PĐ. Vô-vi (HTĐĐ)
ĐT : TH
CĐ. Quyền Hộ Pháp
HĐ.Tăng, Ni-Trưởng
T.Ư Và Tam-Giang
ĐK: BL.Điệp H.H. Dung
|
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
(Đệ thập-tứ chu niên Kỷ-nguyên
Huỳnh-Đạo)
THIÊN ĐẠO
Phật Đài
Tý thời, 14/4(nhuần) Giáp Dần
(4/6/1974)
|
Lý Pháp THIÊN
oai luật điểm truyền,
THÁI đồng
ĐẠO
thượng hội Đồ – Thiên;
BẠCH cầu PHẬT
vị đồng khai bút,
GIÁNG Ngự
ĐÀI
mây xuống lịnh truyền.
LÝ – THÁI – BẠCH
Lão chào mừng chung chư Thiên-Phong nguyên-Vị đẳng đàn tiền, Thành tâm trang
nghiêm thỉnh cầu Thiêng-Liêng PHẬT TIỀN đồng lâm ngự chuyển tiếp hồng oai ban
truyền Chánh pháp
Nầy chư nguyên-nhân nam nữ, đẳng đẳng
bình tâm yên tịnh lắng đọng trần - ai để nghe tiếng Đạo - lý cao siêu hầu thức
tỉnh tu hành để sớm trở về ngôi vị cũ. Ngày hôm nay, ngày lễ nơi Thiên-Đạo Phật-Đài
để tượng trưng tinh thần Đạo - cả, sự đoàn tựu hiệp vầy tu hành tránh qua điều
thử thách. Lão thọ Sắc TAM-GIÁO minh truyền cho Hiệp –Thiên –Đài nhớ
rõ
Từ đây luật ân giảm của THƯỢNG-TỔ
ban cho Hiệp-Thiên-Đài mỗi nơi được hữu Đàn cơ trước Chánh-Điện, Nghĩa là nơi THIÊN-ĐẠO
PHẬT-ĐÀI
Bộ phận Hiệp-Thiên-Đài trước TAM-THỂ NHƯ-LAI.
Vậy QUYỀN HỘ
PHÁP nghe rõ. Ban cơ cùng Tiếp-Điển, Tứ-Bửu được khai trước Điện
tiền; còn Hiệp-Thiên-Đài chỉ dành riêng điều cơ mật khi tiếp Huệ-Linh hoặc điều
mật diệu được hữu cơ nơi Điện THƯỢNG-TỔ mà thôi, Nơi đâu cùng Chưởng-Tòa các
nơi từ trước đến giờ hữu đàn cơ nơi Hiệp-Thiên-Đài, ngày hôm nay xét vì ân từ THƯỢNG-TỔ
truyền ban, vậy vẹn giữ, nhưng trước Chánh Điện phải có một chiếc màn trắng
mõng, nhớ rõ để phủ trước bàn cơ cho vẹn mỹ. Pháp-chỉ thi hành.
Phần đại –Lễ ngày kỹ niệm TA-BÀ GIÁO-CHỦ
ĐẲNG- GIÁC MÂU –NI, Chánh ngọ, ngày thập-ngũ hàng Thiên-phong đầy đủ
mặt để triều kiến tượng trưng ngày Đại-Lễ. Phần nghi lễ nghe rõ để thi hành vẹn
mỹ: Nơi Chánh-điện phần tất cả phải hoàng-y, phái Hoàng-Chí Huỳnh-Hoa hành nghi
lễ tam ban Lễ-sĩ trọn vẹn, phối hợp cùng Tam-Giang để linh động cho ngày Đại-Lễ
nơi Chánh-Điện Thiên-Đạo Phật-Đài, nghĩa là phân lễ-sĩ Nhị-Giang phải lãnh phần
Trung-Ương điều hành, phối hợp chung lo ngày Đại-Lễ trang hoàng vậy
Về hữu Đàn cơ Hợi thời thập-ngũ nơi Thiên
–Đạo Phật-Đài Đức Ta Bà Giáo-Chủ Đẳng - Giác Mâu-Ni sẽ điểm công. Sau khi Đàn
cơ nơi Chánh-Điện Thiên-Đạo Phật-Đài chấm dứt sẽ liên tục hữu Đàn cơ nơi Bạch-Long
Bửu-Điện cho phái Hoàng-Chí Huỳnh-Hoa cùng hàng phái Huỳnh cùng phái Ngọc do
Đức LINH-QUANG
chủ xướng điểm quả khen công
Phần Thân thời nơi Bạch-Long Bửu-Điện tế
Cữu-Lưu Thất-Tổ cùng Tổ-Quốc Công-Thần
hợp Trung-Ương cùng Hậu-Giang để giữ phần tế lễ trang nghiêm vẹn mỹ cầu nguyện
Thất-Tổ Cửu -Lưu cùng Tổ-Quốc Công-Thần cùng Chiến-Sĩ trận vong cho toàn mỹ.
Phần tiếp điển, nơi Thiên-Đạo Phật-Đài TIẾP-PHÁP
Đảm trách;
nơi Bạch –Long Bửu-Điện hữu Đàn cơ phần LINH QUANG
điểm phán do TIẾP
PHÁP
đảm trách cùng liên tục bút điển do Tăng-Sĩ HUỲNH-ÁI đảm trách phần bổ túc vậy
Lão có đôi lời cho tất cả khá nghiêm minh
thành theo Thiên-Ý thành tâm tiếp cầu TAM –GIÁO Lâm phàm, triều nghinh...
THIỆN duyên hữu đức tạo công vàng,
TÀI lộc
Thiêng-Liêng điểm phước ban;
ĐỒNG kiến
Như-Lai khai Đạo quả,
TỬ đề chân-lý
để lời ban.
Thiên-Tài Đồng-Tử, Tiểu -Thánh thừa lịnh
báo tin NAM
–HẢI QUAN- ÂM Chiếu hào quang đạo hạnh giáng ngự Chánh đàn điểm hồng
từ cho tất cả. Triều nghinh ...
Bần đạo mừng
chung.
Hào quang Đạo hạnh hiện
ngàn phương,
BỒ –TÁT QUAN-ÂM ngự
Phật-đường;
NAM-HẢI TỪ - BI Vung
pháp hạnh,
Bồ-đề trí huệ đắc Tây
phương.
GIÁNG lâm
Bửu-Điện ban ân từ,
NGỰ điểm hồng oai chỉ Đạo trường;
THIÊN bút
cơ huyền minh lý chánh,
ĐẠO mầu
Phật vị hiện đài gương.
Bần đạo mừng chung vạn tải hồng ân ban pháp
hạnh hào quang để cho tất cả được gội nhuần phước huệ, Lành thay! Lành thay!...
Cuộc tuần hoàn vận chuyển, nhân-sanh
trọng hồi nghiêng ngữa Bần đạo vì xót thương dụng đạo hạnh kim quang cùng nhành
dương sái tảo để đem lại phước lành cho vạn vật sanh-linh; Hỡi tất cả nhân -
sinh trong buổi trần tình điên đảo, trong chốn đủ ly đau buồn hãy lắng đọng
tâm-linh để tìm cội nguồn Chánh Đạo, thoát khỏi hồn mê, trần lao sanh tử khổ
đau thương, xa rời tam-đồ chi đọa.
Nầy chúng sanh! Sống trên quả Địa-cầu nầy
đã hữu công hữu phước tỉnh ngộ được Đạo pháp siêu-Linh, xét thấu đươc việc nhục
vinh nơi trần-hạ điều sanh lão bịnh tử, thành trụ hoại không bốn đường đau khổ,
phải tỏ ngộ chơn quang tầm tu giải thoát, đừng ngỡ ngàng trên bước đường tu
hành vì lầm kẻ Ma vương đãi quỉ mà phải
bị luân-hồi hóa kiếp thành hóa-nhân hoặc súc sanh ngoại vật thì uổng thay, uổng
thay ! Đời người rất khó, đã làm con người bị những điều khó khăn cản trở; tình
tiền danh lợi sắc giới đau thương, huống chi làm vị Thần Thánh Phật Tiên còn phải
trải qua biết bao nhiêu đường đau khổ, phải ráng nhẫn nhục bền tâm kiên chí mới
đạt thành quả vị đài liên hay Niết-Bàn Bạch –Ngọc . Hỡi chúng-sanh ! Kìa cảnh
thảm khóc dẫy tràn, nước lửa trùng trùng máu xương chồng chất, cảnh chết chóc
đó vẫn còn kéo dài qua năm tháng, còn
phải trải qua biết ngày nào chấm dứt để tái tạo Thượng-Ngươn lập đời Thánh-Đức.
Vì bảy-mươi-hai ức nguyên-căn còn chịu xa vời đó đây, chưa biết hướng thiện tu hành giải
thoát, chưa tỏ ngộ được chơn quang, chưa tìm được con đàng cao diệu thì làm
sao? Làm sao! ...
TỨ-LINH THÁNH-MẪU
đở kim Loan,
TAM-GIÁO
triều nghinh đức MẪU-HOÀNG;
Nam nữ Thiên-Phong đồng đại
lịnh,
Hồng-chung đại điểm tiếng
ngân vang.
MẸ mừng chung các con
Kim loan xe báu mẹ nương về,
Miễn lễ Thiên-phong đã tựu
tề;
Đồng đẳng Thánh Thần nghinh
trước Điện,
MẪU-HOÀNG Xuống
điển để lời phê.
TAM-GIÁO đồng
lui MẸ
chứng lòng,
Tứ-Linh hồi vị điểm thâm
công;
Các con an tọa nghe truyền
dạy,
Mỗi mỗi bình thân Mẹ sắc
phong.
DIÊU Điện
trầm lan ngự Phật đài,
TRÌ Cung Mẹ xuống cỏi trần-ai;
KIM thơ
Mẹ điểm con yên dạ,
MẪU tử
đoàn viên chỉ một ngày.
THƯỢNG
ngự cao ngôi chầu trước Điện,
ĐẲNG ban
cữu phẩm thị kim hoàn;
TỪ bi Mẹ
xót đoàn con dại,
TÔN tử
đoàn viên Mẹ điểm khai.
DIÊU-TRÌ KIM-MẪU THƯỢNG-ĐẲNG TỪ-TÔN Vui Thay! Mừng Thay! Các con nam nữ tựu tề Mẹ động lòng, Thành
nguyện của mỗi con, Mẹ giáng ngự nơi Thiên-Đạo Phật-Đài để chứng minh lòng các
con hiếu thảo.
Các con ơi! Các con vì Đạo trọng Đạo
thương THẦY
Kĩnh Mẹ ......... Vì thương thân phận của các con bị đọa đày trăm ngàn kiếp đau
thương, Mẹ
muốn đưa tay để dắt con trở về nơi Quỳnh-Tương Đại-Yến Mẹ muốn rước con trở về
nơi Diêu-Điện cao ngôi. Ớ các con ơi! Đời đang loạn lạc, Đạo cả lúc suy vi, Mẹ
khóc bởi vì các con trong tâm tay, trong nháy mắt mà các conn chưa tầm suy
nguồn gốc để trở về với Mẹ cỏi thanh nhàn Các con chịu cảnh lầm than đến bao
nhiêu kiếp nữa? Hãy cải sửa đi con! Hãy thành tâm, thành ý, thành lòng tu chơn
tầm Đạo Đừng viễn vông xa vời hay mơ mộng cỏi vĩnh cữu trường miên là Bạch Ngọc
Niết-Bàn. Linh-hồn các con đang buộc ràng bởi xác thhể mà xác thể
các con đang buộc ràng trong tứ-đại, mà tứ-đại kia các con đang buộc ràng trong
tình tiền danh lợi. Con ơi! Muốn dứt khỏi nghiệp chưởng oan khiên cùng danh
quyền cặn bã, các con phải chịu ép mình như cây kia muốn trở nên hình tượng,
phải dày công lao nhọc lắm đó các con ! Đừng vì một chút lao thân để rồi các
con xa rời bản thể hư-linh, mà bản thể trường miên vỉnh cữu đó là Đạo pháp
nhiệm mầu cùng sự giải thoát cao siêu.
Nầy các con ! Mẹ cúi đầu trước qui điều THƯỢNG-ĐẾ, MẸ
phải đau lòng vì các con bước đi quá trễ, Mẹ phải buồn tủi vì Mẹ không trọn bổn phận đối
với các con; bổn phận của Mẹ là phải dìu dẫn các con qua khỏi tứ đỗ tường vượt
khỏi nghiệp chướng đau thương, cứu con về với thâm tình mẫu tử, làm mẹ không
tròn còn phần con, khi làm con biết bổn phận hiếu thảo đối với Mẹ thì làm như
thế thế nào để tượng trưng phần hiếu lễ? Nếu các con đã tròn phần hiếu kĩnh đó,
thì tức nhiên làm vừa lòng Mẹ, mà Mẹ khỏi thiếu bổn phận đối với các con. Bao
giờ mẹ cũng thương các con, có khi nào Mẹ bỏ con ? chỉ có con thì xa rời Mẹ mà thôi ! Thâm tình đó vơi đầy; có lúc vui
thì các con nghĩ rằng tình mẹ bao la như
trời biển, buồn thì các con cho đó là huyễn hoặc viễn vông hoặc vì con
nhìn không tận mắt, lẽ ra con phải nhìn tận mắt thấy tận tường vì cái thấy của
con là sự chết sống; sự chết sống kia thì các con đã biết giả tạo cỏi trần này
rồi vậy khi biết giả tạo đó sao con chưa
thức tỉnh ? Nếu thức tỉnh thì được Mẹ cứu cánh đem về, còn các con bị hôn mê Mẹ
ngày giáng đêm thăng, hằng khuyên hằng nhủ để đem các con về với Mẹ mà
thôi. Mẹ không bỏ các con thì các con đừng bao giờ bỏ Mẹ. Hãy thức tỉnh đi các con!
trong bụi mờ kia, trong cát sạn đó, trong thau chì nọ đều có ẩn Kim-Cương cùng
châu báu, trong cát thường có lộn vàng, trong bụi thường có ẩn ngọc, ngọc ẩn
trong bụi nhơ.
Nếu các con biết tìm kiếm, biết lau chùi
thì tức nhiên viên ngọc nọ sáng soi và quí giá. Nếu các con không biết tìm
kiếm, không biết lau chùi, nghĩ rằng đó là ngọc giả thì muôn đời làm sao
tìm được những sự quí báu tàng ẩn ở
trong cát bụi bùn nhơ?
Các con ơi! Việc tu hành đã từng bước
một, cũng như đứa bé đã chập chững bước đi, bước đi của đứa bé khác,. Mà đến
chồng thêm một tuổi lại càng khác hơn.Cũng như tuổi Đạo các con mới bước vào chập
chững thì thấy rằng việc đi đứng nặng nhọc khó khăn, mà các con đã bước lâu
niên đi vài đoạn đường, thì việc đi kia rất là dễ dàng không có gì là trở ngại,
Biết như thế thì các con thành Đạo chỉ nháy mắt mà thôi
Con ơi! Tình Mẫu tử bao giờ cũng thiết
thiết tha tha, tình mẹ con bao giờ cũng chan hòa những dòng lệ buồn thương đau
khổ. Thử hỏi các con, các con đã từng làm mẹ làm cha một gia-đình nhỏ trong
khuôn khổ gia-đình đó, các con gặp phải một đứa con bất hiếu ngỗ nghịch sự
giáo-huấn của các con, sự lao tâm khổ trí của các con dường nào? Cũng như Mẹ,
Nếu các con vơi đầy tình mẫu tử hoặc chẳng thuận ý do Mẹ đau buồn không ít!...
Nầy con THIÊN-AN! Mẹ truyền lịnh cho con
phải tịnh khẩu một trăm ngày, truyền lịnh QUYỀN TAM TRẤN NHỊ GIANG chờ lịnh Mẹ phán
quyết sau một trăm ngày để xét lại. Nên nhớ! Khá khâm tuân thiên-ý
CHƯỞNG-GIÁO
con! Ngày Đại-lễ hôm nay gọi là tượng trưng cho ngày Phật-Đản mà thôi, chớ
không phải chánh thức ngày Phật –Đản
QUYỀN GIÁOTÔNG
con, Phần hậu Điện con nên cố gắng để hoàn tất việc công quả
Bửu Liên các con đã khổ nhọc lập
công-trình , công-quả , tam-công đó là ba bí pháp chánh yếu mà THƯỢNG-TỔ
Đã truyền ban các con đã chọn trong vạn pháp. Phải hành cho đúng tam công thì đắc đạo hiện tiền. Mẹ thương các con Mẹ ngự
xuống cơ huyền để dạy lời cao diệu, con
nên khai khiếu định thần, tỉnh tâm huệ
tánh để tri thức lời Mẹ
Các con được ân từ là từ đây hữu Đàn cơ
nơi Điện tiền mà không phải nơi Hiệp Thiên-Đài như luật đã qui định từ
lâu. QUYỀN HỘ PHÁP Ghi nhớ!
Mẹ động
lòng thương ngự điển vàng
Canh buồn Mẹ
khóc bởi con than ;
Ngày dài Mẹ
tủi con xa vắng,
Canh lụn Mẹ
sầu tiếng oán than.
Than oán trần-ai tiếng
Thạch-Sùng
Hỡi nầy con dại lệ hòa
chung
Ban-Đào Mẹ đợi con hồi vị
Đại Yến Quỳnh Tương
chẳng trẻ dùng!
Trẻ dùng cùng Mẹ trước Diêu Cung
Thỏa chí chờ mong buổi hội
cùng
Đoàn tựu hôm nay trần thế tạm
Rồi đây cách biệt đã rời
chung
Chung cuộc rồi co chọn một
đường
Một là trở lại cỏi
Tây-Phương
Hai là Địa-ngục luân-hồi
khổ
Đó! Chọn đi con, có mấy
đường ?
Mấy đường con chọn tử cùng
sanh
Sanh tử con ơi! Khổ đã đành
Thà tử đi vào nơi khổ hải
Còn sanh
con ngại khổ thân sanh
Đêm vằng vặc tiếng sầu u ẩn
Mẹ giáng
đàn hòa vận điểm con lành
Tiếng côn-trùng canh vắng
thở thành rành
Như tình Mẹ
đoạn đành ly cách
Cơ vận chuyển hòa trong
động mạch
Máu luân lưu vận chuyển
tuần hoàn
Con nhịp tim hơi thở cơ hàn
Để ấp ủ nồng nàn tình mẫu
tử
Rẽ chia nhau con sanh hung
dữ
Lại xào xào ngôi thứ chưa
phân
Ở trần-gian con loạn cả
tinh thần,
Ác lại lại chẳng hóa bần mà
sang cả
Hiền lại khổ cuộc đời vất
vả
Đói no là con trả quả xưa
Mẹ khuyên
con đừng bỏ phận thưa
Trình với Mẹ
những điều u ẩn
Mẹ chứng
chiếu biết rằng con hận
Hận cuộc đời cùng hận Đấng
cao xanh
Hận cho con khi công nghiệp
chẳng đoạt thành
Hận cuộc thế chiến tranh
đời ly loạn
Con muốn tỏ ra người xứng
đáng
Tự hậu con mới đáng phận
con
Bởi vì con nghiệp quả nặng
đòn
Thê phụ tự méo tròn chưa
vẹn phận
Phận làm con tinh thần
không phấn chấn
Nghịch Mẹ cha lại giận thói
đời
Khổ con ơi! Khổ bởi con ơi!
Tại lòng trẻ đua đòi theo
vật-chất.
Tâm con chưa tạo điều chơn
thật
Thì làm sao thể chất được
an nhàn
Máu huyết chưa lưu chuyển
khắp thân an
Còn ngưng đọng bởi tâm can
tỳ phế thận
Trong thân con máu hòa chan
dìu dẫn
Đưa tuần hoàn để chấn định
tâm-linh;
Muốn làm sao cho tam-bửu
được kết tinh
Là vận dụng Huỳnh-đình trọn
vẹn
Tứ hải đóng then gài con
chọn kén
Cho dủ-hà đừng bén với
tam-huê;
Diệt làm sao tam-muội chớ
quay về
Đốt đảnh thương phá mê cùng
bến giác
Luồn kim khí đưa từ hạ cát
Đến thượng-điền như hạc đã
chầu Tiên
Nầy các con tam-bữu đã kết
liền
Con tạo được Thánh thai
toàn vẹn.
Mẹ chỉ con, con ơi! Nên
chọn kén
Tằm nhả tơ đừng thẹn phận
làm người
Nhục với vinh là lẽ sống
trên đời
Vinh với Đạo như cuộc đời
ta chịu nhục
Đừng hơn thua đừng qua từ
nhỏ dục
Dục vọng là dục vọng phát
nguyện
Muốn thành Tiên mà cũng muốn
danh quyền
Muốn Địa ngục lại muốn
Thiêng-Liêng khen thưởng
Con ơi! Cỏi trần-ai nghiệp
chướng
Tỉnh đi con đừng hưởng cỏi
đời nầy!
Mẹ gọi
con tình mẫu tử kết dây
Mẹ thổn
thức ngày dài canh lụn
Lệ hòa mực vần thơ Mẹ dụng
Viết thành văn chỉ đúng
điểm điều sai,
Cho các con năm tháng ngày
dài,
Suy gẫm lại trần-ai mấy lát
Từ ngày con xa rời Điện các
Xa Diêu-Cung xa hẳn Mẹ hiền
Mẹ còn đây Mẹ của
Thiêng-Liêng
Vẫn trùm phủ con hiền trong
vũ-trụ
Con chưa được hiệp đồng đầy
đủ
Con thì còn bảo thủ cá-nhân
Chơn-lý nầy chơn-lý nọ cân
phân
Đạo nầy thiệt còn Đạo kia
dụng giả.
Đạo này ma Đạo kia dụng
thánh
Đạo này tà Đạo đó chánh sao
con ?
Đạo nầy đầy, Đạo kia lại
tròn
Đạo nầy khuyết, Đạo kia còn
vỉnh cữu.
Đạo nhiều Đạo lý chơn thì
vô hữu
Con có tường làm chủ-nhơn
ông
Đạo của con là Đạo ở tấm
lòng
Cho thành thiệt cho lục-
thông quán triệt,
Đạo của con là hoàn toàn hiểu
biết
Nhơn, nghĩa , lễ toàn minh
chơn thiệt;
Đem lòng chơn đối thiệt với
người ngoài,
Đạo của con là giới sát
trường chay,
Giữ đúng luật pháp –nguyên
tịnh tọa
Đạo của con là lập nên công
quả
Đạo của con bồi đắp
công-trình
Nhớ rằng con vẹn giữ cao
minh,
Đừng suy gẫm trần tình rồi
bỏ Đạo.
Đạo tâm thiệt là con rốt
ráo
Gặp quỉ ngăn ma bạo đón
đường
Con tưởng rằng Đạo đây thật
ma vương
Rồi thối thác chạy theo
đường danh lợi
Hoặc bước sang Đạo nầy Đạo
khác
Đến Long-Hoa tan nát con à!
Lái thuyền đi phải vững một
đà,
Đừng sai chạy rồi quỉ ma
lờn dễ.
Tu rất dễ nhưng Đạo là rất
khó,
Nếu con tu chỉ hũy bỏ lớp
đời;
Còn Đạo là chính thiệt do
Trời,
Khi làm Đạo chính ta là
Trời của thế hạ.
Làm theo ý của Thầy cải
hóa,
Tuân theo lời Mẹ đã dạy
khuyên;
Con là Thầy là của chủ quyền,
Là Mẹ vậy để dạy truyền chơn lý.
Con tỉnh thức nghe lời pháp
chỉ
Để hành xong đừng liều ý bỏ
qua;
Nầy các con ở trước
Phật-Tòa
Lóng nghe Mẹ thiết
tha lời kêu gọi.
Phải tỉnh tu nghe đây Mẹ
hỏi
Trong cuộc đời con gói được
bao nhiêu ?
Tình tiền danh lợi tính đã
nhiều,
Câu Đạo-Đức tuổi đã xế
chiều tàn lụn.
Con nữ-giới nghe lời truyền
tụng.
Mẹ ban ơn
ráng dụng ý tu hành
Mẹ khóc
vì con trẻ trưởng thành
Chưa đạt Đạo cao thanh huyền
diệu.
Mẹ chỉ dạy con ơi! Đừng
thiếu
Thiếu một con mẹ thiếu một
lằn hơi
Mẹ nhìn
con lăn lóc với trần vơi,
Mẹ muốn
rước con về nơi Điện ngọc.
Đêm mẹ dụng kim quang chỉ
dạy
Ngày Mẹ ban quãng đại ánh từ-bi
Mưa thuận hòa gió tạt ngoài
hiên
Con được hưởng thừa ân cõi
thế
Mẹ xuống
đây hì điểu Đạo Lệ
Cho các con tường để thi
hành
Tử sanh bao nghiệp đã đành
LONG-HOA Phán
xét Mẹ dành hồng ân
Hội long-Hoa đã gần đây trẻ
Ngày Đại-đồng con sẽ tường thông
Chánh với tà xét luật công
đồng
Để phê phán con trong Đạo
quả
Đừng suy tính con ơi! Phải khá
Trọn lòng thành công quả
nghe con
Mẹ gọi con trăng nọ lên
tròn
Mây mờ ảo tiếng còn vẳng
lại
Con ở thế con khôn, con dại
Nước có khi rồng lớn mấy hồi
Đường đi con chỗ phẳng chỗ
lồi
Người ở thế sự đời sao minh
bạch
Trăng khi khuyết lại tròn
trong sạch
Lúc bị mờ trăng lại vì mây
Mây kéo giăng trăng nọ tuy
đầy
Không thế chiếu vì mây cản
trở
Như thân con muốn lành
nhưng đã dỡ
Dỡ dang nầy tại trẻ đó
thôi!
Nếu tâm viên con giữ không
rồi,
Không tranh lận không hơn
thua qua lại
Thì đâu có việc con khờ dại
Chịu đời mê cùng Đạo lại
khai thông.
Nếu con khôn Mẹ đâu đổ lệ
hồng
Nếu con biết Mẹ đâu trông ngày tháng
Mẹ xuống đây dạy con lời
tường hãn
Dụng căn từ lẽ tạm của trần-gian
Để trí con cùng óc của thế-gian
Hầu phê phán lời than của
Mẹ
Con im lặng trong ngoài khe
khẻ
Gợi lòng con một chút u
buồn
Khi con nghe Mẹ dạy tích
tuồng
Kể chuyện cũ con thương ráo
riết
Thương tình Mẹ muốn choàng
tay ôm xiết
Biết tình con Mẹ tiếc bởi
vì con;
Nghe Mẹ than dạ lại thon
von
Khu dứt tiếng thì con ơi, đời trở lại
Trong hai buổi gia thế tần
tảo
Đói no nhiều áo lại rời
bâu;
Làm sao con? con biết được
Đạo mầu,
Làm sao trẻ vơi sầu vì quả
nghiệp?
Đó, trần gian con hiền
luyến tiếc
Đừng trách than mọi việc ở
trên đời
Rằm ngươn con cúng kĩnh
tưởng trời
Mang lớp áo lớp đời con
phủi sạch
Chỉ một chút suy trong động
mạch
Tưởng đến trên THẦN THÁNH
Thiêng-Liêng
Cùng MẪU-NGHI ĐỨC MẸ Diệu
hiền
Ban cho trẻ trọn nguyền với
Đạo
Lời Mẹ dạy con ơi! Cấu tạo
Nghĩa Kim-Bằng tiết tháo
anh hùng
Cùng chung hòa tỷ muội viên
dung
Phải tha thứ cùng chung đi theo lối
Tránh đường tối con nhằm
đường tội
Đuốc quang minh Mẹ rọi
khắp cùng
Sao con không theo đó mà dùng
Để mờ mịt chịu trong quả
nghiệp
Mẹ dạy con những lời chân
thiệt
Đối đãi nhau phải nhiệt
tình thâm,
Đây Các
con nghe rõ thâm trầm
Để tỉnh thức không lầm
ma quỉ
Phần pháp nguyên con ơi!
Thuần túy
Luyện cho rành cao quí
miếng tâm điền
Con hườn-hư phải tịnh cho
yên
Tựu ngũ-khí giao liên cùng
cữu huyệt
Luyện lục-thông con ơi!
Quán triệt
Tựu ngươn thần khai huyệt
Tam-thiên
Tịnh thông qua Minh-Kiến
diệu huyền
Conn hoán chuyển luân
truyền nhứt khí
Chi huyền quang con ơi!cao
quí
Tựu linh –đài thuần túy cho
yên
Nghe lời phân của bí-pháp
Tam-Thiên
Là giữ đúng diệu huyền cữu
huyệt
Nhớ cho kỹ tinh dương thấu
triệt
Luyện huyền-công mật-quyết
cao minh
Luyện làm sao tam-bữu kết
hình
Để ngọc-chẩm huyền linh chói
rạng
Xuyên cữu khiếu thượng-đài
chớp nháng
Xuất huê-quang ngời sáng
ánh Minh-Châu
Đưa từ trên cung đỉnh
thượng đầu
Qua hơi thở hạ châu luân
chuyển
Nhủ hoa động tay thông cữu
luyện
Tạo thành đơn kết chuyển xe
về
Nầy các con nếu bế tam huê
Cùng lập-đãnh an-lư cho
vững
Nầy các con pháp nguyên còn
thắc mắc
Dở họa đồ để đặt tượng hình
Nơi vĩ lư tân-dịch nhẹ
tinh
Đưa hơi thở nhẹ mình qua
thượng –đảnh
Con hườn-hư con ơi! Luyện
tánh
Trói tâm viên cùng tứ mã
cho yên
Ý của con xuất động liền
liền
Nhớ bao việc oan khiên từ
thuở trước
Tâm và ý con chưa luyện
được
Bởi ý con xuôi ngược
trần-gian
Tâm là viên mà ý mã chạy
theo đàng
Phải cột trói cho an một
chỗ
Khai định thần lưỡng quan
con độ
Híp mi vào lưỡi lại cong
lên
Tân-dịch vào đưa nhẹ đừng
quên
Xuống hạ huyệt bờ mê bến
giác
Con có thấy diệu huyền con
đoạt
Mệt thần tâm ý tạo chưa đều
Nầy con nghe Mẹ hỉ bấy nhiêu,
Con cũng được thành Tiên đắc
Phật
Luyện đẳng-giác hườn-hư không mất
Kết duyên thành là tinh,
khí, thần
Tinh con hao khí cạn thần
tan
Là tự trẻ đốt lằn tam-muội
Luyện lục-căn biến thành
lục đức
Luyện lục-trần hóa lực
lục-thông
Luyện làm sao tứ hải giáp
vòng
Đưa hơi thở đều đồng khắp
chốn
Thở hư-không là huyền-nhiên
chi-khí
Không thở mà huyền khí vẫn
lung linh
Đó con tường những việc cao
minh,
Con ráng luyện ĐẠO HUỲNH
mầu nhiệm
Nhớ tâm ý là oan khiên
nghiệp chướng,
Nó hại con tam-bửu phải
tiêu tan
Đương tịnh thần suy nghĩ
miên man
Nơi gia thế con đàng đi lại
Nhớ đây đó tính duy vụng
dại
Cùng dục trần đem lại vơi
thân tâm;
Thì làm sao con luyện được
ánh trăng rằm,
Khi mây nọ đang kéo giăng
phủ xuống
Kìa! Hạt mưa trên cao độ
lượn
Xuống hiên ngoài lòng tưởng
như xa;
Con luyện đây nghe động mái
nhà
Lại vụt nghĩ mưa sa rồi dột
đổ
Đó ý con mau mau cấp Lộ
Phá đường mê yểu yểu minh
minh
Nầy con nghe bao việc
huyền-linh
Phải học hỏi để giữ bên
mình trau luyện
Mấy lời phú Mẹ
hiền điểm khuyến
Các con tường Mẹ
chuyển từ văn
Dạy con bác-ái công bằng
Từ-bi là Đạo chuẩn thằng,
con ơi!
BÀI
Diêu-Cung Điện canh tàn Mẹ hạ
Ánh trăng soi xuyên ngã qua
mành
Mây vàng che khuyết trăng
thanh,
Hạt mưa tuôn đổ bên mành hoang liêu.
Tiếng con than là điều chua
xót
Mẹ u buồn
tuôn giọt mắt hồng;
Nhìn con Mẹ thoáng đau lòng
Cuộc đời sanh tử con mong
làm gì ?
Mẹ nước
mắt từ bi tuôn đổ
Khóc vì con xa chỗ lạc
đường
Bao nhiêu bao lúc đau thương
Thân tình mẫu tử còn vương
lệ sầu
Diệu-Cung-Điện đêm
thâu vắng lặng
Khói trầm hương mấy rặng
mây xanh
Đào Tiên Mẹ
dã sẵn dành
Chờ con trở lại Diêu thành MẪU-NGHI
Thư-Hùng-Điện huyền-vi linh
tuệ
Phụng-Loan-Đài dưới bệ con
ơi!
Màn loan Mẹ khoác
lưng trời,
Nhìn con dưới thế Đạo đời chưa xong.
Mẹ bao
nhiêu lời mong chờ đợi
Mẹ con
chưa tròn ngỡi tròn nhân
Làm sao Mẹ rước một lần?
Làm sao Mẹ cứ cơ bần của
con
Tuôn dòng lệ Mẹ
còn hòa mi
Viết vần thơ vô sức u buồn
Tịnh lòng con rõ hồi chuông
Diêu-Đài
ngân tiếng chuông buồn, con ơi!
Nhìn mỗi con đầy vơi Đàn
nội
Con tâm thành con lại chưa
tròn;
Bao nhiêu, bao nghiệp nặng
đòn
Làm sao mẹ rước cho con trở
về ?
Mẹ phá mê
con thề dưới Điện
Một lòng thành vẹn nguyện
mà thôi;
Mẹ ôi! Đừng để nổi trôi thế
nầy
Con réo MẸ THẦY
bao tiếng,
Mẹ xót xa
Mẹ hiện gần con
Hầu đem xoa diệu mất còn
Cho con nổi khổ hao mòn
Trần-gian
Con nam phái như vàng mới
qui
Mẹ quí con, con khá nhiệt
hành
Dầu rằng trong kiếp tử sanh
Lý chơn Mẹ
dạy còn hành cho thông
Mẹ thương
con tấm lòng chơn thật
Biết tu hành không mất, con
ơi!
Tình thương của Mẹ
cao vời
Ngàn thu vỉnh cửu đời đời
trường miên
Con nữ phái Bửu-Liên quí
báu
Mẹ thương
con tần tảo sớm hơm
Ngọc kia nào phải rác rơm
Ngọc vàng soi giá linh-hồn
cao minh
Mẹ thương
con trần tình đày đọan
Bước tu hành cố ráng nghe
con!
Lệ hòa mực viết cho con
Những lới quí báu cho tròn
đêm nay
Đêm vắng lặng trong ngoài
sùi sụt
Lê tuôn tràn dòng bút hòa
thơ
Mỗi con nam nữ mong chờ
Cho tình mẫu tử kịp
giờ đoàn viên
Mẹ Dạy
con tình riêng năm, tháng
Nhìn Luật-điều tường hạn
chưa con?
THẦY TRÊN phán
lịnh điểm son
Trao quyền DI-LẶC tuyển
con cuối cùng.
Mẹ xót dạ
ứng dùng từ huệ.
Dạy cho con là để nung lòng
Thánh-ngôn giáo Huấn Mẹ
mong,
Đàn nào Mẹ
cũng ngóng trông con hiền
Lời tha thiết diệu huyền mẹ
dạy
Từ ngày xưa, khai mối Đạo
Vàng
Mẹ quì
xin với NGỌC-HOÀNG
Khai minh HUỲNH-ĐẠO
tuyển hàng linh-căn
Nay trưởng thành con hằng
mấy đứa?
Tuyển xong chưa đúng
bửa THẦY minh;
Thiên-điều trước Án
luật đình
Ngôi cao Thầy phán Đạo
Huỳnh con lo.
TRỜI tuyển con xuống đò
Bát-Nhã
Đưa về Tiên thong thả bước
đi
Có trên Mẹ ĐỨC DIÊU-TRÌ
Dẫn dìu dạy dỗ huyền-vi
vô cùng
Chữ hòa con hiệp chung tỷ
muội,
Hòa đệ huynh cùng hội chung
nhau;
Hòa trong hòa ngoại hòa sau
Hòa trên hòa dưới hòa trau
Đạo Vàng
Hiệp nhân thế lo toan trách
nhiệm
Hiệp trần-Gian để chuyển cơ đồ
Hiệp đời hiệp Đạo điểm tô
Hiệp nhân hiệp nghịa trương
phô ĐẠO HUỲNH
Nhẫn mới được tồn sinh danh
thể,
Nhẫn mới tương sự dễ con
ơi!
Nhẫn là ngọc quý trau giồi
Nhẫn là sẽ được đời đời yên
vui
Nhục phải chịu cuộc đời
biếm nhẽ.
Nhục phải tương lời lẽ cao
minh
Nhục kia nhục của Đạo Huỳnh
Nhục là biết giữ nhân tình
nghĩa xưa
Tâm con giữ sớm trưa đầy đủ
Thương là thương con tựu tề
nơi đây
Thương là thương Đạo thương
THẦY
Thương con xa cội xa bầy rẽ
phân
Thương là thương những lần
con khảo
Thương khi con giông bão
cợt đùa!
Thương là sương gió năng
mưa
Thương là con chịu thớt
thưa khốn nàn.
Thương thân thể đa đoan
binh cách,
Thương dân lành huyết mạch
còn đây!
Thương là xương chất cao
dầy,
Máu tràn lênh láng đó đây
dân lành!
Thương là thương nhân sanh
cộng nghiệp
Thương mạt đời nối tiếp,
con ơi!
Thương là những kẻ mê đời,
Thương con lặn hụp chơi vơi
bể sầu
Thương bể ái sòng nâu chưa
trọn
Thương đường tình chưa dọn
chông gai
Thương con trong lại thương
ngoài
Thương trong Đạo-Pháp chưa
đầy huyền-linh
Thương ngoài con trần tình
xác thể
Thương là thương hô dễ mấy
ai
Thương thân con của thế nầy
Là thương tứ-đại chịu ngày
hủy thân
Thương lục quỉ ma trần khao
nghiệp
Thương là thương tam độc
con hiền
Thương là thương kẻ trần
duyên
Thương vì con dại xích
xiềng bản thân
Yêu mến con những lần xuống
biển
Yêu mến con chỉ chuyện
thiệt hơn
Yêu con khi trẻ giận hờn
Yêu con biết Đạo tròn ơn
vẹn lòng
Thương yêu nhau cho đồng
tất cả
Như tình cha Mẹ đã nắn nhồi
Con ơi! Mẹ dạy xong rồi
Những lời thề thốt con thời
nghĩ suy
Nam nữ con đơn trì mẹ phán
Việc trước hành sau ráng lo
xong
Một là con nhớ quả công
Hai là Đạo-Pháp lục-thông
luyện tròn
Hòa đi con Nhã thoàn bác ái
Hòa đi con đem lại tình
thương
Hòa nhau để trị ma vương
Hòa hau để đến Phật-đường,
con ơi!
Hòa sẽ cứu được đời trần-hạ
Hòa để con Đạo cả trương
phô
Hòa nhau ma quỉ hồ đồ
Nhưng hòa ma quỉ cơ hồ sợ
ta
Hòa đi con thiết tha vì Đạo
Hòa nghe con tần tảo chung
đường;
Hòa nhau hóa ý hòa thương
Để con hòa được chơn dương
báu mầu
Hòa thuốc Tiên nun châu đốt
ngọc
Hòa khí thần chí dốc luyện
rèn
Hòa cho khêu sáng ngọn đèn
Hòa tâm đăng rạng cài then
minh truyền
Thuận nhau để con thuyền
Bát-Nhã
Thuận Thiên-thời Đạo cả
Hoằng dương
Thuận nhân-tâm ắt Phật
đường
Thuận trời sẽ được
Tây-phương đồng về
Thuận với Đạo hôn mê tiêu
rồi
Thuận với đời sám hối ăn
năn;
Thuận nhau giữ luật công
bằng
Thuận nhau con được chuần
thằng LONG-HOA
Luyện bí-pháp thuận hòa
giao cấu
Âm dương hòa nung nấu đơn
dương;
Thuận đường nghịch chuyển
là phương
Để con dìu dẫn chơn dương
trở về
Mẹ dạy sơ lời đề trước Án
Mỗi con cần cố rắng hôm
nay;
Hòa nhau bí-pháp trường
chay
Để sau được chứng Phật-đài
thung dung
Hòa Bửu-Liên hòa chung tỷ
muội
Hòa đệ huynh hai buổi cùng
nhau;
Con ơi! Anh trước em sau
Một đường cứu rỗi chung
nhau kịp kỳ
Thuyền tách bến ra đi xuôi
ngược
Để cho con biết được thế
nào?
Sóng dồi gió dập là bao
Con tường những việc ốm đau
trần hoàn
Phần điểm danh đêm tàn mẹ
nhủ
Chờ điểm công đầy đủ ngày
mai
THÍCH –CA
ân tứ trước đài
Điểm công chỉ Đạo con rày
nữ nam
Giờ phận sự lo làm nghe rõ
CHƯỞNG-GIÁO
cùng phận đó con hành
GIÁO-TÔNG
Trách nhiệm cao thanh
Con ơi! Ghi nhớ thiệt thành
lo xong
THƯỢNG-SANH
Với cùng trò THƯỢNG-PHẨM
Chung đường đi tô đậm công
vang
Cùng QUYỀN TAM TRẤN lo toan
Trung-Ương cùng với
An-Giang con hành
Hai con phải em anh chung
kết
Chặt gìn nhau hòa hết dưới
trên
Dạy con tất cả làm nên,
Phận nào MẸ
Phán đừng quên ý truyền
Phần THIÊN AN nhớ truyền lời Mẹ
Phải nhiệt thành lặng lẽ lo
tu,
Lo phần ‘tịnh khẩu” thúc
thu
Nhị-giang để MẸ
đề bù ngày mai
Giờ THIÊN HIỆP đường dài cố gắng
Phận hậu-đoàn bước thẳng
nghe con!
Đường đi cố chí vẹn tròn
Mới mong thành Đạo nét son
huy hoàng
Phận THIÊN HÒA con toàn trách vụ
Nơi đây cần đầy đủ con ơi!
Đó đây Mẹ dạy cạn lời,
Cho con mỗi mỗi vâng lời Mẹ
khuyên
Phận Bửu-Liên điểm truyền
đôi lý
Con phận hành nhiệm ý cho
tròn
THÔNG, HUỲNH, QUANG
đạo khá toàn
KHƯƠNG, PHI, THIỆN
với KIỀU
toan thi hành
LIÊM, NHÂN, NGHĨA
tinh anh bước kịp
Đạo quả trình chuyển tiếp
hôm nay;
Mẹ hiền sơ lược điểm bày
Cho con ÁNH, THỦY, ANH
rày chung lo
Đường Đạo-đức vai trò trách
nhiệm
HUY QUANG
cần tâm chuyển lo xong
Lời vàng Mẹ dạy ân hồng
THI lo
phận sự chung đồng hôm nay.
Sơ lược dạy con rày
trách-vụ
Đại-Lễ nầy đầy đủ nghe con
Dầu cho tam trẻ khuyết tròn
Mẹ trên ân tứ vẹn toàn giờ
nay
Còn con ở lại trần-ai
Loan xe Mẹ bước nhập Đài DIÊU-CUNG
Thăng …
CỬU LONG CUNG
Tý thời, 6-11 – Tân Hợi
(23.12.1971)
THI
BẠCH lịnh hài liên thượng Bửu – Đình
HẠC thừa
Tiên giá ngự đàn minh
ĐỒNG tâm
tịnh thủ nghinh Tiên – Trưởng,
TỬ đáo
đàn Tiên nhập điển Huỳnh
Bạch Hạc Đồng Tử,
giờ lành thừa sắc báo tin Nam-Cực Tiên Ông giáng đàn. Đồng đẳng nghiêm trang
thủ lễ, Tiểu Thánh ứng hầu triều nghinh...
THI
Nam Thiên Cửu – Khúc Đạo huyền quang,
Cực – Lạc
cung Vi thị Niết – Bàn,
Tiên
thống thừa nhàn lâm Bửu – Điện,
Ông khai
chánh giáo chuyển cơ vàng
Giáng
trần ban pháp linh – châu thọ,
Ngự tứ khai môn chưởng pháp quang,
Cửu –
Khúc Huỳnh – hà khai thế lộ,
Long Đình
hiện trước khởi Xuân ban.
Nam Cực Tiên Ông , Lão chào
mừng chung Thiên – phong Huỳnh – Đạo nam nữ nguyên – nhân. Giờ lành, Lão ngự tứ điễn mầu nhiếp thọ huyền- quang luân châu
thống xuất, nhập hiển thần thông ban huyền- diệu cho chung Đại – đồng cứu khổ,
cơ tuyển độ qui- nguyên, cơ tuyển phổ- hoằng giáo – pháp
Này nguyên- nhân linh – tử ! hãy thức ngộ
kỳ duyên đắc pháp Kim- thân trở về Ngọc-vị, đừng xa lìa nơi bảng danh Linh –
Tiêu Bửu – Điện, chốn Thượng- Đế điểm
huyền khai thiệt chỉ Đạo vô- vi ban pháp linh- thông truyền cứu cánh nguyên-
nhân lập Đại đồng phán xét Long-Hoa Hội-Thượng, buổi Mạt-ngươn thời tận diệt,
luật Trời Đất âm dương đến hồi kết thúc, nếu người còn chút tư ý tà quyền thì e
rằng pháp duyên sẽ tiêu tán ! Vì thời buổi cuối cùng không còn thể vì
chúng sanh mà dằn dai trên bước đường hành Đạo-Đạo phải diệt khhổ, cứu khổ, -
Đạo phải biết luật công bình bác ái từ - bi. Người học được pháp siêu-vi lòng
phải cao- minh trí tuệ, thông suốt lý Trời Đất âm dương, biết được ngũ thường
Đạo-quả đừng vì vấp ngã như thế - hạ trầm mê thì muôn đời phải chịu nặng nề
trầm kha nơi địa ngục
Nầy tất cả chúng- sanh, trong vòng tứ
khổ: thành, trụ, hoại, không ! Vì sống sanh ra kiếp con người phải mang lấy
biết bao nhiêu điều đau đớn, nếu người không truy được hạnh đức toàn nhiên, tạo
thêm điều đắc tội thì vạn phước khó hưởng nhờ.
Chư linh – tử! ngày nay chớ ngẩn ngơ trên
bước đường học pháp vì pháp nguyên nhứt biến, nhứt chuyển, nhứt hòa, nhứt tựu
đồng luân dương khắp từ - đại châu thân. Vì pháp-nguyên bất phân được âm dương,
bất tịnh được ngươn thần, ngươn tinh, ngươn khí thì sẽ bị tam-muội hỏa thiêu đốt thành than. Nếu
bị thiêu đốt thành than thì Tam-bửu khó
toàn nhiên, pháp thân khó giữ vững. người tinh còn giao động, khí còn lay
chuyển, thần còn tiêu tán tì muôn đời ngàn kiếp khó thành được Kim-thân Thánh
–thể. Vì pháp –nguyên Thượng-Đế hồng ân, Thượng-Tổ cầm cân truyền Đạo. Nếu người
vì lòng từ-bi bao quát, phải xả hủy trần gian, quyết rèn chánh-pháp ĐạoVàng cho
đắc thành vị quả, mong ngày trở lại với Bạch-Ngọc Niết-Bàn còn trần –gian lập
đời hay bĩnh thế, Trời Đất âm dương đủ quyền hành quản thống, cần chi những
linh-tử của trần-gian mà lập đời bĩnh thế, trị an bá tánh; cần là pháp-nguyên
để rèn luyện, tìm về Bạch-Ngọc Niết-Bàn, tìm về con đường của quê xưa. Người
không biết lại ngỡ ngàng, người còn chấp lại hoang mang, còn suy luận phổ hoằng
hay tuyển độ Vì hoằng-phổ là thời-kỳ của giáp-pháp Di-Lạc cầm cân, chưởng quyền
bằng siêu điễn tinh quang, hoằng phổ bằng Chánh pháp của Thiên-Tôn Di-Lạc, cầm
cân thưởng phạt, tuyển hiền trạch thảo, tuyển đức độ nguyên- nhân. Vì cơ phổ-
giáo là phần thuyết giảng Đại – đồng cho bá tánh chung sanh trên khắp thế-gian
nhân loại, còn cơ tuyển độ toàn năng, toàn giác, toàn trí, toàn huệ là Chánh
–pháp siêu-vi. Nếu chánh – pháp siêu-vi không đạt đến thần thông cao diệu thì đừng mong thành đạt buổi Long-Hoa; vì buổi
Long-hoa còn phải gặp biết bao nhiêu điều thử thách, mà thử thách thì khó vượt
qua bởi còn tam độc đầy mình thiêu đốt tinh, khí, thiêu đốt lửa tam muội đang
cháy ngút trong lòng của mỗi mội nguyên-nhân thì ắt gì chứng được Niết-Bàn hay
Bạch-Ngọc
Cười!Cười!
Thế cuộc đảo điên, Đạo Vàng vận chuyển,
người chỉ chấp cái hữu mà không soi thấu được cái vô, vì vô-vi tuyệt-diệu,
vô-vi huyền-diệu tàng ẩn trong linh-thông, trong chơn dương, trong thần trí làm
sao nhìn thấy chốn vô-vi muôn Đạo hào quang hay muôn lằn thoại khí? Còn mang
lấy thân trược giả này tất nhiên còn biết bao nhiêu sự dằn dai của thế-tục, còn
nào danh lợi tiền tài, còn nghĩ sự sanh sống của trần ai chắc gì phủi hai tay,
khi còn thân tứ đại đến lúc hơi thở cuối cùng thì tiếc rẻ lúc sanh tiền, lầm
thay! Lầm thay! Cơ duyên không đãi ngộ thì Trời Đất tất công bình thưởng phạt
theo luật cao minh của Thiên-Đình phán quyết, không riêng vị cá- nhân, không tà
quyền phiếm đạo, chỉ biết dụng từ-bi mà hỉ xả cho những người hữu công, hữu
đức, còn thế-gian thì chấp cái hữu hình hiện thời, chỉ biết luật sanh tử là khi
thoát xác linh-hồn sẽ mất, mất trong tịch diệt vô-vi hay mất trong âm đài đau
khổ.
Thế-nhân biết luật hủy thể của con người
chỉ trăm năm là ngắn ngủi, nếu biết ngắn ngủi tại sao chưa thất tỉnh để tu hành
hành còn đua đòi vì danh, vì lợi, vì tiền, vì miếng đỉnh chung, vì những danh
vọng ở trên đời mà tàn sát lẫn nhau, tàn hại nhau, huynh đệ cốt nhục chẳng
thương nhau huống chi là nhân-loại khắp trên quả địa cầu nầy! Luật hủy thể đã
đến hồ tận diệt, người đừng ngỡ rằng Trời Đất là ở điểm không toàn vẹn. Vì cái
không của hiện thời là cái có ở ngày mai, mà cái có ở ngày nay, những hữu-chất
đều là hủy diệt ở ngày mai khi Long –Hoa nước lửa
Ngày nay, nhân-sanh linh-vị nguyên căn
nam nữ trong kỳ chuyển hóa còn những phương tiện đó đây, còn những sự văn minh
vận chuyển đưa con người từ đây đến nơi khác; ngày sau-ngày Long Hoa nước lửa
sẽ không còn, Ngũ hành tật diệt, con người chỉ sống bằng hơi thở vô-vi, mà sống
bằng hơi thở vô-vi đi trong huyền khí, đi trong nước lửa, đi trong chốn máu đào
nơi xương tàn chồng chất! Ngày đó, các nguyên-nhân mới biết ai là pháp-huyền
cao diệu, mới biết ai là đầy đủ thần thông. Ngày hôm nay những văn-minh nầy,
vật-chất nầy, phương tiện cho con người sung sướng trong luật nhân tạo của
thế-gian, còn ngày kia nhờ những Thiện tạo âm dương mà di- chuyển thân thể con
người từ đây đến nơi khác để cứu cánh nguyên-căn đang quằn oại chốn đau thương
!
Thời kỳ nước lửa đã khơi màn! Sao
nguyên-nhân không nhìn vào thực-tế của thế gian? Bao triệu sanh-linh phải ngả
gục trên đàng vì nghiệt thú cuồng phong, vì thời kỳ của ôn hoàng hành bịnh, vì
thời kỳ của ma khí điều hành con người nhiều nghiệp – chướng phải gặp chốn tử
sanh, khuyên đó ráng tu hành để vượt bao
điều khốn khổ.
Nầy nguyên- nhân! Lời của Đại-Tiên
Nam-Cực thọ sắc thiên Đình vì thấy chúng sanh, thấy linh-tử trong đường Đạo dầy
công đường Pháp nguyên cũng thành lòng nhưng khải nguyện mà không thức nguyện,
phục nguyên chỉ luyện trong bốn cửa mà không nhìn thấy ánh sáng hay nhìn thấy
những điểm Thiên –hỏa từ Thượng đài hạ huyệt, từ trung điểm, thượng, trung, hạ
tâm điền thường trụ hóng diên, nơi thượng đài dùng chơn-khí vận hành từ huê
quang ngọc-chẩm chiếu thẳng để nhiếp-thọ tinh quang. Khi nhiếp-thọ tinh quang
phải dụng huyệt đạo Tiên Thiên ứng hoa, nếu phóng kim quang không nhờ nơi huyền
quang ngọc đảnh chiếu thẳng xuyên ngang
huê-quang, dùng thần công để vận hành để chuyển qua khiếu huyệt. Khi nhập
kim-đan vào thượng-đài, ý tưởng thượng đài gom tụ những thần quang, từ điển
chiếu thẳng từ ngọc chẩm xuyên huê quang, tâm vẫn trong sáng, lòng vẫn nhìn rõ
kim quang mới nhập diệu dược pháp thân. Phần pháp thân là Huyền công mật quyết.
Luyện xong huyền công mật quyết là phần bí nhiệm: nơi hạ điền từ vĩ lư phải
định đúng điểm tựa tựu nơi hạ điền để tinh khí thần gom một, trụ pháp thân nơi
đó để hơi thở nặng và hạ điền nuôi tinh khí thần, dưỡng tinh thần dụng chơn
quang chuyển từ vĩ lư thẳng đến Ngọc Chẩm, Ngọc Chẩm xuyên huê quang, rót từ
trung tâm xuống hạ điền tinh khí thần gọn tụ một, rót thẳng xuống hạ điền để
nuôi tinh khí thần cho đầy đủ. Phần Huyền công mật quyết là qui tụ tinh khí
thần nơi hạ điền, phải ấn mạnh hơi thở vào hạ điền. Nhớ rõ thi hành thep pháp
diệu hầu đắc được kim-thân, xe thuốc Tiên Thiên về nung nấu nơi hạ - điền, phải
chuyển từ vị thuốc Tiên dược qua đầy đủ đắc Đạo Kim-Thân. Khi đắc đạo Kim-thân
thì Thánh thai sẽ đầy đủ tựu nơi bình pháp Tiên- hiên nhờ điểm tựa chứa vào
điện lực thiên- nhiên, tạo cho hơi thở vô-vi ẩn trong hơi thở hữu hình; hơi thở
hư-vô công luyện tập ngày nay sẽ không còn hơi thở hữu hình nữa thì luật hủy
thể thân tứ đại sẽ mất đi mà còn Thánh thể Kim-thân đắc Đạo cuối Long-Hoa.
BÀI
Nam-Cực hiện Hồng –Quân Bửu-Điện
Mừng nguyên-nhân tâm thiện tọa thiền,
Nghe lời Di-lạc toàn nhiên
Tiên-Ông Nam-cực sắc truyền Long-Hoa
Vung phất chủ Điện tòa ngự tứ,
Xuống địa cầu linh dự Long-Vân,
Thời kỳ đảnh túc tam phân,
Miền Nam nước Việt cầm cân Thánh hiền
Đại nguyện vị lòng thiền đầy đủ,
Buổi cuối cùng qui tựu căn lành,
Nhờ cơ phổ-giáo nhân sanh
Đương lai Giao-Chủ Phật thành Kim-Thân
Dụng đạo sắc tường-vân ngũ-khí,
Hiện thần thông điểm chỉ Long-hoa
Nguyên-nhân nam nức trước Tòa.,
Thành lòng cầu nguyện Di-Đà hồng-ân
Lời Nam-cực tinh thần huyền pháp
Lý âm dương chưa hạp thần thông,
Ngũ-hành vận chuyển ngoài trong,
Người trau Đạo-quả Hoa-Long đến ngày
Tiên –Ông xuống Phật-đài huyền diệu
Vung roi thần điểm chiếu Long-Hoa
Khai môn đãi lịnh Tam –Hoa
Chưởng Tiên bác-ái hà-sa giáo truyền
Độ nguyên vị xa phiền tục lụy
Vớt chúng-sanh thượng chí Long-Đình
Người tu Đạo-quả trần tình,
Xa rời sẽ đắc huệ-linh tuyệt mầu
Bao việc
của trần châu bày lộng,
Khuyên người đời gieo giống hạt lành
Quả
duyên sẽ được đắc thành,
Nhờ ta tạo sẵn vị lành ngày xưa
Tu Huỳnh-Đạo siêu-thừa Đại-học
Nếu người không chí dốc rèn mài,
Tưởng rằng lời lẽ đơn sai,
Thiêng-Liêng các Đấng Như-Lai giáo truyền.
Cơ phổ-độ làm phiền đại chúng,
Hay đại duyên lại rúng lòng sầu,
Cơ năng huyền pháp nung châu
Dụng phần phổ-giáo tóm thâu Hậu Tiền
Người chấp lý nẵng phiền trần hạ
Thường trầm –luân rày đã đợi chờ
Tu hành tỉnh mộng thức mơ
Biết về bến giác xa bờ trầm luân
Trời khai Đạo vui mừng hữu hạnh
Nếu lòng từ không gách Long-Hoa
Ngày sau đắc tội Tam-Tòa
Phán truyền Di-Lạc cao xa điểm Đài
Thương sanh chúng không ngày trong sáng,
Gặp bao nhiêu điều mây áng phủ giăng!
Ngày xưa Phật-vị cao thăng Liên-đài.
Đọa xuống thế nhiều ngày, nhiều kiếp,
Tỉnh mộng trần nối tiếp theo sau,
Về chung kiến dự Bàn-Đào,
Diêu-Trì Bửu-Điện sắc trao Điệp vàng.
Mẹ thương xót cơ hàn con thảo
Nên cầu xin mở Đạo Thiên-Khai
Tuyển trang hiền-triết đúng ngày,
Tuyển hàng đại vị phong đài Phật-Vương.
Đừng ngỡ
đắc Tây-phương đầy đủ,
Tuy Đạo Huỳnh qui tụ càng đông,
Ngày
xưa đến hội Hoa-Long,
Chưa còn đến một, rốt trong Phong-Thần
Ráng giữ mình Kim-thân buổi hậu,
Nếu không gìn cơ ngẫu Long-Hoa
Phong thần, phong Thánh trước Tòa,
Thượng ngươn Thánh-Đức chắc là nhiều hơn
Phong-Thần lập Cấm-Sơn đài báu
Ba tiếng rồi cải tạo Long-Hoa,
Chỉ cho sau trước gọi là,
Tỉnh tu muốn gặp Di-Đà gìn tâm.
Thời Mạt-ngươn đừng làm ma quỉ
Biết tu hành trọng quý Đạo Vàng,
Là cơ giải thoát huy quang,
Không tu khó đắc Đạo tràng Long-Hoa,
Lời Tiên-Ông trước Tòa Tam-Giáo,
Sắc Phong-Thần cải tạo Long-Vân,
Người tu tỉnh thức mộng trần
Ngày sau sẽ được Thánh Thần điểm phê.
Công với tội dâng về Thượng Phụ,
Đức với tài hiệp đủ dâng công,
Long-Đình Ngọc-Khuyết bệ rồng,
Thầy thương Đại-hội ân hồng cho con
Nếu không trọn mỏi mòn đường Đạo
Nhiều giả tâm đào tạo trần-ai
Nghĩ suy nơi dạ u-hoài
Vội lìa tách cội xa Đài Long-Hoa
Quỉ Vô-thường trước Tòa chào đón
Đợi cho người thỏn mỏn đường tu
Bỏ quên những lúc công phu,
Công trình, công quả, ngao du thế đời
Rồi gặp việc tâm thời tưởng Phật
Nguyện cầu thầy dâng tấc lòng thành
Phật trời
đâu chứng trần danh
Khi nhiều tội quả, báu lành không trau.
Lúc khốn cùng tâm đau đớn lắm,
Mới tưởng trời Phật thấm nơi lòng,
Thái bình đâu nghĩ Thiên-Công
Đất –trời chẳng biết trần
hồng tạo gây
Đến thời loạn lạy Thầy, cầu Mẹ,
Thỉnh Phật trời nặng nhẹ không màng
Đến khi nước lửa điêu tàn
Vội vàng niệm Phật Trời, an thái Bình
Cười sanh chúng điêu linh thảm họa
Tiên-Thiên đồng cảm hóa hư-vô
Làm hiền trời đất điểm tô
Tạo điều ác quả cơ hồ trầm-luân
****
Già
chung đăng đẳng đàn trung
Thành tâm tiếp rước Cửu-trùng Tiên-Thiên
Phật-Đài Nam-Hải sắc truyền
Ban ân linh thủy diệu-huyền cho chung
Hào quang
ngũ sắc Điện Trùng,
Di-Đà ngự tứ bần dùn Tiêng quang
Giã chung nam nữ đại đàn
Tiên-Ông Nam-Cực hạc vàng thượng thăng.
***
Vung nhành dương cứu chúng sanh
Từ-Bi, bác-ái Đào lành truyền ban.
Quan-Âm hiện xe vàng linh huệ,
Cứu vạn loài thoát bể đau thương,
Vâng truyền lịnh của Phật-Vương
Phổ-hoằng cứu độ mười phương vạn loài
Bút Tiên-dược bày khai thành liễu,
Vớt tôi hiền trung hiếu nghĩa nhân,
Ban chung tất cả nguyên-nhân
Đại
đàn chầu thỉnh Thành thần ngự lâm
Hương xông thượng âm thầm cầu nguyện
Đức Di-Đà ứng hiện kim-quang,
Ngự trong huyền-pháp Đạo-Vàng,
Thành tâm cung thỉnh trước đàn Lôi-Âm
Chuông lịnh giục giã canh thâm,
Triều cung Phật ngự cao lâm Bửu –Đình
Triều nghinh........
PHỔ đạo hoằng khai thống Đại hiền,
HIỀN nhân hữu đức tạo cơ duyên
BỒ Đề niệm phật tâm thường trụ,
TÁT lập công vàng đắc pháp nguyên
Phổ-Hiền Bồ-Tát
chào mừng chung nguyên-nhân linh-tử hiện tiền Giờ lành Phổ-Hiền Bồ-Tát thượng
Bửu-Điện Hồng Quân thừa sắc-điệp phật tiền nghinh phong Di-Đà Phật-Tổ
giáng ngự Đông – Độ điểm Đạo từ-bi ban
pháp siêu vi thần thông mầu nhiệm
Lành thay!Lành thay!...
Cơ đại biến buổi cuối cùng. Bần-Đạo ban
ân lành đồng tâm Tam Thanh Bửu-Điện triều thỉnh Phật-Tổ A-Di-Đà, hồng chung đại
khai triều nghinh A-Di-Đà giáng ngự
THI
PHẬT quốc
Tây phang Đạo hạnh truyền,
TỔ minh
chánh pháp thị quang nhiên
DI thâm huyền
diệu hào quang hiện
ĐÀ thống Năm
châu chưởng Đạo huyền
VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG Khai chánh
niệm
Lôi Âm Cực Lạc đoạn oan khiên
Di-Đà Phật-Tổ Tôn-Sư ngự,
Điểm Đạo từ-bi dụng pháp-nguyên
A-Di-Đà-Phật,Tôn-Sư mừng môn-đồ.
Bàn –Đạo mừng chung nguyên-căn linh-tử, hậu tấn đàn tràng.
Giờ lành, Tôn-Sư hiện ngũ sắc kim quang
thần thông vạn tải, Phật-Tổ Kim-thân chỉ Đạo từ-bi ban pháp lành cho tất cả
đồng hiện diện nơi Bửu-Điện Hồng-Quân.
Truyền năm trăm La-Hán cùng Ca diếp
Tỳ-khưu đồng tùy phẩm vị thính pháp nghe truyền cùng Tăng, Ni linh-tử tọa thính
nghe điểm Đạo Di-Đà. Tôn-sư miễn lễ
Bửu-Liên các con pháp tọa nghe lời Tôn-Sư
điểm công truyền đạo.
Nầy các con trong vòng luân-hồi lục đạo
hãy nghe Tôn-Sư giảng truyền luật chánh nghiệp. Đạo học thiên nhiên tọa pháp
thân vượt vòng sanh từ, nghỉa là
luân-hồi không còn nữa. Khi biết được trong thân thể con người định được
Châu-Thiên, quán truy được Kim-thân Phật tiền, chính trăm tiểu quán kim quang,
nhiếp thọ huyền nhiên chi khí, các con đã lập vị được khử ám hồi minh, hồi minh
khử ám định ngươn thần, dụng ngươn khí tựu
ngươn tinh. Các con ở trong thân mình đều có âm dương phải hòa đồng, các
con là lục đạo các con còn trong vòng sanh tử, các con muốn cùng dực được
Lôi-Âm, Bạch-Ngọc phải luyện lục căn biến thành lục đức, luyện cho ngũ khí được
triều ngươn, các con phải luyện cho minh-châu luân chuyển khắp thân thể từ
thượng trung hạ đều đồng, các con phải dùng minh-châu qua tứ
hải, dùng minh-châu để vận tải được tam ngôi. Nếu các con phân rồi
tam ngôi là tam bửu, mà tam bửu các con không đầy đủ lại biến tam-bửu thành
tam-độc là các con sẽ luân trầm muôn đời nơi địa ngục; các con phải biến
tam-độc thành tam-bửu mà tam-bửu các con phải biến thành “ tam chuyên”- tam
chuyên là ba pháp mầu định ngôi gọi rằng tam-huê tụ đỉnh, mà tam huê tụ định
các con không lọc chính nơi huyền-quang đài, các con không đầy đủ những hơi thở
để vận dụng nơi huyền quang đài để tựu tam hoa. Vì tam hoa là nơi nâng đỡ được
huyền-pháp thần công, nếu thần công chưa luân đồng trong thân thể, nơi bán
huyệt là Đại vị, huyệt Tiên Thiên chốn trụ pháp thân hạ điền để chỉ Đạo huyệt.
Vậy các con học pháp phải biết rành về Tiên-Thiên Huyển khiếu? Nếu các con không se hái thuốc dược
Tiên-Thiên, không đoạt được Đào nguyên giao cảm, không hưởng được Đông-Độ trà
Tiên thì các con có bằng không. Vì các con có bằng hữu hình tức rằng các con
phải có bằng vô-vi , nếu vô-vi các con không trụ được pháp thân, thì thiếu phần Đông-Độ trà Tiên hay là Tiên Thiên táo dược thì các con không
hưởng được muôn đời!
Các con ơi! Thuốc Tiên-Thiên là nhiệm màu
mà các con phải se đúng lượng, phải nấu đúng chỉ. Nếu các con không đầy đúng
thì pháp sẽ rẽ rúng, Đạo sẽ tiêu tán! Nếu các con còn nhiều tam-độc nghĩa là
các con còn nhiều tam muội hỏa thì các con đã thiêu đốt đi lằn pháp nguyên cao
diệu đó! Các con có thấy chăng? Kìa ! là những lượn nước hải hà các con nhìn
thấy một vòng tròn các con đựng trong bình tịnh thủy, các con có thấy chăng
nước thủy luôn luôn bằng, không cao, chỉ điểm ngang bằng số thẳng mà không xê
dịch nghiêng ngửa trừ phi nước kia bị những hữu-chất nung nấu mới sôi bốc thành
hơi, là vì nước kia nhờ tam muội đốt, nước nọ biến thành hơi sôi bỏng thì nước
nọ sẽ gặp nhiều dợn sóng. Vậy các con: tại sao nơi dòng sông lượn nước, các con
thử ném vào một vật vô-vi tất nhiên có một lượn nước vòng tròn để điểm mà không
méo, là vì những lượn nước chỉ có vòng tròn không rời, không dứt, cũng như các
con ở trong pháp màu các con phải biết một vòng tròn là vô cực. Nếu vô-cực các
con để cho còn bán cực là bán nguyệt thì một bên trắng, một bên xanh thì làm
sao đạt Đạo? phải một vòng tròn vô-cực không là bán cực mới thành Đạo.
Các con biết chăng đạo vô-vi là dùng ở
huyền-nhiên chi khí. Nếu các con còn phân vân trong huyền nhiên chi khí mà các
con chưa nhìn thấy ở trong thân thể con người. Vậy hơi thở của các con là huyền
nhiên chi khí, nếu huyền nhiên chí các con không tựu được một ánh sáng luân
đồng, thì cũng như các con đã đốt lò tam-muội cho nóng những dòng nước mê si sẽ
cuộn trào sôi nơi lòng của các con, thì hỏa vọng sẽ thiêu đốt nê-hườn-cung. Nơi
nê hườn cung là thượng đài, nếu thiêu đốt nát đi thì các con làm sao được đầy
đủ trí tuệ thông minh? Vì nơi huyền quang đài là nơi huyền quang khiếu, nơi tựu
trung những huyền pháp thần thông; phần thể chất là bộ óc, khối óc của con
người nếu mất đi những phần nhiếp-tuyến quang cũng như những bộ thần kinh bị tê
liệt trong con người thì bộ óc nọ sẽ biến thành cuồn dại, điên đảo. các con ơi!
Nếu học Đạo mà để cho tam muội-hỏa càng thông đồng thiêu đốt, không phân âm
khẳng định dương, không hòa được âm dương, không định được ngươn tinh, ngươn
khí thì uổng thay! Uổng thay!..
Các con nghe Thầy dạy Đạo cũng như các
con học một bài học vỡ lòng, các con bước trên trường học pháp là trường sơ-cấp
đến trung-cấp, trung cấp đến thượng cấp, mà thượng cấp các con đã học xong qua một phần thực-hành, mà
thực-hành chưa đúng theo chiều hướng của phần thượng-cấp. nghĩa là phải có phần
lý thuyết, lý pháp, phần lý pháp là các con phảo điểm tựa rõ ràng, các con chỉ
biết hành mà không biết đúng hay sai ? Nếu các con muốn biết đúng hay sai thì
các con phải cân nhắc nơi lòng mình, các con phải cân nhắc cho điều độ, phải đúng chiều hướng. Khi các
con thấy nóng là các con đã biến sanh, vì khi biến sanh là con người phát độc ở
trong thân thể nên hỏa vọng, khi hỏa vọng tâm động thì tức nhiên phải xuất
khẩu. Nếu tịnh khẩu mà tâm luôn luôn
động thì không phải là tịnh khẩu hoàn toàn, vì tịnh khẩu trong khẩu nghiệp,
không phải là nơi lời nói mà lời nói
xuất phát từ tâm, nếu tâm kia không phát xuất thì lời nói đâu để nói? Vậy các
con biết rằng tâm của các con phải tịnh trước tiên, nếu tâm tịnh rồi thì khẩu
toàn nhiên phải tịnh, mà tâm chưa tịnh được thì khẩu luôn luôn phải phát xuất
những lời ngôn, những khẩu nghiệp
Nầy các con Bửu –Liên! Tôn-Sư xét rằng
các con còn nuôi tam-muội-hỏa đầy lòng, khi tỷ muội bất đồng đôi việc nhỏ, hay
có đố kỵ nhỏ với nhau thì các con đã khơi màu tam-độc; nên chi mỗi lần các con
sân nộ thì pháp nguyên sẽ giảm đi đến mất một phần mười, thì các con có tiếc
chăng? Dầu luyên đi muôn thời, ngàn tháng mà thiêu đốt cũng chỉ một giờ !...
Con ơi! Thầy là đấng oai-linh Phật-Tổ truyền đạo cho các con,
ngày xưa thầy đắc Đạo là nhờ pháp “ Hiển hóa chơn-như”, “Hườn-hư đẳng giác” các
con nhờ pháp “ Đẳng giác hườn hư” cũng đủ thành. Về pháp nguyên, nếu các con “
nhập thức liên hoa” mà các con thường trụ Di-Đà là quán tưởng; quán tưởng kim
thân bên ngoài chưa đủ mà phải quán tưởng bằng minh kiến đài mới gọi rằng trọn
vẹn.
Các con ngày hôm nay các con không thấy
thẹn, ngày hôm nay khi bỏ xác rồi các con sẽ thấy đau lòng nơi cảnh giới Vô-vi!
Các con ơi! Cái thẹn của ngày hôm nay là các con chịu thua thiệt khi chị em lấn
hiếp bằng hữu-thể, bằng hữu tình; các con chỉ thẹn mà vui trong tinh-thần Đạo
pháp, còn các con hơn thiệt nghĩa là muốn hơn người là các con sẽ thẹn thùa khi
ngày mai đạt Đạo, Buồn thương! Buồn thương! Vì cuộc đời biến dịch nên Tôn-sư
mới độ tận cùng các linh-tử, dìu chúng-sanh tỏ ngộ chơn truyền, hạ sen vàng lìa
Lôi-Âm để ban hành Đạo hạnh, cứu khổ, cứu nạn trong thời kỳ Mạt-pháp tàn-ngươn.
Tôn-sư dạy các con học Đạo thể hiện phần nhẫn nhục vị tha, các con hãy hỏi lòng con nhẫn được chưa hay lòng của các
con còn thịnh nộ, ái ố sân si khi thua thiệt người nữa lời, hay một lời nói
nghịch tai, nghịch ý thì các con đã vội tam-độc khơi màu. Vậy mà các con ngỡ
rằng pháp cao, pháp đắc! Pháp đắc ở chỗ
nào? Vì các con chưa nhìn thấy được pháp mà gọi rằng pháp đắc kim thân, Thầy
cũng nực cười nhưng chua xót! Vì thầy truyền Đạo là mong các con thành Đạo mà
thôi, để cứu cánh trở về ngôi. Thầy không độ cho Thầy, Thầy không chỉ Đạo để hưởng phẩm cao hay công
cán mà Thầy mong rằng đệ-tử sẽ thành Đạo để cho thỏa lòng Mẫu-Hoàng nơi Thượng
Cung, để cho vui vẻ chốn Cửu Trùng không còn một linh-tử nào bị trầm-luân khổ hải.
Các con ơi! Đường Đạo các con có biết
không? Người học Đạo là học gai chông, là học điều thử thách mà các con đã thử
thách. Vì người thiếu trí thì không thể nào xét theo lẽ đại trí được, nghe con! Vì ở trên đời nầy căn kiếp
chưa tròn nên Tôn-Sư mới dạy con từ sơ học mà thôi. Các con chưa học xong phần
sơ học mà các con mong thành Như-Lai Bồ-Tát thì làm sao? Sơ học là các con phải
rèn luyện chữ “Nhẫn”, “Hòa”, vì chữ Nhẫn nó liên-đới đến phận sự quần thoa, vì
chữ nhẫn nó liên-đới đến sự luyện pháp của các con. Nếu bất nhẫn, bất hòa thì
không thể nào trục được pháp-thân, khi ngồi luyện pháp mà tâm con còn rần rần
đốt cháy những ngọn lửa bốc cao, nghĩ đến một Bửu-Liên đang có những lời qua,
lời lại, những lẽ cao kiến, những ý thấp hèn thì pháp nguyên sẽ thấp hèn hay là
chuyển trong ngọn đèn đang mờ ảo. Con ơi! Kia là ngọn đèn, ấy là tâm đăng, mà
tâm đăng kia bị những bảo táp cuồng phong, thì Tôn-Sư chỉ cho : cũng như ngọn
đèn trước gió! Ngọn bach-lạp lung lay thì không thể nào các con tựu được Vô-cực
đài hay là Minh-kiến đài rạng rỡ?
Này các con! Thái cực biến sanh mà Thái cực
không biến sanh thì ngũ hành ngưng chuyển, vì ngũ hành là tâm, can, tỳ, phế,
thận. Thân thể con người là tượng trưng cho Tiểu Thiên-Địa, mà Tiểu Thiên-Địa
bị mất đi thì một là các con oằn oại xác thân, hai là linh-hồn các con mang
trọng tội với Thiên-Đình
Nầy các con! Tôn-Sư giảng phần sơ điểm
học mà các con phải học Đạo, trước tiên về hạnh đức các con, Thầy xét rằng sự
hy sinh của các con đã có nữa phần, nhưng phần hạnh đức của các con chưa đúng
một phần mười thì các con luyện pháp
cũng hoài công! Tôn-Sư truyền đạo là chỉ cho các con tịnh thiền mà lòng
các con chưa chịu thiền tịnh thì các con khó thành đạt buổi Long-Hoa. Nhớ nghe
con! Đạo không phải là chỉ thể hiện bên ngoài mà phải thể hiện từ tâm thức của
con là ngọn đèn đó, là ngọn tâm đăng đó mà các con phải khêu sáng toàn nhiên.
Ngọn đèn sáng là tâm con sáng mà tâm con bị mờ đi thì ngọn đèn dần dần sẽ mờ
mịt rồi đến tắt, thì tâm của các con đến
lúc khơi trào sân si ái ố. Buồn thay!..
Cơ thảm họa đã gặp hồi nước lửa
Tôn-Sư truyền cải sửa trần-gian
Môn-đồ thầy cất tiếng than,
Dạy con tỉnh ngộ Đạo vàng lo tu
Độ các con sương mù mờ ảo,
Chỉ các con là Đạo Hư không,
Thấy con còn nản tấm lòng
Con thì đạt Đạo, con vòng trầm-luân
Tôn-sư độ con vâng thừa lịnh,
Biết đường tu con tỉnh tu hành
Tận cùng trong kiếp tử sanh,
Thời-kỳ thảm khốc dân lành tang thương
Tôn-sư dạy con đường giải thoát
Mà các con chưa đoạt lý huyền
Làm sao chứng vị Bửu-Liên
Con ơi! Nghe rõ tâm truyền vô-vi
******
Vô-vi huyền-diệu Đạo năng tùy
Phân rõ âm dương biết thạnh suy,
Thái Cực tâm đăng dòng điễn chiếu
Hào quang qui tựu xuất anh-nhi
Anh-nhi hiện xuất khỏe muôn đời,
Đắc Đạo Tiên-Thiên dạo khắp nơi
Nước nhược non bồng xa tục lụy
Đạo bào nhẹ lánh chốn trần si.
Tôn-Sư dụng pháp cứu muôn loài
Độ thế bĩnh trần điềm sắc khai
Vạn vật muôn loài trong khổ nghiệp
Từ-Bi Bần –Đạo cứu muôn loài
Tịnh thiền nghe rõ tiếng chuông linh,
Giục giả bên tai tiếng trống trình,
Bạch-Ngọc rèm châu, thầy xót dạ,
Lôi-Âm Phật khóc bởi nhân-sinh
Lành thay! Cơ Đạo chuyển Long-Hoa
Giáo-Pháp Phật-Vương vớt thế hà,
Khổ thảm ta-bà trong vạn khổ
Ngàn năm đặc Đạo kiến chơn-sa
Ta-bà
khổ nghiệp kiếp trầm-luân
Cực-Lạc nhàn thanh thượng chín từng,
Hương tỏa xa-cừ chim uốn lưỡi
Bá tòng dược thủy tiết Thu Xuân.
Mã não san hô bá ngọc Trân,
Liễu nương cành trúc múa ngoài sân
Rồng chầu hổ phục Đền Kim-Giác
Sen nở hài Tiên dạo thế trần.
Trần thế nhìn qua tứ khổ sầu
Bốn đường bốn vách cảnh trần châu,
Thương thay Đông-Độ còn vạn kiếp,
Phật bổn ngày sau khó đến chầu
Chầu Phật Kim-Thân lịnh cúi đầu
Nếu người chẳng đốt ngọc nung châu
Tiên-Thiên Tam-bửu không tròn vẹn,
Khó đến Lôi-Âm để ứng chầu
Thầy có từ-bi vẫn luật truyền
Tỳ-Kheo căn kiếp Phật năng duyên
Năm trăm La-Hán truyền chơn-giáo
Thỉnh phật ngày đăng thượng Bửu nguyên.
Xuống thế từ-bi xót dạ thương,
Đoàn con Bửu-vị Đạo năng thường
Hành công, hành pháp, hành chơn Đạo
Hoằng-phổ nhân sanh dẫn một đường
Đường đến Lôi-Âm chẳng khó chi!
Nếu người đoạn dứt nghiệp sân si,
Thì đường Bạch-Ngọc còn gang tất
Nẻo đến Lôi-Âm thị pháp truy.
Rảo bước hài hoa nhẹ cánh vàng
Nhìn trời trong lúc chốn lầm than
Thương đời Bần-Đạo lìa Phật Quốc
Rảo bước trần ai độ thế nàn
Tôn-Sư xót nghiệp bởi nhân duyên
Đệ-tử con ơi! Gắng đoạt quyền
Huyền-Pháp Kim-Thân con gắng tạo
Khí chuyên Đạo quả trở về Tiên
Ta-bà khổ lắm, hỡi con ơi!
Bốn vách tường trau đọa vẽ vời,
Nào lý, nào hành, nào dễ đạt,
Pháp-Huyền muốn đắc khổ công rồi
Tôn-Sư thương xót dạ từ-bi
Nghe rõ lời thanh buổi mạt-kỳ
Nghiệp chướng dằn dai trong khổ lụy
Ngàn năm chưa chắc trờ cung vi
THI BÀI
Cửu Long cung Phật truyền Đạo Pháp
A-Di-Đà chân đạp tường vân
Ban ân cho khắp hồng trần
Từ-bi cứu khổ thoát phần trầm hôn
Chỉ Đạo xuất anh-hồn nhập diệu,
Phóng hào quang khai khiếu xuất du
Ngũ hoa hiện hóa sanh cừu
Đưa chân trở lại nhàn du Niết-Bàn
Luyện ngũ-sắc kim-quang ứng tỏa
Hóa thần thông cao hạ đài vàng
Thương trần Bần Đạo hiện hoàn,
Di-Đà Phật-Tổ điểm ban giáo truyền
Trong Bửu Liên con hiền nghe rõ
Lời thâm trầm Thầy tỏ con vâng
Đường tu con lắng mộng trần,
Luyện cho tựu khí ngươn-thần tròn duyên.
Định Minh-Châu pháp huyền bí yếu,
Nơi thượng-đài huyền khiếu khai thông,
Thấy con trần thế hết lòng
Con thì đoạt được lục thông rõ ràng
Con thì vội ngỡ ngàn khảo thí.
Con thì không trọng quý pháp-huyền
Thương con còn nghiệp oan khiên
Thương con Thầy dụng bí-truyền kim –quang
Chỉ cho con hầu hoàn ngôi vị
Chỉ cho con cao quý pháp lành
Tam đài trước Điện Tam-Thanh
Thần quang nhập diệu đạt thành vị nguyên.
Con nghe phân diệu truyền chơn-lý
Nghẹn ngào đương suy nghĩ tận cùng
Tôn-Sư xót nghiệp cho chung
Đời tàn con thấy hiển hung khắp cùng
Dầu Tiên-Thiên ứng dùng huyền pháp
Luật trời phê chuyển nạp từ xưa
Đại đồng vận chuyển sớm trưa
Long-Hoa khải giáo đại- thừa thành công
Con nghe rõ mất dòng pháp cú,
Của Tôn-Sư truyền đủ thần thông
Con ơi! Phải khá hết lòng
Nghe lời chỉ Đạo Hoa-Long đắc thành
Hiện ngũ sắc đêm lành mờ ảo
Vòng hư-vô chuyển Đạo Kim-thân
Nhờ con nung đúc tinh-thần
Thần quang chiếu diệu xoai vần Châu Thiên
Con phải tịnh tâm thiền cho chắc
Mới tựu vào điểm đặc Châu quang
Chơn-Như hiển hóa rõ ràng
Chuyển thần nhập thức thai vàng Liên-Hoa
Từ tử chuyển dũ –hà luân động
Hầu quán truy truyền thống thần quang
Nơi đài minh kiến rõ ràng
Từ tâm phán xuất châu quang chiếu ngời
Con luyện Đạo đầy vơi tâm tưởng
Lúc minh minh lúc lưỡng vị ban
Từ tung Tốn hiện hóa Càn,
Cung ly chiết Khảm thuốc hoàn kim chuyên
Chiết Khảm điền Ly huyền tâm ấn
Lập đảnh an-lư vận huyền-đô,
Con ơi! Dòng điểm hư vô,
Chuyển xây Thái-cực điểm tô Đạo vàng
Dụng châu thiên rõ ràng qui hướng
Dụng thần công tiếp dưỡng huệ năng,
Lằnhơi con phải chuẩn thằng,
Định ngôi phân thứ gọi rằng chấp trung
Nơi huyệt hạ ứng dùng hơi thở,
Động nơi đây nâng đỡ khí thần,
Tinh dương tựu đủ châu thân
Chuyển lên thượng Đảnh đưa lần huyền
quang
Dạy các con Đạo hoàng siêu lý
Phải bền tâm suy nghĩ tận tường
Trong thân con bốn lối đường
Là nơi tứ hải chi đường kim qiang
Thống kim quang rõ ràng hạ huyệt,
Từ Tiên Thiên điểm khuyết thượng đài
Kim quang chuyển đúng trong ngoài,
Lập thành quán thể Như-Lai nhập đài
Con nữ phái nghe rày tâm pháp,
Phải bền lòng luyện tập cho quen
Giấc nồng cho trẻ nhúm nhen
Phải
tinh soi rõ ngọn đèn tâm-đăng
Dụng tâm đăng chuẩn thằng tứ hải
Qui một nơi đem lại thuốc linh,
Xe duyên phúc Đạo huyền tinh
Hư-Vô không khiếu nhẹ mình bay cao
Tâm vô chấp mới vào hư ảnh
Tâm còn đương ngươn tánh chưa đồng,
Nghĩ suy bao việc trần hồng,
Thì tâm sẽ gặp bão giông cấp thời
Tịnh chỗ Động Đạo Trời luân thống,
Mới biết mình đúng giống hay sai
Định thiền muốn đắc Như Lai,
Bên ngoài vễn động trong rày tịnh yên.
Tịnh bên ngoài tâm thiền đang động
Vì sự đời mức sống chưa đồng
Nghĩ suy bao việc trần hồng
Tâm linh động thấu lục thông chưa tường
Vì tâm động pháp cương lay chuyển
Nhờ tâm
lành vận chuyển pháp thân
Ý tâm là đúng ngươn thần
Chơn như là dụng khí thần hỏa duyên
Tam muội hỏa đốt liền thân pháp
Trong bốn mùa hòa hạp âm dương
Tiết xuân phải định pháp cương
Thần thông diệu hóa hầu nương Liên đài.
Tiết Đông sai Đạo hài chưa đắc,
Tiết Hạ, Thu, Đông chắc gì thành,
Bốn mùa tám tiết vẫn quanh,
Còn tùy phương hướng đương sanh mới tròn.
Trong Bát quái Nhã- Thoàn vận chuyền
Từ cung Càn hóa biến lưỡng-nghi,
Chiết ly điền Khảm cung Vi,
Đạt thành phương hướng cấp kỳ Long-Hoa.
Lưỡng-nghi hiệp giao hòa tâm khảm
Đạo huyền-năng khử ám hồi minh,
Hư-vô xông thấu thượng-đài
Tay thâu Bát-Bửu nhập kinh thượng-đài
Chỉ Đạo sắc Như-Lai đắc diệu,
Nhờ Khảm châu cung chiếu hóa Càn
Luyên cho đúng hướng Thiên can,
Đương sanh Đạo quả tràng kỳ duyên
Lời Tôn-Sư dạy truyền chơn pháp
Hữu hành tròn hòa hạp âm dương
Đạo Vàng vận chuyển mười phương
Là cơ phổ-giáo thi trường Long-Hoa
Dụng phổ-độ hội là tận độ,
Khắp nhân gian cứu khổ chiêu hiền
Phò nguy trong lúc đảo điên,
Đạo-Vàng ẩn ánh để khuyên nhau cùng.
Kẻ hữu trí mới dùng linh bút,
Kẻ thiếu tâm vô phúc hưởng nhờ
Tôn-sư đề bút ra thơ,
Thương đời còn mãi thờ ơ Đạo Vàng
Trong Thiên-chức lời ban giáo thuyết
Phải tường minh vô diệt, vô sanh
Chân duyên phẩm vị Đạo lành
Cao huyền thượng sắc Ngọc lành Hư-cung
Di- Đà độ tận cùng sanh chúng
Thương xót đời, rẻ rúng chơn truyền
Dầu cho muôn ức vạn niên
Di-Đà Phật –Tổ cao nhiên rõ ràng
Điểm cho chung đại đàn nam nữ
Lời Di-Đà cao ngự Hồng-Quân
Điểm phong thưởng vị tiết Xuân
Tất niên chờ lịnh đón mừng tiên quang
Trao ngọc vị bệ vàng huyền-pháp
Cửu-Long
đài chân đạp tường vân
Tất niên ngự tứ hồng-trần
Di-Đà truyển Đạo tinh-thần quang nhiên
.................( Phần điểm
danh).................
Lời Tôn-Sư phân rành trước Điện
Giã các con khói quyện canh vàng
Hồng-Quân Điện Ngọc huy hoàng
Tất niên khải lịnh khoa tràng Long-Hoa
***
Hài liên Phật-Tổ Di-Đà
Truyền chung La-hán Phật Tòa Kim-thân
Thượng cung Phật-Tổ ứng dùng
Kim-quang thượng ngự Cửu-cung lai chầu
-Thăng-
DIÊU TRÌ BỬU ĐIỆN
(Tý
thời, ngày 15 tháng 8 năm nhâm tý)
Nhằm
ngày 22/9/1972
THI
Tiên
thiên hạo khí tỏa hào quang
Đồng Tử
truyền tinh khá tịnh đàn,
Tiếp kiến Như-Lai triều Đại sắc
Trung Ương bỉnh chánh thọ Kim –bàn
Đồng-Tử Thiện-Tài
chào Thiên Phong Huỳnh-Đạo, thành tâm tiếp dẫn nghinh Quan-Âm Nam-Hải giáng
trần. Tiểu Thánh ứng hầu triều nghinh
THI
Quan hà
hiển lập hội thuần phong,
Âm chất
gìn trau đắc Đại-đồng
Nam Bắc
phân quyền cơ khốn khổ,
Hải đề
Đạo quả hiện Kim Long
Chứng tri đãi ngộ Thiêng-Liêng ứng,
Lễ hội nhân sanh tuyển Lạc Hồng
Khai bút đề chương minh chánh Đạo,
Minh khai Huỳnh-đạo thị ân hồng
Nam-Hải Quan-Âm, Bần Đạo
mừng chung, ban ân lành toàn thể Thiên-Phong đẳng đẳng. Giờ lành Bần-Đạo giáng
điển nơi Trung-Ương Huỳnh-Đạo trước là dụng Thánh thủy hái sái tảo nhành dương
để cứu bịnh trầm mê vì âm phong độc khí cho toàn thể, sau là đôi điều cùng tất
cả Thiên-phong hành sự. Ngày hôm nay là Đại-Hội Bàn-đào, Tam – Giáo triều kiến
Thượng-Phụ Chí –Tôn đến chúc thọ Bàn-Đào
nơi Diêu-Trì Bửu-Điện, nên sơ lược toàn thể nơi trần ai Thiên-Phong
Huỳnh-Đạo tường minh, để vẹn gìn phần hành hóa
Nầy tất cả thiên-phong, vì thời cuộc đau
thương nên âm phong khắp miền lan dậy. Vậy hãy tạo phần dược thủy, Bần-đạo dụng
nhành dương sái tảo, sơ lược đôi dòng từ điễn để tất cả hữu dùng, về việc sau
cùng ngày hôm nay, phần Linh Quang giáng điển để thuật kỷ buỗi dự Đại Hội Bàn
Đào cho tất cả đồng nghe ... Thần điễn!
Hãy ngưng đi những Thần điễn. Vậy Thiên-phong nghe rõ thi hành, về ngày Đại lễ
sẽ được Linh Quang giảng minh trong giờ này
NGÂM
Như-Lai Nam-Hải
hiện trần
Dụng hào quang tỏa mấy vần từ chương
Hãy dọn
sẵn con đường giải thoát
Đừng mê si hạt cát trần gian
Tưởng rằng ta đã cao sang
Thì là đọa lạc muôn ngàn đau thương !
Thành kỉnh nghiêm phong, truyền cho
Thánh-Quân Đại- Đế đàn bảo điễn, nghiêm bỉnh. Triều thăng ...
THI
Linh Tòa
thể Đạo nhập vào cơ
Quang
chiếu mười phương chớ trễ giờ
Thổ thủy
phong ba thay vũ trụ
Địa cầu
biến đổi thấy thời cơ
LINH QUANG THỔ ĐỊA
Kính chào mừng Đại Thiên-Phong nam nữ hiện tiền. Cha linh hồn các con ! truyền
cho các con Thanh Xuân, Thanh Đồng đủ mặt nhập nội Điện trang nghiêm. Còn
thiên-Phong Bửu Liên tùy nghi hay muốn nghe hội Bàn-Đào thì nán lại, hoặc mệt
mỏi thì nghỉ ngơi. Đó là phần tùy ý hoặc ở lại mà nghe Linh Quang giảng Đạo,
dạy Đạo cho các con, nếu có điều chi xây dựng Linh Quang thì cũng nên ở lại.
Nhưng các Thiên Phong nền nhường một phía bên hữu cho các con của Địa đến gần
phía trên để Địa vấn Đạo. Vậy các ngày hãy lắng nghe Địa giảng Đạo
Nầy tất cả các con đã đủ mặt. Vậy các con
hãy đưa thẳng bàn tay trái lên cao tất
cả. Đây, cha mượn một thể của bàn tay Tiếp-Điễn để giảng Đạo cho các con. Cha
hỏi các con
Đậy là bàn tay. Vậy H.H.DUNG ! Cha hỏi con bàn tay có mấy ngón?
-
(H.H.DUNG:
Năm ngón)
-
Vậy
cha hỏi con ngón nào lớn nhất trong bàn tay?
-
(ngón
cái)
-
Ngón
nào thấp nhất trong bàn tay? (truyền Bao-Pháp cho vị Đạo tâm rời khỏi địa đàn)
-
Ngón
út)
-
Nếu
con con trả lời rằng ngón út thì con quỳ đó để chờ cha hỏi tiếp
-
Vậy
con H.H.LIÊN, ngón nào thấp nhất trong bàn tay ?
-
(H. H. LIÊN..............?)
Con
H.H. HẰNG
: Ngón cái là ngón thấp nhất?
Ba con quì đó để nghe Cha
giảng. Ngón lớn nhất trong bàn tay là ngón cái mà ngón thấp nhất trong bàn tay
cũng là ngón cái.
Vậy tại sao ngón lớn nhất
là ngón cái mà thấp nhất cũng lại là ngón cái nữa vậy con ? Con nào biết hãy
trả lời cho Cha?
Vậy tất cả hãy nắm lại chỉ chừa một ngón cái
H.H. CHÂU : Ngón cái là ngón
lớn nhất mà cũng là ngón thấp nhất. Để làm gì?... con không biết hãy quì đó
lắng nghe Cha
giảng. Tất cà đồng lấy tay xuống
Nầy các con ! Ngón thấp
nhất mà lại lớn nhất là các con đó, là thể hiện cho sự quân tử đó. Các con đã
học xong bài quân tử mà con trả lời không thông suất. Vậy Cha hỏi: - ngón lớn
nhất là đàn chị, đàn anh để điều động bốn ngón nhỏ, nếu các con bỏ ngón cái, vậy các ngón nhỏ – các con – hãy
bấu víu vào một vật hữu hình ở thế gian
có giữ chắc được hay không? Nếu không giữ chắc được thì nhờ ở ngón cái mà điều
động, ngón cái đó là chủ yếu, Cha muốn nói rằng trong ngón tay cái đó là sự chỉ
huy, điều động, là sự lớn hơn tất cả mà ở thấp hơn tất cả, là vì anh lớn, chị
lớn có ngôi vị lớn, nhưng không coi lấy ngôi vị đó lớn là tại sao? Nầy các con
! bao giờ anh lớn, chị lớn cũng nhường em nhỏ, cũng lo lắng cho em nhỏ từ ly từ
tí mà không ỷ mình trên lớn cao cả hay mắt chỉ nhìn Trời thì thân ở dưới thế đi
sẽ vấp phải những chướng ngại vật của thế giang, sẽ va chạm vào tường hoặc cột
thì sẽ té ngã, Vì vậy anh lớn, chị lớn phải đứng thấp hơn tất cả, không phải
đứng thấp ở đây mà nhỏ mà đứng thấp. Các con đã học xong Sấm pháp,
H.H. LIÊN
đã thường đọc : “ Tự hạ mình sẽ đặng đem lên”. Đã làm chị lớn thì cái lớn đó
con đã thấy nhưng cái thấp đó con đã tường.
Tại sai chỉ một bàn tay mà Cha hỏi các
con chưa đứa nào trả lời được? Vậy làm sao xứng đáng con của Cha ở mai hậu? Các
con à! Tất cả đồng lắng nghe. Vậy Cha
hỏi tiếp: Nếu chỉ có ngón cái là sự điều động tất cả bốn ngón. Vậy Cha bỏ bốn
ngón, chỉ còn ngón cái không, con có điều động được gì chăng?
(H.H.LIÊN
: Không thể điều động được). Ngụ ý gì ? (có ngụ ý là tất cả mọi người đều nương nhờ với nhau
chớ không thể một mình ta làm việc được, phải có sự đoàn kết thương yêu lẫn
nhau), cha cho phép con ngồi. Nầy con! Ở thế gian làm tướng không quân, vậy làm
tướng với ai? Làm anh lớn không em nhỏ, vậy dẫn dắt cho ai? Làm thầy không học
trò còn dạy cho ai? Làm người không có cầm thú thì làm sao tấn hòa ? Nầy các
con! Đó là một bàn tay, cha chỉ giảng có ngón cái mà thôi, ngón cái là ngón lớn
nhất mà thấp nhất là đứng trên cương vị của người lớn phải chịu thấp, phải chịu nhường nhịn, còn
nếu đứng trên cương vị của đàn chị, đàn anh mà có miếng cơm ngon áo lành, chỗ
đứng tốt, ghế ngồi cao như thế đó con nghĩ ra sao? Tức là chỉ nịnh vị mà thôi, nịnh theo cái thế để bưng đợ người đời,
vậy thì người tu lớn là anh, nhỏ là em. Trên giáng xuống em phải vâng, dưới nói
trên phải giữ lễ, đàn chị đàn anh là thế đó vậy
Vậy Cha giảng tiếp một bàn tay, vậy các
con hãy đưa thẳng bàn tay phía tả. Phía ta là bàn tay nào H.H DUNG? (tay trái) - Bàn tay trái tượng trưng cho gì ? ( dương,
nam). Vậy các con hãy đưa hai bàn tay thẳng, mặt và trái hợp nhứt lại năm ngón
tay sát nhau, Cha giảng tiếp. Vậy phía tả là nhứt dương, phía hữu là nhứt âm.
Vậy âm dương có hiệp nhứt lại hai bàn tay giữa lòng bàn tay sát nhau. Vậy con
gọi là gì H.H
CHÂU ? – (âm dương hiệp nhứt). Đúng một phần nhưng Cha hỏi hai bàn
tay sát nhau gọi là hiệp chưởng là sự hiệp nhứt lại một, âm dương hiệp nhứt lại
biến sanh muôn loài vạn vật. Các con không tin như thế đâu vì chỉ có hai bàn
tay nầy thì làm sao biến được muôn loài vạn vật. Vậy cha chỉ cái lý thường, Cha
mượn cái hữu, cái hữu đây là cái hữu hình, Cha giảng Đạo vô-vi mà các con đang
học, còn cái hữu là Cha dạy con, dạy tay, dạy lời. Vậy hai bàn tay
đồng nhau chỉ mặt trái thì hai ngón tay đồng nhau là tượng trưng cho sự nam nữ
bình đẳng, tượng trưng cho sự không lớn, nhỏ, của nam hay nữ, con nên hiểu
nhược âm thì thanh dương, nhược dương thì thanh âm. Không phải nhược dương,
nhược âm bao giờ cả. Vậy xong phần hai
bàn tay, tất cả lấy xuống để thẳng, Cha cho phép các con ngồi, Cha
dạy tiếp
Vậy cha hỏi các con có hai điều: khen,
chê – Cha
ví như một vị Thiên phong nhìn thấy các con trang trí trong ngày Đại Lễ, lo
lắng công quả đậm đà, vị Thiên phong đó nói : ai làm việc mà tốt đẹp như thế
nầy. Một vị Thiên phong khác trả lời : - Thanh Xuân, Thanh Đồng con của LINH QUANG.
Một vị khác thấy những lời bừa bãi buông thả hay rong chơi giỡn cợt của các
con, vị Thiên phong đó mới hỏi: con ai mà giỡn cợt đó? Vị khác trả lời: - con
của LINH
QUANG đó ! Vậy hai điều đó, điều nào tốt, điều nào xấu, con trả lời HHDUNG?
( Nói tốt cho con). Con nghe Cha dạy :
vậy con chỉ chọn cái điều tốt, tại sao mà con không nhận cái câu mà con LINH
QUANG cười cợt đó ! Câu xứng đáng vô cùng chỉ cho ta khéo ta nên thì điều đó là
điều tốt cho ta, chớ không phải điều khen là điều tốt đâu con à! Học Viện
Trưởng con nên ghi nớ !
Nầy các Ngài Đại Thiên phong nếu các con
các Ngài đã dâng hiến cho LINH QUANG thì LINH QUANG dạy đừng nóng lòng mà than trách.
Ngài Thiên Minh đã hiến con Ngài cho Địa
thì đây Địa dạy : H.H. HẰNG ! Con có biết con là
ai đó không? Tâm tánh con như thế nào ? Trả lời ? (.............) . Con đang cao ngạo, kiêu hãnh, ỷ lại. Con có biết
tại sao cha nói như thế không ? Đó là nhục mạ mà đường Đạo phải nhịn nhục dầu
đó là oan, người Đạo cũng phải chịu oan. Vì sự thương yêu chìu chuộng của Cha
Mẹ đôi khi con sanh lòng nghịch ý cãi lời Mẹ Cha. Đó không phai là điều tốt đâu
con. Tốt hay xấu con? Trả lời ? (................) Vậy Cha cho phép con an tọa.
Các con Thanh Xuân, Thanh Đồng hãy thức
giấc để nghe Cha
nói chuyện Bàn- Đào. Đừng run sợ, hãy tập sẵn những câu trả lời mà Cha
sẽ hỏi. Vậy Cha
hỏi con chỗ nào là thanh tịnh ? Các con cứ ngồi tất cả, không được quì một đứa
nào hết. Khi Cha
phạt con quì mà thôi. Tại sao Cha phạt con có biết không? Cha
ví dụ thầy giáo đang giảng bài một trò nọ trả bài không thuộc, bài học Đạo-Đức
kia mà không biết nên thầy giáo quay mặt vào tường, trò đó mắc cở nên về ráng
học, khi đem tập ra học thì nhớ quay mặt vào tường nên mĩm cười một nụ cười vui
là nhớ lại cái xấu của mình nên luôn luôn không bao giờ quên học vậy. Các con
sợ trốn học là các con không biết đạo là gì? Vậy con nào trả lời thanh tịnh ở
chổ nào? Đến lượt Cha hỏi Thanh Đồng. Cha truyền đòi Đệ Nhứt Cố – vấn
là anh cả cũng như ngón tay cái mà Cha đã thí dụ
ban nãy, hãy đến Đàn tràng nghiêm trang nghe Cha hỏi. Ban Thanh Đồng các
con chuẩn bị . H.C Phương ! Thanh tịnh ở chỗ nào? ......... ba lượt mà không
bạch là tam hương chực sẵn. H.C Văn – Thanh tịnh ở chỗ nào ....... H.C Hải : Thanh
tịnh ở đâu ? ( ở tâm). Con quì đó!
Đến lượt ba con Cha vừa gọi chưa tìm đúng câu
trả lời, quì lên tất cả để Cha hỏi Thanh-Xuân. Vậy Chùa, nhà, non núi nơi nào là
thanh tịnh ? (................) H.H Hiếu ! thanh tịnh ở chỗ nào ?
(...............) . Vậy ba con đồng quì nghe Cha giảng Đạo
Ngày xưa, có một vị sư Bà, Cha nhắc là
thời kỳ Trung Cổ. Vị sư Bà đó có ba đệ tử, dạy Đạo từ thuở mới lọt lòng cho đến
khi lớn không nhưng lúc nào cũng ở trong am tự – gọi là “ Am Thanh Tịnh”. Trong Am Thanh
Tịnh không có tiếng động ở bên ngoài, không có một mảy may nào làm cho phóng
tâm cả.
Vì thế, một hôm nhân ngày Trung Thu Đại
hội Bàn đào là ngày vui ở trên Thiên Đình gọi ngày nầy là ngày Tết – ngày Tết
của Thiên Đình là ngày Bàn đào mẹ mở, nên vị sư Bà mới dẫn ba đồ đệ của mình
xuống núi để vân du
Đi đến đâu thì ba đệ tử nọ hỏi đến đó ...
thấy cây cũng hỏi..., tất cả cái gì cũng hỏi. Vị sư Bà mới trả lời đó là cảnh
vật, lá, hoa ..v.. khi đến gần một dòng suối nọ, nơi có ba vị Tiên đồng đang
khải đờn, thổi sáo, ngâm thơ, mặc áo Đạo
bào long lẫy uy phong. Tiếng sáo du dương trầm bổng từ xa xa vọng lại lọt vào
tai ba vị đệ tử đó, nên ba vị sư đồ nọ
mới động lòng mà hỏi sư Bà rằng
Tiếng đó là tiếng gì đó, bạch sư Bà ?
Với nhãn lực trông xa như hiện gần trước
mắt,. Vị sư bà đã biết tự sự, sợ rằng con trẻ vướng lấy nghiệp trần nên mới vội
đáp:
Nầy con! Đó là tiếng cọp, mà cọp dữ lắm
con chớ nên để ý
Nhưng khi trở về Am Thanh Tịnh, lòng ba vị đệ tử
nọ cứ suy nghĩ tưởng nhớ đến cọp mãi mãi. Vị Sư Bà cũng đón biết tâm tư của đệ
tử.
Một ngày kia, mãn tiết Trung Thu vị sư Bà
mới hỏi đệ tử rằng:
-
Các
con muốn xuống núi chăng?
Thì người chị vội mừng rỡ
-
Bạch
sư Bà con xin xuống núi, Sư Bà mới hỏi:
-
Xuống
núi để làm gì? Thì đệ tử trả lời
-
Bạch
xuống núi để tìm cọp
Vị sư Bà lặng thinh nhắm mắt, không phán
một lời nào. Vì thế, tất cả đều âm thầm muốn trốn đi, thì chị đầu đàn liền hối thúc hai em mau mau xuống
núi đi tìm cọp, coi cho biết cọp hiền hay dữ ?
Đến khi xuống núi, đi mãi, đi mãi từ năm
nầy qua năm khác ròng rã suốt bảy tám năm trường mới tìm đến được khúc suối nọ.
Đến khi gặp lại thì đâu biết lễ nghĩa gì mà chào hỏi, nên vội vã chào rằng :
Thưa cọp, có phải cọp đây đã thổi lên
tiếng sáo và khải giọng đàn cùng ngâm điệu thơ kia...? thì ba vị Tiên đồng chỉ
mỉm cưỡi không đáp rồi đi mất. Ba vị đệ
tử nọ mới hối hận ăn năn nên quay về chốn cũ để mong tạ lỗi với sư Bà. Nhưng cứ
đi, đi mãi từ kiếp nầy đến kiếp khác mà tìm không chẳng gặp thầy.
Đó các con có thấy tâm thanh tịnh ? Vậy
các con hãy đưa tay lên cao vuốt mặt xuống, nhắm mắt khít, các con có thấy gì
không ? H.H.DUNG
( Thấy không bằng mắt). Con Thấy bằng ý! Vậy Cha hỏi con có thể nhìn được Cha
không ? Cha
đang diễn ý với con đây ! ( không). Nếu
không thì nhắm mắt lại thực tế của hữu hình thì không bao giờ thấy được, con
nói thấy là sai mà nói không thấy là không đúng. H.H Liên đang nhắm mắt mà thấy
là thấy ở trù phòng, đang ngổn ngang suy nghĩ trong ý tưởng nào bánh, trái,
rượu trà nào thực vật, lo lắng tính toán trong bụng. Đó ! con thấy bằng ý là
như thế đó . Vậy các con được phép ngồi tất cả. Cha giảng tiếp: các con ở trần
gian thất lễ lắm! Tại sao thất lễ các con có biết không ? cha là một LINH QUANG PHẬT
ĐỊA khi về chầu MẸ MẪU HOÀNG các con có biết Cha
bạch như thế nào không ? Là cúc cùng quì mọp sát xuống mà bạch rằng không phải
bạch như các con ở thế gian nầy mà “ Khải bạch VÔ-CỰC MẪU HOÀNG “ Không phải
bạch MẸ,
Cái nghĩa MẸ
đó là Cha hỏi con tại sao con cũng gọi bằng MẸ mà Cha cũng gọi bằng MẸ
vì MẸ đó là MẪU NGHI là VÔ-CỰC MẪU HOÀNG là ngự trên Vô
Cực chưởng thống trần gian chuẩn khai Thiên Địa
Nầy các con! Các con còn học Đạo thì đừng
run sợ mà tỉnh trí để trả lời. Con biết ngày hôm nay Cha giáng điễn con cũng
bất ngờ, mà Cha cũng không ngờ được vậy Cha kể hội Ban-đào cho các con nghe.
Ở Diêu trì Cung một ngày một đêm hội
Bàn-đào là ở thế gian gần một năm, ngày hôm nay là chánh lễ mà Đức Thượng Hoàng
ngự Cửu Long các con nên nhớ Thượng Hoàng ngự Cửu Long là Tam Giáo phải cúi đầu
mà phò tá. Thánh, Thần, Tiên, Phật đồng đứng hầu Bạch Ngọc Cung Thầy mới đến
Diêu Trì Cung thì trống ngọc khánh vang liên hồi giục đổ, Nhạc Thiên inh ỏi,
tiếng nhạc du dương trầm bổng nó hay gấp vạn lần tiếng nhạc mà các con lễ sĩ
thường gọi là nhạc “ Tấu Quân Thiên”, Hay nhạc của thế gian là
tiếng nhạc điệu cóc mà thôi. Cóc hót cổ đó con. Còn tiếng nhạc cỏi Trời vô cùng huyền diệu! Còn xa mà trầm
hương tỏa khắp, hạc ré trùng trùng. Điện Diêu Trì Đại Cung khai mở, từ xa xa MẸ
mới bước xuống Vô-Cực Phụng- Loan-Đài. Con biết chỗ ngự của MẸ là
Vô Cực Phụng Loan Đài, MẸ bước xuống chín cấp, con biết MẸ bước xuống để thỉnh THẦY
bằng lễ chi không? MẸ là MẪU HOÀNG bước xuống chín cấp còn phải quì
xuống, MẸ
quì xuống đây thì hõi con Tam Giáo cùng Thần, Tiên, Thánh, Phật đều đồng quì
một lượt để đỡ MẸ đứng lên, đừng nói chi
các con phải mọp mà thôi. Các con có biết tại sao Cha cùng những danh từ củ thế
đời giảng cho các con không ? Vì các con thường dùng những danh từ đó. Nếu
không giảng những danh từ đó thì con chẳng biết những danh từ cao siêu hơn. Khi
MẸ đứng lên bước trở lại Vô-Cực Phụng-Loan-Đài, MẸ tọa vị thì THẦY cũng
bước lên Thái Cực Long Quang Ỷ. Tam Giáo đồng lạy đứng hai bên sắp đặt thứ tự.
Con ơi! Cha
đâu dám đến gần mà chỉ đứng xa nhìn thấy. Cha mới nẩy ra ý vui mà nói rằng:
Đào tiên ăn cắp để xơi chơi
Coi ngọt hay không để biết mùi
Chẳng hưởng uổng thay về Cung Điện
Nếu không thì dạ chẳng còn vui
MẸ nhìn lên
Thiên- quang điễn của Cha,MẸ thấy, MẸ mới nói rằng
“ Trần gian cho trẻ đợi trong ngươi
Sao chẳng giám lâm đứng đó cười
Chờ hưởng đào Tiên sau sẽ hưởng
Giờ đây đừng có tánh ham vui
Cha nghe âm thanh trầm bổng, gọi là tiếng
dội không dương, thanh như chuông. Con hãy nghe tiếng chuông ngân để tưởng tượng. H.H.Hằng hãy đánh một tiếng chuông
nhỏ. Giọng thanh ngân của MẸ như tiếng chuông đó mà bốn hướng để dội dội
vang vang.
Cha giựt mình thì từ trên nơi Cha vừa phủ phục để bạch với MẸ, cha chưa kịp thốt
lời thì bức màn trắng từ đâu đã phủ
ngang, Cha nhìn xung quanh không còn thấy Cung điện Thiêng Liêng Thánh Thần
Tiên Phật đâu hết. Dầu có mắt phật nhìn cũng không rõ không thấy được. Cha mới
giựt mình vội vả xuống đây. Con biết Cha muốn bạch MẸ gì không? Cha muốn bạch
rằng: Đàn của Hội Thánh Cha không giáng nữa, nhưng MẸ đã ngăn qua một
tuyết vân màn, chỉ còn sắc trắng mà không thấy hội Bàn đào đâu hết
Nầy các con! Cha có viếng qua vườn đào, Cha có
ăn cắp một trái, để chi vậy con? H.H. Hằng có biết không ? – Ăn cắp đó là để về
cho các con, Khi Cha ra khỏi vườn Đào thì vị Thần gác vườn đào mới đón Cha mà
hỏi rằng:
“ Phật gì mà Phật chẳng tòa sen
Có phải Phật đây Phật thấp hèn,
Ăn trộm đào Tiên là dối Phật
Rượu chè bánh chuối đó là quen
Con biết không Cha mắc cở nên mới trả lời
“ Phật gì mà Phật chẳng tòa sen
Sao biết rằng Ta phận thấp hèn
Chớ khéo mà mang điều tội lỗi
Đào nè ! Địa tặng để làm quen
Nầy con! Cha tặng lại vị Thần gác cửa.
Vậy Cha
hỏi con H.H.
Dung Cha tặng hay Cha trả lại! Con trả lời: Trả hoặc tặng – Cha trả
lại vì Cha
ăn cắp, mà người giữ vườn đào đã bắp gặp thì Cha trả đâu phải tặng con. Nếu Cha
nói trả lại lại Ngài thì mắc cở thay nên Cha mớ nói rằng tặng lại Ngài đó! Vì thế mà
đào không có để cho các con. Vậy Cha mới cho các con thứ khác
Nầy con! Một người ở thế gian hỏi Cha
rằng:
“ Dạy con sao chẳng thấy cầm roi?
Dạy riết tồi con nó trổ mòi
Ngạo mạn khinh khi Trời với Đất
Rồi đây nó lấy cả vàng thoi”
Cha mới nói:
“ Đạo lý dạy con đó dụng roi
Nào đâu con trẻ nó ra mòi
Hiền tuân vâng dạ theo nhân nghĩa
Lẽ đâu nó dám lấy vàng thoi
***
Vàng thôi ông cất ở đầu voi
Sao nói con ta nó trổ mòi
Việc nọ, việc này đừng tính tới
Xấu thời đem cất tốt đem coi”
Đó
! Như thế cha mới hỏi lại:
Coi
rồi Ông có rõ hồi coi?
Còi giục từ bi chẳng dụng roi
Trời đất công bình thường xử phán
Hữu duyên hữu phước hưởng vàng thoi
Nầy
con! Thần rượu hỏi Cha
“Nầy lão LINH QIANG chớ chát chua
Biết đây là chốn , chốn đây chùa
Đạo gì mà dạy hay cười giỡn
Sau trước phân minh lại cợt đùa
Vậy thiên Phong họa cho Địa một bài thi
đó. Ngài Thiên Minh? Ngài nghe Địa họa:
“ Ớ hỡi lão Thần, Địa chẳng chua!
Chát chua là tại ở trong Chùa
Con Ta, Ta dạy điều nhân nghĩa,
Nào phải chuyện chơi để trẻ đùa
Có đúng chăng Ngài? (.bạch......)
Vậy các con Thanh Xuân, Thanh Đồng nghe Cha
kể một chuyện thời Trung cổ, Thầy Huyền Trang có một tiểu đồng nhỏ. Ngày
kia, só sư Cụ Huệ Tánh thuyết pháp. Thầy Huyền Trang mới dạy: Tiểu đồng con đến
đó nghe pháp coi hay hay không ? Thì tiểu đồng vâng lời. Đến khi trở về mới
bạch sư phụ :
Bạch Thầy, Sư Cụ Huệ Tánh giảng hay vô
cùng hay tuyệt diệu nên Thầy Huyền Trang mới hỏi lại: - tuyệt diệu vô cùng
nhưng hay như thế nào, con kể lại cho thầy nghe
được không ? Thì tiểu đồng mới trả lời:
Bạch Thầy, Thầy Huệ Tánh giảng vô cùng hay, tuyệt diệu.
Thầy Huyền Trang mới hỏi đến lượt thứ ba,
tiểu đồng cũng trả lời Thầy Huệ Tánh giảng vô cùng hay, thuyết vô cùng truyệt
diệu. Ba lượt như thế mà chẳng biết tuyệt diệu như thế nào, mà hay như thế nào?
Cũng như các con nghe Cha dạy, các con khen hay, khen dễ, khen rành
mạch từ tấc thước khuôn luật. Khi ra đàn con không biết điều hay như thế nào mà kể lại; con thì kể cái đầu
lộn lại khúc đuôi, con thì chỉ khúc mà nói cái đầu, chỉ khúc đuôi mà phân khúc
giữ... không đứa nào phân đúng nghĩa nên Cha mới dạy
con học : chịu học, chịu nghe là hay mà không tuân, không nghe là dỡ,
hay với dở phải hòa đồng
Vậy Cha kể tiếp việc Đào Tiên: đến khi khai Đại
yến Bàn đào, con ơi! Mùi vị nghe nôn ruột thế gian không bằng, nào là trầm
hương, cũng gia vị, cũng bánh trái, cũng nước, cũng bột đường mà gia vị của
trần gian chẳng ra gì đâu con! Cha đứng xa xa nhìn lại. Con ơi! Còn đừng cần
thành Tiên lớn mà thành Tiên nhỏ đứng xa để không sợ bằng đứng gần nghe con!
Đứng gần con chỉ mọp ở dưới nền kim cương mà không thể nào nhìn thấy MẸ được,
Cha
đứng xa nhìn lên, Cha thấy vô Cực Phụng Đài rực rỡ. MẸ
thì uy quyền nhưng lòng vô cùng hoan hỉ, một nét đẹp tuyệt trần. Thế gian nè
con! Bửu Liên thì già cả, con thì xấu xí, vật chất nầy xấu vô cùng, thân con
hôi muôn cái xấu. Còn cõi Kim Liên nơi Điện Diêu Trì vô cùng huyền diệu. Các
con Huỳnh Hoa khổ nỗi muốn thành Tiên nhỏ nhỏ mà đứng xa như Cha
còn chưa thành được phải ở lại lớp trần muôn đời không gặp được MẸ một
lần thì uổng thay! Con có biết giờ nầy MẸ đang
hội khai Đại Yến không? THẦY chỉ ngự hai giây là dưới thế năm ngày
Nầy con! MẸ ngự để khai Đại Lễ Bàn Đào,
thì ở trần gian có một nén hương nguyện cầu vừa bay thoảng, thì ĐỨC MẪU NGHI mới
động lòng mớ dụng như thê nầy, Cha chỉ cho con nghe: MẸ mới dùng bàn tay tả mà đưa
lên thẳng, MẸ
chỉ đưa nhẹ xuống, MẸ đưa nhẹ xuống thì sự cầu nguyện hiện rõ trên bàn vô vi Vô
Cực Phụng Loan Đài, còn có biết thế
giang nguyện gì không ? Q. Giaó Tông Nguyện: Cầu xin Cửu Huyền Thất Tổ
cho Ngài Bửu
Liên Liêm. Niệm chữa bệnh, nguyện dược thủy. Còn muôn cái nguyện ở
thế gian nữa MẸ
chỉ mĩm cười. Nầy các con! Mẹ mĩm cười
phán như thế nào con biết không ? Tất cả Tam giáo Thánh Thần đồng mừng tuổi MẸ là ngày trọng đại, là ngày gì
con biết chăng? Ở thế gian MẸ dùng danh từ Khai Đạo : Khai Minh Huỳnh Đạo” mà
trong Hội Thánh nầy các con đã biết, còn một nghĩa là “ Trung Thu Đại Xá” MẸ chỉ cho
Tả Thánh Mẫu mà truyền rằng : “ nương sắc điệp nầy trực chỉ xuống U Minh Giáo Chủ” khi đến nơi thì U Minh Giáo Chủ
khép chặt cửa ngục môn không có một ánh sáng nào nên Tả Thánh Mẫu về trình lại
với Mẹ, Mẹ cười,
đến đó thôi Cha không thấy nữa. Đến nhập tiệc rồi, Cha có hưởng gì đâu!... Chè
chuối sôi cũng không có, Cha vội vã xuống đây ít phút cùng con. Quở rầy con tự
ái, con mắc cỡ, con sợ sệt. Cha nói rõ: Cha mượn cái hữu hình là mượn con, quở
con, rầy con là Cha
chỉ Đạo Vô vi, Cha
dạy Đạo huyền diệu, không phải quở con rầy con là Cha bỏ bê con đâu
Con Ơi ! Thế gian thường tình hay dùng
danh từ mầy, nó. Vậy Cha hỏi con: trong Thanh Đồng con phải xưng hô
như thế nào ? Lớn con gọi bằng gì? Nhỏ con gọi bằng chi? Hoàng Chí Hải ?... – Mầy huynh,
tao đệ mà các con thường hữu dùng ở thế gian tụi, tua, tòng mà thế gian thường
dùng. Còn ở trong cửa Đạo chốn Tiên Thiên không có dùng những danh từ ngoại lai
mất bổn nguồn cội gốc. Các con ở Đông phương không phải là người Tây phương
cũng như các con đang ngự trong quốc độ Lạc Long Hồng Bàng thì các con là người
Việt Nam lớn huynh, nhỏ đệ, lớn tỷ, nhỏ muội. Các con được đồng đều như thế là
Cha đáng mừng. Nầy các con! Nghe Cha xướng thi để Thiên Tinh họa :
“ Đường dài sao chẳng dùng voi
Đi bộ làm sao kịp tiếng còi?
Ở đó coi chừng ma quỉ kéo
Tới đi rồi biết hẽm ngồi
Ngòi, rạch, sông kia nước chảy dài
Hỏi rằng nam tử phận làm trai ?
Nghĩ sao trong lúc thời binh biến ?
Nhìn thấy sanh linh quá đọa đày!”
Nầy các
con! Con nào giỏi họa chăng? Hay để cho Thiên Tinh họa. Cha tài hơn con nên Cha
họa lại:
“ Đường dài Đạo pháp chẳng cần voi,
Đi trước tới sau rõ tiếng còi,
Chẳng phải thần thông hay diệu pháp,
Mà đây chơn lý chỉ nên mòi.”
Cha hoạ
một bài thôi, còn một bài chừa đó. Vậy
các con đã học qua bài Thánh giáo Cha giảng đêm thập nhị, vậy Cha hỏi
con người quân tử giữ nước với lửa, con chịu cái nào. Con chịu nước hay chịu
lửa ? H.H.
Học Viện trưởng? Còn đừng sợ trước uy linh Cha dầu có vạn pháp thần thông, cũng để con
yên lòng học Đạo ... ( muốn được như người thủy). Vậy con hãy trầm minh xuống
biển sâu ngày nầy qua tháng nọ mà không nhờ đến ánh sáng mặt trời, con có chịu
nỗi sự lạnh không con? Nếu không thì không nên cần dùng người quân tử tánh như
thủy. Nầy con Cha
có giảng trước nhược âm thì thanh dương mà nhược dương thì phải thanh âm. Lý
tương dung không phải là chỗ ở nước mà nước lửa hòa nhau cũng như tâm nọ cứng
mềm là tùy theo, cũng như vị Thánh đó nạt nước rằng sao nước vuông mà không dài
ra? Nước trả lời Ngài đã đặt sẵn vị trí
vuông, địa vị vuông tôi không thể theo ý ngài liền trong chốc lát mà dài ra đã
sẵn vị trí nầy : Đây là bình ngọc tròn, khi múc nước vào đó thì bình ngọc nọ
tròn lại, nước tròn theo. Đó là nhược âm, còn nhược dương là cãi với lý nơi vị
Thánh kia. Con hiểu chăng? Nên không thể trầm minh dưới nước mà phải nhờ ánh
sáng mặt trời, nhờ sự tương dung đó các con đã hiểu! Lòng đừng sầu việc trần
ai.
“ Nầy con công quả ở trù phòng!
Cố gắng từ đây chớ bỏ không
Thực vật không cần vì bịnh hoạn
Con ơi! Đừng có núng nào lòng.
Ăn hết bao nhiêu sợ tốn công
Rồi con đi lại bỏ nhà không
Việc nầy Cha dạy con nên học
Đâu phải riêng ai đó bận lòng
Đệ nhứt Cố Vấn Cha giao Thanh Đồng cho con, từ
đây nên huấn luyện Đạo lý, đừng để ngông nghênh, đừng để dở dang, học Đạo dẹp
tự ái, nếu tự ái thì không phải là học
trò chốn học mà thôi.
Về việc Hội Thánh, tạm trả lời với Đức Q. Giáo Tông
về việc thỉnh cầu Cửu Huyền Thất Tổ chờ lịnh MẸ phán. Còn Ngài Bửu Liên Liêm
có muốn về MẸ
hội Bàn Đào hay không? Hội Bàn Đào vui lắm ngày. Ngày nên cố gắng tu hành, cố
gắng tin huyền điễn cao siêu, tin vô-vi mầu nhiệm thì Ngài được ân thưởng vô
biên ở cõi vô vi thì không có đất đứng. Như LINH QUANG đây thì cũng chĩ một
chỗ đứng nhỏ, chỗ đứng đó cẩn bằng kim cương, còn chỗ đứng của thế gian chỉ cẩn
bằng đất gạch. Nầy các con Thanh Xuân gạch các con lấy gì để tạo nó? Học Viện
Trưởng? – lấy đất tạo nó thì dù cho gạch
bông hay gạch bông cẩn bằng kiểu chăng nữa cũng là đất, là bùn thì có quí chăng
vậy ngài? Cha
cho phép H.H.
Dung an tọa, tịnh tâm, nên nhớ âm điễn cũng gọi là âm phong điễn
đang nhập cào một vài người ở trần gian cũng xưng Cha là Linh Quang, đây là MẸ DIÊU TRÌ,
cũng xưng kia là Thánh Mẫu. Con ơi! Mẹ không ngự vào những tầm thường đó mà
huyển hoặc thay đừng nhìn đó
Nầy con Thanh Đồng ! Cha giảng ma cho các con nghe.
Các con nào sợ ma, con nào đứng thẳng dậy; Con nào cũng thẳng đứng dậy vậy Cha triệu Đệ Nhứt Cố Vấn đến, đứng thẳng người
lên để Cha giảng ma cho tất cả nghe. Vậy Cha ví như phía trước là ma, phía sau là ma,
phía tả là ma, phía hữu là ma. Bốn con ma đứng đó vậy chung quanh Đệ Nhứt Cố vấn,
vậy cha hỏi H.H.
Dung có sợ không con ? Ma đâu
con sợ, con có nhìn thấy không?Nếu không nhìn thấy thì cũng không phải sợ, con
biết ma đó là gì không? Ma đó là tứ đổ tường bốn vách thành đang vây con ở
trong khung, bên tả một vách, bên hữu một vách, trước mặt một vách, phía sau
lưng một vách thể hiện ra bốn bóng ma
thì con phải làm sao? Con hãy làm như vầy;
tứ tường là gì? Là sự giả: vậy sự giả kia không thể đem thực tế mà chỉ
có tâm, tâm con nghĩ ra bốn vách, nghĩ ra muôn ngàn cái nghĩ nào lo lợi lo
quyền, lo ẩm tử, ấm thân trước, còn thì giờ rãnh mới tu. Tu đây chỉ rãnh mới tu
mà thôi chớ không phải con tu, tu để rãnh chớ không phải rảnh để mà tu thì rất dễ. Còn người rảnh mới đi tu là
rất khó. Đệ
Nhứt Cô Vấn ngồi xuống.
Cha dạy
Đạo hay chăng các con ? Các con thầm trả lời hay cũng thầm trả lời không hay vì
sợ ý tương dung của Cha, nếu trả lời một lý thì Cha bắt quì hương,
nên trả lời hai lý thì Cha giảng cái hay, cái hay của thi hành, cái
hay của làm thì hay, mà cái hay củakhông làm thì không hay bao giờ. Vay Địa hỏi
các Ngài Đại
Thiên Phong Linh Quang giảng
Đạo dạy con như thế có chí lý hay không ?
Địa cám ơn những tứ bửu Chi Pháp cùng
toàn thể đang nghe Địa dạy nếu có điều chi bổ túc thêm thì nên xây dựng Linh Quang vậy.
Vậy các con Thanh
Xuân, Thanh Đồng ! Các con đã học quả địa cầu, các con đọc quả địa
cầu là trái đất, trái đất hình tròn, các con trả bài sử địa rất hay với thầy
giáo mà không biết hình tròn trái đất hay các con trả bài giỏi về quan sát học,
thân thể học : con người ta chia ra làm ba phần: đầu, mình và tay chân;
trên đầu có tóc, đằng trước có ngực,
nhưng các con không biết tả, không biết hữu, không biết thượng đài, không biết
hạ đài, không biết bên nào là bên nào là dương? Tại sao chia ra làm ba phần
đầu, mình và tay chân? Cha nói trời thì có: nhựt, nguyệt, tinh, con cũng biết
nhựt là gì? Nguyệt là gì? Tinh là gì, nhựt là mặt trời, nguyệt là mặt trăng,
tinh là tinh tú, Còn đất thì có : Thủy – Hỏa- Phong, thủy là nước, hỏa là lửa,
phong là gió. Người có gì con có biết chăng? Người thì có tam bửu : Tinh, Khí,
Thần. Tinh là gì ? khí là gì? Thần là gì? Các con phải biết những danh từ đó để
học, đừng học theo văn minh nguyên tử nầy, cái máy thường tạo những bộ phận, bù
loong, ốc, nào là động cơ chánh... giảng giải một cách rành minh, Cha mới
nói chuyện với một anh thợ mộc rằng : Nhà anh cất, vậy chớ anh không đắp nền
thì có cất được không? Anh mộc trả lời: - Dạ được, cũng như H.H Dung con
trả lời được, không đắp nền làm sao cất được con? Nếu muốn cất được thì phải
đắp nền trước, khi đắp nền xong rồi cha mới hỏi anh thợ mộc: dựng một cây cột
chính giữ có thể thành hình một cái nhà được không, vậy được như thế nào? Anh
thợ trả lời rằng: Bạch được. chỉ có một cây cột chính giữa mà được, vậy được như thế nào? Anh thợ mới
nói : được là ở chỗ ráp hết tất cả cái nhà hợp lại chính giữa là trung tâm, là
cột trụ, khi muốn cất nhà phải lấy chính giữa là cột trụ, là trung tâm, là cột
trụ, khi muốn cất nhà phải lấy chính giữ là cột trụ, là trung tâm điểm từ đó,
mới có thể phân thành mực thước mà ra khuôn cái nhà được. Cha mới mĩm cười: Hay
thay! Hay thay ! nếu con trả lời không được thì đã trật rồi, vậy học Đạo phải
lấy trung tâm điểm nhìn thẳng, nói ngay ở chính giữ điểm gốc.Nên chi HUỲNH ĐÀO thị
Trung Ương
Trung Ương Mồ Kỷ Thổ, Thổ là đất, Mồ kỷ thổ là ở Trung Ương, lấy từ
chính giữa mà phân mực ra khắp Tứ Tượng, Ngũ Hành biến sanh...
Vậy Cha cho vé này các con học chắc sẽ hơn vé Cha điểm
danh từ đứa “ Con ơi, con hỡi!” Khen con công cao, lòng con hớn hởn, rầy con
trách con mặt ủ mày châu, còn không điểm tới thì vô cớ mà nước mắt lăn dài trên
má. Vậy vé nầy con nào học thuộc thì ráng học bổ ích hơn là vé Cha
điểm cho các con hằng ngày, hằng ngày. Nhưng khi dạy thì nghe, khi hết dạy thì
quên chứng nào tật nấy, bịnh nào thuốc nấy
Các con có biết Đạo vô vi Cha
phân ra một chánh, một tà, một trung dung, một được, một không, một hòa đồng
nên khi Cha
hỏi là Cha
hỏi ba con, để con trả lời cái được, Cha hỏi đứa kế tiếp; đứa kế tiếp thấy rằng anh
lớn trả lời cái được bị Cha bắt quì nghĩ rằng mình trả lời cái không sẽ đúng, vội đáp
cái không Cha
cũng bắt quì?
Cha nầy bất công quá!? Nên Cha hỏi đứa thứ ba vậy chớ hai đứa nó trả
lời đứa không, đứa được mà đứa thứ ba phải trả trả lời như thế nào, con về phe
nào, về được hay không về ? Con mới nghĩ ngợi, con theo được thì trật, con theo
không cũng trật. Vậy con phải trả lời rằng “ Bạch Cha không được mà cũng không
không? Được cũng như không mà không cũng
như được. Các ngài Thiên Tinh, Bửu Liên nghe lời Địa dạy càng bổ ích hơn giấc ngủ
còn khỏe hơn một liều thuốc, còn mát hơn một ly dược thủy. Tất cả Thiên Linh,
Bửu Liên học Đạo vô cùng khó khăn, thử thách càng nhiều mà không màng không
nàn, không phải ráng mà tu mà thể hiện sự tu đó cho hoàn tất chớ không không
phải rảnh mà tu. Chỉ tu mà rảnh đó thôi đừng để thì giờ rảnh mà tu. Chỉ tu mà
rảnh đó thôi đừng để thì giờ rãnh mới đi tu thì uổng vậy, Vậy cha hỏi Thanh
Đồng H.C kỷ ngày hôm nay là ngày gì vậy con? Con run. H.C Phương ? ( Bạch :..........)
Đại Lễ Trung Thu Đại Xá. Con quì đó! Ở thế gian người ta dùng những danh từ nào
khác nữa không, H.C.Hải? (Bạch........)
– quì đó! H.C Phước? Con không biết, H.C nào biết ? Tất cả không biết. Vậy Cha
giảng, ngày đám giỗ đó con, ngày kỷ niệm đó con! Ngày kỵ cơm đó con, Ngày mừng
tuổi đó con! Ngày nay là ngày chánh lễ mà Đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG giáng sanh ra vô
cực, là ngày kỷ niệm truyền lưu cho hậu thế còn danh từ của đạo là ngày khai
minh HUỲNH
ĐẠO, là ngày Đại Lễ Diêu Trì Đại xá
Cha dạy
đạo rất nhiều vậy cho phép con an tọa. Học thì phải hành nghe thì phải hiểu mới
đạt được đạo nghe con? Cha dạy
rất dễ, con có thấy dễ vô cùng mà còn phải lóng tay nghe mới quí. Cha
tiếp tục kể chuyện dự Bàn Đào. MẸ ngự trên Vô Cực Phụng Loan Đài tay cất cao tuyên bố “ Khai mạc” thì một giàn
nhạc trổi lên vô cùng huyền diệu, Huỳnh Hoa cũng múa hát huy hoàng, trầm hương
thơm ngát, mùi ngạt ngào lan tỏa. Cha đứng xa, thiệt xa nhìn thấy đào thèm vô
hạn. Cha
mới vừa nghĩ thôi thì nên đến gần MẸ......... cha vừa bước chỉ một bước nhỏ thỉ
tuyết vân màn phủ , vừa phủ xuống cũng vừa biến mất để hiện ta một mâm đào muôn
ngàn trái trước mặt Cha. Vậy Cha cần gì mà đi lại, cha mới vừa tưởng, Cha
không cần đi lại làm chi thì mâm đào nọ biến mất, Cha mới trách rằng” Vị Tiên
nào chơi khâm Cha
vậy?, vừa trách thế thì mâm bánh ngọt lại tới gần, thôi thì nếu không cho ăn
đào, Cha ăn bánh, ở cõi Tiên mà cũng khó ! Cha nữa nói
thế thì dĩa bánh biến thành lá. Vậy Cha hỏi lá ăn được không con? Ăn không được, Cha
buồn quá, Cha
buồn, Cha
giận MẸ,
Cha
mới nhìn thẳng lên thì thấy gương mặt MẸ tươi cười nhưng chẳng phán một lời nào hết
mà mâm đào lại bĩa –bàng hơn, huy hoàng hơn lại hiện trước mắt Cha tên đó bốn
chữ đề rằng: Linh-Quang
thọ nhẩm “. Con có biết thọ nhẩm là gì không?- Là ăn đó con! Khi Cha
vừa ăn thì nghe con dưới trần khóc, Cha mới động lòng quá. Cha nói: ở thế gian các con chỉ
ăn cơm mà cơm thì lạt, canh thì chua chát, nào ớt, nào chanh, nào đường, nào
tiêu đủ vật dụng chua chát cho các con hết. Cha vừa tưởng như thế thì mâm
cơm chua chát của các con hiện đến cho Cha không phải mâm đào nên Cha buồn lòng. Thôi vậy thì Cha
xuống trần để dạy con còn sướng hơn, chớ ở chi hội Bàn-đào gì mà lát ăn đào,
lát ăn cơm, lát ăn bánh lá không có cái nào ăn no bụng cả. Vậy thà ăn cơm với
các con dầu phải chan nước mắt cũng bằng lòng. Con ơi! Tại sao Cha nhớ đến các
con không? – vì bổn phận làm Cha cũng như cha mẹ của các con nếu bổn phận Cha
muốn con mình no thì tức nhiên lén dấu đồ ăn, lén lấy bánh ngon dành cho con
cũng như Cha ăn trộm đào để đem xuống cho con. Đó là thể hiện gì? – có phải thể
hiện tình thương của Cha hay không? Cha dạy mà lòng thấy ngậm ngùi vì trần gian
có giây phút không vui, là lúc mà hiểu cái hiểu không tường tận, biết cái biết
không rõ ràng, thấy cái thấy không tuyệt diệu. Vì vậy mà Cha buồn phải cho biết
cái biết tường tận, thấy con của Cha ra công hãy khen cho nó, mà thấy con của Cha hư
thì nên nhiền hòa mà dạy dỗ: “ Nầy cháu, cháu đi đó coi chừng gai, hãy bước
đường nầy”. Đằng nầy chẳng chỉ mà lại nói rằng “ Con Linh Quang, ổng dạy hay
lắm, nó học giỏi lắm nên nó chẳng biết gì chông gai hầm hố”
Các con ơi! Đừng vô cớ mà nước mắt lăn
dài trên má.
Cha nhắc lại Đạo- con nên thể hiện lòng thương, thương Đạo, thương Cha, thương
Thầy, thường MẸ,
chẳng phải thương bao nhiêu mà thôi, thương đến cha mẹ song thân,
Cửu huyền Thất Tổ còn đọa lạc chốn Âm cung
Các con nghe! Đệ Nhứt Cố Vấn Cha dạy vòng vòng từ văn những ý tứ, Cha
cho phép chỉnh lại ngôn ngữ cho đúng theo lý Đạo là ngôn ngữ mà các con thường
dùng. Vật các con Thanh Xuân, Thanh- Đồng các con đang ăn
cơm của ai đó? Cơm của Hội Thánh, các
con đang ở đâu đây. Đang ở chùa của Hội Thánh, các con đang làm gì cho Hội
Thánh? Thì các con cũng biết công ơn, cũng biết người cho mình ăn cơm, cũng nhớ ơn người dạy mình điều Đạo-Đức. Cơm dầu
có hạt, canh dầu có chua thù cũng không thẹn thùa mới xứng đáng con à! Hãy thức
tỉnh mà nghe Cha
giảng, nhớ từ lớp, từ lớp để đi giảng Đạo mà cứu nhân sanh, không phải Cha
giảng rồi con chỉ khen hay chừng một đêm hay một giờ, hay lúc con dờ trang Thánh-giáo
mà không khen hay mãi mãi trong tâm. Nhưng con ơi! Còn mang cái thần nầy còn
chấp ngã, miến nói chạm đến tự ái thì trốn học, rầy la lớn tiếng thì bỏ quên, cũng như Đệ nhứt Cố vấn , Cha
dạy con dạy Đạo,
Cha khônng dạy con là Đão thì con nên dạy Đạo, mà dạy Đạo là lời nhỏ
nhỏ, từ từ mà thâm trầm lắng nghe con!
Các con biết tại sao Cha dạy cho thành phần chủ tọa
đoàn của các con, bắt thành phần này quì, dạy là sao? Là anh lớn, chị lớn cũng
như ngón tay cái mà Cha vừa thí dụ sao trong bàn tay mà con không
lấy đó để làm gương? Con chặt đứt ngón tay cái thì bốn ngón tay cái cũng vô
dụng như cầm binh không tướng, như có tướng mà không binh, con có hiểu chăng?
Đệ nhứt Cố Vấn? Cha
dạy thành phần nầy là để con dạy cho thành phần sau là vì Cha dạy ngón tay cái để con dạy
ngón tay con, con dạy ngón tay con thì
con cũng phạt như Cha dạy ngón tay cái vậy. Đó là luật bù trừ
không có gì phải quê mặt hay mắc cở, con có hiểu không?
H.H. Tuyết
! từ lâu dầu nặng nghiệp đời nhưng tâm con thường nhớ đến Cha, cũng như thường đem lòng
vàng để công quả, Cha luôn chứng lòng con, vậy Cha
hỏi Đạo con nên nghe mà học, nên hiểu mà theo, đừng thấy văn minh Âu-Mỹ mà ở
trong thế Hồng-Bảng, Lạc-Long vội quên nghe con!
Các con đã tường tận thì từ đây nên hoàn
toàn tường tận. Cha
cấm các con một điều duy nhứt là không được bỏ quên phận sự mà Cha
giao, chẳng những phận sư trách nhiệm với đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG. Cha nhắc lại
một lần nữa trần gian thường thất lễ, Cha quì mọp xuống Kim Cương thạch mà phủ phục
để bạch với Đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG, cha có dám “ Bạch MẸ” đâu con ? Một vị nọ
hỏi Cha
Phật gì mà
ở Cửu Huyền, Ông?
Cha mới
trả lời
Phật đó Phật đi cả giáp vòng
Phật xuống trần gian lên bệ ngọc
Phật về cực lạc xuống Lư Bồng
Cha trả lời như thế một Ông hỏi nữa:
Cửu Huyền thành Phật được không Ông?
Cha mới
trả lời
Thành Phật do duyên nghiệp giáp vòng
Dứt nghiệp Niết Bàn về tự toại
Đó là sau trước chẳng nên bồng
Bồng bột chi Ông Phật có công
Có công đác Phật, bởi do lòng
Lòng không trọn vẹn, không thành phật
Lòng luyến trần gian đó tại lòng
Vậy
một vận từ thứ:
Từ thứ vận ta chỉ ngọn roi
Chẳng ai họa lại tặng vàng thoi
Nghe rồi quên hết không còn nhớ
Tốt cất, rồi đem xấu nọ coi
Cái xấu đem coi thật lóe mòi
Lóe mòi trần tục lóe mòi roi
Roi thần chẳng vị người dương thế
Nghe rõ tường minh thấu giọng còi
Vàng thoi Ông giau ở đầu trâu
Mặt ngựa cất tiền chẳng để lâu
Trên dưới của kia Trời vẫn thấy
Đến khi lấy mạng biết về đâu?
Con nghe Cha kể tiếp câu chuyện, câu chuyện này xứ Trung-Hoa. Con nghe
kỷ:
Có một vị nọ giàu sang tột đỉnh, hằng tỷ,
hàng triệu tỷ nên chi không chỗ cất hết mới nằm phe phẩy quạt lông mà nghĩ rằng
: ta hãy ăn cho no, ăn cho béo, ngủ cho khỏe và hưởng lạc tất cả trên thế gian
để sung sướng, cần gì ta đã quá giàu. Thế rồi, một vị Thần linh gọi là
Thần-Hoàng Bổn- Cảnh thấy vị đó giàu mà hiền mà không biết cách nên vị Thần
Hoàng Bổn Cảnh đốt sớ về tâu Nam-Tài Bắc Đẩu mới cho một vị Tiên xuống trần,
Một vị tiên nữ đến xứ Trung Hoa giả làm đầy tớ cho gia đình đó, làm người ngu
cho gia đình đó, cho vị đó, cho Bà đó sai khiến, thì Bà đó dạy rằng: “ Nầy đầy
tớ! Ta giàu quá rồi, ta để của cho ai đây? Vậy thì ta nên xài, nên sắm cho đẹp,
cho sang, những gì thế gian ta cần phải phải hưởng tất cả. Nghe bà chủ hỏi,
người đầy tớ mới trả lời rằng : “ Cái hưởng có thể gian mà bà đang hưởng theo
tôi nghĩ, thì người đời ai ai cũng phải
chết, mà cái chết thế nào cho vinh quang để tiếng đời phải ca tụng, phải lưu
lại cho hậu thế tôn sùng, lẽ nào Bà chết âm thầm trong đống bạc. Vị đầy tớ nói đến đó sợ xúc phạm
đến Bà chủ nên cúi đầu, thì Bà chủ nói nhà ngươi nói tiếp cho ta nghe. Nhưng
Nầy! Ta không bao giờ chết, nhà ngươi vô cùng phạm thượng, ta sống hoài, sống
đời đời, ta hưởng hoài, ta hưởng đời đời. Vì vậy người tớ mới trả lời: “nếu Bà
hưởng đời đời ở thế gian, tại sao có luật sanh tử, nếu có luật sanh tử, thì tức
nhiên Bà đã bị sanh ra rồi Bà phải chết, Bà đã già thì Bà không thể hưởng được
đến một ngàn năm sau, vậy tôi thấy rằng của tiền nầy nên bố thí cho ăn xin, cho
người nghèo hèn. Bà chủ liền nạt lại đầy tớ :
Ngươi vô lý ! Ta bố thí cho người nghèo
lấy gì ta giàu?
Thế rồi một bữa nọ và bị trúng phải âm
phong, đau nhứt chết nhứt sống, mới gọi đầy tớ lại hỏi: “ Ta giàu như thế nầy
sao những vị lương y tới trị cho ta mà không hết bịnh?” thì người đầy tớ mới
trả lời” “ Bà chỉ làm phước mới hết bịnh mà thôi!” Bà chủ con đang do dự thì
cơn bị lại hành dữ dội, trong cơn mê sảng, Bà thấy lưỡi hái tử thần hiện đến
đòi cướp đi mạng sống của Bà. Nhưng chỉ
thử thách đôi giờ trong cơn mê xem Bà có thức tỉnh hướng thiện hay không, rồi
cũng cho bà sống lại. Khi tỉnh lại, bà chủ mới gọi đầy tớ tới bảo rằng: - ta đã biết việc chết
như thế nào rồi ? Lúc chết ta chỉ thấy có một điểm sáng nhỏ không có tay của
ta, không có mắt của ta, không thấy mình ta, thôi thì của cải thế gian nầy ta
giao cho người, ngươi hãy bố thí, ngươi hãy dùng vào việc cất chùa, tạo am
miễu, tạo nhà thờ hay tất cả những gì hậu thế được nhờ. Vị giàu có đi thoát xác
mới tỉnh ngộ thì được Phật Quan Âm cứu về
Con thấy như thế nào, chuyện xưa tích cũ
có hay không con? Vậy thì con nên roi truyền
chuyện xưa tích cũ để học Đạo
Còn chuyện Hội Thánh vài việc hỏi về tà
điễn hay chánh điễn hay vài việc mà Cha nhắc thêm, từ lâu Cha không nhắc đến Đặc San, vậy
Đệ Nhứt Cố Vấn con thành tựu chưa?
Nếu con thành tựu sớm trước ngày thập – ngũ trong ngày lễ con sẽ được phần
thưởng của Cha,
cũng như về vật chất Cha sẽ nhờ Hội-Thánh trích một số ngân, con biết điều đó?
Vậy sơ lược đạo lý nếu Bữu Liên không
nghe hay thiên Tinh không nghe thì nên nghĩ ngơi còn các con Thanh Xuân, Thanh
Đồng phải nghe hoài, nhớ kỷ, mà không được lãng tâm trong giấc ngủ
Một vị Thần nói Cha: “ Ông Già Linh Quang tối
ngày cứ dạy con nít mà không rồi. “ Cha mới cười: “ Con nít của Linh Quang còn
quý hơn Ngài. Ông Thần giận Cha: “ Linh Quang xúc phạm” cha mới nói : “
Ngài coi chừng đấu lý không lại con của ta, vậy con ta đấu lý với Ngài, Ngài
dám không?
Vị thần mới bóp trán suy nghĩ: - vậy thôi! Cha mới nhờ Đệ Nhứt Cố Vấn con
đấu lý với vị Thần thì vị Thần nọ thua xa. Con biết như thế nào không ? Tại vì
Thần không học lý, Thành ra biết đâu mà đấu với con, nên vị Thần mới xá dài Cha
một xá mà nói rằng : “ Tôi chịu thua Ngài, sao Ngài không dạy người lớn mà dạy
con nít ?” Cha mới nói rằng : “ Con dễ dạy vì đầu óc nó nhỏ, sư tinh khôn nó
còn dễ uốn, cũng như tre và măng; măng uốn theo chiều nào thì nó theo chiều ấy
còn tre già lớn lên rồi uốn túc thì nó
gẫy, uống mạnh thì nó đau, vì vậy bên thà rằng Linh – Quang dạy con nít còn
sướng thân hơn. Thôi thì an bần thủ phận, ngồi ở bàn Cửu-huyền Thất-Tổ còn yên
thân hơn là ngự Liên-Đài, mà nay phải cúi đầu từ-bi mai phải cúi đầu vị tha xả
kỷ; Làm Cữu-Huyền thì xính xái cho nhau. Con biết Cha dùng từ Trung Hoa đó
Nên chi, Cha cũng khen TIẾP ĐIỄN vô biên,
tiếp được diêu điễn tối thượng, tiếp được lý của Linh-Quang truyền cho hàng các
con Thanh-Xuân
Thanh-Đồng. Vậy các con cũng được phần thưởng vô biên về vật chất
Nầy các con! Chiếc đò kia đang ở ngoài
dòng khơi không người lái, nếu không người lái thì tất nhiên đò không cập bến
mà chỉ ở giữa chừng thôi. Nếu ở giữ chừng thì ngày nào con mới tới Bến? Biết
đâu sóng dập gió dồi rồi chiếc đò nọ bị đắm chìm vì cơn bão tốt. Các con thương
tiếc chiếc đò đó hay thương tiếc cho con. Con không bao giờ thương tiếc chiếc
đó mà chỉ thương tiếc cho con vì con cùng chung phận với chiếc đò chìm sâu dưới
vực thẳm. Con ơi! Tình thương của Cha không thể nào lấy thước mà đo được, con
không thể nào lấy gang tấc mà đo lòng của Cha đối với con. Vậy thì con cũng không thể
nào lấy gang tấc mà đo lòng cha mẹ các con đối với các con, mà Hội – Thánh nầy
Thiên-Tinh, Bửu – Liên là cha mẹ của các con mà các con chỉ đem gang tấc mà đo
lòng thì không thể nào được đó con! Một thể điệu buồn thì con nào cũng gần rơi
nước mắt; một thể điệu vui thì con nào cũng hớn hở, cười vui; một lời nói đắng
thì con nhăn mặt, một lời nói ngọt thì mặt tươi tốt vui mừng, một ý nói ngoa,
một ý nói bẻ thì con tưởng rằng Cha bẻ lý không dạy rõ, Cha định nói thiệt thì con nói
hư, Cha không thể theo con nói hư được mà Cha phải nói thiệt, con nói thiệt thì Cha phải
nói hư, vậy các con có bạch gì không? Con nghe thâm trầm thì nên nghe tiếp
HUỲNYH-HOA-THÔNG Con
đừng thấy trù phong, nhìn nồi cháo hay ẩm thực. Đừng sợ! Âm phong làm bệnh
người hết đi con! không dùng bao nhiêu đâu mà nấu mãi ! Các con khi nghe Cha
giao trù phòng cho con nào thì giật mình lo sợ, miếng ăn mà ích lợi gì con!
Miếng ăn của thế-gian, đào Tiên Cha còn không cần, vậy Cha hỏi con, Cha
không cần hay cha không được ăn, con nào bạch? H.H. Dung ?
(..............) con đừng làm mất thì
giờ của Linh Huệ... Con không hiểu hay con nói Cha không được ăn, mà Chính
thiệt Cha
không được ăn, bởi vì đào nó đắng lắng con à ! con tưởng đào là mùi thơm, mùi
ngọt, mùi ngon, đến khi nghe Cha nói đào đắng con lại giật mình. Con có hiểu
nghĩa đắng như thế nào mà con sợ? Vậy Linh-Quang hỏi Bửu Liên vị nào muốn nghe
kể hội Bàn-Đào thêm? Địa sẽ kể thêm cho nghe, nhiều lắm các ngày! Các ngài sau
trở về thì chỉ có quì phủ phục dưới Kim- Cương
Ngọc-Thạch không dám nhìn uy-nghi của Mẹ đâu !
VÔ-CỰC LOAN-PHUNG-ĐÀI
gọi là NGÂN-LOAN
ĐIỆN DIÊU-TRÌ-ĐẠI-ĐIỆN. Kia! Một bức màng mỏng, hỏi Ngài Thiên-An
treo vậy có đúng không? (Bạch....) – Ngài định che như Mẹ đã che Địa vậy. Vậy thì Ngài nên sửa
đổi lại bức màng mỏng treo thẳng từ trần nhà treo thẳng xuống như Mẹ đã treo
ngang mà Địa không thấy gì hết, như vậy mới đúng mà thôi. Khi cơ bít thì kép
màn ngang cho ngăn bớt những ý tưởng bên ngoài, khi mãn cơ bít thì kéo qua một
bên để lễ Mẹ.
Cám ơn Ngài vậy.
Từ lâu hàng triệu lần Đạo Lý mà Linh Quang giảng các Ngày ít theo dõi. Ngày
nay, Linh
Quang giảng nhiều cái hay cũng nên theo dõi để: - Một là, chỉ trích
coi Linh-Quang
dạy đạo cong, méo, tròn – Hai là, để học thêm những mỹ –ý, những từ –chương. Có
vị Bửu-Liên muốn Địa kể tiếp hội Bàn-Đào? Vị nào cũng muốn nghe cả, tâm vị nào
cũng thơ thới. Vậy các vị nhắm mặt lại, các vị có thấy Mẹ không? Mẹ là gì ? Các vị là gì? Tại sao
Mẹ phải bước xuống chín cấp, từ cấp một đến cấp chín? Thôi phần Đạo – Lý không
hỏi làm gi với Bửu-Liên, Địa tả tiếp hội Bàn-Đào
Kìa THÁI-CỰC LONG-QUANG -Ỹ đang uy quyền, các con
Thanh Xuân, Thanh –Đồng biết Đấng Mẫu-Hoàng cúi mình lạy cái gì không con?
Không phải lại Thầy đâu? Thế gian gọi vua có gì con? Tướng có gì con? Vua thì có ấn, tướng thì có lịnh, các con
hiểu chăng Mẹ cúi lạy “ CÀN-KHÔN BỬU
–NGỌC – CHÂU” là Ngọc –Châu,
là ấn pháp của Thượng-Đế đang đội trên
đầu, các con có hiểu không ? Khi Mẹ cúi mình đãnh lễ, các con đừng tưởng Thầy
nghiêm mình để chào lại, Thầy vẫn đứng thẳng, tượng trưng uy-quyền, con ơi!
Tam-Giáo Thánh-Thần mọp một lượt, cha sợ quá nên Cha quì sát dưới
Kim-Cương-Thạch, Cha có dám ngẩng lên đâu. Khi con không thấy, nghe Cha tả con
đang mơ hồ tưởng tượng, kìa ! Con nhìn lên thấy chín Rồng uốn lượn chín sắc
trùng trùng, giữa Trời nhạc Thiên inh-ỏi, đó là báo hiệu xe giá của Thầy sắp
rời Điện Diêu-Cung, là sắp rời nơi Bàn-Đào hội
Các con nghe rõ! Ngày lễ Mẹ, Đấng
Thượng-Đế Huyền-Khung còn đến chúc tụng đừng nói chi đến các con. Nầy các con!
Các con biết Mẹ gọi thầy là gì không?
Không phải gọi Thầy, Mẹ gọi “ ĐẤNG HUYỀN KHUNG KIM –KHUYẾT NGỌC-HOÀNG CHỦ-SỬ”, Thầy gọi Mẹ là gì, các con biết không ? “
ĐẤNG THƯỢNG-ĐẲNG VÔ-CỰC ĐẠI TỪ-TÔN”
Thầy Mẹ gọi nhau bằng “ Đấng” huống chi là các con gọi Đức Ngọc-Hoàng
, huống chi là các con gọi Mẹ Diêu-Trì hay Đức Mẹ Diêu-Trì, các con có rõ
chăng? Dầu ở ngoài đời mới bước vào Đạo cũng hiểu biết cái lý của Cha
giảng, huống chi là các con!
Bàn-Đào chưa mãn chớ nên lui
Địa hỏi rằng con có ngậm ngùi?
Chẳng được tráo đào Cha gởi tặng,
Thì con cũng phải trọn niềm vui
Niềm vui với Đạo ớ, con à!
Đừng để phiền lòng, cực đến Cha
Đừng khóc, đừng buồn nghe trẻ dại!
Thế nào thì cũng có bên Cha
Ngày sau Cha hái trái đào Tiên,
Vạn trái cho con ở thế miền,
Dừng sợ mất phần, Cha hái hết,
Huyền-Linh Cha dấu, dấu Thần-tiên
Thần-Tiên Cha dấu được không con?
Không được, thì Cha dạ héo hon,
Khó lắm con ơi! Sao giải được
Bánh chè thì dễ, rượu đào Tiên
Đào Tiên khó hái lắm con ơi!
Muốn hái thì tâm phải thế đời,
Đến đó hái mười phân lọc chín
Rồi con mới trọn hưởng niềm chơi
Niềm chơi hay giỡn mặc tình con,
Đâu sơ trần-gian bóp méo tròn,
Ở đó thảnh thơi lui tới dạo
Đâu còn sanh từ, khổ nghe con .!
Các con nghe Cha dạo vườn đào. Cha
đến cửa vườn thì lão Thần giữ vườn cũng gạn hỏi Cha: Ông đi đây nầy? Cha mới
trả lời
Ông đến vườn đào để kiếm roi
Đừng hay han hỏi chớ ra mòi
Làm Tiên hay hách sa địa ngục
Đừng có nhiều điều chẳng biết coi
Vị thần mới trả lời:
Kiếm roi đâu ở vườn đào
Chắc rằng ông hái lá đào làm roi
Làm roi ông lại làm còi,
Thổi lên ba giếng coi mòi không xong
Vị thần mới khai môn, Cha
bước vào cườn đào, con ơi ! thơm vô cùng. Đi vòng hết một ngày Trời, chân đã
mõi Cha
không biết đã đến nơi đâu? Cha tọa
xuống, con biết dưới gốc đào Tiên là muôn triệu mã-não san hô, là muôn triệu
kim-cương ngọc-thạch, Cha dựa lưng vào gốc đào phe phẩy quạt mà ngâm
rằng
Đào Tiên đã chín có hay không ?
Địa thưởng thức chơi để ấm lòng
No bụng mới đi cùng khắp xứ,
Nếu không bụng trống chớ nên hòng
Cha vừa
ngâm dứt câu thì trái Đào cũng vừa rớt
xuống, Cha không
cần hái mà đào nọ vẫn rớt theo, vừa rớt theo thì Cha vừa dùng huyền-linh tạo
thành một chiếc dĩa đựng liền, Cha vừa đựng vào chiếc dĩa nọ thì trái đào kia
trả lời Cha
rằng
Chén khua dưới bếp dĩa ông chờ,
Đào dựng làm chi nó lấm dơ!
Dĩa để đựng nhờ, nhờ bánh trái
Còn đào chỉ đựng, đựng hồn thơ!
Con
có nghe đào cũng biết trả lời, nên Cha mới nói
Hồn thơ mà đựng trái đào
Làm sao ăn được nuốt vào cho trôi ?
Đào rằng : Ông chớ than ôi
Về đi cơm lạt nuốt trôi như thường
Đến khi Cha
đi nữa, Cha đi giáp vòng rồi thì được bốn câu thơ của Mẹ
Đã có sẵn, từ
đâu âm thanh vọng lại tiếng dội thanh thanh
“ Trung-Thu Kim –Mẫu Mẹ ban chung,
Rượu rót tay nâng cứ hưởng dng
Đào đó các con nên dụng lấy
Rượu tiên uốnng cạn vài chum
Thì câu sẵn có
Tiên tửu, đào hồng kỳ này thì Cha ăn no bụng, mỗi lần ăn no như thế là mỗi
lần nhớ con vô cùng, thôi thì thà đừng ăn để nhường lại con ăn
Con ăn Cha hỏi có no không?
Con trả lời không đó dối lòng
Con dối với, Cha đừng dối Dạo
Con nên dối thế, giữ điều công
Điều công con nhớ gió qua sông
Gió thoảng rồi bay gió thoảng làng
Đâu phải trường miên đời vạn kiếp
Mà con khắc khoải lửa thiêu lòng
Bài
Canh khuya
khoắc Cha
về đàn nội,
Dụng tử văn chỉ
lối tu hành,
Mong rằng con
chẳng cải canh,
Dầu cho khó khổ
đã đành, con ơi!
Một bước đi là
đời bốn vách
Một bước về tay
xách, tay bưng,
Con nên nhớ rõ
mấy lần
Khi con bưng
xách hồng-trần đau thương,
Con thì tạo
nghiệp vương đầy đặc
Con nthì mang
thắc mắc nơi lòng,
Kìa xem một
ngọn cuồng phong,
Con ơi! Sức
khỏe con đồng được không?
Siêu chơn lý
con không vẹn vẻ,
Dụng từ ngôn
đâu lẽ con quên,
Ngàn xưa con đà làm nên,
Giờ đây một
kiếp không bền sao con?
Dạy ráo tiếng
việc tròn nói méo.
Dạy ráo lời
việc khéo nói hư;
Dạy con từ chữ
Chơn-Như
Dạy con từ lý
huyền thư vô cùng.
Con có học mới
dùng mai hậu
Lửa thử vàng
đem nấu đi con!
Vàng thau lộn
lạo, chưa tròn
Cha vàng còn đó
thau, bòn hòa nhau.
Vàng với thau
như đào với rượu
Rượu pha đào
con thảo nghĩ gì?
Hồng trần là
chôn mê-si
Con ơi! Tình
nghiệp màng chi kiếp nầy.
Dầu bảy năm
chưa đầy ân nghĩa,
Dầu ngàn
năm trong phía luân- hời
Cũng còn trả
nghiệp con ơi!
Phận là chị lớn
Đạo trời nghĩ sao?
Phải dắt dẫn
cho nhau tất cả,
Phận lớn mà vấp
ngã trước em
Hỏi con phận
lớn vén rèm,
Bao nhiêu rèm
cũng lấm lem, con à!
Vậy phận nhỏ
con là ở dưới,
Dưới mà cao con
tưới như vầy
Dưới cao là lý
đủ đầy,
Lửa kia thiêu
đốt một bầy con thơ
Nước vừa cho
đúng giờ tắt rụi
Lửa tắt rồi
nước tủi ta đi
Còn đâu để lọc
thau chì,
Thắng thì con
chẳng mừng gì, con ơi ~
Phải âm-thầm
dòng khơi tuôn chảy,
Cúi đầu đi dầu
phải trổ ngang
Khi nào nước nọ
hung tàn
Xưng rằng ta
thắng, ta ngoan hơn người
Nướuc âm-thầm
cúi lời dòng chảy
Ngấm xuống
sâu thừa-thải hay không?
Nước kia vừa
trở xuống dìng
Một lời không
nói, một lòng không phai
Còn lửa nọ
tưởng rày ta giỏi,
Đốt rừng hoang
ráo trọi đi con!
Cây cao, cây
thấp, cây tròn
Nửa giờ đốt hết
không còn, con ơi!
Đốt cho cháy
đốt nơi có lá
Đốt cho tiêu
cặn bã trần gian
Có điều lửa nọ
hung tàn
Nhưng không đốt
nước được toàn đâu con!
Đốt nước vẫn
sốnng còn hơi tỏa
Nước vẫn sôi
nước đã nên hình
Hòa theo hơi
lửa hữu hình
Nhưng không thể
cháy hết mình thủy nguyên
Dạy như thế con
hiền nào biết
Thì học xong
phận việc như vầy
Con ơi! Hãy réo
gọi thầy
Đến khi hoạn
nạn Thầy
ơi, là Thầy!
Khi bình tịnh
như vầy không niệm
Đến đạn bon lại
tím bầm gan
Niệm rân một
tiếng NGỌC-HOÀNG
Niệm cầu KIM-MẪU bố ban từ –Lành
Tâm thanh tịnh
Cha rành dạy rõ,
Con nào thông
thì đó là thông
Nếu không thì
đó là không?
Tại sao như thế
việc đồng trần gian?
Lý mê-muội
không ngoan, khó học
Lý siêu-vi
không đọc, khó tường
Con ơi! Nên
biến con đường
Tâm thanh tịnh
phải là nương Đạo mầu
Tâm thanh tịnh
không sầu tất cả
Nơi đâu đâu
chấp ngà không cần
Chỉ tâm là một
thể nhân
Là Phần nhân
chứng cho phầnn tịnh thanh.
Chữ thanh tịnh
d ạy cần phải học
Nơi nào đâu
cũng đọc, cũng nghe
Nơi nào cũng
tịnh dặt – dè
Đó tâm thanh
tịnh mới che bề ngoài
Che bề ngoài
tâm rầy chưa tịnh
Đến non cao để
tính tu hành
Tới khi gặp cọp
tâm sanh
Nghĩ điều
trần-hạ đã đành con ơi!
Cọp thỏi sáo
giọng thời trầm bỗng
Tâm con sanh
tức động rồi con
Làm sao tu ở
nhà thoàn
Tu chùa cũng
chẳng được toàn đâu con!
Tu càng cốc
không tròn hơn nữa
Mà tu tâm mới
sửa được tâm
Con ơi! Lời đó
không lầm
Lý này Cha
giảng âm-thần con minh
Sao Cha
gọi con nhìn kìa cọp
Sợ hay không
đổi lớp trần gian
Con rằng lời
nói rất ngoan
Sợ rằng lời nói
dịu dàng Cha ôi!
Con trả lời Cha
rồi việc đó
Con biết rồi
không khó đâu con?
Trần-gian như
thế nặng đòn
Ngày sau mới
thấy việc tròn luân vơi
Tròn luân với
là đời sanh tử
Là Luân-Hồi
trong chữ đau thương
Nhân nào quả
nấy con đường
Lành thì con
hưởng, dữ nhường cho ma
Dữ đó con gọi
là ác quỷ
Hay là ma để
chỉ con người
Vậy con học Đạo
dừng lười
Việc làm cố
gắng đừng cười con ơi!
Phận anh lớn
phải tròn anh lớn
Phận chị lớn
chớ giỡn với
Cha
Lớn thì con
phải trước Tòa,
Đứng lên thuyết
pháp như Cha mới thành
Cha vừa chỉ con hành thì đúng
Con không hành
không trứng lời
Cha
Thì con mới vội
bạch ngoa
Không hành mà
trúng, con là thật ngoan
Không hành
trúng con toàn nghe rõ
Trúng là vì con
có nghỉ rằng
Dạy mà chẳng
biết chuẩn thằng
Thì là không
trúngn bản – năng Cha truyền
Hay! Hay thay! Cha
hiền dạy tiếp
Con giỏi thay Cha
hiệp là hai
Bên âm, dương
để phân rày
Nhược dương thì
chắc có rày thanh âm
Con đến đây
âm-thầm học Đạo
Hay việc trần
khảo đảo con buồn
Dư giờ con đến
học tuồng
Mãn giờ con trở lạo buồn gia trung
Dư giờ học con
dùng lý-Đạo
Rãnh thì tu bận tạo chưa minh
Chưa tu, chưa
được cho mình
Ở nhà chồng vợ
vẹn tình còn hơn
Con có biết
tiếng đờn Diêu – Điện
Thiệt thâm trầm
một chuyến nầy thôi,
Tình tiền danh
nghiệp con ơi
Tấc hơi con giữ
được rồi hay không?
Cha dạy đó hết lòng, hết dạ
Mà các con chấp
ngã thế nầy
Ông già nói
chuyện dằn dai,
Trước sau, sau
trước đó đây luận bàn
Già tuổi đạo mới càng theo ý
Già tuổi đời
mới quí nghe con!
Ngày xưa cha
bận nước non
Ngày nay Cha
bận vì con vô cùng
Bận hậu-tấn,
bận dùng chơn lý,
Bận dùng roi,
bận nghĩ vàng thoi,
Bận đưa, bận
rước, bận đòi,
Bận con, bận
cháu bận rồi trần gian.
Vàng thoi đó
con toàn ăn cắp,
Cắp vô-vi tưởng
cắp trần gian.
Vô-vi vẫn có
bạc vàng,
Mà con ăn cắp
rõ ràng thấy không?
Vô-vi cho con
hòng giàu có
Con vội rằng
mắc-mỏ vô-vi,
Ngày sau khi
thác thế thì,
Vô-vi mới hỏi
vàng đi theo mình.
Cha cho con
hiển vinh vàng bạc
Vậy tạo gì hay
mạt Thiên-Cung,
Mạt đây chẳng
có đất dùng
Đất Thiên-Cung
đó tích tùng kim cương.
Kim cương chỉ
lót đường trải sảnh
Nào đâu là
lóng-lánh huy hoàng
Chớ đâu phải
sỏi trần gian,
Mà không sắc
chiếu vẹn toàn con ơi!
Trước thềm ngọc
cao vời KIM-MẪU
Mẹ đứng lên tay phủ Đạo bào,
Cực-Đồ ánh tỏa
Kim trào,
Tiễn đưa THƯỢNG ĐẾ ngự
trào Ngọc-Kinh
Rồng uốn lượng
cửu linh qui tựu
Nhạc tấu Thiên
cao ngữ đài mây,
Mẹ hiền bước
xuống chân Thầy
Tạ từ thọ chúc
hội nầy hòa duyên
Nghĩa
THẦY, MẸ Thiêng-Liêng
cao thượng,
Không
nghĩa đời vấp vướng trần gian
Nghĩa
tình, Nghĩa nghiệp MẸ ban
Vợ
chồng, chồng vợ thế gian con à!
Cha hết sức gọi là thắm-thiết,
Bởi
thương con mới viết từ vần
Dầu
rằng khó khổ cực thân
Con
ơi! Muốn được đức ân vẹn toàn
Nhắc
tới lui con đàn đầu cả
Lớn
làm anh em ngã phải nâng
Chị
thì làm lớn phải cần
Hai
tay đều vớt cho thân được nhờ.
Một
bàn tay nảy giờ Cha
giảng,
Con
học chưa, con ráng hành chưa ?
Nếu
không Cha hỏi
con thừa,
Đừng
mê trong giấc ngủ trưa kéo dài.
Cha chỉ đêm nói ngày có được
Được
không con hay phước không con?
Chỉ
đêm thì nói đêm tròn,
Chỉ
ngày thì nói ngày tròn con ơi!
Theo
giờ giấc của đời ấn định,
Từ
nếp khuôn quyền bĩnh cha giao,
Nếu
không con nghĩ lẽ nào?
Cha
còn giáng điễm trước sau phân trần
Cha
dạy văn nhiều vần ráng ghép
Nhiều
trật văn tại hẹp lời truyền
Cho
con chỉnh rõ văn nguyên
Để
thành linh động cho quyền tối siêu
Con
được thưởng ít nhiều trần hạ,
Đừng
vơi lòng cặn bã con ơi!
Bao
nhiêu sống ở trên đời,
Cũng
không bằng sống ở Trời nghe con!
Cõi
Kim-Liên nhiều son nhiều phấn,
Nhiều
san hô nhiều hấn nhiều vàng,
Cũng
nhiều đạo sắc hào quang
Cũng
nhiều báu quí rõ-ràng kim cương.
Cha
phân tách con đường giải thoát
Con
phá xiềng con đạt đường mê,
Con
mê thì chẳng đi về
Giác
ngàn muốn đến tưu-tề Linh-Tiêu.
Con
hầu đàn thiu thiu giấc điệp,
Đêm
khuya rồi Cha
tiếp dạy thêm,
Hằng
ngày, hằng khác, hằng đêm
Cha thường nhìn thấy dưới thềm con xin,
Con
xin được cho mình sức khỏe,
Con
xin rằng mình lẹ hiểu thông
Con
xin con được Thanh-Đồng
Được
rồi con bỏ quả công cấp thời,
Con
dầu có tuân lời thế mấy
Xác
thân này là quấy đó con!
Đâu
nào tại trẻ, tại con
Tại
thân, tại nghiệp, tại đòn nhiều hơn
Xác
nhân muốn con hờn vô kể
Nhưng
linh hồn kềm chế được đâu?
Còn
sanh, tứ đại còn sầu
Mấy
ai đắc được nháp mầu con ơi!
Vậy đàn nầy tức thời sao điễn,
Đến
ngày mai một chuyến con bình
Nhớ
rằng không phải thông minh
Nhớ
rằng tất cả lý-Huỳnh bình theo
Ngồi
lẳng-lặng Cha
gieo nên ý
Khi
động tâm Cha
chỉ có liền
Để
con biết Đạo Thiêng-Liêng
Đừng
hay nóng tánh gợi phiền con ơi!
Nhắc
tích xưa ai thời trung-liệt
Dầu
Trương-Phi khí tiết ngang trời,
Không
làm quân tử con ơi!
Chỉ
còn khí tiết của người mà thôi.
Cha
dạy đó lằn vôi ghi mức,
Học
tới đây là sức của con
Trèo
leo lên tới núi non
Thì
không thể học cho tròn lý siêu
Vậy
Bửu-Liên ít nhiều thấm hiểu
Cũng
vui mừng Địa biểu con Ông,
Hiến
thân hay chẳng tùy lòng
Địa
không ép buộc tại Ông, tại Bà.
Nếu
hiến thân Địa là dạy Đạo
Dạy
việc đời, dạy bảo trước sau,
Dạy
từ chỗ thấp lên cao,
Dạy
qua dạy lại điều nào không minh.
Ngài
cứ nói vô tình Địa lắm
Dạy
con mà chẳng thấm lòng ta
Thì
đừng có dạy nên mà
Để
con hư hỏng bước ra lập đời
Dạy
ráo tiếng Ông thời thử dạy
Nhín
một giờ Ông dạy cho con
Con
Ông, Ông dạy việc tròn
Rồi
con bóp méo Ông còn méo theo.
Ông
tưởng rằng con treo ý tốt,
Vội
chìu theo lửa đốt đồng sao?
Bấy
nhiêu Ông giỏi dạy nào.
Dạy
đi cho trẻ biết cao, biết người.
Không
chịu để một thời giờ rảnh
Dạy
cho con ấm lạnh trần gian;
Ngày
thì hai buổi sở quan,
Đêm
thì cầu nguyện cho an gia-đình
Đến
khi ho chuyện mình mình giữ,
Đến
khi đau hỏi thủ ngon không?
Hay
là ăn uống cho đồng
Mới
ngong miếng bí, mới thông miếng trà
(.............................phần
điểm danh.................)
Con
công lớn ngậm ngùi than trách,
Công
nhỏ thì lại thách hơn con,
Tưởng
rằng ta được vẹn toàn,
Nên
công chưa nửa con toan hơn người.
Vậy
con nào biếng lười học Đạo,
Đưa
tay lên Cha bảo
dạy thêm,
Ngày
ngày phận cạn lý đêm
Dụng
ngày mà dụng lý đêm rõ-ràng.
Thôi
vắn tắt giã toàn Hội-Thánh
Cùng
các con ấm lạnh đừng buồn,
Đạo
trời con rõ tiếng chuông
Hồi
đầu thức tỉnh đừng buồn nghe con!
Ngày
Đại Yến không
mòn sức khỏe
Kìa
nước Tiên mau lẹ uống vào,
Các
con đừng có nghĩ nào,
Đó
là nước lạnh Cha trao ích gì?
Đó
nước Tiên Cha
thì cho trẻ,
Đó
Đào Tiên Cha
vẽ cho con
Uống
đi thì được thêm tròn,
Uống
vào thì mát nghe con trần hoàn
Giã
tất cả đãi đàn lui gót
Có
bánh chưng, bánh ngọt, bánh dày
Chuối, chè, trà rượu đủ đầy
Đó là phần lễ hội này mà
thôi.
Cha đâu dùng trần đời con
cúng
Mỗi việc gì đều túng gọi Cha
Về ăn chuối đó đi Cha
Đề Cha tha tội con là trần gian
Con cúng lễ rượu ngoan rượu
kĩnh
Con cùng THẦY
rượu thỉnh hơi nồng
Thôi Cha dạy Đạo giáp vòng,
Kiếu từ tất cả Điện rồng
qui thăng
PĐ. Vô-vi (HTĐĐ)
TĐ. Bửu-Sơn Pháp Chủ
CĐ. Quyền Hộ-Pháp
HĐ.Tăng, Ni-Trưởng
Thiên-Tinh, Bửu-Vị
ĐK: Máy ghi-âm
|
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
(Đệ thập-tam chu niên Kỷ-nguyên
Huỳnh-Đạo)
BỬU-TÒA DI –LẠC TRUNG-ƯƠNG
SIÊU NHIÊN
ĐÀI THƯỢNG
Hợi thời, 9/1 Giáp Dần (31/1/1974)
|
THI
Vương cánh hào quang chiếu địa-cầu
Nương mây lướt gió hiện thần châu,
Siêu-Thiên Đài-Thượng truyền linh báu
BẠCH-HẠC thừa
vâng hóa ứng chầu
Bạch-Hạc Đồng-Tử , Tiểu-Thánh chào mừng
chung Thiên-Phong nam,nữ hiện tiền, Giờ thiêng, Tiểu –Thánh báo tin Tam-Giáo
lâm phàm, Đại Tôn-sự ngự thế. Vậy nam nữ Thiên-Phong Trưởng ấu đồng tịnh tâm,
ngưỡng thành siêu hóa hầu càm ứng linh- hư , để cho chơn điển đại-từ
truyền-quang nhập bút
Nhập bút siêu quang báo tiệp hồng
Hoàng-đồ Thiên Địa điểm thâm công
Nhược bằng trọn kiếp tu thinh phúc
Muôn thuở Tiên-thiên ngự chín rồng
oOo
Rồng chầu phượng rước đấng hiền-lương
Nam nữ cùng chung một lối đường
Trễ mãi tam-công e khó gặp
Muôn đời đọa lạc cảnh đau thương.
oOo
Thương đau thế tục mãi xoay vần
Liên tiếp muôn đời khổ xác thân
Đừng tưởng ngày nay không nghiệp quả
Ngày mai thanh thảng đác chân nhân
oOo
Chân nhân muốn đắc phải trì tâm
Suốt kiếp bền gan chẳng lạc lầm
Một phút chẳng tròn tinh với tấn
Đường Tiên, Thánh, Phật rất xa xăm!
oOo
Nhân dịp
xuân về chúc nữ nam
Ơn lành Thượng-Tổ phóng kim quang,
Giải trừ nạn ách chung nhân-loại
Bạch-Hạt truyền tin đáo đại-đàn
Triều
nghinh..........
NGƯƠN kỳ
tên ........... tâm minh
THỦY đáo đàn trung điểm Đạo Huỳnh
THIÊN địa luânlưu châu phục hiện
TÔN hành nhập diệu độ Kim-tinh
GIÁNG đàn Xuân đến ban hồng phước
NGỰ
bút Tân Niên phải hóa
trình
SIÊU lý Trung-ương hòa Thánh-Đức
THIÊN đài
giải thoát vạn sanh-linh
Thiên-Tôn mừng chung, ban ân chung nam nữ
Xuân lai... Miễn lễ tõa thiền đồng thính !
Nhân Xuân quang kính truyền bút siêu
linh, thọ ký Đạo Huỳnh chư nguyên-linh kĩnh tin diệu pháp. Nầy Thiên-phong nam
nữ ! Giờ thiêng chiếu ứng, lành thay! Lành thay! Cơ đời dồn dập, Trời Đất
chuyển xây, lòng tin tưởng nơi nầy nên trên thầy ứng hóa.
Trước nên suy điều cội cả nguyên-lý là
người, rối cố gắng càng sửa hạnh đức thêm tươi để trở về với nguyên bổn
Nầy chư nguyên-linh! Tịnh tâm, tọa thính
mở trí-tuệ siêu nhiên để nghe lời khuyên của Thiên-Tôn phán dạy .“Nhứt bổn tán
vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn” nghĩa là một gốc chia ra vạn cành, vạn cành
nương về với bổn gốc. Đừng dùng trí phàm xét nét, mất đi Thiên-Lý siêu linh.
Nếu tất cả nguyên-nhân từ Thiên –Đình vốn của Thượng-Đế ban ra, nay trở về với
Thượng-đế, đó là “ vạn thù qui nhứt bổn” hữu lý thay! Hữu lý thay!.. như cây
kia có trái, kết quả đủ đầy nhưng, nếu trái kia không tròn phân, chẳng có hột
hoàn toàn thì làm sao trở về với bổn gốc? Trái không thành trái, bông nọ chẳng đơm
bông, thì không thể nào trở về như nguyên thể được “ Vạn thù qui nhứt bổn”có
nghĩa là mỗi linh-tử của mỗi nguyên-nhân đều do Thượng-Đế mà có, có là có kết
trái trổ bông, chớ không phải có trở làm nên cây như trước, nên nhớ: khi ra đi
là hột, nay trở về vốn thiệt là cây, đó mói gọi là vạn thù qui nhứt bổn” đừng
tưởng rằng ngôi vị ngàn xưa là Tinh-Quân, là Thiên-Tướng ngày nay lâm phàm trở
về ngôi vị cũ của mình mà lạc lầm thay! Lạc lầm thay!
Từ thuở sơ khai chỉ một người, một gia
đình mới có xã hội, mới có quốc gia; từ một mới chia ra thành nhiều thì chính
Thượng-Đế, Diêu Trì ban cho tất cả muôn loài vạn-vật từ khối Vô-cực đến
Thái-cực biến dịch thiên thiên hóa hóa... Nơi Trần-gian, điều biến dịch đó muốn
huy hoàng thì cũng phải như sơ khai trước vậy. Mỗi nguyên-nhân là mỗi vị xưa
căn cũ – Vị xưa căn cũ chỉ là căn xưa vị cũ mà thôi, chớ không phải trở về có
vị cũ yên ngồi mà hiện giờ đây, cũng như xưa là một, khác thay ! Khác thay !...
Xưa là hột giống, nay phải trở lại thành cây; cây kia có hoa, có lá, kết trái
sẵn sàng thì cây nầy vẫn giống như cây xưa mới gọi cây. Cũng như các
nguyên-nhân gieo giống vậy, nếu nay là loại hoa mượn hột hoa quỳnh, thì nếu hột
hoa quỳnh không được đâm chồi nảy lộc, trổ hoa thì đó không phải là hoa quỳnh.
Nếu hột hoa quỳnh kia có lá, có hoa đầy đủ nhân thế nhìn vào; cây trước cũng
hoa quỳnh hột sau cũng vẫn cây hoa quỳnh là một. Đó mới gọi là “ vạn thù qui
nhứt bổn” Đừng tường rằng ngày hôm nay linh-tử lâm phàm vốn của Thường-Đế rồi
trước sau cũng trở vế với Thượng-Đế mà quên tam-công rèn tâm, tạo trí để trở vế với con đường khi
trước – đó là hột giống ngày nay như cây ngày trước vậy. Nên nhớ lời của
Thiên-Tôn-Ngươn-Thủy ban ra ! cũng như đây, có hằng-hà sa – số linh- tử của
Ngươn-Thủy lâm phảm nhưng cũng hàng-hà sa-số không có bao giờ như trước, nghĩa
là không bao giờ trở lại như cây xưa !... Lời này, thử hỏi trong Thiên-phong
nam nữ có hiểu thấu được chân lý của Thiên-Tôn cũng chăng ? Thiên-Tôn e rằng
chỉ đôi người là hiểu thấu, còn bao nhiêu vẫn mịt mịt mờ mờ ...!
Tam- công có nghĩa là rèn đúc công phu,
công quả, công trình để cho hột giống xưa được nẩy mầm trổ lá, có hoa, kết trái
như cây xưa thế đó mới gọi là Vạn thù
qui nhứt, mới gọi là giống với tiền kiếp ngàn xưa mới gọi là ngôi vị cũ. Nếu
ngày nay hột nọ không được giữ gìn, chẳng có tam công, không có người vun phân
tưới nước thì hột nọ chẳng có thành cây, không đơm bông kết quả, thì ai biết đó
là cây xưa, vị cũ?
Ngày nay tu hành theo phước duyên của Tam
–giáo ban ra, Thượng-tổ hồng ân truyền xuống chỉ cho con đường ngắn nhứt để về
với giải thoát ngàn đời. Trong một trăm lẻ tám (108) con đường về với ngôi xưa vị cũ, về với Bạch-
Ngọc Hư-Cung chỉ ba con đường nhẹ nhàng nhứt cho nguyên nhân là: công phu, công
quả, công trình. Ngàn xưa không phải chỉ có công phu, công quả, công trình mà
đắc được, ngàn xưa phải có sự hy sinh nhưng, ngày nay tất cả nguyên-nhân không
thể hy- sinh được, cùng với bí-pháp cao thâm, cùng với công quả tiêu trầm hầu
giải thoát về ngôi xưa vị cũ. Đó là ba con đường trong một trăm lẻ tám đường
giải thoát mà Thượng-Tổ chiết ra để cho nguyên-nhân thọ nhận hoặc hy-sinh, hoặc
công-phu, hoặc luyện pháp, hoặc công quả để trở về với ngôi xưa vị cũ. Nhưng
nên nhớ: không thể tách rời ba phần đó được. Ba phần đó tuy phân ra để cho tất
cả nguyên-nhân hiểu mà hành theo, nhưng ba đó là một cũng như năm ngón tay
chung một cườm tay vậy, nên nhớ !
Diệu lý siêu quang điểm Đạo mầu,
Xuân về hạnh hưởng lý huyền sâu.
Đạt thành chơn quả ngàn muôn kiếp,
Thoát khỏi đau thương chốn địa-cầu.
Địa-cầu thử hỏi được bao nhiêu,
Nguyên-vị đồng về chốn Cửu-Tiêu ?
Hay phải sa trầm muôn vạn kiếp.
Đợi chờ tôn tử độ hồn siêu.
Siêu thoát tự mình chọn tứ công,
Tam truyền đắc thọ lộ nhơn ông
Tự mình giải thoát cho thân thể
Đừng để đời sau nguyện thiết lòng
Vậy có Thông-Thiên lâm bút, Thiên-Tôn
mừng chúc Chức-sắc nữ nam Tân Xuân trưởng ấu hồng phước giải truyền, đạt lý cao
nhiên qui nguyên bổn giác
Triều nghinh ...
GIÁO
truyền Triệt-Giáo chính là ta!
CHỦ hiện
hồng ân hiệp tứ gia,
THÔNG lý
siêu nhiên hòa thượng hạ,
THIÊN
điều bất nghị thị kim sa.
GIÁNG
đàn, khuyến thế tu cho kíp,
NGỰ bút
hỏi người có nghĩ xa;
SIÊU hóa
tâm hư linh thể hiển,
THIÊN đài
ứng điển tựu Long-Hoa
Thông-Thiên Giáo-Chủ thừa bút trợ duyên,
phò lịnh cao nhiên, giáng trần truyền dạy, Miễn lễ, miễn lễ ... nghe
Thông-Thiên bàn điều trái phải. Nếu lời nào đúng nên nhớ vào tâm, chớ có nghe
lầm sa vào vòng thảm đọa!
Nầy Thiên-phong nam nữ, tuy giữ chữ tam
công dầu Ngươn-Thủy dặn lòng nhớ lời Thông-Thiên dạy bảo:
Xưa, cơ trời đã phân ra biết bao nhiêu
nhưng cũng rốt ráo chánh tà, Xiên triệt, chơn ngụy, âm dương, hai con đường đó
cũng hợp nhứt về ngôi Thái-Cực. Dầu có tội cũng con của Thượng-Đế, có công cũng
tôn tử của Diêu-Trì. Người đi trước dìu dẫn người-sau, tiếng của thông Thiên
tuy gốc ở Tàu nhưng huyền-Linh siêu nhiêu trùm Tam-Thiên đại Thiên Thế-giới
vậy, Nếu thông thiên còn ngự ở trong tâm trí thì còn sánh hóa biến dịch, nơi
nào có không khí tất nhiên có Tam–Giáo cũng như có Thông-Thiên, đó là lý
vi-huyền của không-gian và vũ-trụ, nên nhớ!
Lý “ Vạn thù qui nhứt bổn”, “nhứt bổn tán
vạn thù” của Ngươn-Thủy tuy đầy đủ nhưng còn thiếu kém lẽ siêu-vi. Nên nhớ :
dầu chánh tà, chơn nguy cũng do Thượng-Đế mà ra, dầu con một nhà nữ nam cũng
cha lãnh trách nhiệm, Xiển, Triệt, âm , dương ; cao thấp; thiện ác cũng do cha
mẹ điều động trách nhiệm gia-đình, thì nay trước Hư-Cung Thượng-Đế vì trách
nhiệm là Cha, Diêu-Trì là mẹ nên nhiều năm tá dành Cao-Đài khuyên con trở về
với nguyên bản, nhiều năm Diêu-Trì truyền bút khổ cực xuống lên với quả địa-cầu
sáu-tám nầy, biết bao nhiêu Thần tiên Thánh phật! Người đi trườc đàn anh, Mẹ
Diêu-Trì đấng từ-lành mượn lời khuyên nhủ các bậc lâm trần dìu dẫn người sau,
độ cho cùng, dắt cho tận cũng như A-Di-Đà-Phật huyền vận trong vạn hữu
sinh-linh, nay trước luật Thiên-Đình tất cả ba kỳ cộng lại, tam kỳ hiệp nhứt đó
là lẽ tuần-hoàn không nơi chối cãi, đó là đại-hội Long-hoa, đó là luật của ta
bà thành, trụ, hoại không
Nên nhớ! Tuy là Linh-tử của Thượng-đế mặc
lòng, nếu nay rèn tam-công thì sớm về với Thượng-Đế mà linh tử hiện tiền vì bởi
tiền duyên, cho nên giáo ngộ được lời khuyên trở về sớm thì được sớm nhàn, trở
về sau thì cũng tới sau. Đừng tưởng rằng tất cả con cái của Thượng –Đế đều bị
hủy diệt như nhau, mà quên rằng lòng từ-bi của Diêu-Trì sanh hòa. Người đi
trước thì đến trước người đi sau vẫn đến sau. Lẽ tiêu diệt của Long-Hoa có nghĩ
là thấp cao phân rành hai giới, siêu đọa phân rõ đôi đường chớ không phải tiêu diệt thảm thương như lý phàm thường
tưởng. Nếu người kia còn mê-muội, tối tăm đọa đày một mai kia trong ngàn ngày,
trong kiếp sau hoặc trăm kiếp nữa giác ngộ cũng vẫn thành Bồ-Tát Như-Lai vậy.
Nhưng trăm kiếp đó vẫn còn quanh quanh trong địa-cầu sáu –tám nghĩa là vẫn còn
đày đọa, vẫn đớn đau, vẫn là linh vật đại hữu-tình nơi thế tục biến biến sinh
sinh luân – hồi tăng trưởng, như thế có nghĩa là vì nhiều kiếp đau thương, vì
cảm thông nơi từ tâm đạt lý của Đức Diêu-Trì không muốn cho các con thơ chịu
nhiều cay đắng. Cũng như người cha mẹ nơi gia-đình, muốn con sớm rút ngắn đường
luân lạc đau thương để trở về sum họp với Cha lành, với mẹ nên gởi từ bức tâm
thơ, nên nhắn từ người, ra lời trìu mến, nhưng nếu để thời gian qua, thời- gian qua đứa con kia cuối cùng
cũng trở lại nhưng không biết ngày nào ? Nay là lời của Diêu-Trì, từ-bi của
Thượng-Tổ, nếu xét lý hổ qui nhứt trở về bổn-thể, hỡi vạn thù !
Phân rành thanh trược, lý tiêu diệt nơi
nhân-gian, tất cả các linh-tử cũng biết rằng thân-xác này chỉ có trăm năm ba
vạn sáu, dầu đời chưa tận nhưng người đã tàn theo tuổi thọ của sinh vật kỳ niêm
đĩnh số: thế chưa tàn nhưng chính người đã hoại trước ! Nay biết tu là biết
được con đường dầu chưa giải thoát thuần dương nhưng cũng được về nơi cỏi mà
thất-tình lục –dục không đọa đày như ở kiếp người đau khổ, hiện tiền vậy. Nên
hớ : Dầu không tu cũng vẫn trở về, có tu cũng trở về như người không tu vậy,
nhưng có tu về sớm hơn đạt thành vị quả trước hơn; không tu về sau nhưng chưa
chắc! Nếu phong ba bão táp, nếu nhiều cảnh trái ngang chưa chắc rằng về như
Thiên kỳ định số được vậy. Nên nhớ lời của Thông-Thiên.
Xuân lai
Giáo-Chủ Chúc Thiên-Phong
Đạt Đạo huyền –Linh đến đại-đồng,
Một kiếp thoát quá điều ác trược,
Sen vàng chín phẩm tạo nên công.
Triều
nghinh...
ĐẠO vàng
ứng hóa độ nguyên-nhân,
TỔ đức
từ-bi hiện hóa thần,
THÁI lập
huỳnh quang nghinh tuệ giác
THƯỢNG
thừa ngự tứ ngộ đài vân.
SIÊU linh
ngọc vi Kim-Cung thọ,
THIÊN
thượng duy tôn lý đại càn.
ĐÀI báu
giáng lâm phò đại thế,
NGỰ phàm
Xuân Giáp chuyển hồng ân
Thái-Thượng Đạo-Tổ mừng nguyên-nhân nam
nữ Thiên-Phong trưởng ấu lưỡng phái đồng tọa thính, miễn lễ, tịnh tâm dùng tuệ
–quang nghe lời Đạo-tổ
Nầy nguyên-nhân linh-tử! Dầu lành hay dữ,
âm dương, chơn ngụy, chánh tà, sau trước như Thông-Thiên đã truyền dạy đều cũng
do Thượng-Đế mà ra, trước sau gì cũng trở lại ngôi nhà người Cha kia quản
xuyến. Nhưng các nguyên-nhân thử là người hiểu chuyện, nếu Cha trong một gia
đình con cái chẳng nghĩ mình, bỏ ra đời không bao giờ trở lại, con kia ngang trái Cha nọ đau thương, ngày nay
chỉ rõ đường nếu đứa con kia không hồi đầu thì thử hỏi nguyên-nhân tính sao
trước câu thâm tình phụ-tử ? Dầu lành hay dữ tuy cũng một Cha nhưng, lành được
ở nơi nhà, dữ kia phải chịu phạt trừng do luật-pháp; Cha có thương, Mẹ có mến
cũng đành nhắm mắt lệ rơi !.. Nay là luật Trời không thể cải quyền trước
thiên-nhiên chánh điều pháp luật, nghĩa là dầu linh-tử của Thượng Đế trong tam
kỳ hoằng thế giáo Đạo ngàn phương đều dụng vật-chất hữu-hình tùy căn số của nguyên-linh, tùy mỗi phương mà
hóa truyền trơn-lý Ngoài xác thân, con người còn có tâm ý đó chính là tư
tưởng,linh-hồn; linh-hồn kia muốn bảo tồn, muốn trở về do ngọn đuốc của
Thượng-Đế ban ra trong Tam-Giáo ngày nay, nếu Tam-Kỳ cộng lập đúng là ngày đại
sắp của Thiên công phân rành hai lẽ
-
Một
là trở về
-
Hai,
là sẽ tách rời nguyên bản
Chớ không thể trở về trước, trở về sau.
Cha già không thể đợi, tuổi đời cũng đi mãi nơi trần thế, cũng như Thiên-luật
nơi không gian của Thượng-Đế truyền ban. Nếu về trước được hưởng ngôi vị thanh
nhàn, về sau phải ở nhà sau; nhà sau không phải là nhà trước; cảnh cũ cũng
chẳng phải là cảnh ngày nay, nên nhớ nhiều thảm trạng đọa đày cho quả địa-cầu
sáu-mươi-tám; quả địa-cầu sáu-mươi-bảy không còn là vật hữu tình trong ngũ-châu
tứ-hải, mà linh-tuệ huyền-nhiên trong tất cả đều chi ứng hiện nhản tiền do
tư-tưởng, quang minh tuệ-giác, do người luyện Đạo ngày nay đạt thành
Chánh-đẳng; không còn trong cảnh mờ-mịt u-mê trong tam-đồ đọa khổ nữa, thì kẻ
về sau vẫn muôn đời đến sau không bao giờ theo kịp trước được vậy, nên nhớ! Đi
trước một bước, đi sau một bước, nếu lỡ nhịp bước trước thì nhịp bước sau vẫn ở
ngàn sau; ngàn sau không phải là ngàn trước, ngàn trườc chưa phải đợi ngàn sau,
nên nhớ! Luật Thiên-điều chí công thượng phạt: lành còn, dữ mất. –Thưởng vô
cùng, - phạt tận diệt. Chính là Đại-Hội Long-Hoa quản truyền tam-Giáo. Lý của
Thông-Thiên tuy kịp đáo nhưng nhớ chẳng phải ứng dụng đối với nguyên-nhân
Điều tối cần là công phu, công quả, công
trình, xét lý hy-sinh trọn vẹn, đến trước một bước là giải thoát bước trước;
người đến sau giải thoát sau nhưng, người sau cùng chỉ là sau chớ không phải
bằng người trước được, nên nhớ! Nên nhớ!
Giải thoát ngày nay ứng bộ triều
Muôn đời toại hưởng chốn linh-tiêu
Đừng chờ cơ vận trời xoay chuyển
Uổng kiếp ngàn năm chịu thấm nhiều
Nhiều cảnh luân-hồi tán bụi mây
Nguyên-nhân Thiên-luật phải nhìn đây!
Vạn đời thưởng phạt còn trong đó
Muôn kiếp trong tay chính của thầy
Tân niên giáp vận
Thiên Khai, chúc Thiên-Phong siêu-Thiên-Đài trí huệ, phước duyên, tam-công đãi
ngộ. Long-Hoa ứng trỗ, minh tuyền Đại-đồng, chánh triệu sắc phong, Kim-đài đắc
vị
Hồng chung khải tấu Thượng-Tổ lâm trần.
Triều nghinh ...
Thầy
mừng cung các con !
HỒNG điệp
như như chiếu đủ đầy
QUÂN
vương sắc tứ hạ đài mây
THƯỢNG thừa
tam giới ta là chủ
TỔ thông
trần-gian nghĩa gọi Thầy.
GIÁNG bút
thâm canh ban diệu pháp
ĐIỂM đàn
chơn lý điển vầy xây
SIÊU thừa
nam nữ con ghi nhớ!
THIÊN lý
tu tâm luyện pháp này
Thầy miễn lễ chung Tam-Giáo cùng các con
đồng tọa thính.
Tân Xuân giai hạ chiếu hồng ân
Quang bút truyền thơ giáng cỏi trần,
Nhược thức linh-đài hòa thượng hạ
Vạn niên giải thoát đắc chân-nhân
Nhân tạo từ tâm kiến Nhà-thuyền
Ơn lành thấy xuống diễn huyền-nhiên
Các con đừng tưởng theo phàm tục
Thầy chính chơn linh ứng hóa quyền
Quyền của Tam-Thiên thống vạn loài
Đời đời, kiếp kiếp bố hồng oai
Trên là Tam-Giáo quyền kinh xử
Dưới thế Tam-Thiên định vạn loài
Muôn loài vạn vật ở tay Thầy
Sanh tử huyền nhiên cũng tại đây!
Lớn thể Tam-Thiên vô giới hạn
Nhỏ thì tế-tế diệu sa mây
Sa mây vi tế hiện thần thông
Lớn tại do con ở tấm lòng
Giác ngộ muôn đời thành Phật Thánh
Mê tân phải chịu đọa long-đong
Long-đong số kiếp ở trần gian
Ngán ngẫm nhân-sanh bất cập hoàn
Mượn trí phàm phu xây Bát-nhã
Dòng đời đưa đẩy nhớ than
van
Than van tứ-đại khổ trăm
năm
Con nhớ đường tu chẳng lạc
lầm
Tin tưởng riêng con thầy có
một
Nầy các con ! Thầy-giáng ngự Tân Niên
khai bút Đại-Lễ Triều-Thiên
Ngày nay các con nên nhớ: Chính là giớ
phút giao chuyển âm dương của Thiên-nhiên Đông-Phương định số, của các bực thần
tiên Thánh Phật theo lý huyền-nhiên toán thành Thiên Địa “ sở cữu, sơ thập
Thượng-Ngươn nhứt ngoạt Thiên Địa Đồng giao” cho nên thế nhân tương truyền” Vía
trời, vía đất” có nghĩa âm dương giao chuyển vào mỗi mùa xuân vào ngày chín,
mười của tháng Giêng mỗi niên Xuân Ngoạt
Các con nên nhớ :Thầy chẳng phải là một
thường nhân với thâm mình Tam-thế, Thầy không phải là như con thường kể lễ, vẽ
vời được hình hài mà Thầy vốn là linh oai nhập thức. Chính nơi lòng con, chính
nơi vạn vật hữu tình, chính trong Vô-tri hữu giác, chính trong muôn loài đều có
thầy. Nếu các con nơi đây, Trung-ương là Việt-Quốc nồi giống Lạc-Long thầy dùng
tiếng Việt của Tiên Rồng để ban con điều giải thoát. Nếu Đông phương kia mỗi
nước đều mỗi ngôn ngữ khác nhau, Thầy đều nhập diệu vào để chỉ cho mỗi con
người thất rõ: Ngoài thân xác hữu-vi, Ngoài tứ-đại hữu tình còn có sự cao linh
nhập vào hư không tối diệu. Đó, chính là trở về nguyên bản với Thầy.
Nay các con là hạt giống, Thầy dạy cách
tưới phân, Thầy dạy cách tảo tần để lo cho cây sớm nẫy mầm, trổ lá, kết trái,
đơm bông để các co chính thiệt là cây xưa; cũng như ngày nay lòng của các con
hướng về Đạo nhưng chưa phải là chơn Đạo. Thầy ban phép huyền-nhiên cho các con
từ Di-Đà bí-Chỉ , mật-pháp Tam-Thiên các con nên nhớ là thầy dùng quyền để cho các con thấu thất-tình lục-dục, để các
con tịnh yên trong giây phút nghe được lời
nói thâm sâu, trầm lặng của Linh-hồn. Nếu các con nghe được lời nói siêu
thâm đó trong tứ-đại, trong vạn vật hữu tình, nghĩa là các con nghe được tiếng
nói của Càn khôn. Nay con là vật hiện sinh thì các con phải chịu trong hữu tình
nhưng, hữu tình đó khi các con nghe được trong bí-pháp siêu nhiên, đó là những
phương tiện dùng quyền để đưa các con về với cỏi miên miên trường trường vô
sanh, vô diệt. Nơi đó, các con không cần phải biết nhưng biết rõ mọi điều: nơi
đó các con không cần phải dùng trí xét suy nhưng các con đã rõ mọi việc
Nay, thầy dùng chơn quyết truyền bí-pháp
tam-thiên, nhân ngày đầu xuân truyền cho Kim-tốn Thiên-Án, “ Huyền-công-mật-quyết nhiệp thọ
tham thiền” con nhớ! Đây là đoạn huyền-công mật-quyết nhiếp thọ tham thiền
nghĩa là trong những giờ xuất du của con, nay thầy đã thấy con được một phần tăng
tiến xuất vía nhưng chưa trọn hồn, phách còn vương lòng còn bận cho nên, Thầy
truyền cho thể cách tham thiền. Có nghĩa là từ đây sau khi tịnh yên, sau khi
con xuất du, nghĩa là những giờ hồn nhập thể con vẫn ngồi yên, để nghe tiếng
thầy từ hư không truyền xuống. Lần đầu tiên con phải dùng “ Truyền quang như ý” để tại Linh-Đài,
đồng thời “ dùng Tam-Đài quy thống” hiệp nhứt nơi Côn-Lôn; nơi đó con nghe thấy
tiếng thầy từ trên hư-không truyền xuống, con nghe trong yên lặng sâu xa, trong
thâm kín của bao la, chính đó là chơn-huyền của Thầy ban xuống vậy. Nhưng tuyệt
đối không bao giờ tiết lộ, nhứt là con nghe lời Tam-Giáo với Thiên-Cơ. Trong
những giờ chỉ có Tý thời trọn vẹn mà thôi, nên nhớ!
Xét công quả, thầy thấy các con đều nhiệt
thành với Đạo, thầy sẽ đừng nên bận nghĩ chuyện xa xăm
Xa xăm bận nghỉ để mà chi?
Tà, chánh do con chẳng lạ gì!
Chơn nguy, thiệt hư lòng chưởng quyết
Đừng theo phàm trí sẽ tai nguy
Tai nguy tiêu kiếp hạ căn dày
HUỲNH-ĐẠO
Thượng thừa giác ngộ khai
Con tưởng tới Thầy, Thầy giáng ngự
Con nghi ma quỉ, quỉ đương lai
Lai ngự lòng con chính thiệt Thầy
Tùy tâm nhơn đức Đạo vần xoay
Tiên nhân ứng trị cơ duyên giác
Bổn thọ từ-bi sớm hiệp vầy
Vầy hiệu do duyên kiếp tạo thành
Con tìm mối Đạo thiệt cao thanh
Mà lòng những ngỡ điều mê trược
Muôn kiếp ngàn năm khó đạt thành
Thành Đạo do con dốc hết lòng
Đừng đem phàm trí nghĩ Tây-Đông
Mang điều ái, ố vào thân xác
Dẫu, phải luân-hồi cũng chẳng xong
Xong nghiệp trần-ai mới toại nguyền,
Đạt thành chánh-quá thị Thần tiên
Nếu con cho đó là chơn giác
Chính thiệt từ-bi ngộ giác duyên
Duyên giác do con hóa hiện Thầy
Thầy là tâm-thức ngự nơi đây!
Hiệp hòa tất cả trên cùng dưới
Phân rẽ thì ra chẳng phải Thầy.
Thầy xuống huyền-linh ngự bút vàng
Đêm khuya mượn tiếng của trần-gian
Dìu con thoát khỏi đều mê-muội
Diện
kiến Hư-Cung ngự Niết-Bàn
Niết-Bàn chờ đợi các con về
Thức tỉnh, nghĩa là chẳng phải mê
Trọn vẹn niềm tin thành Phật Đạo
Nghi nghi chấp chấp khỏi mong về
Về đến nơi đâu cũng có thầy
Miễn con tròn phận đạo nơi đây
Linh-Hồn diệu diệu quang-như nhập
Bỏ xác triều dưỡng hóa sắc mây
ân truyền diệu mật cho các con mỗi mỗi
đều được thọ thêm phần pháp nguyên
Nay Thầy chiếu Thiên-Điều truyền sắc:
Nhân ngày Tân Niên Giáp-Dần, THIÊN-ÁN KIM-TÔN con truyền thêm cho mỗi mỗi một
Huyền-công mật quyết, cùng Bửu-Liên_Duyên tăng tiến thêm cho mỗi Bửu-Liên. Đó
là hồng ân của Thầy ban xuống vậy. Nên nhớ! Huyền-Công mật-Quyết để tiến đến
xuất du
Bí-Pháp Tam-Thiên thoát cỏi
trần
Xuất du hồn phách tựa đằng
vân
Qua nhiều tinh-tú về nguyên
bổn
Khỏi cảnh trầm lao chốn cỏi
trần
Trần lụy đa mê lắm nghiệp
duyên
Nay Thầy chiếu điển hóa
huyền nhiên
Ban con từ thuế Xuân lai
đáo
Hồng phước Diệu Linh khai
điểm truyền
Nầy các con! Tịnh tâm nghe Thầy giảng về
chơn-lý
Lễ hóa
sanh, sanh hóa từ ngàn xưa đến nay nếu các con dùng phàm trí xét qua vật
chất hồng trần, thì các con chỉ xét với xác thân chớ các con không xét về phần
vô-vi tư tưởng. Có nghĩa là Thầy muốn ban cho các con những lời lẻ thông đạt
đấn tâm của con, tới những điều mà các con không thể suy bằng phàm chí, giác
ngộ với sự giác ngộ không bị buộc ràng trong phong tục tập quán của đời, nghĩa
là Đạo. Khi các con còn nói về Đạo, nói về giáo lý các con chỉ hiểu nghĩa thiện
từ làm lành, lánh dữ chớ các con chưa biết luyện Đạo, chưa biết luật hy sinh,
chưa biết chân lý hữu tình của muôn loài vạn vật
Nầy các con! Đạo diệu nhập vào muôn loài
vạn vật. đạo ở trong tất cả hửu thể nhân gian. Nay các con là Đạo-Thể, vì trần hoàn, vì phong tục, vì tập quán ngàn xưa
truyền lại Đạo không phải chánh điển huyền nhiên của Thầy truyền xuống, cho nên
mỗi lần ban Thiên-Điễn mỗi lần Thầy sửa ít nhiều. Nếu sửa một con đường thẳng
về Linh-Tiêu e rằng các con không thể về vì còn mê tận nơi cảnh thế tục, đa
chấp với phàm gian, bởi lòng dục vọng của các con cũng như rong riêu phủ bám!
Mỗi lần Thầy truyền ban Thiên-Điễn là gỡ lần những phàm tâm tục ý, gở lần những
điều suy nghĩ từ khi mới lọt lòng. Nay thầy truyền cho hai chữ “ CHƠN KHÔNG”
để các con hiểu rành nghĩ lý vậy
Chơn không nghĩa là trong tân hư không
biến pháp giới nầy không phải không không mà các con nhìn bằng mắt, nghĩ bằng
trí. Nơi đó không thể thấy, không thể vật thể nào tới được, gọi là hư-không;
hư-không đó có một sức mạnh thiên nhiên để giữ gìn cho vật-chất hưu hình nầy,
nghĩa là tất cả tinh-cầu luân chuyển, sức mạnh đó gọi là sức mạnh của
huyền-nhiên, nên nhớ!đó chỉ là “hư-không”! Khi sức mạnh huyền nhiên xây chuyển
nhịp nhàng cho tất cả Tam-thiên Đại-Thiên thế-giới như thế mọi gọi là “ chơn
không”, tạo thành trong hư-không có nhịp nhàng đó mới chính là chơn-không;
trong chơn-không có nhịp nhàng đó mới chính là chơn-không; trong chơn-không đó
các con mới nhíp thọ được những huyền nhiên của Thầy, những từ điển trường
quang diệu hóa trong Tam-Thiên mà Thầy không thể dùng Vật-chất biện minh hay
so sánh hữu hình để con hiểu bằng phàm tâm
tục tánh được. Các con bắt nguồn từ lòng tin tuyệt đối bằng sự hiểu biết cao
siêu, bắt nguồn từ lòng từ-ái yêu thương, bắt guồn từ thâm sâu của sự suy
nghĩa, để cho lẽ sanh tử của cuộc đời đi qua ... Các con giác ngộ trong điều
nguy nan, hiểu rõ tận cùng trong đau
khổ, chìm sâu trong con người tục lụy, hiểu rành nghĩa con người sanh ra trên
đời không nghĩa là để vui hưởng cuộc đời trong ba vạn sáu ngàn ngày, mà chính
vì trong gai, cam go thử thách để các con học hỏi, tìm trong đó những chân-lý
cao siêu, đó gọi là Chân là Lý! tìm thấy nghĩa con người gần với thần tiên
Thánh Phật, Tận nghĩa của đau thương , cuối cùng của nguy khổ, các con mới thấy
nghĩa của con người khi con trọn vẹn của con người không sa vào hành động trái
với nhân-đạo, luân –thường nghĩa là các con vẫn giữ mực con người chịu đứng với
kiếp người sống cùng vạn vật; trong đó các con sẽ nghe được trong thâm sâu
huyền diệu lời nói của thầy, điều khuất trái của nhân gian các con sẽ siêu hóa
tinh thần cao thượng đó tiếng nói trầm lặng huyền vi, chỉ xuất phát nơi lòng
con thầm nghiêm kín công tận cùng của sự khổ đau hay yên lặng, mới nghe thấy
được điều huyền diệu, ánh sáng của Thầy không bao giờ chiếu rọi trong lúc lòng
con hỗn loạn, tâm của con bị dày vò mà chỉ khi nào lòng của con yên lặng, trí
của con lắng xuống trong tất cả tận củng của sự hiễu biết con người, Thầy mới
truyền cho chơn quan huyền- điễn, Giống như đường Đạo, một trong những con
đường các con về với Bạch-Ngọc Hư-Cung là luyện pháp, Thầy chọn ban cho bí-pháp
Tam-Thiêm hay là Di-Đà Bí-chỉ là con đường nhàn nhã dễ dàng nhứt trên con đường
giải thoát. Nếu các con tu cơ hạnh, cơ Phước các con phải chịu luật hy-sinh,các
con phải chịu thọ linh như thế trong Kỳ-ba nầy không hợp cùng nhân duyên của
các nhân-nguyên tại thế vậy
Thầy chỉ ứng hóa trong lòng con khi nào
con trọn tận tưởng niệm khi nào phàm trí của con không xen vào tâm tưởng, sự
trong suốt linh-hồn của con sẽ thấy rõ ánh sáng cùa Thầy ban xuống vậy, điều
ưu-tư lo-nghĩ buộc ràng đau khổ chính các con không phải đến nên hay rứt bỏ ra ngoài mà các con phải yên lặng, vì
với con không phải là sự đau khổ con chính là sự yên lặng vô diệt vô sanh, con
trở về với con thì sự đau khổ không còn đến với con, sự lo âu nào phải của con
mà chính con chịu tập nó vào để đục khoét tâm linh của con, chính con tạo cho
con, chính con đem vô cho con những nỗi
đau thường ràng buộc con không thoát ra ngoài: cũng như con lăn vào bùn
mà mong thoát khỏi bùn nhơ, con dùng dây trói mà mong thoát khỏi buộc ràng thì
muôn đời cũng còn thì đó vậy! Con phải lặng yên đứng nhìn, nghĩa là con nghìn
thân con múa may trước sự vật, con nhìn lòng con đang lo âu.................con
nhìn lại chính thiệt đó là con tự lúc đó con mới thấy được Thầy , Thầy mới ngự
nơi con, nếu con chấp chường lo-âu, buồn khổ, cao hạ, nghèo giàu, chơn ngụy;
con phải tách rời những đều đó con mới đạt
được chân giác của Thầy, mới nghe được tiếng nói hư-linh mà Thầy muốn
truyền cho các con trong Đạo Huỳnh siêu-lý vậy
Thất-tình lục-dục khổ sở lo-âu, sanh lão
bệnh tử những điều đó là những sợi-dây oan nghiệt buộc ràng tâm-linh tối diệu của
con không cho nảy nở, buộc lấy kim-thân con không cho bước đi, buốc lấy hồn con
không cho siêu hóa, để các con bị trầm
sa trong những vách, những con đường u tối mê man là chính tại con! Nay Thầy
khai hóa chỉ rõ : “Con phải đứng riêng con”
Khi nào sự hờn giận, lo-âu , ganh tỵ, buồn phiền đến với con, con cũng
phải đứng riêng: con nhìn thấy thế tánh của buồn, nghĩ đến đó con sẽ thấy thể
tánh của lo-âu, con tự cười cho con, con tự cười cho thân con chiêu tập, con tự
cười cho thất-tình của con chưa trong sáng, đó chính là con mới bước đầu tách
rời chơn-linh của con ra linh-hồn của con vậy – Đoạn đầu của các con để nghe lời thầy, khỏi cần cơ bút nữa vậy
Sau nầy trong giai đoạn biến kỳ, Thầy sẽ
tuyệt bút ngưng cơ để tự các con tiếp điễn lấy vậy, Các con nên nhớ! Điển có
nhiều phần, chơn tự tâm, để các con suy tâm công quả, chớ Đạo chơn điển chính,
Thầy truyền không phải chỉ dạy các con nâng cao điều từ dục phàm nhân, các con
nên nhớ
BÀI
Giáp-Dần niên thầy truyền bút tuệ
Xuống hồng trần từ huệ ban ra
Gần ngày khai diễn Long-Hoa
Thánh Thần Tiên Phật, trước Tòa ngự phân
Thầy thương xót hồng trần chuyền tứ
Dạy pháp điều con giữ cho tròn
Ngày nào tiếng nổ năm non
Biển Đông yên lặng thây còn dâng cao
Suối máu lệ dâng trào Nam Bắc
Cảnh khốn cùng dậy giặc âm dương,
Các con thấy rõ đôi đường
Đạo đời thanh trược hầu nương mà về
Mới nhập Đạo đại thể vì Đạo
Khảo đảo rồi phải tạo kỳ công
Lẽ đâu con lại nản lòng
Quên đi lời dặn trần-hồng đau thương!
Thầy giáng bút canh trường khuyên nhủ,
Dụng lời thơ hội đủ điển lành
Lời nầy kêu giữa đêm thanh
Con ơi! Muốn được đắc thành mai sau.
Thì giờ phải trau phận sự,
Phải gìn lòng vẹn giữ y khuôn
Kìa khi nghe giọng hồi chuông
Giác mê khải ngộ luôn luôn dặn lòng
Là nhân thế ai không khổ sở
Biết Đạo rồi thấy nợ trần ai
Các con cố gắng đứng ngoài
Nhìn điều phiền lụy đôi vai chập chồng
Đứng đồng hóa vào vòng tục lụy
Đừng quên mình cao quý thiêng-liêng
Các con lộn với ưu phiền
Trầm mình đày đọa triền miên khổ sầu
Rồi con tưởng đâu đâu cũng thế
Con quen rằng Thượng-đế từ –bi
Ban cho chơn-lý huyền-vi
Chỉ cho con được ra về với thầy
Thoát khỏi cảnh như cầu đau khổ
Thoát nợ đời tầm chổ yên vui
Thanh nhàn con chẳng tới lui
Bước vào phiền lụy ngậm ngùi chi con?
Xác thân con cũng còn là giả,
Điều lụy phiền tất cả thiệt sao?
Thế gian muôn sắc ngàn màu,
Khuyên con ráng nhớ nhập vào thâm tâm.
Chỉ duy nhứt đừng làm cội cả
Chỉ chính con siêu đọa do con
Cuộc đời hai chữ mất còn
Thế gian vật chất mỏi mòn thạnh suy
Con chớ để sầu bi tâm dạ
Vì lòng con thiên hóa pháp huyền
Nay con thọ lãnh chơn truyền
Mà con còn chịu trần miên thảm thương?
Thầy xét thấy doạn đường hành Đạo,
Đã qua rồi quý báu lắm thay!
Nữ nam già trẻ gái trai
Nghe lời thầy dạy hôm nay giữ gìn
Thân của con tự mình nhận lấy
Nghiệp của con phải, quấy do con
Tội công, siêu đọa mất, còn
Trời ban cho đó vuông tròn tùy duyên
Nay thầy dạy diệu huyền siêu lý
Tùy mỗi con ý nghĩ riêng tư
Ráng nuôi được chí đại từ
Ngàn năm đắc Đạo cũng Hư thọ nhàn
Các thiên-phong lời vàng thầy dạy
Phần của con trái phải dắt dìu
Một lòng khoan ái mến yêu
Nghiêm từ hạnh quả cao siêu mới mầu
Phận nữ-phái cao sâu công quả
Phước đức lành cao quả nhờ đây
Ngàn xưa muốn đến chân thầy
Phước duyên cố gắng hiệp vầy mới xong.
Các con thơ hiệp đồng nghe dạy
Ráng tìm thanh lọc trái, nghe con!
Ấu thơ tâm trí méo tròn
Giữ gìn cho đúng vẹn toàn thượng-ngươn
Thầy xuống bút ban ơn tất cả
Giáo giảng truyền hoằng hóa Trung-Ương,
Ngày nay trích diệu Tòa-chương
Giáo quyền CHƯỞNG-GIÁO lo lương Hà-Giang
Ngày chuyển hoa chung đoàn tất cả
Trong Thương-Ngươn này đã định rồi
Tuy con trọn phận con ôi!
Không còn lâu nữa vị ngôi con về
Nay phải ráng vẹn thề lo liệu
Bền tâm lành trí hiểu nêu gương
GIÁO-TÔNG
con đã tinh tường
Huyền-vi hé lộ con đường Long-Hoa
Đức từ-bi Di Đà thường dạy
Nhiên-Đăng truyền lý phải cao sâu
Thân này con tại địa-cầu
Hồn thiêng giải thoát Thượng lầu mới
ngoan
HỘ-PHÁP
con chọn đàng bi-chỉ
Xuất hồn thiêng cao quý chầu Thầy
Đinh rằng trong một năm nầy
Hư-cung có dịp hiệp vầy Thiên_Tinh
Con chưởng chấp Đạo Huỳnh pháp hóa
Ráng bền công chớ sá khảo trần
Thân nầy con có Kim-Thân
Như-Lai cũng sẽ được gần vị ngôi
THƯỢNG-PHẨM
con định rồi ngôi thứ
Quả công truyền hành chữ từ duyên,
Dầu con nghiệp bao năng quyền
Cùng còn ơn phước môn thiền gia tăng
Đạo quả chuyển qui thằng chuẩn sắp
Kể từ nay định lập khuôn vàng
Một mình thầm nghĩ lo toan
Đừng nên nhọc tri gia đàng chi chi
THIÊN-HOA
con huyền vi thầy đinh
Phận sự còn cao lĩnh huyền-năng
Từ nay trọn lý Đạo hằng
Diệu mầu ban xuống chuẩn thằng cho con
Ráng tách khỏi để con Kim-Vi
Ráng bồi tô cao quý chơn hồn
Đạo lành dứt nẻo hàn ôn
Muôn năm thoát hóa Càn-không trở về
THIÊN-BẢO
con lời thể từ trước
Đã bền công mức thước ghi lòng
Ngàn xưa quân-tử long đong
Huống hồ chi một Thiên-phong pháp hành
Ráng nhẫn nhục dể dành tâm trí
Bỏ qua điều suy nghĩ đau đương
Nợ đời còn chút vấn vương
Thì còn nghiệp quả vạn trường điêu linh
THIÊN-HUỆ
con tự mình hiểu biết
Lý mầu siêu chí quyết tạo thành
Giờ nầy linh điển cao thanh
Điểm qua con trẻ duyên lành Long-Hoa
THIÊN –CÁC
được Tam-Tòa ưng triệu
Ráng bến công kết liễu gần đây
Hồng-Quận chính thiệt là Thầy
Tam-Thiên truyền xuống hội nầy quang
nhiên
THIÊN-VÂN
con lời như Bát-nhã
Của Như-Lai con đã y truyền
An Giang phân –sự cao quyền
Ngày sau tuyệt quý nơi miền Thất-Sơn
Chờ đúng buổi ban ơn xây đắp
Hiện giờ đây tạo lập tuân hành
Ngày sau Huỳnh-Đạo nêu danh
Có Quyền Tam-Trấn Đạo lành là con
Cùng Thiên-Minh lo tròn vận đạo
Chuyển huyền năng cơ khảo lướt qua,
Từ-bi nhẫn nhục gọi là,
Đức lành thiếu kém ta-bà khổ thân
Đức nhẫn nhục ân cần cho đó,
Thần thánh truyền công khó khảo thi
Nếu con yên lặng nghĩ suy
Tình Thầy nghĩa mẹ huyền vi vô cùng
Thiên Trung
con tích tùng để sẵn
Nhờ ơn truyền yên lặng lo tu
Cuộc đời khảo đảo phù du
Xem qua cảnh ấy ngục tù trần-gian
Con thực ngộ Đạo vàng kiên chí
Là huyền năng cao quý vô cùng
Tân niên thầy điểm cho chung
THIÊN ĐƯỜNG
con trẻ chí hùng đắp xây
Nhiều khảo đảo trên Thầy đã chứng
Càng khảo thi mới xứng con Thầy
Không điều dồn dập chua cay
Biết người kiên chí là ai mà truyền ?
THIÊN TÀI
con tinh yên nhiều lúc
Ráng bền tâm những phút quang truyền
Giờ nầy cố gắng huyền nhiên
Để thêm phước huệ Thiêng-liêng xuất đề.
THIÊN HẢI
con giác mê hai nẽo
Bước đường đời khôn khéo nhàn yên
Chữ trinh, chhữ nghĩa cửa thiền
Trọn điều tinh tấn diệu huyền Thầy ban
Con Thiên-phong Đạo Vàng duy nhứt
Giữ pháp-điều thược mực con ơi!
Xác thân có hạn do trời,
Chỉ điều siêu thoát đời đời mà thôi
THIÊN HẠNH
con phải rồi phận sự,
Nhớ rằng Thầy giữ chữ từ-bi
Lý công con đã nghĩ suy,
Hy sinh chữ ấy huyền –vi chấp truyền.
Thầy thương con ít phiền nhiều nghĩ
Lo Đạo-mầu cao quý mà thôi
Hạnh tùng pháp huệ xong rồi
Ngày sau đắc Đạo vị ngôi tuyệt vời
Nay hanh hưởng ơn Trời ban xuống
Các Thiên-Phong vô lượng Thầy truyền
Nầy con THIÊN BÁ Lời khuyên,
Những điều cao quý sắc truyền ban ra.
Trước sau cũng là cửa Đao,
Dầu hèn sáng quý báu do Thầy,
Toại lòng ngự chốn ngàn mây
Do nơi đức cả trân Thầy chứng minh
Con THIÊN THẢO Đạo Huỳnh điểm ứng
Ơn Tam-Tòa xây dựng bao nhiêu?
Tính xem coi được mấy điều,
Công kia, nghĩa nọ cao siêu mấy phần?
Con phải ráng ân cần lo Đạo,
Đời còn dài cơ khảo con qua
Tỉnh tu đoạt lý ma-ha
Thoát điều đau khổ trầm sa muôn nđời
THIÊN LƯU
con những lời dạy dỗ
Nghĩa Thầy trò tinh chỗ siêu thâm
Nguyên cầu con đã âm thầm
Khoan nghiêm Thiên-Luật diêu trầm ban ra
Dầu con chẳng tâm tà tục ý
Cũng đừng mong đem chí của đời
Đã đánh Chưởng-Quản con ơi!
Phạm vào Thiên-Luật Đạo trời không dung
THIÊN HỘ
con nghe cùng điểm hoa
Mười mấy năm cao cả vì Thầy
Giáp-dần mười bốn nơi đây
Điểm truyền chấm quả công nầy cho con
Phận Tiếp-Điển bìa son ghi đó
Muốn thưởng đời hỏi có bao nhiêu ?
Nếu con tính lại làm liều
Nẽo đời dồn dập sớm chiều tiêu tan
Con nhớ rõ đạo vàng qui luật
Con xin Thầy ra sức gắng công
Thượng-ngươn ban thưởng chung đồng
Bao nhiêu cuộc thế trần-Hồng Thầy cho
Con muốn thế hẹn hò như thế
Đời Thượng-Ngươn là để ban truyền
Ngày nay cố gắng lo yên
Đừng nên tính chuyện quàng xiên hồng trần
Ráng tho mạng bảo thân giữ thể
Gìn tâm vàng Ngọc-Đế triều quang
Thiên-Phong nam nữ hiện đàn
Thay thầy ban thưởng Đạo Vàng tiếp nghinh
Phần PHÁP CHỦ cơ Huỳnh Giang-Hầu
Chớ nghĩ suy tiết lâu thiên-điều
Dầu cho đoạt lý cao siêu
Cũng đừng đem chuyện Linh-Tiêu phân bày
Con nên nhớ những ngày tu học
Thiên Linh Thầy chí dốc tu học
Huệ-Linh chơn điển pháp truyền
Thành công kịp đáo Hà –Tiên mới tròn.
Sang nữ-phái các con nên nhớ
Điểm vài con khuyên chớ lo buồn
Tình Thầy nghĩa Mẹ luôn luôn
Thương con như thể suối nguồn bao la.
Phận Đầu-Sư thì là cao khiết
BỬU-LIÊN-DUYÊN
con quyết tạo thành
Pháp huyền năng nhọc tinh anh
Cố công giải thoát côi lành kịp nương
LIÊN-TRANG
ráng tạo đường công quả
Hợp LIÊN-THÔNG cao cả định phân
Huyền-vi hé lộ hồng ân,
Thầy trên ban xuống một lần cho chung
Nhắc lại việc Kim-Cung Diệu-Điện
Thầy thương con những chuyện trần-gian
Đầu-Sư tam vị huy hoàng
THÔNG, DUYÊN
cùng với LIÊN-TRANG
lo tròn
Hễ công quả các con cố gắng!
Dầu khão thi đừng năng nghiệp đời,
Đã đành chịu đựng con ơi!
Lẽ đây Thầy nỡ quên lời thưởng ban
Chung các con điểm đàn nghe dạy
Nơi Thiên-Đài xét phải quang huy
Trước đây Tam-Giáo hiên quỳ
LIÊN TƯỜNG
xin thọ công nghi Điện vàng
Thầy chứng chiếu huy hoàng tất cả
Ráng bền tâm thầy đã chứng lòng,
Kẻ nào con thấy cố công
Thì nên tạo đức chung đồng thêm duyên
Nhắc nhở lại chí hiền của Đạo
BỬU-LIÊN-PHI
quý báu lời phê
Từ khi con nhân linh đề
Chưởng-Tòa an phận trở về nơi đây
Thầy sắc linh như vầy chuyển hoa
Trao THIÊN-AN cội cả quay về
Chưởng-Tòa công quả trọn thề
Để LIÊN-PHI pháp vẹn bề hành y
Điển mòn mõi lời thi nhắc nhở
Vào Hơi-thời chớ lỡ nghe con!
Đúng ngày thập-nhứt vẹn toàn
Hay là thập-nhi huy hoàng nơi đây
Giao Chường-Giao Linh Thầy truyền xuống
Chấp-Pháp Tòa con muốn tạo xây
Sau khi đông đủ hiệp vầy
Bàn xong con được Linh Thầy tiếp nghinh
Vào Hợi-Thời Bửu-Đình lo lắng
Con y hành sẽ đăng ban ân
Đời con còn lắm nợ nần
Cầu xin lắm lúc Chư Thần thở than
Thầy
cũng muốn Đạo Vàng ban bố
Nhưng con ơi! Còn chỗ tiền duyên
Nay Thầy xuống bút điểm khuyên
Có đau có khổ Phật tiên mới thành
Giã từ con đêm thanh nhắc nhở
Phận sự tròn đừng lỡ từ đây
Cữu-Long hạ xuống chân thầy