnh tọa
Nơi trần gian nào lạ chi đâu
Muôn điều tạm giả hiểm sâu
Con ơi ! chỉ có nhiệm mầu cao ban
Thương yêu nhau Đạo Vàng mới ngộ
Rồi dung nhau gặp chỗ khoan hòa
Trong người, con nhớ có ta
Trong ta còn có người hòa hợp nhau
Ngoài hiên gió rì rào thổi tới
Mây ngàn phương vời vợi đùa bay
Vòm trời u ám trong ngoài
Tam thiên thế giới sắp bày đổi duyên
Cơ vô hữu hai miền thay thế
Lịnh của Thầy thượng đế truyền ra
Phật Tiên thần Thánh quỉ ma
Cộng đồng luận tội, di đà nguyện
sinh
Nay mượn bút Đạo Huỳnh chuyển tả
Khuyên các con chớ ngã đường khuya
Xuân qua, Thu lại phân chia
Đêm ngày thanh trượt nhớ lìa nghe
con
Đêm dầu có thức tròn nghe dạy
Chớ nao lòng lẽ phải Thầy ban
Muôn năm mới ngộ Đạo Vàng
Mà sao con thiếp mê man giấc nồng
Con nên nhớ trân hồng nhiều tủi
Ngày qua ngày mấy buổi rồi con
Lại qua lui tới mất còn
Con lành đã thấy vuông tròn trước
sau
Thì con trẻ nở nào không biết
Chẳng thương nhau chẳng tiếc cho
nhau
Tâm linh thể xác hợp vào
Tròn tâm mới được về ngay niết bàn
Tôn sư xuống đêm Vàng chuyển lý
Là khuyên con nguyện ý ngộ lòng
Ngày nào nghe ngọn đồng phong
Cuốn lên trần thế giọt hồng mang
mang
Tôn sư nhớ trong hàng tử đệ
Còn vài con câu nệ duyên lành
Quả công, công quả tinh anh
Chẳng bao giờ mất duyên lành, con ơi
!
Nam nữ cũng một lời chung đó
Ráng bền tâm hầu có đạt thành
Muôn đời đều chọn giống lành
Ngàn năm trăm kiếp đắc thành do ta
Nay cùng tận Long Hoa sắp diễn
Điều đến nơi hóa biến cận kề,
Tu mà cứ mãi say mê
Cũng như quên hết lời thề xa xưa
Tuy lắm lúc nắng mưa trần tục
Con nhớ rằng sắc dục vây quanh
Nếu o tin tưởng trọn lành
Dấn thân sẽ chịu tan tành ngàn năm
Giã tất cả ngày rằm ngươn hạ
Nơi Chưởng Tòa cao cả ban chung
Trước sau sau trước thính tùng
Trong quyền Thượng Đế hợp cùng
thương nhau
Giã tất cả lời trao chót hết
Truyền cho con liên kết đệ huynh
Là phần pháp chủ Đạo Huỳnh
Họp cùng tinh tấn liên minh mới
thành
Các con nhớ kinh lành quý báu
Ráng bần tâm công Đạo duyên tròn
Sổ Vàng ký sẵn bìa son
Giả từ tất cả hiện còn hào quang
Nương bút tuệ tinh đàn chiếu ứng
Khuyên cùng chung sửa dựng tâm lành
Này Vàng ẩn lớp trời xanh
Hào quang nhỏ xuống thượng thành cao
thang.
THIÊN ĐIỂN
TINH QUANG SIÊU ĐIỂN
Nay nhằm thời kỳ tận diệt, cuộc dinh
hư tiêu trưởng sắp bày, con người còn mê man đắm say theo tửu , khí,
sắc tài nào có hay sự sắp khổ bên tai. Cơ xác trộn biến thiên, đó là muôn
vật chịu tiêu diêt đọa đày trong Thiên địa luân hồi.
Cơ
mạt kiếp hầu kề, nên chi Đấng Chí Tôn
không nở để cho bầy con phải chịu tận vọng, hiệp tam giáo Hội đồng Thánh Tiên
mà hưng Truyền Đại Đạo. Vì nơi thế cũng có người lành kẻ dữ, người biết Đạo
đức, chuộng tinh thần, lo ích nước lợi dân lại có người hung ác bạo tàn, mê vật
chất, mến tình đời mà xa đàng Thiên Đạo. Thấy vậy Đấng Thượng Phụ Chí Tôn không
nở để cho các con, cả lành lẫn dữ chung chịu trong cơn biến đổi của cuộc tang
thương nên giáng thế lập Chơn Đạo, khai chơn giáo Đại Đạo học đường là Minh Đức
Tân Dân, chí ư chí thiện, cho con nào biết mà noi theo đó mà làm phương pháp thoát ra khỏi đường sanh tử, dùng
mọi phương tiện để truyền bá chánh pháp miễn là sao cho chúng sanh tỏ ngộ được
chơn lý tu hành mà thôi. Vì vậy, nơi đây truyền cơ bút, nơi nọ dụng hào quang
chiếu rọi, chuyển đức lành cho chung, tùy căn duyên, tùy đại kiếp, tuy phong
hóa dân sanh phù hạp và chuyển huyền linh.
Thần,
Tiên , Thánh, phật từ lúc khai Đạo, dùng siêu vi chuyển cơ nhập bút là có thật
hay không ?
Phần
đông, nhiều người muốn rõ tại sao thiêng liêng không hiển hóa kim thân tại Đàn
huyền cơ cho thấy, thì mới tin tưởng có Phật Thánh Tiên tại thế. Vậy, cần suy
nghĩ vì thân trần là thần tứ đại, chịu
điều ô trược của mẹ cha, lớn lên phải hấp thụ phong hóa suy đồi, chìm trong thất tình lục dục cho nên
chơn tâm mờ ám. Từ mờ án chơn tâm mới xa
lần chơn linh quan ngày trước toàn nhiên khi vừa xuống trần gian, đó là một
điểm huệ linh tối diệu, nhưng từ từ tập nhiễm tánh trần, xa rời chơn pháp, chỉ
cho hữu thế là trường miên mà quên điều vạn đại nghìn thu. Cho nên muốn thấy rõ
điều gì trước mắt, đó là thuyết thực tế
nhưng sự thật, néu các nguyên nhân diệt được thất tình, dừng cơn lục dục, hiển
hóa chơn như tâm trần bất động thì không
cần mong cũng hiện rõ ra trong trí, trong tâm, trong tất cả hư không
cùng vũ trụ, nếu như khi nào muốn thấy. Thiêng liêng không thể hiện ra với tất
cả thân tứ đại ô trược nặng nề để rồi song quang của các nguyên nhân là đôi
song quang thường nhìn biết bao điều ô trược nơi trần gian, chưa phủi sạch mùi
trần thì làm sao nhìn vào được hồng quang tối diệu. Kìa là bậc thần Thánh vẫn
còn chưa xuất hiện vì sợ làm ô trược cửa song quang thế nhân làm tiêu tan biết
bao nhiêu là Đạo hạnh công trình, nên cũng chẳng biến hóa là chi, tạm mượn một
xác thân, tạm mượn huyền cơ diệu bút là vì quá từ bi và mỗi lần giáng đàn là
một lần tốn hao biết bao là hào quang Đạo hạnh. Vì thế cho nên không thể hiện
ra trước mắt mà chỉ cho tâm pháp, chỉ
cho mầu nhiệm cao siêu chỉ cho con đường chơn lý , đâu là nơi Niết Đàn Bạch
Ngọc, đâu là chốn sa đọa muôn đời. Còn nói về TỪ ĐIỂN - Từ điển có nhiều loại
gồm có :
-
Về Hạ thì có Nhân điển, vì căn duyên nên tự mình có trí Đạo tầm ra thi phú để
độ người tin tưởng nơi thiêng liêng hầu hoàn nguyên phần giác.
-
Về phần điển cũng như Thánh điển là những bậc quân tử thoát khỏi cảnh thất tình
lục dục, muốn truyền bá giáo ý cao thâm của phật pháp mầu siêu, nên đem chơn lý
từ xưa học hỏi mà truyền ra.
-
Về phần điển TRUNG THIÊN, là các bậc Thánh thần đã thoát khỏi trần gian nhưng
vẫn còn mang một hoài bảo hồng trần chưa làm tròn sự nghiệp, vẫn còn ước mong
cảnh đời, cho nên đôi khi giáng phàm thường xúi dục chuyện này chuyện nọ để có
gây thêm nhân, cũng đôi khi dạy khuyên tạo ra quả đức, đó là điển trung nguyên.
-
Về phần THƯỢNG THIÊN. Thì gồm có Ma vương ác Đạo thệ phá đời mãi mãi mặc dầu
chúng chẳng nhập được Niết Bàn, không vào được Bạch Ngọc Hư Cung nhưng đã quán
thông vô trụ cùng mầu diệu cao siêu, nhưng lòng độc ác chứa chan than, thất
tình không diệt, lục dục không tiêu, cho nên
đọng lại nơi thượng thiên điển. Vì vậy8 cho nên khi vào trung đàn có dục
vọng hoặc tưởng tới danh lợii tình tiền thì điển nương theo đó mà nói ra những
điều doãn lạc mê tâm.
Trên
Thượng Thiên điển còn có TINH QUANG SIÊU ĐIỂN là vị Tam Giáo hội công đồng,
thương xót chúng sanh đi lần vào cảnh mê tâm mờ ám cho nên truyền diệu bút
huyền cơ xuất khẩu thành chương, một là để gây dựng niềm tin tưởng cho trang
quân tử hiền nhân, hay là cho Tiếp Điển không suy nghĩ trong lúc nắm huyền cơ
diệu bút, điển từ từ nhỏ giọt liên tiếp chớ không dứ đọa từ khỏang từ khúc để
phàm ý, hoặc là trong lúc hầu đàn, có các nguyên nhân phóng lằn từ điển để tạo
riêng tư tưởng cho mình.
-
Nguyên nhân của thiêng liêng phải dùng Tinh quang siêu điển trong Huỳnh Đạo.
Vì
trong thời kỳ Mạt pháp, thiên hạ đảo huyền, tam thập lục động, thất thập nhị
cung đồng hạ trần gian thưởng phạt công minh. Trước kia các nguyên nhân nên nhớ
là Ma Vương thệ rằng : “Sẽ phá đời mãi mãi”. Vì vậy, Thầy dụng Thần điển, nhưng
Thần điển Ma Vương cũng tạo được , Thầy dụng thiên điển thì tà luân xâm nhập
hầu ngăn chặn, cho nên Thầy dụng Tinh quang Siêu điển.
Vì
thời kỳ Mạt pháp nên phải dụng Tinh quang Siêu điển truyền khắp trần gian mới
độ nổi toàn cầu, chớ hiện ra một thân tứ đại thì cũng không thể thống được Ngũ Chi Tam Giáo, không lập được đời Thượng
Ngươn Thánh đức. Ngày kia Đức Di Lạc Thiên Tôn lâm phàm là Đương Lai Giáo chủ
Long Hoa sẽ trọn quyền phán xét, Tam Giáo cộng đồng. Tất cả các nguyên nhân
phải tin tưởng rằng : ngày Tận thế sắp gần kề, điều Phán xét Đại đồng không xa
vậy.
Chiếu Thiên điều Thầy hứa rằng ngoài Tinh quang Siêu Điền mà Thầy truyền liên tiếp
Thánh Ngôn, nhưng chưa hẵn là vẹn toàn Chánh pháp, vì cũng còn phần Thánh Điển
của các Bậc lập quả công. Mỗi lần các con chầu Thầy là các con quì dưới chân tà
quái là mất đi Tam thập lục chơn như từ huệ đã tạo từ trước.
Thầy
thường giảng “Các con chớ nên tin mà cũng chẳng khá chẳng tin”, tin theo lý
chơn chánh, lấy Nho Tông làm tiêu chuẩn , dựng cang thường làm chuẩn thẳng, để
các con suy lẽ chánh đường tà xét điều hư lẽ thiệt. Đạo Thầy là thực tế, giảng
dạy bằng huyền linh chớ chẳng phải lợi dung lòng tín ngưỡng của chúng sanh để
tạo đời tạo nghiệp.
Hôm
nay, Thiên Khai Huỳnh Đạo ra đời tiếp nối Cao Đài dụng tinh quang, siêu điển là
để qui nguyên Tam Giáo, thống nhứt Ngũ Chi, truyền pháp siêu mầu giúp nguyên
nhân qua khỏi buổi Hạ Ngượn tận diệt.
Huỳnh
Đạo ra đời để thực hiện “Kỳ Tam Cứu Thế”
Đấng
Thượng Phụ Chí Tôn dạy rằng :
Con
thức tĩnh tìm vào nẻo chánh
Bước
lên mau để lánh nạn đồ
Cao
Đài Giáo Chủ Nam Mô
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO GIA TÔ PHỤC TRẦN
Di Lạc
hiện môn thần vạn Thánh
Các
thiên tinh đại lãnh thiên văn
Qui
nguyên Tam Giáo gọi rằng
Ngũ
Châu Vạn Quốc Phục thần Nam Bang
Vậy
mới lập Kỳ Tam cứu rỗi
Vậy
mới là tiêu nối Âm dương
Vì con
Thầy nhỏ lệ thương
Tri
hành sẽ rõ con đường hậu lai...
NAM MÔ
HUYỀN OAI
THIÊN
TÔN TRỊ THẾ TRẦN AI LẬP ĐỜI