Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

- THÁNH GIÁO THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO

PĐ. Vô-vi (HTĐĐ)
ĐT : TH
CĐ. Quyền Hộ Pháp
HĐ.Tăng, Ni-Trưởng
T.Ư Và Tam-Giang
ĐK: BL.Điệp H.H. Dung
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
(Đệ thập-tứ chu niên Kỷ-nguyên Huỳnh-Đạo)
THIÊN ĐẠO
Phật Đài
Tý thời, 14/4(nhuần) Giáp Dần (4/6/1974)


THI
Pháp THIÊN oai luật điểm truyền,
THÁI đồng ĐẠO thượng hội Đồ – Thiên;
BẠCH cầu PHẬT vị đồng khai bút,
GIÁNG Ngự ĐÀI mây xuống lịnh truyền.


LÝ – THÁI – BẠCH Lão chào mừng chung chư Thiên-Phong nguyên-Vị đẳng đàn tiền, Thành tâm trang nghiêm thỉnh cầu Thiêng-Liêng PHẬT TIỀN đồng lâm ngự chuyển tiếp hồng oai ban truyền Chánh pháp
Nầy chư nguyên-nhân nam nữ, đẳng đẳng bình tâm yên tịnh lắng đọng trần - ai để nghe tiếng Đạo - lý cao siêu hầu thức tỉnh tu hành để sớm trở về ngôi vị cũ. Ngày hôm nay, ngày lễ nơi Thiên-Đạo Phật-Đài để tượng trưng tinh thần Đạo - cả, sự đoàn tựu hiệp vầy tu hành tránh qua điều thử thách. Lão thọ Sắc TAM-GIÁO minh truyền cho Hiệp –Thiên –Đài nhớ rõ
Từ đây luật ân giảm của THƯỢNG-TỔ ban cho Hiệp-Thiên-Đài mỗi nơi được hữu Đàn cơ trước Chánh-Điện, Nghĩa là nơi THIÊN-ĐẠO PHẬT-ĐÀI
Bộ phận Hiệp-Thiên-Đài trước TAM-THỂ NHƯ-LAI. Vậy QUYỀN HỘ PHÁP nghe rõ. Ban cơ cùng Tiếp-Điển, Tứ-Bửu được khai trước Điện tiền; còn Hiệp-Thiên-Đài chỉ dành riêng điều cơ mật khi tiếp Huệ-Linh hoặc điều mật diệu được hữu cơ nơi Điện THƯỢNG-TỔ mà thôi, Nơi đâu cùng Chưởng-Tòa các nơi từ trước đến giờ hữu đàn cơ nơi Hiệp-Thiên-Đài, ngày hôm nay xét vì ân từ THƯỢNG-TỔ truyền ban, vậy vẹn giữ, nhưng trước Chánh Điện phải có một chiếc màn trắng mõng, nhớ rõ để phủ trước bàn cơ cho vẹn mỹ. Pháp-chỉ thi hành.
Phần đại –Lễ ngày kỹ niệm TA-BÀ GIÁO-CHỦ ĐẲNG- GIÁC MÂU –NI, Chánh ngọ, ngày thập-ngũ hàng Thiên-phong đầy đủ mặt để triều kiến tượng trưng ngày Đại-Lễ. Phần nghi lễ nghe rõ để thi hành vẹn mỹ: Nơi Chánh-điện phần tất cả phải hoàng-y, phái Hoàng-Chí Huỳnh-Hoa hành nghi lễ tam ban Lễ-sĩ trọn vẹn, phối hợp cùng Tam-Giang để linh động cho ngày Đại-Lễ nơi Chánh-Điện Thiên-Đạo Phật-Đài, nghĩa là phân lễ-sĩ Nhị-Giang phải lãnh phần Trung-Ương điều hành, phối hợp chung lo ngày Đại-Lễ trang hoàng vậy
Về hữu Đàn cơ Hợi thời thập-ngũ nơi Thiên –Đạo Phật-Đài Đức Ta Bà Giáo-Chủ Đẳng - Giác Mâu-Ni sẽ điểm công. Sau khi Đàn cơ nơi Chánh-Điện Thiên-Đạo Phật-Đài chấm dứt sẽ liên tục hữu Đàn cơ nơi Bạch-Long Bửu-Điện cho phái Hoàng-Chí Huỳnh-Hoa cùng hàng phái Huỳnh cùng phái Ngọc do Đức LINH-QUANG chủ xướng điểm quả khen công
Phần Thân thời nơi Bạch-Long Bửu-Điện tế Cữu-Lưu  Thất-Tổ cùng Tổ-Quốc Công-Thần hợp Trung-Ương cùng Hậu-Giang để giữ phần tế lễ trang nghiêm vẹn mỹ cầu nguyện Thất-Tổ Cửu -Lưu cùng Tổ-Quốc Công-Thần cùng Chiến-Sĩ trận vong cho toàn mỹ.
Phần tiếp điển, nơi Thiên-Đạo Phật-Đài TIẾP-PHÁP Đảm trách;
 nơi Bạch –Long Bửu-Điện hữu Đàn cơ phần LINH QUANG điểm phán do TIẾP PHÁP đảm trách cùng liên tục bút điển do Tăng-Sĩ HUỲNH-ÁI đảm trách phần bổ túc vậy
Lão có đôi lời cho tất cả khá nghiêm minh thành theo Thiên-Ý thành tâm tiếp cầu TAM –GIÁO Lâm phàm, triều nghinh...


THIỆN duyên hữu đức tạo công vàng,
TÀI lộc Thiêng-Liêng điểm phước ban;
ĐỒNG kiến Như-Lai khai Đạo quả,
TỬ đề chân-lý để lời ban.
Thiên-Tài Đồng-Tử, Tiểu -Thánh thừa lịnh báo tin NAM –HẢI QUAN- ÂM Chiếu hào quang đạo hạnh giáng ngự Chánh đàn điểm hồng từ cho tất cả. Triều nghinh ...

Bần đạo mừng chung.

Hào quang Đạo hạnh hiện ngàn phương,
BỒ –TÁT QUAN-ÂM ngự Phật-đường;
NAM-HẢI TỪ - BI Vung pháp hạnh,
Bồ-đề trí huệ đắc Tây phương.
GIÁNG lâm Bửu-Điện ban ân từ,
NGỰ  điểm hồng oai chỉ Đạo trường;
THIÊN bút cơ huyền minh lý chánh,
ĐẠO mầu Phật vị hiện đài gương.

Bần đạo mừng chung vạn tải hồng ân ban pháp hạnh hào quang để cho tất cả được gội nhuần phước huệ, Lành thay! Lành thay!...

Cuộc tuần hoàn vận chuyển, nhân-sanh trọng hồi nghiêng ngữa Bần đạo vì xót thương dụng đạo hạnh kim quang cùng nhành dương sái tảo để đem lại phước lành cho vạn vật sanh-linh; Hỡi tất cả nhân - sinh trong buổi trần tình điên đảo, trong chốn đủ ly đau buồn hãy lắng đọng tâm-linh để tìm cội nguồn Chánh Đạo, thoát khỏi hồn mê, trần lao sanh tử khổ đau thương, xa rời tam-đồ chi đọa.
Nầy chúng sanh! Sống trên quả Địa-cầu nầy đã hữu công hữu phước tỉnh ngộ được Đạo pháp siêu-Linh, xét thấu đươc việc nhục vinh nơi trần-hạ điều sanh lão bịnh tử, thành trụ hoại không bốn đường đau khổ, phải tỏ ngộ chơn quang tầm tu giải thoát, đừng ngỡ ngàng trên bước đường tu hành vì lầm kẻ Ma vương đãi  quỉ mà phải bị luân-hồi hóa kiếp thành hóa-nhân hoặc súc sanh ngoại vật thì uổng thay, uổng thay ! Đời người rất khó, đã làm con người bị những điều khó khăn cản trở; tình tiền danh lợi sắc giới đau thương, huống chi làm vị Thần Thánh Phật Tiên còn phải trải qua biết bao nhiêu đường đau khổ, phải ráng nhẫn nhục bền tâm kiên chí mới đạt thành quả vị đài liên hay Niết-Bàn Bạch –Ngọc . Hỡi chúng-sanh ! Kìa cảnh thảm khóc dẫy tràn, nước lửa trùng trùng máu xương chồng chất, cảnh chết chóc đó vẫn còn kéo dài qua năm tháng,  còn phải trải qua biết ngày nào chấm dứt để tái tạo Thượng-Ngươn lập đời Thánh-Đức. Vì bảy-mươi-hai ức nguyên-căn còn chịu xa vời đó  đây, chưa biết hướng thiện tu hành giải thoát, chưa tỏ ngộ được chơn quang, chưa tìm được con đàng cao diệu thì làm sao? Làm sao! ...

Hỡi nhân sanh ! Kìa là cánh đồng bát ngát, bao nhiêu cỏ dại trùng trùng, nơi đó có những hạt giống lành, những lúa thơm không tuyển lọc làm sao để chờ giờ chung hưởng. Lòng từ-bi đại lượng chua xót đau thương, muốn cứu cánh tất cả đều trở về với cỏi Tây-Phương, vì chúng-sanh còn đang mang nghiệp quả dầu Phật có vạn hạnh Từ-Bi không thể đem người chưa thức tri kỳ lý. Đạt tri kỳ Đạo thì làm sao vớt được một linh hồn , khi mà nghiệp chướng còn bám víu đầy đặc thêm tâm khẩu ý. Nầy tất cả khá thủ lễ nghiêm trang, trước là thỉnh Thàng Tam-Giáo chứng minh sau là thỉnh Tứ-Linh THÁNH-MẪU kế tiếp liên tục điểm đại-Hồng-chung để thỉnh MẪU-HOÀNG giáng ngự. Vậy Bần-đạo triều nghinh ...
TỨ-LINH THÁNH-MẪU đở kim Loan,
TAM-GIÁO triều nghinh đức MẪU-HOÀNG;
Nam nữ Thiên-Phong đồng đại lịnh,
Hồng-chung đại điểm tiếng ngân vang.

Triều nghinh.......




MẸ mừng chung các con
Kim loan xe báu mẹ nương về,
Miễn lễ Thiên-phong đã tựu tề;
Đồng đẳng Thánh Thần nghinh trước Điện,
MẪU-HOÀNG Xuống điển để lời phê.

TAM-GIÁO đồng lui MẸ chứng lòng,
Tứ-Linh hồi vị điểm thâm công;
Các con an tọa nghe truyền dạy,
Mỗi mỗi bình thân Mẹ sắc phong.

DIÊU Điện trầm lan ngự Phật đài,
TRÌ  Cung Mẹ xuống cỏi trần-ai;
KIM thơ Mẹ điểm con yên dạ,
MẪU tử đoàn viên chỉ một ngày.
THƯỢNG ngự cao ngôi chầu trước Điện,
ĐẲNG ban cữu phẩm thị kim hoàn;
TỪ bi Mẹ xót đoàn con dại,
TÔN tử đoàn viên Mẹ điểm khai.

DIÊU-TRÌ KIM-MẪU THƯỢNG-ĐẲNG TỪ-TÔN Vui Thay! Mừng Thay!  Các con nam nữ tựu tề Mẹ động lòng, Thành nguyện của mỗi con, Mẹ giáng ngự nơi Thiên-Đạo Phật-Đài để chứng minh lòng các con hiếu thảo.
Các con ơi! Các con vì Đạo trọng Đạo thương THẦY Kĩnh Mẹ ......... Vì thương thân phận của các con bị đọa đày trăm ngàn kiếp đau thương, Mẹ muốn đưa tay để dắt con trở về nơi Quỳnh-Tương Đại-Yến Mẹ muốn rước con trở về nơi Diêu-Điện cao ngôi. Ớ các con ơi! Đời đang loạn lạc, Đạo cả lúc suy vi, Mẹ khóc bởi vì các con trong tâm tay, trong nháy mắt mà các conn chưa tầm suy nguồn gốc để trở về với Mẹ cỏi thanh nhàn Các con chịu cảnh lầm than đến bao nhiêu kiếp nữa? Hãy cải sửa đi con! Hãy thành tâm, thành ý, thành lòng tu chơn tầm Đạo Đừng viễn vông xa vời hay mơ mộng cỏi vĩnh cữu trường miên là Bạch Ngọc Niết-Bàn. Linh-hồn các con đang buộc ràng bởi xác thhể mà xác thể các con đang buộc ràng trong tứ-đại, mà tứ-đại kia các con đang buộc ràng trong tình tiền danh lợi. Con ơi! Muốn dứt khỏi nghiệp chưởng oan khiên cùng danh quyền cặn bã, các con phải chịu ép mình như cây kia muốn trở nên hình tượng, phải dày công lao nhọc lắm đó các con ! Đừng vì một chút lao thân để rồi các con xa rời bản thể hư-linh, mà bản thể trường miên vỉnh cữu đó là Đạo pháp nhiệm mầu cùng sự giải thoát cao siêu.
Nầy các con ! Mẹ cúi đầu trước qui điều THƯỢNG-ĐẾ, MẸ phải đau lòng vì các con bước đi quá trễ, Mẹ phải buồn tủi vì Mẹ không trọn bổn phận đối với các con; bổn phận của Mẹ là phải dìu dẫn các con qua khỏi tứ đỗ tường vượt khỏi nghiệp chướng đau thương, cứu con về với thâm tình mẫu tử, làm mẹ không tròn còn phần con, khi làm con biết bổn phận hiếu thảo đối với Mẹ thì làm như thế thế nào để tượng trưng phần hiếu lễ? Nếu các con đã tròn phần hiếu kĩnh đó, thì tức nhiên làm vừa lòng Mẹ,Mẹ khỏi thiếu bổn phận đối với các con. Bao giờ mẹ cũng thương các con, có khi nào Mẹ bỏ con ? chỉ có con thì xa rời  Mẹ mà thôi ! Thâm tình đó vơi đầy; có lúc vui thì các con nghĩ rằng tình mẹ bao la như  trời biển, buồn thì các con cho đó là huyễn hoặc viễn vông hoặc vì con nhìn không tận mắt, lẽ ra con phải nhìn tận mắt thấy tận tường vì cái thấy của con là sự chết sống; sự chết sống kia thì các con đã biết giả tạo cỏi trần này rồi vậy khi biết  giả tạo đó sao con chưa thức tỉnh ? Nếu thức tỉnh thì được Mẹ cứu cánh đem về, còn các con bị hôn mê Mẹ ngày giáng đêm thăng, hằng khuyên hằng nhủ để đem các con về với Mẹ mà thôi. Mẹ không bỏ các con thì các con đừng bao giờ bỏ Mẹ. Hãy thức tỉnh đi các con! trong bụi mờ kia, trong cát sạn đó, trong thau chì nọ đều có ẩn Kim-Cương cùng châu báu, trong cát thường có lộn vàng, trong bụi thường có ẩn ngọc, ngọc ẩn trong bụi nhơ.
Nếu các con biết tìm kiếm, biết lau chùi thì tức nhiên viên ngọc nọ sáng soi và quí giá. Nếu các con không biết tìm kiếm, không biết lau chùi, nghĩ rằng đó là ngọc giả thì muôn đời làm sao tìm  được những sự quí báu tàng ẩn ở trong cát bụi bùn nhơ?
Các con ơi! Việc tu hành đã từng bước một, cũng như đứa bé đã chập chững bước đi, bước đi của đứa bé khác,. Mà đến chồng thêm một tuổi lại càng khác hơn.Cũng như tuổi Đạo các con mới bước vào chập chững thì thấy rằng việc đi đứng nặng nhọc khó khăn, mà các con đã bước lâu niên đi vài đoạn đường, thì việc đi kia rất là dễ dàng không có gì là trở ngại, Biết như thế thì các con thành Đạo chỉ nháy mắt mà thôi
Con ơi! Tình Mẫu tử bao giờ cũng thiết thiết tha tha, tình mẹ con bao giờ cũng chan hòa những dòng lệ buồn thương đau khổ. Thử hỏi các con, các con đã từng làm mẹ làm cha một gia-đình nhỏ trong khuôn khổ gia-đình đó, các con gặp phải một đứa con bất hiếu ngỗ nghịch sự giáo-huấn của các con, sự lao tâm khổ trí của các con dường nào? Cũng như Mẹ, Nếu các con vơi đầy tình mẫu tử hoặc chẳng thuận ý do Mẹ đau buồn không ít!...
Nầy con THIÊN-AN! Mẹ truyền lịnh cho con phải tịnh khẩu một trăm ngày, truyền lịnh QUYỀN TAM TRẤN NHỊ GIANG chờ lịnh Mẹ phán quyết sau một trăm ngày để xét lại. Nên nhớ! Khá khâm tuân thiên-ý
CHƯỞNG-GIÁO con! Ngày Đại-lễ hôm nay gọi là tượng trưng cho ngày Phật-Đản mà thôi, chớ không phải chánh thức ngày Phật –Đản
QUYỀN GIÁOTÔNG con, Phần hậu Điện con nên cố gắng để hoàn tất việc công quả
Bửu Liên các con đã khổ nhọc lập công-trình , công-quả , tam-công đó là ba bí pháp chánh yếu mà THƯỢNG-TỔ Đã truyền ban các con đã chọn trong vạn pháp. Phải hành cho  đúng tam công thì  đắc đạo hiện tiền. Mẹ thương các con Mẹ ngự xuống cơ huyền  để dạy lời cao diệu, con nên khai khiếu  định thần, tỉnh tâm huệ tánh để tri thức lời Mẹ
Các con được ân từ là từ đây hữu Đàn cơ nơi Điện tiền mà không phải nơi Hiệp Thiên-Đài như luật đã qui định từ lâu.  QUYỀN HỘ PHÁP Ghi nhớ!

Mẹ động lòng thương ngự điển vàng
Canh buồn Mẹ khóc bởi con than ;
Ngày dài Mẹ tủi con xa vắng,
Canh lụn Mẹ sầu tiếng oán than.

Than oán trần-ai tiếng Thạch-Sùng
Hỡi nầy con dại lệ hòa chung
Ban-Đào Mẹ đợi con hồi vị
Đại Yến Quỳnh Tương chẳng trẻ dùng!

Trẻ  dùng cùng Mẹ trước Diêu Cung
Thỏa chí chờ mong buổi hội cùng
Đoàn tựu hôm nay  trần thế tạm
Rồi đây cách biệt đã rời chung

Chung cuộc rồi co chọn một đường
Một là trở lại cỏi Tây-Phương
Hai là Địa-ngục luân-hồi khổ
Đó! Chọn đi con, có mấy đường ?

Mấy đường con chọn tử cùng sanh
Sanh tử con ơi! Khổ đã đành
Thà tử đi vào nơi khổ hải
Còn sanh con ngại khổ thân sanh

Đêm vằng vặc tiếng sầu u ẩn
Mẹ giáng đàn hòa vận điểm con lành
Tiếng côn-trùng canh vắng thở thành rành
Như tình Mẹ đoạn đành ly cách
Cơ vận chuyển hòa trong động mạch
Máu luân lưu vận chuyển tuần hoàn
Con nhịp tim hơi thở cơ hàn
Để ấp ủ nồng nàn tình mẫu tử
Rẽ chia nhau con sanh hung dữ
Lại xào xào ngôi thứ chưa phân
Ở trần-gian con loạn cả tinh thần,
Ác lại lại chẳng hóa bần mà sang cả
Hiền lại khổ cuộc đời vất vả
Đói no là con trả quả xưa
Mẹ khuyên con đừng bỏ phận thưa
Trình với Mẹ những điều u ẩn
Mẹ chứng chiếu biết rằng con hận
Hận cuộc đời cùng hận Đấng cao xanh
Hận cho con khi công nghiệp chẳng đoạt thành
Hận cuộc thế chiến tranh đời ly loạn
Con muốn tỏ ra người xứng đáng
Tự hậu con mới đáng phận con
Bởi vì con nghiệp quả nặng đòn
Thê phụ tự méo tròn chưa vẹn phận
Phận làm con tinh thần không phấn chấn
Nghịch Mẹ cha lại giận thói đời
Khổ con ơi! Khổ bởi con ơi!
Tại lòng trẻ đua đòi theo vật-chất.
Tâm con chưa tạo điều chơn thật
Thì làm sao thể chất được an nhàn
Máu huyết chưa lưu chuyển khắp thân an
Còn ngưng đọng bởi tâm can tỳ phế thận
Trong thân con máu hòa chan dìu dẫn
Đưa tuần hoàn để chấn định tâm-linh;
Muốn làm sao cho tam-bửu được kết tinh
Là vận dụng Huỳnh-đình trọn vẹn
Tứ hải đóng then gài con chọn kén
Cho dủ-hà đừng bén với tam-huê;
Diệt làm sao tam-muội chớ quay về
Đốt đảnh thương phá mê cùng bến giác
Luồn kim khí đưa từ hạ cát
Đến thượng-điền như hạc đã chầu Tiên
Nầy các con tam-bữu đã kết liền
Con tạo được Thánh thai toàn vẹn.
Mẹ chỉ con, con ơi! Nên chọn kén
Tằm nhả tơ đừng thẹn phận làm người
Nhục với vinh là lẽ sống trên đời
Vinh với Đạo như cuộc đời ta chịu nhục
Đừng hơn thua đừng qua từ nhỏ dục
Dục vọng là dục vọng phát nguyện
Muốn thành Tiên mà cũng muốn danh quyền
Muốn Địa ngục lại muốn Thiêng-Liêng khen thưởng
Con ơi! Cỏi trần-ai nghiệp chướng
Tỉnh đi con đừng hưởng cỏi đời nầy!
Mẹ gọi con tình mẫu tử kết dây
Mẹ thổn thức ngày dài canh lụn
Lệ hòa mực vần thơ Mẹ dụng
Viết thành văn chỉ đúng điểm điều sai,
Cho các con năm tháng ngày dài,
Suy gẫm lại trần-ai mấy lát
Từ ngày con xa rời Điện các
Xa Diêu-Cung xa hẳn Mẹ hiền
Mẹ còn đây Mẹ của Thiêng-Liêng
Vẫn trùm phủ con hiền trong vũ-trụ
Con chưa được hiệp đồng đầy đủ
Con thì còn bảo thủ cá-nhân
Chơn-lý nầy chơn-lý nọ cân phân
Đạo nầy thiệt còn Đạo kia dụng giả.
Đạo này ma Đạo kia dụng thánh
Đạo này tà Đạo đó chánh sao con ?
Đạo nầy đầy, Đạo kia lại tròn
Đạo nầy khuyết, Đạo kia còn vỉnh cữu.
Đạo nhiều Đạo lý chơn thì vô hữu
Con có tường làm chủ-nhơn ông
Đạo của con là Đạo ở tấm lòng
Cho thành thiệt cho lục- thông quán triệt,
Đạo của con là hoàn toàn hiểu biết
Nhơn, nghĩa , lễ toàn minh chơn thiệt;
Đem lòng chơn đối thiệt với người ngoài,
Đạo của con là giới sát trường chay,
Giữ đúng luật pháp –nguyên tịnh tọa
Đạo của con là lập nên công quả
Đạo của con bồi đắp công-trình
Nhớ rằng con vẹn giữ cao minh,
Đừng suy gẫm trần tình rồi bỏ Đạo.
Đạo tâm thiệt là con rốt ráo
Gặp quỉ ngăn ma bạo đón đường
Con tưởng rằng Đạo đây thật ma vương
Rồi thối thác chạy theo đường danh lợi
Hoặc bước sang Đạo nầy Đạo khác
Đến Long-Hoa tan nát con à!
Lái thuyền đi phải vững một đà,
Đừng sai chạy rồi quỉ ma lờn dễ.
Tu rất dễ nhưng Đạo là rất khó,
Nếu con tu chỉ hũy bỏ lớp đời;
Còn Đạo là chính thiệt do Trời,
Khi làm Đạo chính ta là Trời của thế hạ.
Làm theo ý của Thầy cải hóa,
Tuân theo lời Mẹ đã dạy khuyên;
Con là Thầy là của chủ quyền,
Mẹ vậy  để dạy truyền chơn lý.
Con tỉnh thức nghe lời pháp chỉ
Để hành xong đừng liều ý bỏ qua;
Nầy các con ở trước Phật-Tòa
Lóng nghe Mẹ thiết tha lời kêu gọi.
Phải tỉnh tu nghe đây Mẹ hỏi
Trong cuộc đời con gói được bao nhiêu ?
Tình tiền danh lợi tính đã nhiều,
Câu Đạo-Đức tuổi đã xế chiều tàn lụn.
Con nữ-giới nghe lời truyền tụng.
Mẹ ban ơn ráng dụng ý tu hành
Mẹ khóc vì con trẻ trưởng thành
Chưa đạt Đạo cao thanh huyền diệu.
Mẹ chỉ dạy con ơi! Đừng thiếu
Thiếu một con mẹ thiếu một lằn hơi
Mẹ nhìn con lăn lóc với trần vơi,
Mẹ muốn rước con về  nơi Điện ngọc.
Đêm mẹ dụng kim quang chỉ dạy
Ngày Mẹ ban quãng đại ánh từ-bi
Mưa thuận hòa gió tạt ngoài hiên
Con được hưởng thừa ân cõi thế
Mẹ xuống đây hì điểu Đạo Lệ
Cho các con tường để thi hành
Tử sanh bao nghiệp đã đành
LONG-HOA Phán xét Mẹ dành hồng ân
Hội long-Hoa đã gần đây trẻ
Ngày Đại-đồng con sẽ tường thông
Chánh với tà xét luật công đồng
Để phê phán con trong Đạo quả
Đừng suy  tính con ơi! Phải khá
Trọn lòng thành công quả nghe con
Mẹ gọi con trăng nọ lên tròn
Mây mờ ảo tiếng còn vẳng lại
Con ở thế con khôn, con dại
Nước có khi  rồng lớn mấy hồi
Đường đi con chỗ phẳng chỗ lồi
Người ở thế sự đời sao minh bạch
Trăng khi khuyết lại tròn trong sạch
Lúc bị mờ trăng lại vì mây
Mây kéo giăng trăng nọ tuy đầy
Không thế chiếu vì mây cản trở
Như thân con muốn lành nhưng đã dỡ
Dỡ dang nầy tại trẻ đó thôi!
Nếu tâm viên con giữ không rồi,
Không tranh lận không hơn thua qua lại
Thì đâu có việc con khờ dại
Chịu đời mê cùng Đạo lại khai thông.
Nếu con khôn Mẹ đâu đổ lệ hồng
Nếu con  biết Mẹ đâu trông ngày tháng
Mẹ xuống đây dạy con lời tường hãn
Dụng căn từ lẽ tạm  của trần-gian
Để trí con cùng óc  của thế-gian
Hầu phê phán lời than của Mẹ
Con im lặng trong ngoài khe khẻ
Gợi lòng con một chút u buồn
Khi con nghe Mẹ dạy tích tuồng
Kể chuyện cũ con thương ráo riết
Thương tình Mẹ muốn choàng tay ôm xiết
Biết tình con Mẹ tiếc bởi vì con;
Nghe Mẹ than dạ lại thon von
Khu dứt  tiếng thì con ơi, đời trở lại
Trong hai buổi gia thế tần tảo
Đói no nhiều áo lại rời bâu;
Làm sao con? con biết được Đạo mầu,
Làm sao trẻ vơi sầu vì quả nghiệp?
Đó, trần gian con hiền luyến  tiếc
Đừng trách than mọi việc ở trên đời
Rằm ngươn con cúng kĩnh tưởng trời
Mang lớp áo lớp đời con phủi sạch
Chỉ một chút suy trong động mạch
Tưởng đến trên THẦN THÁNH Thiêng-Liêng
Cùng MẪU-NGHI ĐỨC MẸ Diệu hiền
Ban cho trẻ trọn nguyền với Đạo
Lời Mẹ dạy con ơi! Cấu tạo
Nghĩa Kim-Bằng tiết tháo anh hùng
Cùng chung hòa tỷ muội viên dung
Phải tha thứ  cùng chung đi theo lối
Tránh đường tối con nhằm đường tội
Đuốc quang minh Mẹ  rọi  khắp cùng
Sao con không theo  đó mà dùng
Để mờ mịt chịu trong quả nghiệp
Mẹ dạy con những lời chân thiệt
Đối đãi nhau phải nhiệt tình thâm,
Đây Các con nghe rõ thâm trầm
Để tỉnh thức không lầm ma  quỉ
Phần pháp nguyên con ơi! Thuần túy
Luyện cho rành cao quí miếng tâm điền
Con hườn-hư phải tịnh cho yên
Tựu ngũ-khí giao liên cùng cữu huyệt
Luyện lục-thông con ơi! Quán triệt
Tựu ngươn thần khai huyệt Tam-thiên
Tịnh thông qua Minh-Kiến diệu huyền
Conn hoán chuyển luân truyền nhứt khí
Chi huyền quang con ơi!cao quí
Tựu linh –đài thuần túy cho yên
Nghe lời phân của bí-pháp Tam-Thiên
Là giữ đúng diệu huyền cữu huyệt
Nhớ cho kỹ tinh dương thấu triệt
Luyện huyền-công mật-quyết cao minh
Luyện làm sao tam-bữu kết hình
Để ngọc-chẩm huyền linh chói rạng
Xuyên cữu khiếu thượng-đài chớp nháng
Xuất huê-quang ngời sáng ánh Minh-Châu
Đưa từ trên cung đỉnh thượng đầu
Qua hơi thở hạ châu luân chuyển
Nhủ hoa động tay thông cữu luyện
Tạo thành đơn kết chuyển xe về
Nầy các con nếu bế tam huê
Cùng lập-đãnh an-lư cho vững
Nầy các con pháp nguyên còn thắc mắc
Dở họa đồ để đặt tượng hình
Nơi vĩ lư tân-dịch nhẹ tinh
Đưa hơi thở nhẹ mình qua thượng –đảnh
Con hườn-hư con ơi! Luyện tánh
Trói tâm viên cùng tứ mã cho yên
Ý của con xuất động liền liền
Nhớ bao việc oan khiên từ thuở trước
Tâm và ý con chưa luyện được
Bởi ý con xuôi ngược trần-gian
Tâm là viên mà ý mã chạy theo đàng
Phải cột trói cho an một chỗ
Khai định thần lưỡng quan con độ
Híp mi vào lưỡi lại cong lên
Tân-dịch vào đưa nhẹ đừng quên
Xuống hạ huyệt bờ mê bến giác
Con có thấy diệu huyền con đoạt
Mệt thần tâm ý tạo chưa đều
Nầy con nghe Mẹ  hỉ bấy nhiêu,
Con cũng được thành Tiên đắc Phật
Luyện  đẳng-giác hườn-hư không mất
Kết duyên thành là tinh, khí, thần
Tinh con hao khí cạn thần tan
Là tự trẻ đốt lằn tam-muội
Luyện lục-căn biến thành lục  đức
Luyện lục-trần hóa lực lục-thông
Luyện làm sao tứ hải giáp vòng
Đưa hơi thở đều đồng khắp chốn
Thở hư-không là huyền-nhiên chi-khí
Không thở mà huyền khí vẫn lung linh
Đó con tường những việc cao minh,
Con ráng luyện ĐẠO HUỲNH mầu nhiệm
Nhớ tâm ý là oan khiên nghiệp chướng,
Nó hại con tam-bửu phải tiêu tan
Đương tịnh thần suy nghĩ miên man
Nơi gia thế con đàng đi lại
Nhớ đây đó tính duy vụng dại
Cùng dục trần đem lại vơi thân tâm;
Thì làm sao con luyện được ánh trăng rằm,
Khi mây nọ đang kéo giăng phủ xuống
Kìa! Hạt mưa trên cao độ lượn
Xuống hiên ngoài lòng tưởng như xa;
Con luyện đây nghe động mái nhà
Lại vụt nghĩ mưa sa rồi dột đổ
Đó ý con mau mau cấp Lộ
Phá đường mê yểu yểu minh minh
Nầy con nghe bao việc huyền-linh
Phải học hỏi để giữ bên mình trau luyện
Mấy lời phú Mẹ hiền điểm khuyến
Các con tường Mẹ chuyển từ văn
Dạy con bác-ái công bằng
Từ-bi là Đạo chuẩn thằng, con ơi!

BÀI

Diêu-Cung Điện canh tàn Mẹ hạ
Ánh trăng soi xuyên ngã qua mành
Mây vàng che khuyết trăng thanh,
Hạt mưa  tuôn đổ bên mành hoang liêu.
Tiếng con than là điều chua xót
Mẹ u buồn tuôn giọt mắt hồng;
Nhìn con Mẹ thoáng đau lòng
Cuộc đời sanh tử con mong làm gì ?
Mẹ nước mắt từ bi tuôn đổ
Khóc vì con xa chỗ lạc đường
Bao nhiêu bao lúc đau thương
Thân tình mẫu tử còn vương lệ sầu
Diệu-Cung-Điện đêm thâu vắng lặng
Khói trầm hương mấy rặng mây xanh
Đào Tiên Mẹ dã sẵn dành
Chờ con trở lại Diêu thành MẪU-NGHI
Thư-Hùng-Điện huyền-vi linh tuệ
Phụng-Loan-Đài dưới bệ con ơi!
Màn loan Mẹ khoác lưng trời,
Nhìn con dưới thế Đạo  đời chưa xong.
Mẹ bao nhiêu lời mong chờ đợi
Mẹ con chưa tròn ngỡi tròn nhân
Làm sao Mẹ rước một lần?
Làm sao Mẹ cứ cơ bần của con
Tuôn dòng lệ Mẹ còn hòa mi
Viết vần thơ vô sức u buồn
Tịnh lòng con rõ hồi chuông
Diêu-Đài ngân tiếng chuông buồn, con ơi!
Nhìn mỗi con đầy vơi Đàn nội
Con tâm thành con lại chưa tròn;
Bao nhiêu, bao nghiệp nặng đòn
Làm sao mẹ rước cho con trở về ?
Mẹ phá mê con thề  dưới Điện
Một lòng thành vẹn nguyện mà thôi;
Mẹ ôi! Đừng để nổi trôi thế nầy
Con réo MẸ THẦY bao tiếng,
Mẹ xót xa Mẹ hiện gần con
Hầu đem xoa diệu mất còn
Cho con nổi khổ hao mòn Trần-gian
Con nam phái như vàng mới qui
Mẹ quí con, con khá nhiệt hành
Dầu rằng trong kiếp tử sanh
Lý chơn Mẹ dạy còn hành cho thông
Mẹ thương con tấm lòng chơn thật
Biết tu hành không mất, con ơi!
Tình thương của Mẹ cao vời
Ngàn thu vỉnh cửu đời đời trường miên
Con nữ phái Bửu-Liên quí báu
Mẹ thương con tần tảo sớm hơm
Ngọc kia nào phải rác rơm
Ngọc vàng soi giá linh-hồn cao minh
Mẹ thương con trần tình đày đọan
Bước tu hành cố ráng nghe con!
Lệ hòa mực viết cho con
Những lới quí báu cho tròn đêm nay
Đêm vắng lặng trong ngoài sùi sụt
Lê tuôn tràn dòng bút hòa thơ
Mỗi con nam nữ mong chờ
Cho tình mẫu tử kịp giờ  đoàn viên
Mẹ Dạy con tình riêng năm, tháng
Nhìn Luật-điều tường hạn chưa con?
THẦY TRÊN phán lịnh điểm son
Trao quyền DI-LẶC tuyển con cuối cùng.
Mẹ xót dạ ứng dùng từ huệ.
Dạy cho con là để nung lòng
Thánh-ngôn giáo Huấn Mẹ mong,
Đàn nào Mẹ cũng ngóng trông con hiền
Lời tha thiết diệu huyền mẹ dạy
Từ ngày xưa, khai mối Đạo Vàng
Mẹ quì xin với NGỌC-HOÀNG
Khai minh HUỲNH-ĐẠO tuyển hàng linh-căn
Nay trưởng thành con hằng mấy đứa?
Tuyển xong chưa đúng bửa  THẦY minh;
Thiên-điều trước Án luật  đình
Ngôi cao Thầy phán Đạo Huỳnh con lo.
TRỜI tuyển con xuống đò Bát-Nhã
Đưa về Tiên thong thả bước đi
Có trên Mẹ ĐỨC DIÊU-TRÌ
Dẫn dìu dạy dỗ huyền-vi vô  cùng
Chữ hòa con hiệp chung tỷ muội,
Hòa đệ huynh cùng hội chung nhau;
Hòa trong hòa ngoại hòa sau
Hòa trên hòa dưới hòa trau Đạo Vàng
Hiệp nhân thế lo toan trách nhiệm
Hiệp trần-Gian  để chuyển cơ đồ
Hiệp đời hiệp Đạo điểm tô
Hiệp nhân hiệp nghịa trương phô  ĐẠO HUỲNH
Nhẫn mới được tồn sinh danh thể,
Nhẫn mới tương sự dễ con ơi!
Nhẫn là ngọc quý trau giồi
Nhẫn là sẽ được đời đời yên vui
Nhục phải chịu cuộc đời biếm nhẽ.
Nhục phải tương lời lẽ cao minh
Nhục kia nhục của Đạo Huỳnh
Nhục là biết giữ nhân tình nghĩa xưa
Tâm con giữ sớm trưa đầy đủ
Thương là thương con tựu tề nơi đây
Thương là thương Đạo thương THẦY
Thương con xa cội xa bầy rẽ phân
Thương là thương những lần con khảo
Thương khi con giông bão cợt đùa!
Thương là sương gió năng mưa
Thương là con chịu thớt thưa  khốn nàn.
Thương thân thể đa đoan binh cách,
Thương dân lành huyết mạch còn đây!
Thương là xương chất cao dầy,
Máu tràn lênh láng đó đây dân lành!
Thương là thương nhân sanh cộng nghiệp
Thương mạt đời nối tiếp, con ơi!
Thương là những kẻ mê đời,
Thương con lặn hụp chơi vơi bể sầu
Thương bể ái sòng nâu chưa trọn
Thương đường tình chưa dọn chông gai
Thương con trong lại thương ngoài
Thương trong Đạo-Pháp chưa đầy huyền-linh
Thương ngoài con trần tình xác thể
Thương là thương hô dễ mấy ai
Thương thân con của thế nầy
Là thương tứ-đại chịu ngày hủy thân
Thương lục quỉ ma trần khao nghiệp
Thương là thương tam độc con hiền
Thương là thương kẻ trần duyên
Thương vì con dại xích xiềng bản thân
Yêu mến con những lần xuống biển
Yêu mến con chỉ chuyện thiệt hơn
Yêu con khi trẻ giận hờn
Yêu con biết Đạo tròn ơn vẹn lòng
Thương yêu nhau cho đồng tất cả
Như tình cha Mẹ đã nắn nhồi
Con ơi! Mẹ dạy xong rồi
Những lời thề thốt con thời nghĩ suy
Nam nữ con đơn trì mẹ phán
Việc trước hành sau ráng lo xong
Một là con nhớ quả công
Hai là Đạo-Pháp lục-thông luyện tròn
Hòa đi con Nhã thoàn bác ái
Hòa đi con đem lại tình thương
Hòa nhau để trị ma vương
Hòa hau để đến Phật-đường, con ơi!
Hòa sẽ cứu được đời trần-hạ
Hòa để con Đạo cả trương phô
Hòa nhau ma quỉ hồ đồ
Nhưng hòa ma quỉ cơ hồ sợ ta
Hòa đi con thiết tha vì Đạo
Hòa nghe con tần tảo chung đường;
Hòa nhau hóa ý hòa thương
Để con hòa được chơn dương báu mầu
Hòa thuốc Tiên nun châu đốt ngọc
Hòa khí thần chí dốc luyện rèn
Hòa cho khêu sáng ngọn đèn
Hòa tâm đăng rạng cài then minh truyền
Thuận nhau để con thuyền Bát-Nhã
Thuận Thiên-thời Đạo cả Hoằng dương
Thuận nhân-tâm ắt Phật đường
Thuận trời sẽ được Tây-phương đồng về
Thuận với Đạo hôn mê tiêu rồi
Thuận với đời sám hối ăn năn;
Thuận nhau giữ luật công bằng
Thuận nhau con được chuần thằng LONG-HOA
Luyện bí-pháp thuận hòa giao cấu
Âm dương hòa nung nấu đơn dương;
Thuận đường nghịch chuyển là phương
Để con dìu dẫn chơn dương trở về
Mẹ dạy sơ lời đề trước Án
Mỗi con cần cố rắng hôm nay;
Hòa nhau bí-pháp trường chay
Để sau được chứng Phật-đài thung dung
Hòa Bửu-Liên hòa chung tỷ muội
Hòa đệ huynh hai buổi cùng nhau;
Con ơi! Anh trước em sau
Một đường cứu rỗi chung nhau kịp kỳ
Thuyền tách bến ra đi xuôi ngược
Để cho con biết được thế nào?
Sóng dồi gió dập là bao
Con tường những việc ốm đau trần hoàn
Phần điểm danh đêm tàn mẹ nhủ
Chờ điểm công đầy đủ ngày mai
THÍCH –CA ân tứ trước đài
Điểm công chỉ Đạo con rày nữ nam
Giờ phận sự lo làm nghe rõ
CHƯỞNG-GIÁO cùng phận đó con hành
GIÁO-TÔNG Trách nhiệm cao thanh
Con ơi! Ghi nhớ thiệt thành lo xong
THƯỢNG-SANH Với cùng trò THƯỢNG-PHẨM
Chung đường đi tô đậm công vang
Cùng QUYỀN TAM TRẤN lo toan
Trung-Ương cùng với An-Giang con hành
Hai con phải em anh chung kết
Chặt gìn nhau hòa hết dưới trên
Dạy con tất cả làm nên,
Phận nào MẸ Phán đừng quên ý truyền
Phần THIÊN AN nhớ truyền lời Mẹ
Phải nhiệt thành lặng lẽ lo tu,
Lo phần ‘tịnh khẩu” thúc thu
Nhị-giang để MẸ đề bù ngày mai

Giờ THIÊN HIỆP đường dài cố gắng
Phận hậu-đoàn bước thẳng nghe con!
Đường đi cố chí vẹn tròn
Mới mong thành Đạo nét son huy hoàng
Phận THIÊN HÒA con toàn trách vụ
Nơi đây cần đầy đủ con ơi!
Đó đây Mẹ dạy cạn lời,
Cho con mỗi mỗi vâng lời Mẹ khuyên
Phận Bửu-Liên điểm truyền đôi lý
Con phận hành nhiệm ý cho tròn
THÔNG, HUỲNH, QUANG đạo khá  toàn
KHƯƠNG, PHI, THIỆN với KIỀU toan thi hành
LIÊM, NHÂN, NGHĨA tinh anh bước kịp
Đạo quả trình chuyển tiếp hôm nay;
Mẹ hiền sơ lược điểm bày
Cho con ÁNH, THỦY, ANH rày chung lo
Đường Đạo-đức vai trò trách nhiệm
HUY QUANG cần tâm chuyển lo xong
Lời vàng Mẹ dạy ân hồng
THI lo phận sự chung đồng hôm nay.
Sơ lược dạy con rày trách-vụ
Đại-Lễ nầy đầy đủ nghe con
Dầu cho tam trẻ khuyết tròn
Mẹ trên ân tứ vẹn toàn giờ nay
Còn con ở lại trần-ai
Loan xe Mẹ bước nhập Đài DIÊU-CUNG
Thăng …



CỬU LONG CUNG
Tý thời, 6-11 – Tân Hợi (23.12.1971)

THI
BẠCH lịnh hài liên thượng Bửu – Đình
HẠC thừa Tiên giá ngự đàn minh
ĐỒNG tâm tịnh thủ nghinh Tiên – Trưởng,
TỬ đáo đàn Tiên nhập điển Huỳnh
Bạch  Hạc Đồng  Tử, giờ lành thừa sắc báo tin Nam-Cực Tiên Ông giáng đàn. Đồng đẳng nghiêm trang thủ lễ, Tiểu Thánh ứng hầu triều nghinh...
THI
Nam  Thiên Cửu – Khúc Đạo huyền quang,
Cực – Lạc cung Vi thị Niết – Bàn,
Tiên thống thừa nhàn  lâm Bửu – Điện,
Ông khai chánh giáo chuyển cơ vàng
Giáng trần ban pháp linh – châu thọ,
Ngự tứ khai môn chưởng pháp quang,
Cửu – Khúc Huỳnh – hà khai thế lộ,
Long Đình hiện trước khởi Xuân ban.

Nam  Cực Tiên  Ông , Lão chào mừng chung Thiên – phong Huỳnh – Đạo nam nữ nguyên – nhân. Giờ lành, Lão ngự  tứ điễn mầu nhiếp thọ huyền- quang luân châu thống xuất, nhập hiển thần thông ban huyền- diệu cho chung Đại – đồng cứu khổ, cơ tuyển độ qui- nguyên, cơ tuyển phổ- hoằng giáo – pháp
Này nguyên- nhân linh – tử ! hãy thức ngộ kỳ duyên đắc pháp Kim- thân trở về Ngọc-vị, đừng xa lìa nơi bảng danh Linh – Tiêu Bửu – Điện, chốn Thượng- Đế  điểm huyền khai thiệt chỉ Đạo vô- vi ban pháp linh- thông truyền cứu cánh nguyên- nhân lập Đại đồng phán xét Long-Hoa Hội-Thượng, buổi Mạt-ngươn thời tận diệt, luật Trời Đất âm dương đến hồi kết thúc, nếu người còn chút tư ý tà  quyền thì e  rằng pháp duyên sẽ tiêu tán ! Vì thời buổi cuối cùng không còn thể vì chúng sanh mà dằn dai trên bước đường hành Đạo-Đạo phải diệt khhổ, cứu khổ, - Đạo phải biết luật công bình bác ái từ - bi. Người học được pháp siêu-vi lòng phải cao- minh trí tuệ, thông suốt lý Trời Đất âm dương, biết được ngũ thường Đạo-quả đừng vì vấp ngã như thế - hạ trầm mê thì muôn đời phải chịu nặng nề trầm kha  nơi địa ngục
Nầy tất cả chúng- sanh, trong vòng tứ khổ: thành, trụ, hoại, không ! Vì sống sanh ra kiếp con người phải mang lấy biết bao nhiêu điều đau đớn, nếu người không truy được hạnh đức toàn nhiên, tạo thêm điều đắc tội thì vạn phước khó hưởng nhờ.
Chư linh – tử! ngày nay chớ ngẩn ngơ trên bước đường học pháp vì pháp nguyên nhứt biến, nhứt chuyển, nhứt hòa, nhứt tựu đồng luân dương khắp từ - đại châu thân. Vì pháp-nguyên bất phân được âm dương, bất tịnh được ngươn thần, ngươn tinh, ngươn khí thì sẽ  bị tam-muội hỏa thiêu đốt thành than. Nếu bị  thiêu đốt thành than thì Tam-bửu khó toàn nhiên, pháp thân khó giữ vững. người tinh còn giao động, khí còn lay chuyển, thần còn tiêu tán tì muôn đời ngàn kiếp khó thành được Kim-thân Thánh –thể. Vì pháp –nguyên Thượng-Đế hồng ân, Thượng-Tổ cầm cân truyền Đạo. Nếu người vì lòng từ-bi bao quát, phải xả hủy trần gian, quyết rèn chánh-pháp ĐạoVàng cho đắc thành vị quả, mong ngày trở lại với Bạch-Ngọc Niết-Bàn còn trần –gian lập đời hay bĩnh thế, Trời Đất âm dương đủ quyền hành quản thống, cần chi những linh-tử của trần-gian mà lập đời bĩnh thế, trị an bá tánh; cần là pháp-nguyên để rèn luyện, tìm về Bạch-Ngọc Niết-Bàn, tìm về con đường của quê xưa. Người không biết lại ngỡ ngàng, người còn chấp lại hoang mang, còn suy luận phổ hoằng hay tuyển độ Vì hoằng-phổ là thời-kỳ của giáp-pháp Di-Lạc cầm cân, chưởng quyền bằng siêu điễn tinh quang, hoằng phổ bằng Chánh pháp của Thiên-Tôn Di-Lạc, cầm cân thưởng phạt, tuyển hiền trạch thảo, tuyển đức độ nguyên- nhân. Vì cơ phổ- giáo là phần thuyết giảng Đại – đồng cho bá tánh chung sanh trên khắp thế-gian nhân loại, còn cơ tuyển độ toàn năng, toàn giác, toàn trí, toàn huệ là Chánh –pháp siêu-vi. Nếu chánh – pháp siêu-vi không đạt đến thần thông cao diệu  thì đừng mong thành đạt buổi Long-Hoa; vì buổi Long-hoa còn phải gặp biết bao nhiêu điều thử thách, mà thử thách thì khó vượt qua bởi còn tam độc đầy mình thiêu đốt tinh, khí, thiêu đốt lửa tam muội đang cháy ngút trong lòng của mỗi mội nguyên-nhân thì ắt gì chứng được Niết-Bàn hay Bạch-Ngọc
Cười!Cười!
Thế cuộc đảo điên, Đạo Vàng vận chuyển, người chỉ chấp cái hữu mà không soi thấu được cái vô, vì vô-vi tuyệt-diệu, vô-vi huyền-diệu tàng ẩn trong linh-thông, trong chơn dương, trong thần trí làm sao nhìn thấy chốn vô-vi muôn Đạo hào quang hay muôn lằn thoại khí? Còn mang lấy thân trược giả này tất nhiên còn biết bao nhiêu sự dằn dai của thế-tục, còn nào danh lợi tiền tài, còn nghĩ sự sanh sống của trần ai chắc gì phủi hai tay, khi còn thân tứ đại đến lúc hơi thở cuối cùng thì tiếc rẻ lúc sanh tiền, lầm thay! Lầm thay! Cơ duyên không đãi ngộ thì Trời Đất tất công bình thưởng phạt theo luật cao minh của Thiên-Đình phán quyết, không riêng vị cá- nhân, không tà quyền phiếm đạo, chỉ biết dụng từ-bi mà hỉ xả cho những người hữu công, hữu đức, còn thế-gian thì chấp cái hữu hình hiện thời, chỉ biết luật sanh tử là khi thoát xác linh-hồn sẽ mất, mất trong tịch diệt vô-vi hay mất trong âm đài đau khổ.
Thế-nhân biết luật hủy thể của con người chỉ trăm năm là ngắn ngủi, nếu biết ngắn ngủi tại sao chưa thất tỉnh để tu hành hành còn đua đòi vì danh, vì lợi, vì tiền, vì miếng đỉnh chung, vì những danh vọng ở trên đời mà tàn sát lẫn nhau, tàn hại nhau, huynh đệ cốt nhục chẳng thương nhau huống chi là nhân-loại khắp trên quả địa cầu nầy! Luật hủy thể đã đến hồ tận diệt, người đừng ngỡ rằng Trời Đất là ở điểm không toàn vẹn. Vì cái không của hiện thời là cái có ở ngày mai, mà cái có ở ngày nay, những hữu-chất đều là hủy diệt ở ngày mai khi Long –Hoa nước lửa
Ngày nay, nhân-sanh linh-vị nguyên căn nam nữ trong kỳ chuyển hóa còn những phương tiện đó đây, còn những sự văn minh vận chuyển đưa con người từ đây đến nơi khác; ngày sau-ngày Long Hoa nước lửa sẽ không còn, Ngũ hành tật diệt, con người chỉ sống bằng hơi thở vô-vi, mà sống bằng hơi thở vô-vi đi trong huyền khí, đi trong nước lửa, đi trong chốn máu đào nơi xương tàn chồng chất! Ngày đó, các nguyên-nhân mới biết ai là pháp-huyền cao diệu, mới biết ai là đầy đủ thần thông. Ngày hôm nay những văn-minh nầy, vật-chất nầy, phương tiện cho con người sung sướng trong luật nhân tạo của thế-gian, còn ngày kia nhờ những Thiện tạo âm dương mà di- chuyển thân thể con người từ đây đến nơi khác để cứu cánh nguyên-căn đang quằn oại chốn đau thương !
Thời kỳ nước lửa đã khơi màn! Sao nguyên-nhân không nhìn vào thực-tế của thế gian? Bao triệu sanh-linh phải ngả gục trên đàng vì nghiệt thú cuồng phong, vì thời kỳ của ôn hoàng hành bịnh, vì thời kỳ của ma khí điều hành con người nhiều nghiệp – chướng phải gặp chốn tử sanh, khuyên đó ráng  tu hành để vượt bao điều khốn khổ.
Nầy nguyên- nhân! Lời của Đại-Tiên Nam-Cực thọ sắc thiên Đình vì thấy chúng sanh, thấy linh-tử trong đường Đạo dầy công đường Pháp nguyên cũng thành lòng nhưng khải nguyện mà không thức nguyện, phục nguyên chỉ luyện trong bốn cửa mà không nhìn thấy ánh sáng hay nhìn thấy những điểm Thiên –hỏa từ Thượng đài hạ huyệt, từ trung điểm, thượng, trung, hạ tâm điền thường trụ hóng diên, nơi thượng đài dùng chơn-khí vận hành từ huê quang ngọc-chẩm chiếu thẳng để nhiếp-thọ tinh quang. Khi nhiếp-thọ tinh quang phải dụng huyệt đạo Tiên Thiên ứng hoa, nếu phóng kim quang không nhờ nơi huyền quang ngọc đảnh chiếu thẳng  xuyên ngang huê-quang, dùng thần công để vận hành để chuyển qua khiếu huyệt. Khi nhập kim-đan vào thượng-đài, ý tưởng thượng đài gom tụ những thần quang, từ điển chiếu thẳng từ ngọc chẩm xuyên huê quang, tâm vẫn trong sáng, lòng vẫn nhìn rõ kim quang mới nhập diệu dược pháp thân. Phần pháp thân là Huyền công mật quyết. Luyện xong huyền công mật quyết là phần bí nhiệm: nơi hạ điền từ vĩ lư phải định đúng điểm tựa tựu nơi hạ điền để tinh khí thần gom một, trụ pháp thân nơi đó để hơi thở nặng và hạ điền nuôi tinh khí thần, dưỡng tinh thần dụng chơn quang chuyển từ vĩ lư thẳng đến Ngọc Chẩm, Ngọc Chẩm xuyên huê quang, rót từ trung tâm xuống hạ điền tinh khí thần gọn tụ một, rót thẳng xuống hạ điền để nuôi tinh khí thần cho đầy đủ. Phần Huyền công mật quyết là qui tụ tinh khí thần nơi hạ điền, phải ấn mạnh hơi thở vào hạ điền. Nhớ rõ thi hành thep pháp diệu hầu đắc được kim-thân, xe thuốc Tiên Thiên về nung nấu nơi hạ - điền, phải chuyển từ vị thuốc Tiên dược qua đầy đủ đắc Đạo Kim-Thân. Khi đắc đạo Kim-thân thì Thánh thai sẽ đầy đủ tựu nơi bình pháp Tiên- hiên nhờ điểm tựa chứa vào điện lực thiên- nhiên, tạo cho hơi thở vô-vi ẩn trong hơi thở hữu hình; hơi thở hư-vô công luyện tập ngày nay sẽ không còn hơi thở hữu hình nữa thì luật hủy thể thân tứ đại sẽ mất đi mà còn Thánh thể Kim-thân đắc Đạo cuối Long-Hoa.
BÀI
Nam-Cực hiện Hồng –Quân Bửu-Điện
Mừng nguyên-nhân tâm thiện tọa thiền,
Nghe lời Di-lạc toàn nhiên
Tiên-Ông Nam-cực sắc truyền Long-Hoa
Vung phất chủ Điện tòa ngự tứ,
Xuống địa cầu linh dự Long-Vân,
Thời kỳ đảnh túc tam phân,
Miền Nam nước Việt cầm cân Thánh hiền
Đại nguyện vị lòng thiền đầy đủ,
Buổi cuối cùng qui tựu căn lành,
Nhờ cơ phổ-giáo nhân sanh
Đương lai Giao-Chủ Phật thành Kim-Thân
Dụng đạo sắc tường-vân  ngũ-khí,
Hiện thần thông điểm chỉ Long-hoa
Nguyên-nhân nam nức trước Tòa.,
Thành lòng cầu nguyện Di-Đà hồng-ân
Lời Nam-cực tinh thần huyền pháp
Lý âm dương chưa hạp thần thông,
Ngũ-hành vận chuyển ngoài trong,
Người trau Đạo-quả Hoa-Long đến ngày
Tiên –Ông xuống Phật-đài huyền diệu
Vung roi thần điểm chiếu Long-Hoa
Khai môn đãi lịnh Tam –Hoa
Chưởng Tiên bác-ái hà-sa giáo truyền
Độ nguyên vị xa phiền tục lụy
Vớt chúng-sanh thượng chí Long-Đình
Người tu Đạo-quả trần tình,
Xa rời sẽ đắc huệ-linh tuyệt mầu
Bao việc  của trần châu bày lộng,
Khuyên người đời gieo giống hạt lành
Quả  duyên sẽ được  đắc thành,
Nhờ ta tạo sẵn vị lành ngày xưa
Tu Huỳnh-Đạo siêu-thừa Đại-học
Nếu người không chí dốc rèn mài,
Tưởng rằng lời lẽ đơn sai,
Thiêng-Liêng các Đấng Như-Lai giáo truyền.
Cơ phổ-độ làm phiền đại chúng,
Hay đại duyên lại rúng lòng sầu,
Cơ năng huyền pháp nung châu
Dụng phần phổ-giáo tóm thâu Hậu Tiền
Người chấp lý nẵng phiền trần hạ
Thường trầm –luân rày đã đợi chờ
Tu hành tỉnh mộng thức mơ
Biết về bến giác xa bờ trầm luân
Trời khai Đạo vui mừng hữu hạnh
Nếu lòng từ không gách Long-Hoa
Ngày sau đắc tội Tam-Tòa
Phán truyền Di-Lạc cao xa điểm Đài
Thương sanh chúng không ngày trong sáng,
Gặp bao nhiêu điều mây áng phủ giăng!
Ngày xưa Phật-vị cao thăng Liên-đài.
Đọa xuống thế nhiều ngày, nhiều kiếp,
Tỉnh mộng trần nối tiếp theo sau,
Về chung kiến dự Bàn-Đào,
Diêu-Trì Bửu-Điện sắc trao Điệp vàng.
Mẹ thương xót cơ hàn con thảo
Nên cầu xin mở Đạo Thiên-Khai
Tuyển trang  hiền-triết đúng ngày,
Tuyển hàng đại vị phong đài Phật-Vương.
Đừng ngỡ  đắc Tây-phương đầy đủ,
Tuy Đạo Huỳnh qui  tụ càng đông,
Ngày  xưa đến hội Hoa-Long,
Chưa còn đến một, rốt trong Phong-Thần
Ráng giữ mình Kim-thân buổi hậu,
Nếu không gìn cơ ngẫu Long-Hoa
Phong thần, phong Thánh trước Tòa,
Thượng ngươn Thánh-Đức chắc là nhiều hơn
Phong-Thần lập Cấm-Sơn đài báu
Ba tiếng rồi cải tạo Long-Hoa,
Chỉ cho sau trước gọi là,
Tỉnh tu muốn gặp Di-Đà gìn tâm.
Thời Mạt-ngươn đừng làm ma quỉ
Biết tu hành trọng quý Đạo Vàng,
Là cơ giải thoát huy quang,
Không tu khó đắc  Đạo tràng Long-Hoa,
Lời Tiên-Ông trước Tòa Tam-Giáo,
Sắc Phong-Thần cải tạo Long-Vân,
Người tu tỉnh thức mộng trần
Ngày sau sẽ được Thánh Thần điểm phê.
Công với tội dâng về Thượng Phụ,
Đức với tài hiệp đủ dâng công,
Long-Đình Ngọc-Khuyết bệ rồng,
Thầy thương Đại-hội ân hồng cho con
Nếu không trọn mỏi mòn đường Đạo
Nhiều giả tâm đào tạo trần-ai
Nghĩ suy nơi dạ u-hoài
Vội lìa tách cội xa Đài Long-Hoa
Quỉ Vô-thường trước Tòa chào đón
Đợi cho người thỏn mỏn đường tu
Bỏ quên những lúc công phu,
Công trình, công quả, ngao du thế đời
Rồi gặp việc tâm thời tưởng Phật
Nguyện cầu thầy dâng tấc lòng thành
Phật trời  đâu chứng trần danh
Khi nhiều tội quả, báu lành không trau.
Lúc khốn cùng tâm đau đớn lắm,
Mới tưởng trời Phật thấm nơi lòng,
Thái bình đâu nghĩ Thiên-Công
Đất –trời chẳng biết  trần  hồng tạo gây
Đến thời loạn lạy Thầy, cầu Mẹ,
Thỉnh Phật trời nặng nhẹ không màng
Đến khi nước lửa điêu tàn
Vội vàng niệm Phật Trời, an thái Bình
Cười sanh chúng điêu linh thảm họa
Tiên-Thiên đồng cảm hóa hư-vô
Làm hiền trời đất điểm tô
Tạo điều ác quả cơ hồ trầm-luân
****
Già  chung đăng đẳng  đàn trung
Thành tâm tiếp rước Cửu-trùng Tiên-Thiên
Phật-Đài Nam-Hải sắc truyền
Ban ân linh  thủy diệu-huyền cho chung
Hào quang  ngũ sắc Điện Trùng,
Di-Đà ngự tứ bần dùn Tiêng quang
Giã chung nam nữ đại đàn
Tiên-Ông Nam-Cực hạc vàng thượng thăng.
***
Vung nhành  dương cứu chúng sanh
Từ-Bi, bác-ái Đào lành truyền ban.
Quan-Âm hiện xe vàng linh huệ,
Cứu vạn loài thoát bể đau thương,
Vâng truyền lịnh của Phật-Vương
Phổ-hoằng cứu độ mười phương vạn loài
Bút Tiên-dược bày khai thành liễu,
Vớt tôi hiền trung hiếu nghĩa nhân,
Ban chung tất cả nguyên-nhân
Đại  đàn chầu thỉnh Thành thần ngự lâm
Hương xông thượng âm thầm cầu nguyện
Đức Di-Đà ứng hiện kim-quang,
Ngự trong huyền-pháp Đạo-Vàng,
Thành tâm cung thỉnh trước đàn Lôi-Âm
Chuông lịnh giục giã canh thâm,
Triều cung Phật ngự cao lâm Bửu –Đình
Triều nghinh........
PHỔ đạo hoằng khai thống Đại hiền,
HIỀN nhân hữu đức tạo cơ duyên
BỒ Đề niệm phật tâm thường trụ,
TÁT lập công vàng đắc pháp nguyên
Phổ-Hiền Bồ-Tát chào mừng chung nguyên-nhân linh-tử hiện tiền Giờ lành Phổ-Hiền Bồ-Tát thượng Bửu-Điện Hồng Quân thừa sắc-điệp phật tiền nghinh phong Di-Đà Phật-Tổ giáng  ngự Đông – Độ điểm Đạo từ-bi ban pháp siêu vi thần thông mầu nhiệm
Lành thay!Lành thay!...
Cơ đại biến buổi cuối cùng. Bần-Đạo ban ân lành đồng tâm Tam Thanh Bửu-Điện triều thỉnh Phật-Tổ A-Di-Đà, hồng chung đại khai triều nghinh A-Di-Đà giáng ngự
THI
PHẬT quốc Tây phang Đạo hạnh truyền,
TỔ minh chánh pháp thị quang nhiên
DI thâm huyền diệu hào quang hiện
ĐÀ thống Năm châu chưởng Đạo huyền
VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG Khai chánh niệm
Lôi Âm Cực Lạc đoạn oan khiên
Di-Đà Phật-Tổ Tôn-Sư ngự,
Điểm Đạo từ-bi dụng pháp-nguyên

A-Di-Đà-Phật,Tôn-Sư mừng môn-đồ. Bàn –Đạo mừng chung nguyên-căn linh-tử, hậu tấn đàn tràng.
Giờ lành, Tôn-Sư hiện ngũ sắc kim quang thần thông vạn tải, Phật-Tổ Kim-thân chỉ Đạo từ-bi ban pháp lành cho tất cả đồng hiện diện  nơi Bửu-Điện Hồng-Quân. Truyền năm trăm La-Hán cùng Ca  diếp Tỳ-khưu đồng tùy phẩm vị thính pháp nghe truyền cùng Tăng, Ni linh-tử tọa thính nghe  điểm Đạo Di-Đà. Tôn-sư miễn lễ Bửu-Liên các con pháp tọa nghe lời Tôn-Sư  điểm công truyền đạo.
Nầy các con trong vòng luân-hồi lục đạo hãy nghe Tôn-Sư giảng truyền luật chánh nghiệp. Đạo học thiên nhiên tọa pháp thân vượt vòng sanh  từ, nghỉa là luân-hồi không còn nữa. Khi biết được trong thân thể con người định được Châu-Thiên, quán truy được Kim-thân Phật tiền, chính trăm tiểu quán kim quang, nhiếp thọ huyền nhiên chi khí, các con đã lập vị được khử ám hồi minh, hồi minh khử ám định ngươn thần, dụng ngươn khí tựu  ngươn tinh. Các con ở trong thân mình đều có âm dương phải hòa đồng, các con là lục đạo các con còn trong vòng sanh tử, các con muốn cùng dực được Lôi-Âm, Bạch-Ngọc phải luyện lục căn biến thành lục đức, luyện cho ngũ khí được triều ngươn, các con phải luyện cho minh-châu luân chuyển khắp thân thể từ thượng trung hạ đều đồng, các con phải dùng minh-châu  qua  tứ hải, dùng minh-châu  để  vận tải được tam ngôi. Nếu các con phân rồi tam ngôi là tam bửu, mà tam bửu các con không đầy đủ lại biến tam-bửu thành tam-độc là các con sẽ luân trầm muôn đời nơi địa ngục; các con phải biến tam-độc thành tam-bửu mà tam-bửu các con phải biến thành “ tam chuyên”- tam chuyên là ba pháp mầu định ngôi gọi rằng tam-huê tụ đỉnh, mà tam huê tụ định các con không lọc chính nơi huyền-quang đài, các con không đầy đủ những hơi thở để vận dụng nơi huyền quang đài để tựu tam hoa. Vì tam hoa là nơi nâng đỡ được huyền-pháp thần công, nếu thần công chưa luân đồng trong thân thể, nơi bán huyệt là Đại vị, huyệt Tiên Thiên chốn trụ pháp thân hạ điền để chỉ Đạo huyệt. Vậy các con học pháp phải biết rành về Tiên-Thiên Huyển khiếu? Nếu các con không se hái thuốc dược Tiên-Thiên, không đoạt được Đào nguyên giao cảm, không hưởng được Đông-Độ trà Tiên thì các con có bằng không. Vì các con có bằng hữu hình tức rằng các con phải có bằng vô-vi , nếu vô-vi các con không trụ được pháp  thân, thì thiếu phần Đông-Độ trà Tiên  hay là Tiên Thiên táo dược thì các con không hưởng được muôn đời!
Các con ơi! Thuốc Tiên-Thiên là nhiệm màu mà các con phải se đúng lượng, phải nấu đúng chỉ. Nếu các con không đầy đúng thì pháp sẽ rẽ rúng, Đạo sẽ tiêu tán! Nếu các con còn nhiều tam-độc nghĩa là các con còn nhiều tam muội hỏa thì các con đã thiêu đốt đi lằn pháp nguyên cao diệu đó! Các con có thấy chăng? Kìa ! là những lượn nước hải hà các con nhìn thấy một vòng tròn các con đựng trong bình tịnh thủy, các con có thấy chăng nước thủy luôn luôn bằng, không cao, chỉ điểm ngang bằng số thẳng mà không xê dịch nghiêng ngửa trừ phi nước kia bị những hữu-chất nung nấu mới sôi bốc thành hơi, là vì nước kia nhờ tam muội đốt, nước nọ biến thành hơi sôi bỏng thì nước nọ sẽ gặp nhiều dợn sóng. Vậy các con: tại sao nơi dòng sông lượn nước, các con thử ném vào một vật vô-vi tất nhiên có một lượn nước vòng tròn để điểm mà không méo, là vì những lượn nước chỉ có vòng tròn không rời, không dứt, cũng như các con ở trong pháp màu các con phải biết một vòng tròn là vô cực. Nếu vô-cực các con để cho còn bán cực là bán nguyệt thì một bên trắng, một bên xanh thì làm sao đạt Đạo? phải một vòng tròn vô-cực không là bán  cực mới thành Đạo.
Các con biết chăng đạo vô-vi là dùng ở huyền-nhiên chi khí. Nếu các con còn phân vân trong huyền nhiên chi khí mà các con chưa nhìn thấy ở trong thân thể con người. Vậy hơi thở của các con là huyền nhiên chi khí, nếu huyền nhiên chí các con không tựu được một ánh sáng luân đồng, thì cũng như các con đã đốt lò tam-muội cho nóng những dòng nước mê si sẽ cuộn trào sôi nơi lòng của các con, thì hỏa vọng sẽ thiêu đốt nê-hườn-cung. Nơi nê hườn cung là thượng đài, nếu thiêu đốt nát đi thì các con làm sao được đầy đủ trí tuệ thông minh? Vì nơi huyền quang đài là nơi huyền quang khiếu, nơi tựu trung những huyền pháp thần thông; phần thể chất là bộ óc, khối óc của con người nếu mất đi những phần nhiếp-tuyến quang cũng như những bộ thần kinh bị tê liệt trong con người thì bộ óc nọ sẽ biến thành cuồn dại, điên đảo. các con ơi! Nếu học Đạo mà để cho tam muội-hỏa càng thông đồng thiêu đốt, không phân âm khẳng định dương, không hòa được âm dương, không định được ngươn tinh, ngươn khí thì uổng thay! Uổng thay!..
Các con nghe Thầy dạy Đạo cũng như các con học một bài học vỡ lòng, các con bước trên trường học pháp là  trường sơ-cấp  đến trung-cấp, trung cấp đến thượng cấp, mà thượng cấp các con  đã học xong qua một phần thực-hành, mà thực-hành chưa đúng theo chiều hướng của phần thượng-cấp. nghĩa là phải có phần lý thuyết, lý pháp, phần lý pháp là các con phảo điểm tựa rõ ràng, các con chỉ biết hành mà không biết đúng hay sai ? Nếu các con muốn biết đúng hay sai thì các con phải cân nhắc nơi lòng mình, các con phải cân nhắc  cho điều độ, phải đúng chiều hướng. Khi các con thấy nóng là các con đã biến sanh, vì khi biến sanh là con người phát độc ở trong thân thể nên hỏa vọng, khi hỏa vọng tâm động thì tức nhiên phải xuất khẩu. Nếu  tịnh khẩu mà tâm luôn luôn động thì không phải là tịnh khẩu hoàn toàn, vì tịnh khẩu trong khẩu nghiệp, không phải là nơi lời nói  mà lời nói xuất phát từ tâm, nếu tâm kia không phát xuất thì lời nói đâu để nói? Vậy các con biết rằng tâm của các con phải tịnh trước tiên, nếu tâm tịnh rồi thì khẩu toàn nhiên phải tịnh, mà tâm chưa tịnh được thì khẩu luôn luôn phải phát xuất những lời ngôn, những khẩu nghiệp
Nầy các con Bửu –Liên! Tôn-Sư xét rằng các con còn nuôi tam-muội-hỏa đầy lòng, khi tỷ muội bất đồng đôi việc nhỏ, hay có đố kỵ nhỏ với nhau thì các con đã khơi màu tam-độc; nên chi mỗi lần các con sân nộ thì pháp nguyên sẽ giảm đi đến mất một phần mười, thì các con có tiếc chăng? Dầu luyên đi muôn thời, ngàn tháng mà thiêu đốt cũng chỉ một giờ !...
Con ơi! Thầy là  đấng oai-linh Phật-Tổ truyền đạo cho các con, ngày xưa thầy đắc Đạo là nhờ pháp “ Hiển hóa chơn-như”, “Hườn-hư đẳng giác” các con nhờ pháp “ Đẳng giác hườn hư” cũng đủ thành. Về pháp nguyên, nếu các con “ nhập thức liên hoa” mà các con thường trụ Di-Đà là quán tưởng; quán tưởng kim thân bên ngoài chưa đủ mà phải quán tưởng bằng minh kiến đài mới gọi rằng trọn vẹn.
Các con ngày hôm nay các con không thấy thẹn, ngày hôm nay khi bỏ xác rồi các con sẽ thấy đau lòng nơi cảnh giới Vô-vi! Các con ơi! Cái thẹn của ngày hôm nay là các con chịu thua thiệt khi chị em lấn hiếp bằng hữu-thể, bằng hữu tình; các con chỉ thẹn mà vui trong tinh-thần Đạo pháp, còn các con hơn thiệt nghĩa là muốn hơn người là các con sẽ thẹn thùa khi ngày mai đạt Đạo, Buồn thương! Buồn thương! Vì cuộc đời biến dịch nên Tôn-sư mới độ tận cùng các linh-tử, dìu chúng-sanh tỏ ngộ chơn truyền, hạ sen vàng lìa Lôi-Âm để ban hành Đạo hạnh, cứu khổ, cứu nạn trong thời kỳ Mạt-pháp tàn-ngươn. Tôn-sư dạy các con học Đạo thể hiện phần nhẫn nhục vị tha, các con hãy  hỏi lòng con nhẫn được chưa hay lòng của các con còn thịnh nộ, ái ố sân si khi thua thiệt người nữa lời, hay một lời nói nghịch tai, nghịch ý thì các con đã vội tam-độc khơi màu. Vậy mà các con ngỡ rằng pháp cao, pháp đắc! Pháp  đắc ở chỗ nào? Vì các con chưa nhìn thấy được pháp mà gọi rằng pháp đắc kim thân, Thầy cũng nực cười nhưng chua xót! Vì thầy truyền Đạo là mong các con thành Đạo mà thôi, để cứu cánh trở về ngôi. Thầy không độ cho Thầy,  Thầy không chỉ Đạo để hưởng phẩm cao hay công cán mà Thầy mong rằng đệ-tử sẽ thành Đạo để cho thỏa lòng Mẫu-Hoàng nơi Thượng Cung, để cho vui vẻ chốn Cửu Trùng không còn một linh-tử nào bị  trầm-luân khổ hải.
Các con ơi! Đường Đạo các con có biết không? Người học Đạo là học gai chông, là học điều thử thách mà các con đã thử thách. Vì người thiếu trí thì không thể nào xét theo lẽ đại trí  được, nghe con! Vì ở trên đời nầy căn kiếp chưa tròn nên Tôn-Sư mới dạy con từ sơ học mà thôi. Các con chưa học xong phần sơ học mà các con mong thành Như-Lai Bồ-Tát thì làm sao? Sơ học là các con phải rèn luyện chữ “Nhẫn”, “Hòa”, vì chữ Nhẫn nó liên-đới đến phận sự quần thoa, vì chữ nhẫn nó liên-đới đến sự luyện pháp của các con. Nếu bất nhẫn, bất hòa thì không thể nào trục được pháp-thân, khi ngồi luyện pháp mà tâm con còn rần rần đốt cháy những ngọn lửa bốc cao, nghĩ đến một Bửu-Liên đang có những lời qua, lời lại, những lẽ cao kiến, những ý thấp hèn thì pháp nguyên sẽ thấp hèn hay là chuyển trong ngọn đèn đang mờ ảo. Con ơi! Kia là ngọn đèn, ấy là tâm đăng, mà tâm đăng kia bị những bảo táp cuồng phong, thì Tôn-Sư chỉ cho : cũng như ngọn đèn trước gió! Ngọn bach-lạp lung lay thì không thể nào các con tựu được Vô-cực đài hay là Minh-kiến  đài rạng rỡ?
Này các con! Thái cực biến sanh mà Thái cực không biến sanh thì ngũ hành ngưng chuyển, vì ngũ hành là tâm, can, tỳ, phế, thận. Thân thể con người là tượng trưng cho Tiểu Thiên-Địa, mà Tiểu Thiên-Địa bị mất đi thì một là các con oằn oại xác thân, hai là linh-hồn các con mang trọng tội với Thiên-Đình
Nầy các con! Tôn-Sư giảng phần sơ điểm học mà các con phải học Đạo, trước tiên về hạnh đức các con, Thầy xét rằng sự hy sinh của các con đã có nữa phần, nhưng phần hạnh đức của các con chưa đúng một phần mười thì các con luyện pháp  cũng hoài công! Tôn-Sư truyền đạo là chỉ cho các con tịnh thiền mà lòng các con chưa chịu thiền tịnh thì các con khó thành đạt buổi Long-Hoa. Nhớ nghe con! Đạo không phải là chỉ thể hiện bên ngoài mà phải thể hiện từ tâm thức của con là ngọn đèn đó, là ngọn tâm đăng đó mà các con phải khêu sáng toàn nhiên. Ngọn đèn sáng là tâm con sáng mà tâm con bị mờ đi thì ngọn đèn dần dần sẽ mờ mịt  rồi đến tắt, thì tâm của các con đến lúc khơi trào sân si ái ố. Buồn thay!..
Cơ thảm họa đã gặp hồi nước lửa
Tôn-Sư truyền cải sửa trần-gian
Môn-đồ thầy cất tiếng than,
Dạy con tỉnh ngộ Đạo vàng lo tu
Độ các con sương mù mờ ảo,
Chỉ các con là  Đạo Hư không,
Thấy con còn nản tấm lòng
Con thì đạt Đạo, con vòng trầm-luân
Tôn-sư độ con vâng thừa lịnh,
Biết đường tu con tỉnh tu hành
Tận cùng trong kiếp tử sanh,
Thời-kỳ thảm khốc dân lành tang thương
Tôn-sư dạy con đường giải thoát
Mà các con chưa đoạt lý huyền
Làm sao chứng vị Bửu-Liên
Con ơi! Nghe rõ tâm truyền vô-vi
******
Vô-vi huyền-diệu Đạo năng tùy
Phân rõ âm dương biết thạnh  suy,
Thái Cực tâm đăng dòng điễn chiếu
Hào quang qui tựu xuất anh-nhi

Anh-nhi hiện xuất khỏe muôn đời,
Đắc Đạo Tiên-Thiên dạo khắp nơi
Nước nhược non bồng xa tục lụy
Đạo bào nhẹ lánh chốn trần si.

Tôn-Sư dụng pháp cứu muôn loài
Độ thế bĩnh trần điềm sắc khai
Vạn vật muôn loài trong khổ nghiệp
Từ-Bi Bần –Đạo cứu muôn loài

Tịnh thiền nghe rõ tiếng chuông linh,
Giục giả bên tai tiếng trống trình,
Bạch-Ngọc rèm châu, thầy xót dạ,
Lôi-Âm Phật khóc bởi nhân-sinh

Lành thay! Cơ Đạo chuyển Long-Hoa
Giáo-Pháp Phật-Vương vớt thế hà,
Khổ thảm ta-bà trong vạn khổ
Ngàn năm đặc Đạo kiến chơn-sa

Ta-bà  khổ nghiệp kiếp trầm-luân
Cực-Lạc nhàn thanh thượng chín từng,
Hương tỏa xa-cừ chim uốn lưỡi
Bá tòng dược thủy tiết Thu Xuân.

Mã não san hô bá ngọc Trân,
Liễu nương cành trúc múa ngoài sân
Rồng chầu hổ phục Đền Kim-Giác
Sen nở hài Tiên dạo thế trần.

Trần thế nhìn qua tứ khổ sầu
Bốn đường bốn vách cảnh trần châu,
Thương thay Đông-Độ còn vạn kiếp,
Phật bổn ngày sau khó đến chầu

Chầu Phật Kim-Thân lịnh cúi đầu
Nếu người chẳng đốt ngọc nung châu
Tiên-Thiên Tam-bửu không tròn vẹn,
Khó đến Lôi-Âm để ứng chầu

Thầy có từ-bi vẫn luật truyền
Tỳ-Kheo căn kiếp Phật năng duyên
Năm trăm La-Hán truyền chơn-giáo
Thỉnh phật ngày đăng thượng Bửu nguyên.

Xuống thế từ-bi xót dạ thương,
Đoàn con Bửu-vị Đạo năng thường
Hành công, hành pháp, hành chơn Đạo
Hoằng-phổ nhân sanh dẫn một đường

Đường đến Lôi-Âm chẳng khó chi!
Nếu người đoạn dứt nghiệp sân si,
Thì đường Bạch-Ngọc còn gang tất
Nẻo đến Lôi-Âm thị pháp truy.

Rảo bước hài hoa nhẹ cánh vàng
Nhìn trời trong lúc chốn lầm than
Thương đời Bần-Đạo lìa Phật Quốc
Rảo bước trần ai độ thế nàn

Tôn-Sư xót nghiệp bởi nhân duyên
Đệ-tử con ơi! Gắng đoạt quyền
Huyền-Pháp Kim-Thân con gắng tạo
Khí chuyên Đạo quả trở về Tiên

Ta-bà khổ lắm, hỡi con ơi!
Bốn vách tường trau đọa vẽ vời,
Nào lý, nào hành, nào dễ đạt,
Pháp-Huyền muốn đắc khổ công rồi

Tôn-Sư thương xót dạ từ-bi
Nghe rõ lời thanh buổi mạt-kỳ
Nghiệp chướng dằn dai trong khổ lụy
Ngàn năm chưa chắc trờ cung vi

THI BÀI
Cửu Long cung Phật truyền Đạo Pháp
A-Di-Đà chân đạp tường vân
Ban ân cho khắp hồng trần
Từ-bi cứu khổ thoát phần trầm hôn
Chỉ Đạo xuất anh-hồn nhập diệu,
Phóng hào quang khai khiếu xuất du
Ngũ hoa hiện hóa sanh cừu
Đưa chân trở lại nhàn du Niết-Bàn
Luyện ngũ-sắc kim-quang ứng tỏa
Hóa thần thông cao hạ đài vàng
Thương trần Bần Đạo hiện hoàn,
Di-Đà Phật-Tổ điểm ban giáo truyền
Trong Bửu Liên con hiền nghe rõ
Lời thâm trầm Thầy tỏ con vâng
Đường tu con lắng mộng trần,
Luyện cho tựu khí ngươn-thần tròn duyên.
Định Minh-Châu pháp huyền bí yếu,
Nơi thượng-đài huyền khiếu khai thông,
Thấy con trần thế hết lòng
Con thì đoạt được lục thông rõ ràng
Con thì vội ngỡ ngàn khảo thí.
Con thì không trọng quý pháp-huyền
Thương con còn nghiệp oan khiên
Thương con Thầy dụng bí-truyền kim –quang
Chỉ cho con hầu hoàn ngôi vị
Chỉ cho con cao quý pháp lành
Tam đài trước Điện Tam-Thanh
Thần quang nhập diệu đạt thành vị nguyên.
Con nghe phân diệu truyền chơn-lý
Nghẹn ngào đương suy nghĩ tận cùng
Tôn-Sư xót nghiệp cho chung
Đời tàn con thấy hiển hung khắp cùng
Dầu Tiên-Thiên ứng dùng huyền pháp
Luật trời phê chuyển nạp từ xưa
Đại đồng vận chuyển sớm trưa
Long-Hoa khải giáo đại- thừa thành công
Con nghe rõ mất dòng pháp cú,
Của Tôn-Sư truyền đủ thần thông
Con ơi! Phải khá hết lòng
Nghe lời chỉ Đạo Hoa-Long  đắc thành
Hiện ngũ sắc đêm lành mờ ảo
Vòng hư-vô chuyển Đạo Kim-thân
Nhờ con nung đúc tinh-thần
Thần quang chiếu diệu xoai vần Châu Thiên
Con phải tịnh tâm thiền cho chắc
Mới tựu vào điểm đặc Châu quang
Chơn-Như hiển hóa rõ ràng
Chuyển thần nhập thức thai vàng Liên-Hoa
Từ tử chuyển dũ –hà luân động
Hầu quán truy truyền thống thần quang
Nơi đài minh kiến rõ ràng
Từ tâm phán  xuất châu quang chiếu ngời
Con luyện Đạo đầy vơi tâm tưởng
Lúc minh minh lúc lưỡng vị ban
Từ tung Tốn hiện hóa Càn,
Cung ly chiết Khảm thuốc hoàn kim chuyên
Chiết Khảm điền Ly huyền tâm ấn
Lập đảnh an-lư vận huyền-đô,
Con ơi! Dòng điểm hư vô,
Chuyển xây Thái-cực điểm tô Đạo vàng
Dụng châu thiên rõ ràng qui hướng
Dụng thần công tiếp dưỡng huệ năng,
Lằnhơi con phải chuẩn thằng,
Định ngôi phân thứ gọi rằng chấp trung
Nơi huyệt hạ ứng dùng hơi thở,
Động nơi đây nâng đỡ khí thần,
Tinh dương tựu đủ châu thân
Chuyển lên thượng Đảnh đưa lần huyền quang
Dạy các con Đạo hoàng siêu lý
Phải bền tâm suy nghĩ tận tường
Trong thân con bốn lối đường
Là nơi tứ hải chi đường kim qiang
Thống kim quang rõ ràng hạ huyệt,
Từ Tiên Thiên điểm khuyết thượng đài
Kim quang chuyển đúng trong ngoài,
Lập thành quán thể Như-Lai nhập đài
Con nữ phái nghe rày tâm pháp,
Phải bền lòng luyện tập cho quen
Giấc nồng cho trẻ nhúm nhen
Phải  tinh soi rõ ngọn đèn tâm-đăng
Dụng tâm đăng chuẩn thằng tứ hải
Qui một nơi đem lại thuốc linh,
Xe duyên phúc Đạo huyền tinh
Hư-Vô không khiếu nhẹ mình bay cao
Tâm vô chấp mới vào hư ảnh
Tâm còn đương ngươn tánh chưa đồng,
Nghĩ suy bao việc trần hồng,
Thì tâm sẽ gặp bão giông cấp thời
Tịnh chỗ Động Đạo Trời luân thống,
Mới biết mình đúng giống hay sai
Định thiền muốn đắc Như Lai,
Bên ngoài vễn động trong rày tịnh yên.
Tịnh bên ngoài tâm thiền đang động
Vì sự đời mức sống chưa đồng
Nghĩ suy bao việc  trần hồng
Tâm linh động thấu lục thông chưa tường
Vì tâm động pháp cương lay chuyển
Nhờ tâm  lành vận chuyển pháp thân
Ý tâm là đúng ngươn thần
Chơn như là dụng khí thần hỏa  duyên
Tam muội hỏa đốt liền thân pháp
Trong bốn mùa hòa hạp âm dương
Tiết xuân phải định pháp cương
Thần thông diệu hóa hầu nương Liên đài.
Tiết Đông sai Đạo hài chưa đắc,
Tiết Hạ, Thu, Đông chắc gì thành,
Bốn mùa tám tiết vẫn quanh,
Còn tùy phương hướng đương sanh mới tròn.
Trong Bát quái Nhã- Thoàn vận chuyền
Từ cung Càn hóa biến lưỡng-nghi,
Chiết ly điền Khảm cung Vi,
Đạt thành phương hướng cấp kỳ Long-Hoa.
Lưỡng-nghi hiệp giao hòa tâm khảm
Đạo huyền-năng khử ám hồi minh,
Hư-vô xông thấu thượng-đài
Tay thâu Bát-Bửu nhập kinh thượng-đài
Chỉ Đạo sắc Như-Lai đắc diệu,
Nhờ Khảm châu cung chiếu hóa Càn
Luyên cho đúng hướng Thiên can,
Đương sanh Đạo quả tràng kỳ  duyên
Lời Tôn-Sư dạy truyền chơn pháp
Hữu hành tròn hòa hạp âm dương
Đạo Vàng vận chuyển mười phương
Là cơ phổ-giáo thi trường Long-Hoa
Dụng phổ-độ hội là tận độ,
Khắp nhân gian cứu khổ chiêu hiền
Phò nguy trong lúc đảo điên,
Đạo-Vàng ẩn ánh để khuyên nhau cùng.
Kẻ hữu trí mới dùng linh bút,
Kẻ thiếu tâm vô phúc hưởng nhờ
Tôn-sư đề bút ra thơ,
Thương đời còn mãi thờ ơ Đạo Vàng
Trong Thiên-chức lời ban giáo thuyết
Phải tường minh vô diệt, vô sanh
Chân duyên phẩm vị Đạo  lành
Cao huyền thượng sắc Ngọc lành Hư-cung
Di- Đà độ tận cùng sanh chúng
Thương xót đời, rẻ rúng chơn truyền
Dầu cho muôn ức vạn niên
Di-Đà Phật –Tổ cao nhiên rõ ràng
Điểm cho chung đại đàn nam nữ
Lời Di-Đà cao ngự Hồng-Quân
Điểm phong thưởng vị tiết Xuân
Tất niên chờ lịnh đón mừng tiên quang
Trao ngọc vị bệ vàng huyền-pháp
Cửu-Long  đài chân đạp tường vân
Tất niên ngự tứ hồng-trần
Di-Đà truyển Đạo tinh-thần quang nhiên
.................( Phần điểm danh).................
Lời Tôn-Sư phân rành trước Điện
Giã các con khói quyện canh vàng
Hồng-Quân Điện Ngọc huy hoàng
Tất niên khải lịnh khoa tràng Long-Hoa
***
Hài liên Phật-Tổ Di-Đà
Truyền chung La-hán Phật Tòa Kim-thân
Thượng cung Phật-Tổ ứng dùng
Kim-quang thượng ngự Cửu-cung lai chầu

                                                                            -Thăng-

DIÊU TRÌ BỬU ĐIỆN
(Tý thời, ngày 15 tháng 8 năm nhâm tý)
Nhằm ngày 22/9/1972


THI
Tiên thiên hạo khí tỏa hào quang
Đồng Tử truyền tinh khá tịnh đàn,
Tiếp kiến Như-Lai triều Đại sắc
Trung Ương bỉnh chánh thọ Kim –bàn
Đồng-Tử Thiện-Tài chào Thiên Phong Huỳnh-Đạo, thành tâm tiếp dẫn nghinh Quan-Âm Nam-Hải giáng trần. Tiểu Thánh ứng hầu triều nghinh
THI
Quan hà hiển lập hội thuần phong,
Âm chất gìn trau đắc Đại-đồng
Nam Bắc phân quyền cơ khốn khổ,
Hải đề Đạo quả hiện Kim Long
Chứng tri đãi ngộ Thiêng-Liêng ứng,
Lễ hội nhân sanh tuyển Lạc Hồng
Khai bút đề chương minh chánh Đạo,
Minh khai Huỳnh-đạo thị ân hồng
Nam-Hải Quan-Âm, Bần Đạo mừng chung, ban ân lành toàn thể Thiên-Phong đẳng đẳng. Giờ lành Bần-Đạo giáng điển nơi Trung-Ương Huỳnh-Đạo trước là dụng Thánh thủy hái sái tảo nhành dương để cứu bịnh trầm mê vì âm phong độc khí cho toàn thể, sau là đôi điều cùng tất cả Thiên-phong hành sự. Ngày hôm nay là Đại-Hội Bàn-đào, Tam – Giáo triều kiến Thượng-Phụ Chí –Tôn đến chúc thọ Bàn-Đào  nơi Diêu-Trì Bửu-Điện, nên sơ lược toàn thể nơi trần ai Thiên-Phong Huỳnh-Đạo tường minh, để vẹn gìn phần hành hóa
Nầy tất cả thiên-phong, vì thời cuộc đau thương nên âm phong khắp miền lan dậy. Vậy hãy tạo phần dược thủy, Bần-đạo dụng nhành dương sái tảo, sơ lược đôi dòng từ điễn để tất cả hữu dùng, về việc sau cùng ngày hôm nay, phần Linh Quang giáng điển để thuật kỷ buỗi dự Đại Hội Bàn Đào cho tất cả đồng nghe ...  Thần điễn! Hãy ngưng đi những Thần điễn. Vậy Thiên-phong nghe rõ thi hành, về ngày Đại lễ sẽ được Linh Quang giảng minh trong giờ này
NGÂM
Như-Lai Nam-Hải hiện trần
Dụng hào quang tỏa mấy vần từ chương
Hãy dọn  sẵn con  đường giải thoát
Đừng mê si hạt cát trần gian
Tưởng rằng ta đã  cao sang
Thì là đọa lạc muôn ngàn đau thương !
Thành kỉnh nghiêm phong, truyền cho Thánh-Quân Đại- Đế đàn bảo điễn, nghiêm bỉnh. Triều thăng ...
THI
Linh Tòa thể Đạo nhập vào cơ
Quang chiếu mười phương chớ trễ giờ
Thổ thủy phong ba thay vũ trụ
Địa cầu biến đổi thấy thời cơ
LINH QUANG THỔ ĐỊA Kính chào mừng Đại Thiên-Phong nam nữ hiện tiền. Cha linh hồn các con ! truyền cho các con Thanh Xuân, Thanh Đồng đủ mặt nhập nội Điện trang nghiêm. Còn thiên-Phong Bửu Liên tùy nghi hay muốn nghe hội Bàn-Đào thì nán lại, hoặc mệt mỏi thì nghỉ ngơi. Đó là phần tùy ý hoặc ở lại mà nghe Linh Quang giảng Đạo, dạy Đạo cho các con, nếu có điều chi xây dựng Linh Quang thì cũng nên ở lại. Nhưng các Thiên Phong nền nhường một phía bên hữu cho các con của Địa đến gần phía trên để Địa vấn Đạo. Vậy các ngày hãy lắng nghe Địa giảng Đạo
Nầy tất cả các con đã đủ mặt. Vậy các con hãy  đưa thẳng bàn tay trái lên cao tất cả. Đây, cha mượn một thể của bàn tay Tiếp-Điễn để giảng Đạo cho các con. Cha hỏi các con
Đậy là bàn tay. Vậy H.H.DUNG ! Cha hỏi con bàn tay có mấy ngón?
-         (H.H.DUNG: Năm ngón)
-         Vậy cha hỏi con ngón nào lớn nhất trong bàn tay?
-         (ngón cái)
-         Ngón nào thấp nhất trong bàn tay? (truyền Bao-Pháp cho vị Đạo tâm rời khỏi địa đàn)
-         Ngón út)
-         Nếu con con trả lời rằng ngón út thì con quỳ đó để chờ cha hỏi tiếp
-         Vậy con H.H.LIÊN, ngón nào thấp nhất trong bàn tay ?
-         (H. H. LIÊN..............?)
Con H.H. HẰNG : Ngón cái là ngón thấp nhất?
Ba con quì đó để nghe Cha giảng. Ngón lớn nhất trong bàn tay là ngón cái mà ngón thấp nhất trong bàn tay cũng là ngón cái.
Vậy tại sao ngón lớn nhất là ngón cái mà thấp nhất cũng lại là ngón cái nữa vậy con ? Con nào biết hãy trả lời cho Cha? Vậy tất cả hãy nắm lại chỉ chừa một ngón cái
H.H. CHÂU : Ngón  cái là ngón lớn nhất mà cũng là ngón thấp nhất. Để làm gì?... con không biết hãy quì đó lắng nghe Cha giảng. Tất cà đồng lấy tay xuống
Nầy các con ! Ngón thấp nhất mà lại lớn nhất là các con đó, là thể hiện cho sự quân tử đó. Các con đã học xong bài quân tử mà con trả lời không thông suất. Vậy Cha hỏi: - ngón lớn nhất là đàn chị, đàn anh để điều động bốn ngón nhỏ, nếu các con bỏ  ngón cái, vậy các ngón nhỏ – các con – hãy bấu víu vào một vật hữu  hình ở thế gian có giữ chắc được hay không? Nếu không giữ chắc được thì nhờ ở ngón cái mà điều động, ngón cái đó là chủ yếu, Cha muốn nói rằng trong ngón tay cái đó là sự chỉ huy, điều động, là sự lớn hơn tất cả mà ở thấp hơn tất cả, là vì anh lớn, chị lớn có ngôi vị lớn, nhưng không coi lấy ngôi vị đó lớn là tại sao? Nầy các con ! bao giờ anh lớn, chị lớn cũng nhường em nhỏ, cũng lo lắng cho em nhỏ từ ly từ tí mà không ỷ mình trên lớn cao cả hay mắt chỉ nhìn Trời thì thân ở dưới thế đi sẽ vấp phải những chướng ngại vật của thế giang, sẽ va chạm vào tường hoặc cột thì sẽ té ngã, Vì vậy anh lớn, chị lớn phải đứng thấp hơn tất cả, không phải đứng thấp ở đây mà nhỏ mà đứng thấp. Các con đã học xong Sấm pháp,
H.H. LIÊN đã thường đọc : “ Tự hạ mình sẽ đặng đem lên”. Đã làm chị lớn thì cái lớn đó con đã thấy nhưng cái thấp đó con đã tường.
Tại sai chỉ một bàn tay mà Cha hỏi các con chưa đứa nào trả lời được? Vậy làm sao xứng đáng con của Cha ở mai hậu? Các con à! Tất cả  đồng lắng nghe. Vậy Cha hỏi tiếp: Nếu chỉ có ngón cái là sự điều động tất cả bốn ngón. Vậy Cha bỏ bốn ngón, chỉ còn ngón cái không, con có điều động được gì chăng?
(H.H.LIÊN : Không thể điều động được). Ngụ ý gì ? (có ngụ ý  là tất cả mọi người đều nương nhờ với nhau chớ không thể một mình ta làm việc được, phải có sự đoàn kết thương yêu lẫn nhau), cha cho phép con ngồi. Nầy con! Ở thế gian làm tướng không quân, vậy làm tướng với ai? Làm anh lớn không em nhỏ, vậy dẫn dắt cho ai? Làm thầy không học trò còn dạy cho ai? Làm người không có cầm thú thì làm sao tấn hòa ? Nầy các con! Đó là một bàn tay, cha chỉ giảng có ngón cái mà thôi, ngón cái là ngón lớn nhất mà thấp nhất là đứng trên cương vị của người lớn  phải chịu thấp, phải chịu nhường nhịn, còn nếu đứng trên cương vị của đàn chị, đàn anh mà có miếng cơm ngon áo lành, chỗ đứng tốt, ghế ngồi cao như thế đó con nghĩ ra sao? Tức là chỉ nịnh vị mà  thôi, nịnh theo cái thế để bưng đợ người đời, vậy thì người tu lớn là anh, nhỏ là em. Trên giáng xuống em phải vâng, dưới nói trên phải giữ lễ, đàn chị đàn anh là thế đó vậy
Vậy Cha giảng tiếp một bàn tay, vậy các con hãy đưa thẳng bàn tay phía tả. Phía ta là bàn tay nào H.H DUNG? (tay trái) -  Bàn tay trái tượng trưng cho gì ? ( dương, nam). Vậy các con hãy đưa hai bàn tay thẳng, mặt và trái hợp nhứt lại năm ngón tay sát nhau, Cha giảng tiếp. Vậy phía tả là nhứt dương, phía hữu là nhứt âm. Vậy âm dương có hiệp nhứt lại hai bàn tay giữa lòng bàn tay sát nhau. Vậy con gọi là gì H.H CHÂU ? – (âm dương hiệp nhứt). Đúng một phần nhưng Cha hỏi hai bàn tay sát nhau gọi là hiệp chưởng là sự hiệp nhứt lại một, âm dương hiệp nhứt lại biến sanh muôn loài vạn vật. Các con không tin như thế đâu vì chỉ có hai bàn tay nầy thì làm sao biến được muôn loài vạn vật. Vậy cha chỉ cái lý thường, Cha mượn cái hữu, cái hữu đây là cái hữu hình, Cha giảng Đạo vô-vi mà các con đang học, còn cái hữu là Cha dạy con, dạy tay, dạy lời. Vậy hai bàn tay đồng nhau chỉ mặt trái thì hai ngón tay đồng nhau là tượng trưng cho sự nam nữ bình đẳng, tượng trưng cho sự không lớn, nhỏ, của nam hay nữ, con nên hiểu nhược âm thì thanh dương, nhược dương thì thanh âm. Không phải nhược dương, nhược  âm bao giờ cả. Vậy xong phần hai bàn tay, tất cả lấy xuống để thẳng, Cha cho phép các con ngồi, Cha dạy tiếp
Vậy cha hỏi các con có hai điều: khen, chê – Cha ví như một vị Thiên phong nhìn thấy các con trang trí trong ngày Đại Lễ, lo lắng công quả đậm đà, vị Thiên phong đó nói : ai làm việc mà tốt đẹp như thế nầy. Một vị Thiên phong khác trả lời : - Thanh Xuân, Thanh Đồng con của LINH QUANG. Một vị khác thấy những lời bừa bãi buông thả hay rong chơi giỡn cợt của các con, vị Thiên phong đó mới hỏi: con ai mà giỡn cợt đó? Vị khác trả lời: - con của LINH QUANG đó ! Vậy hai điều đó, điều nào tốt, điều nào xấu, con trả lời HHDUNG?
( Nói tốt cho con). Con nghe Cha dạy : vậy con chỉ chọn cái điều tốt, tại sao mà con không nhận cái câu mà con LINH QUANG cười cợt đó ! Câu xứng đáng vô cùng chỉ cho ta khéo ta nên thì điều đó là điều tốt cho ta, chớ không phải điều khen là điều tốt đâu con à! Học Viện Trưởng con nên ghi nớ !
Nầy các Ngài Đại Thiên phong nếu các con các Ngài đã dâng hiến cho LINH QUANG thì LINH QUANG dạy đừng nóng lòng mà than trách. Ngài Thiên Minh đã hiến con  Ngài cho Địa thì đây Địa dạy  : H.H. HẰNG ! Con có biết con là ai đó không? Tâm tánh con như thế nào ? Trả lời ? (.............) . Con  đang cao ngạo, kiêu hãnh, ỷ lại. Con có biết tại sao cha nói như thế không ? Đó là nhục mạ mà đường Đạo phải nhịn nhục dầu đó là oan, người Đạo cũng phải chịu oan. Vì sự thương yêu chìu chuộng của Cha Mẹ đôi khi con sanh lòng nghịch ý cãi lời Mẹ Cha. Đó không phai là điều tốt đâu con. Tốt hay xấu con? Trả lời ? (................) Vậy Cha cho phép con an tọa.
Các con Thanh Xuân, Thanh Đồng hãy thức giấc để nghe Cha nói chuyện Bàn- Đào. Đừng run sợ, hãy tập sẵn những câu trả lời mà Cha sẽ hỏi. Vậy Cha hỏi con chỗ nào là thanh tịnh ? Các con cứ ngồi tất cả, không được quì một đứa nào hết. Khi Cha phạt con quì mà thôi. Tại sao Cha phạt con có biết không? Cha ví dụ thầy giáo đang giảng bài một trò nọ trả bài không thuộc, bài học Đạo-Đức kia mà không biết nên thầy giáo quay mặt vào tường, trò đó mắc cở nên về ráng học, khi đem tập ra học thì nhớ quay mặt vào tường nên mĩm cười một nụ cười vui là nhớ lại cái xấu của mình nên luôn luôn không bao giờ quên học vậy. Các con sợ trốn học là các con không biết đạo là gì? Vậy con nào trả lời thanh tịnh ở chổ nào? Đến lượt Cha hỏi Thanh Đồng. Cha truyền đòi Đệ Nhứt Cố – vấn là anh cả cũng như ngón tay cái mà Cha đã thí dụ  ban nãy, hãy đến Đàn tràng nghiêm trang nghe Cha hỏi. Ban Thanh Đồng các con chuẩn bị . H.C Phương ! Thanh tịnh ở chỗ nào? ......... ba lượt mà không bạch là tam hương chực sẵn. H.C Văn – Thanh tịnh ở chỗ nào ....... H.C Hải : Thanh tịnh ở đâu ? ( ở tâm). Con quì đó!
Đến lượt ba con Cha vừa gọi chưa tìm đúng câu trả lời, quì lên tất cả để Cha hỏi Thanh-Xuân. Vậy Chùa, nhà, non núi nơi nào là thanh tịnh ? (................) H.H Hiếu ! thanh tịnh ở chỗ nào ? (...............) . Vậy ba con đồng quì nghe Cha giảng Đạo
Ngày xưa, có một vị sư Bà, Cha nhắc là thời kỳ Trung Cổ. Vị sư Bà đó có ba đệ tử, dạy Đạo từ thuở mới lọt lòng cho đến khi lớn không nhưng lúc nào cũng ở trong am tự – gọi là “ Am Thanh Tịnh”. Trong Am Thanh Tịnh không có tiếng động ở bên ngoài, không có một mảy may nào làm cho phóng tâm cả.
Vì thế, một hôm nhân ngày Trung Thu Đại hội Bàn đào là ngày vui ở trên Thiên Đình gọi ngày nầy là ngày Tết – ngày Tết của Thiên Đình là ngày Bàn đào mẹ mở, nên vị sư Bà mới dẫn ba đồ đệ của mình xuống núi để vân du
Đi đến đâu thì ba đệ tử nọ hỏi đến đó ... thấy cây cũng hỏi..., tất cả cái gì cũng hỏi. Vị sư Bà mới trả lời đó là cảnh vật, lá, hoa ..v.. khi đến gần một dòng suối nọ, nơi có ba vị Tiên đồng đang khải đờn, thổi  sáo, ngâm thơ, mặc áo Đạo bào long lẫy uy phong. Tiếng sáo du dương trầm bổng từ xa xa vọng lại lọt vào tai ba vị đệ tử đó, nên  ba vị sư đồ nọ mới động lòng mà hỏi sư Bà rằng
Tiếng đó là  tiếng gì đó, bạch sư Bà ?
Với nhãn lực trông xa như hiện gần trước mắt,. Vị sư bà đã biết tự sự, sợ rằng con trẻ vướng lấy nghiệp trần nên mới vội đáp:
Nầy con! Đó là tiếng cọp, mà cọp dữ lắm con chớ nên để ý
Nhưng khi trở về Am Thanh Tịnh, lòng ba vị đệ tử nọ cứ suy nghĩ tưởng nhớ đến cọp mãi mãi. Vị Sư Bà cũng đón biết tâm tư của đệ tử.
Một ngày kia, mãn tiết Trung Thu vị sư Bà mới hỏi đệ tử rằng:
-         Các con muốn xuống núi chăng?
Thì người chị vội mừng rỡ
-         Bạch sư Bà con xin xuống núi, Sư Bà mới hỏi:
-         Xuống núi để làm gì? Thì  đệ tử  trả lời
-         Bạch xuống núi để tìm cọp
Vị sư Bà lặng thinh nhắm mắt, không phán một lời nào. Vì thế, tất cả đều âm thầm muốn trốn đi, thì chị  đầu đàn liền hối thúc hai em mau mau xuống núi đi tìm cọp, coi cho biết cọp hiền hay dữ ?
Đến khi xuống núi, đi mãi, đi mãi từ năm nầy qua năm khác ròng rã suốt bảy tám năm trường mới tìm đến được khúc suối nọ. Đến khi gặp lại thì đâu biết lễ nghĩa gì mà chào hỏi, nên vội vã chào rằng :
Thưa cọp, có phải cọp đây đã thổi lên tiếng sáo và khải giọng đàn cùng ngâm điệu thơ kia...? thì ba vị Tiên đồng chỉ mỉm cưỡi không đáp rồi đi mất. Ba vị  đệ tử nọ mới hối hận ăn năn nên quay về chốn cũ để mong tạ lỗi với sư Bà. Nhưng cứ đi, đi mãi từ kiếp nầy đến kiếp khác mà tìm không chẳng gặp thầy.
Đó các con có thấy tâm thanh tịnh ? Vậy các con hãy đưa tay lên cao vuốt mặt xuống, nhắm mắt khít, các con có thấy gì không ? H.H.DUNG ( Thấy không bằng mắt). Con Thấy bằng ý! Vậy Cha hỏi con có thể nhìn được Cha không ? Cha đang diễn ý với  con đây ! ( không). Nếu không thì nhắm mắt lại thực tế của hữu hình thì không bao giờ thấy được, con nói thấy là sai mà nói không thấy là không đúng. H.H Liên đang nhắm mắt mà thấy là thấy ở trù phòng, đang ngổn ngang suy nghĩ trong ý tưởng nào bánh, trái, rượu trà nào thực vật, lo lắng tính toán trong bụng. Đó ! con thấy bằng ý là như thế đó . Vậy các con được phép ngồi tất cả. Cha giảng tiếp: các con ở trần gian thất lễ lắm! Tại sao thất lễ các con có biết không ? cha là một LINH QUANG PHẬT ĐỊA khi về chầu MẸ MẪU HOÀNG các con có biết Cha bạch như thế nào không ? Là cúc cùng quì mọp sát xuống mà bạch rằng không phải bạch như các con ở thế gian nầy mà “ Khải bạch VÔ-CỰC MẪU HOÀNG “ Không phải bạch MẸ, Cái nghĩa MẸ đó là Cha hỏi con tại sao con cũng gọi bằng MẸCha cũng gọi bằng MẸMẸ  đó là MẪU NGHI là VÔ-CỰC MẪU HOÀNG là ngự trên Vô Cực chưởng thống trần gian chuẩn khai Thiên Địa
Nầy các con! Các con còn học Đạo thì đừng run sợ mà tỉnh trí để trả lời. Con biết ngày hôm nay Cha giáng điễn con cũng bất ngờ, mà Cha cũng không ngờ được vậy Cha kể hội Ban-đào cho các con nghe.
Ở Diêu trì Cung một ngày một đêm hội Bàn-đào là ở thế gian gần một năm, ngày hôm nay là chánh lễ mà Đức Thượng Hoàng ngự Cửu Long các con nên nhớ Thượng Hoàng ngự Cửu Long là Tam Giáo phải cúi đầu mà phò tá. Thánh, Thần, Tiên, Phật đồng đứng hầu Bạch Ngọc Cung Thầy mới đến Diêu Trì Cung thì trống ngọc khánh vang liên hồi giục đổ, Nhạc Thiên inh ỏi, tiếng nhạc du dương trầm bổng nó hay gấp vạn lần tiếng nhạc mà các con lễ sĩ thường gọi là nhạc “ Tấu Quân Thiên”, Hay nhạc của thế gian là tiếng nhạc điệu cóc mà thôi. Cóc hót cổ đó con. Còn tiếng nhạc  cỏi Trời vô cùng huyền diệu! Còn xa mà trầm hương tỏa khắp, hạc ré trùng trùng. Điện Diêu Trì Đại Cung khai mở, từ xa xa MẸ mới bước xuống Vô-Cực Phụng- Loan-Đài. Con biết chỗ ngự của MẸ là Vô Cực Phụng Loan Đài, MẸ bước xuống chín cấp, con biết MẸ bước xuống để thỉnh THẦY bằng lễ chi không? MẸ là MẪU HOÀNG bước xuống chín cấp còn phải quì xuống, MẸ quì xuống đây thì hõi con Tam Giáo cùng Thần, Tiên, Thánh, Phật đều đồng quì một lượt để đỡ MẸ  đứng lên, đừng nói chi các con phải mọp mà thôi. Các con có biết tại sao Cha cùng những danh từ củ thế đời giảng cho các con không ? Vì các con thường dùng những danh từ đó. Nếu không giảng những danh từ đó thì con chẳng biết những danh từ cao siêu hơn. Khi MẸ đứng lên bước trở lại Vô-Cực Phụng-Loan-Đài, MẸ tọa vị thì THẦY cũng bước lên Thái Cực Long Quang Ỷ. Tam Giáo đồng lạy đứng hai bên sắp đặt thứ tự.
Con ơi! Cha đâu dám đến gần mà chỉ đứng xa nhìn thấy. Cha mới nẩy ra ý vui mà nói rằng:
Đào tiên ăn cắp để xơi chơi
Coi ngọt hay không để biết mùi
Chẳng hưởng uổng thay về Cung Điện
Nếu không thì dạ chẳng còn vui
MẸ nhìn lên Thiên- quang điễn của Cha,MẸ thấy, MẸ mới nói rằng
“ Trần gian cho trẻ đợi trong ngươi
Sao chẳng giám lâm đứng đó cười
Chờ hưởng đào Tiên sau sẽ hưởng
Giờ đây đừng có tánh ham vui
Cha nghe âm thanh trầm bổng, gọi là tiếng dội không dương, thanh như chuông. Con hãy nghe tiếng chuông ngân để tưởng  tượng. H.H.Hằng hãy đánh một tiếng chuông nhỏ. Giọng thanh ngân của MẸ như tiếng chuông đó mà bốn hướng để dội dội vang vang. Cha giựt mình thì từ trên nơi Cha vừa phủ phục để bạch với MẸ, cha chưa kịp thốt lời thì bức màn trắng từ đâu  đã phủ ngang, Cha nhìn xung quanh không còn thấy Cung điện Thiêng Liêng Thánh Thần Tiên Phật đâu hết. Dầu có mắt phật nhìn cũng không rõ không thấy được. Cha mới giựt mình vội vả xuống đây. Con biết Cha muốn bạch MẸ gì không? Cha muốn bạch rằng: Đàn của Hội Thánh Cha không giáng nữa, nhưng MẸ đã ngăn qua một tuyết vân màn, chỉ còn sắc trắng mà không thấy hội Bàn đào đâu hết
Nầy các con! Cha có viếng qua vườn đào, Cha có ăn cắp một trái, để chi vậy con? H.H. Hằng có biết không ? – Ăn cắp đó là để về cho các con, Khi Cha ra khỏi vườn Đào thì vị Thần gác vườn đào mới đón Cha mà hỏi rằng:
“ Phật gì mà Phật chẳng tòa sen
Có phải Phật đây Phật thấp hèn,
Ăn trộm đào Tiên là dối Phật
Rượu chè bánh chuối đó là quen
Con biết không Cha mắc cở nên mới trả lời
“ Phật gì mà  Phật chẳng tòa sen
Sao biết rằng Ta phận thấp hèn
Chớ khéo mà mang điều tội lỗi
Đào nè ! Địa tặng để làm quen
Nầy con! Cha tặng lại vị Thần gác cửa. Vậy Cha hỏi con H.H. Dung Cha tặng hay Cha trả lại! Con trả lời: Trả hoặc tặng – Cha trả lại vì Cha ăn cắp, mà người giữ vườn đào đã bắp gặp thì Cha trả đâu phải tặng con. Nếu Cha nói trả lại lại Ngài thì mắc cở thay nên Cha mớ nói rằng tặng lại Ngài đó! Vì thế mà đào không có để cho các con. Vậy Cha mới cho các con thứ khác
Nầy con! Một người ở thế gian hỏi Cha rằng:
“ Dạy con sao chẳng thấy cầm roi?
Dạy riết tồi con nó trổ mòi
Ngạo mạn khinh khi Trời với Đất
Rồi đây nó lấy cả vàng thoi”
Cha mới nói:
“ Đạo lý dạy con đó  dụng roi
Nào đâu con trẻ nó ra mòi
Hiền tuân vâng dạ theo nhân nghĩa
Lẽ đâu nó dám lấy vàng thoi
***
Vàng thôi ông cất ở đầu voi
Sao nói con ta nó trổ mòi
Việc nọ, việc này đừng tính tới
Xấu thời đem cất tốt đem coi”
Đó ! Như thế cha mới hỏi lại:
Coi  rồi Ông có rõ hồi coi?
Còi giục từ bi chẳng dụng roi
Trời đất công bình thường xử phán
Hữu duyên hữu phước hưởng vàng thoi
Nầy con! Thần rượu hỏi Cha
“Nầy lão LINH QIANG chớ chát chua
Biết đây là chốn , chốn đây chùa
Đạo gì mà dạy hay cười giỡn
Sau trước phân minh lại  cợt đùa
Vậy thiên Phong họa cho Địa một bài thi đó. Ngài Thiên Minh? Ngài nghe Địa họa:
“ Ớ hỡi lão Thần, Địa chẳng chua!
Chát chua là tại ở trong Chùa
Con Ta, Ta dạy điều nhân nghĩa,
Nào phải chuyện chơi để trẻ đùa
Có đúng chăng Ngài? (.bạch......)
Vậy các con Thanh Xuân, Thanh Đồng nghe Cha kể một chuyện thời Trung cổ, Thầy Huyền Trang có một tiểu đồng nhỏ. Ngày kia, só sư Cụ Huệ Tánh thuyết pháp. Thầy Huyền Trang mới dạy: Tiểu đồng con đến đó nghe pháp coi hay hay không ? Thì tiểu đồng vâng lời. Đến khi trở về mới bạch sư phụ :
Bạch Thầy, Sư Cụ Huệ Tánh giảng hay vô cùng hay tuyệt diệu nên Thầy Huyền Trang mới hỏi lại: - tuyệt diệu vô cùng nhưng hay như thế nào, con kể lại cho thầy nghe  được không ? Thì tiểu đồng mới trả lời:
Bạch Thầy, Thầy  Huệ Tánh giảng vô cùng hay, tuyệt diệu.
Thầy Huyền Trang mới hỏi đến lượt thứ ba, tiểu đồng cũng trả lời Thầy Huệ Tánh giảng vô cùng hay, thuyết vô cùng truyệt diệu. Ba lượt như thế mà chẳng biết tuyệt diệu như thế nào, mà hay như thế nào? Cũng như các con nghe Cha dạy, các con khen hay, khen dễ, khen rành mạch từ tấc thước khuôn luật. Khi ra đàn con không biết điều  hay như thế nào mà kể lại; con thì kể cái đầu lộn lại khúc đuôi, con thì chỉ khúc mà nói cái đầu, chỉ khúc đuôi mà phân khúc giữ... không đứa nào phân đúng nghĩa nên Cha mới dạy  con học : chịu học, chịu nghe là hay mà không tuân, không nghe là dỡ, hay với  dở phải hòa đồng
Vậy Cha kể tiếp việc Đào Tiên: đến khi khai Đại yến Bàn đào, con ơi! Mùi vị nghe nôn ruột thế gian không bằng, nào là trầm hương, cũng gia vị, cũng bánh trái, cũng nước, cũng bột đường mà gia vị của trần gian chẳng ra gì đâu con! Cha đứng xa xa nhìn lại. Con ơi! Còn đừng cần thành Tiên lớn mà thành Tiên nhỏ đứng xa để không sợ bằng đứng gần nghe con! Đứng gần con chỉ mọp ở dưới nền kim cương mà không thể nào nhìn thấy MẸ được, Cha đứng xa nhìn lên, Cha thấy vô Cực Phụng Đài rực rỡ. MẸ thì uy quyền nhưng lòng vô cùng hoan hỉ, một nét đẹp tuyệt trần. Thế gian nè con! Bửu Liên thì già cả, con thì xấu xí, vật chất nầy xấu vô cùng, thân con hôi muôn cái xấu. Còn cõi Kim Liên nơi Điện Diêu Trì vô cùng huyền diệu. Các con Huỳnh Hoa khổ nỗi muốn thành Tiên nhỏ nhỏ mà đứng xa như Cha còn chưa thành được phải ở lại lớp trần muôn đời không gặp được MẸ một lần thì uổng thay! Con có biết giờ nầy MẸ  đang hội khai Đại Yến không? THẦY chỉ ngự hai giây là dưới thế năm ngày
Nầy con! MẸ ngự để khai Đại Lễ Bàn Đào, thì ở trần gian có một nén hương nguyện cầu vừa bay thoảng, thì ĐỨC MẪU NGHI mới động lòng mớ dụng như thê nầy, Cha chỉ cho con nghe: MẸ mới dùng bàn tay tả mà đưa lên thẳng, MẸ chỉ đưa nhẹ xuống, MẸ đưa nhẹ xuống thì sự cầu nguyện hiện rõ trên bàn vô vi Vô Cực  Phụng Loan Đài, còn có biết thế giang nguyện gì không ? Q. Giaó Tông Nguyện: Cầu xin Cửu Huyền Thất Tổ cho Ngài Bửu Liên Liêm. Niệm chữa bệnh, nguyện dược thủy. Còn muôn cái nguyện ở thế gian nữa MẸ chỉ mĩm  cười. Nầy các con! Mẹ mĩm cười phán như thế nào con biết không ? Tất cả Tam giáo Thánh Thần  đồng mừng tuổi MẸ là ngày trọng đại, là ngày gì con biết chăng? Ở thế gian MẸ dùng danh từ Khai Đạo : Khai Minh Huỳnh Đạo” mà trong Hội Thánh nầy các con đã biết, còn một nghĩa là “ Trung Thu Đại Xá” MẸ chỉ cho Tả Thánh Mẫu mà truyền rằng : “ nương sắc điệp nầy trực  chỉ xuống U Minh Giáo Chủ” khi đến nơi thì U Minh Giáo Chủ khép chặt cửa ngục môn không có một ánh sáng nào nên Tả Thánh Mẫu về trình lại với Mẹ, Mẹ cười, đến đó thôi Cha không thấy nữa. Đến nhập tiệc rồi, Cha có hưởng gì đâu!... Chè chuối sôi cũng không có, Cha vội vã xuống đây ít phút cùng con. Quở rầy con tự ái, con mắc cỡ, con sợ sệt. Cha nói rõ: Cha mượn cái hữu hình là mượn con, quở con, rầy con là Cha chỉ Đạo Vô vi, Cha dạy Đạo huyền diệu, không phải quở con rầy con là Cha bỏ bê con đâu
Con Ơi ! Thế gian thường tình hay dùng danh từ mầy, nó. Vậy Cha hỏi con: trong Thanh Đồng con phải xưng hô như thế nào ? Lớn con gọi bằng gì? Nhỏ con gọi bằng chi? Hoàng Chí Hải ?... – Mầy huynh, tao đệ mà các con thường hữu dùng ở thế gian tụi, tua, tòng mà thế gian thường dùng. Còn ở trong cửa Đạo chốn Tiên Thiên không có dùng những danh từ ngoại lai mất bổn nguồn cội gốc. Các con ở Đông phương không phải là người Tây phương cũng như các con đang ngự trong quốc độ Lạc Long Hồng Bàng thì các con là người Việt Nam lớn huynh, nhỏ đệ, lớn tỷ, nhỏ muội. Các con được đồng đều như thế là Cha đáng mừng. Nầy các con! Nghe Cha xướng thi để Thiên Tinh họa :
“ Đường dài sao chẳng dùng voi
Đi bộ làm sao kịp tiếng còi?
Ở đó coi chừng ma quỉ kéo
Tới đi rồi biết hẽm ngồi
Ngòi, rạch, sông kia nước chảy dài
Hỏi rằng nam tử phận làm trai ?
Nghĩ sao trong lúc thời binh biến ?
Nhìn thấy sanh linh quá đọa đày!”
Nầy các con! Con nào giỏi họa chăng? Hay để cho Thiên Tinh họa. Cha tài hơn con nên Cha họa lại:
“ Đường dài Đạo pháp chẳng cần voi,
Đi trước tới sau rõ tiếng còi,
Chẳng phải thần thông hay diệu pháp,
Mà đây chơn lý chỉ  nên mòi.”
Cha hoạ một bài thôi, còn một bài chừa  đó. Vậy các con đã học qua bài Thánh giáo Cha giảng đêm thập nhị, vậy Cha hỏi con người quân tử giữ nước với lửa, con chịu cái nào. Con chịu nước hay chịu lửa ? H.H. Học Viện trưởng? Còn đừng sợ trước uy linh  Cha dầu có vạn pháp thần thông, cũng để con yên lòng học Đạo ... ( muốn được như người thủy). Vậy con hãy trầm minh xuống biển sâu ngày nầy qua tháng nọ mà không nhờ đến ánh sáng mặt trời, con có chịu nỗi sự lạnh không con? Nếu không thì không nên cần dùng người quân tử tánh như thủy. Nầy con Cha có giảng trước nhược âm thì thanh dương mà nhược dương thì phải thanh âm. Lý tương dung không phải là chỗ ở nước mà nước lửa hòa nhau cũng như tâm nọ cứng mềm là tùy theo, cũng như vị Thánh đó nạt nước rằng sao nước vuông mà không dài ra? Nước trả lời Ngài đã đặt  sẵn vị trí vuông, địa vị vuông tôi không thể theo ý ngài liền trong chốc lát mà dài ra đã sẵn vị trí nầy : Đây là bình ngọc tròn, khi múc nước vào đó thì bình ngọc nọ tròn lại, nước tròn theo. Đó là nhược âm, còn nhược dương là cãi với lý nơi vị Thánh kia. Con hiểu chăng? Nên không thể trầm minh dưới nước mà phải nhờ ánh sáng mặt trời, nhờ sự tương dung đó các con đã hiểu! Lòng đừng sầu việc trần ai.
“ Nầy con công quả ở trù phòng!
Cố gắng từ đây chớ bỏ không
Thực vật không cần vì bịnh hoạn
Con ơi! Đừng có núng nào lòng.

Ăn hết bao nhiêu sợ tốn công
Rồi con đi lại bỏ nhà không
Việc nầy Cha dạy con  nên học
Đâu phải riêng ai đó bận lòng
Đệ nhứt Cố Vấn Cha giao Thanh Đồng cho con, từ đây nên huấn luyện Đạo lý, đừng để ngông nghênh, đừng để dở dang, học Đạo dẹp tự  ái, nếu tự ái thì không phải là học trò  chốn học mà thôi.
Về việc Hội Thánh, tạm trả lời với Đức Q. Giáo Tông về việc thỉnh cầu Cửu Huyền Thất Tổ chờ lịnh MẸ phán. Còn Ngài Bửu Liên Liêm có muốn về MẸ hội Bàn Đào hay không? Hội Bàn Đào vui lắm ngày. Ngày nên cố gắng tu hành, cố gắng tin huyền điễn cao siêu, tin vô-vi mầu nhiệm thì Ngài được ân thưởng vô biên ở cõi vô vi thì không có đất đứng. Như LINH QUANG đây thì cũng chĩ một chỗ đứng nhỏ, chỗ đứng đó cẩn bằng kim cương, còn chỗ đứng của thế gian chỉ cẩn bằng đất gạch. Nầy các con Thanh Xuân gạch các con lấy gì để tạo nó? Học Viện Trưởng? – lấy đất tạo nó thì dù  cho gạch bông hay gạch bông cẩn bằng kiểu chăng nữa cũng là đất, là bùn thì có quí chăng vậy ngài? Cha cho phép H.H. Dung an tọa, tịnh tâm, nên nhớ âm điễn cũng gọi là âm phong điễn đang nhập cào một vài người ở trần gian cũng xưng ChaLinh Quang, đây là MẸ DIÊU TRÌ, cũng xưng kia là Thánh Mẫu. Con ơi! Mẹ không ngự vào những tầm thường đó mà huyển hoặc thay đừng nhìn đó
Nầy con Thanh Đồng ! Cha giảng ma cho các con nghe. Các con nào sợ ma, con nào đứng thẳng dậy; Con nào cũng thẳng đứng dậy vậy  Cha triệu Đệ Nhứt Cố Vấn đến, đứng thẳng người lên để Cha giảng ma cho tất cả nghe. Vậy Cha ví như phía trước là ma, phía sau là ma, phía tả là ma, phía hữu là ma. Bốn con ma đứng đó vậy chung quanh Đệ Nhứt Cố vấn, vậy cha hỏi H.H. Dung  có sợ không con ? Ma đâu con sợ, con có nhìn thấy không?Nếu không nhìn thấy thì cũng không phải sợ, con biết ma đó là gì không? Ma đó là tứ đổ tường bốn vách thành đang vây con ở trong khung, bên tả một vách, bên hữu một vách, trước mặt một vách, phía sau lưng một vách  thể hiện ra bốn bóng ma thì con phải làm sao? Con hãy làm như vầy;  tứ tường là gì? Là sự giả: vậy sự giả kia không thể đem thực tế mà chỉ có tâm, tâm con nghĩ ra bốn vách, nghĩ ra muôn ngàn cái nghĩ nào lo lợi lo quyền, lo ẩm tử, ấm thân trước, còn thì giờ rãnh mới tu. Tu đây chỉ rãnh mới tu mà thôi chớ không phải con tu, tu để rãnh chớ không phải rảnh để  mà tu thì rất dễ. Còn người rảnh mới đi tu là rất khó. Đệ Nhứt Cô Vấn ngồi xuống.
Cha dạy Đạo hay chăng các con ? Các con thầm trả lời hay cũng thầm trả lời không hay vì sợ ý tương dung của Cha, nếu trả lời một lý thì Cha bắt quì hương, nên trả lời hai lý thì Cha giảng cái hay, cái hay của thi hành, cái hay của làm thì hay, mà cái hay củakhông làm thì không hay bao giờ. Vay Địa hỏi các Ngài Đại Thiên Phong Linh  Quang giảng Đạo dạy con như thế có chí lý hay không ?
Địa cám ơn những tứ bửu Chi Pháp cùng toàn thể đang nghe Địa dạy nếu có điều chi bổ túc thêm thì nên xây dựng Linh Quang vậy. Vậy các con Thanh Xuân, Thanh Đồng ! Các con đã học quả địa cầu, các con đọc quả địa cầu là trái đất, trái đất hình tròn, các con trả bài sử địa rất hay với thầy giáo mà không biết hình tròn trái đất hay các con trả bài giỏi về quan sát học, thân thể học : con người ta chia ra làm ba phần: đầu, mình và tay chân; trên  đầu có tóc, đằng trước có ngực, nhưng các con không biết tả, không biết hữu, không biết thượng đài, không biết hạ đài, không biết bên nào là bên nào là dương? Tại sao chia ra làm ba phần đầu, mình và tay chân? Cha nói trời thì có: nhựt, nguyệt, tinh, con cũng biết nhựt là gì? Nguyệt là gì? Tinh là gì, nhựt là mặt trời, nguyệt là mặt trăng, tinh là tinh tú, Còn đất thì có : Thủy – Hỏa- Phong, thủy là nước, hỏa là lửa, phong là gió. Người có gì con có biết chăng? Người thì có tam bửu : Tinh, Khí, Thần. Tinh là gì ? khí là gì? Thần là gì? Các con phải biết những danh từ đó để học, đừng học theo văn minh nguyên tử nầy, cái máy thường tạo những bộ phận, bù loong, ốc, nào là động cơ chánh... giảng giải một cách rành minh, Cha mới nói chuyện với một anh thợ mộc rằng : Nhà anh cất, vậy chớ anh không đắp nền thì có cất được không? Anh mộc trả lời: - Dạ được, cũng như H.H Dung con trả lời được, không đắp nền làm sao cất được con? Nếu muốn cất được thì phải đắp nền trước, khi đắp nền xong rồi cha mới hỏi anh thợ mộc: dựng một cây cột chính giữ có thể thành hình một cái nhà được không, vậy được như thế nào? Anh thợ trả lời rằng: Bạch được. chỉ có một cây cột chính giữa  mà được, vậy được như thế nào? Anh thợ mới nói : được là ở chỗ ráp hết tất cả cái nhà hợp lại chính giữa là trung tâm, là cột trụ, khi muốn cất nhà phải lấy chính giữa là cột trụ, là trung tâm, là cột trụ, khi muốn cất nhà phải lấy chính giữ là cột trụ, là trung tâm điểm từ đó, mới có thể phân thành mực thước mà ra khuôn cái nhà được. Cha mới mĩm cười: Hay thay! Hay thay ! nếu con trả lời không được thì đã trật rồi, vậy học Đạo phải lấy trung tâm điểm nhìn thẳng, nói ngay ở chính giữ điểm gốc.Nên chi HUỲNH ĐÀO thị Trung Ương Trung Ương Mồ Kỷ Thổ, Thổ là đất, Mồ kỷ thổ là ở Trung Ương, lấy từ chính giữa mà phân mực ra khắp Tứ Tượng, Ngũ Hành biến sanh...
Vậy Cha cho vé này các con học chắc sẽ hơn vé Cha điểm danh từ đứa “ Con ơi, con hỡi!” Khen con công cao, lòng con hớn hởn, rầy con trách con mặt ủ mày châu, còn không điểm tới thì vô cớ mà nước mắt lăn dài trên má. Vậy vé nầy con nào học thuộc thì ráng học bổ ích hơn là vé Cha điểm cho các con hằng ngày, hằng ngày. Nhưng khi dạy thì nghe, khi hết dạy thì quên chứng nào tật nấy, bịnh nào thuốc nấy
Các con có biết Đạo vô vi Cha phân ra một chánh, một tà, một trung dung, một được, một không, một hòa đồng nên khi Cha hỏi là Cha hỏi ba con, để con trả lời cái được, Cha hỏi đứa kế tiếp; đứa kế tiếp thấy rằng anh lớn trả lời cái được bị Cha bắt quì nghĩ  rằng mình trả lời cái không sẽ đúng, vội đáp cái không Cha cũng bắt quì? Cha nầy bất công quá!? Nên Cha hỏi đứa thứ ba vậy chớ hai đứa nó trả lời đứa không, đứa được mà đứa thứ ba phải trả trả lời như thế nào, con về phe nào, về được hay không về ? Con mới nghĩ ngợi, con theo được thì trật, con theo không cũng trật. Vậy con phải trả lời rằng “ Bạch Cha không được mà cũng không không?  Được cũng như không mà không cũng như được. Các ngài Thiên Tinh, Bửu Liên nghe lời Địa dạy càng bổ ích hơn giấc ngủ còn khỏe hơn một liều thuốc, còn mát hơn một ly dược thủy. Tất cả Thiên Linh, Bửu Liên học Đạo vô cùng khó khăn, thử thách càng nhiều mà không màng không nàn, không phải ráng mà tu mà thể hiện sự tu đó cho hoàn tất chớ không không phải rảnh mà tu. Chỉ tu mà rảnh đó thôi đừng để thì giờ rảnh mà tu. Chỉ tu mà rảnh đó thôi đừng để thì giờ rãnh mới đi tu thì uổng vậy, Vậy cha hỏi Thanh Đồng H.C kỷ ngày hôm nay là ngày gì vậy con? Con run. H.C Phương ? ( Bạch :..........) Đại Lễ Trung Thu Đại Xá. Con quì đó! Ở thế gian người ta dùng những danh từ nào khác nữa không, H.C.Hải?  (Bạch........) – quì đó! H.C Phước? Con không biết, H.C nào biết ? Tất cả không biết. Vậy Cha giảng, ngày đám giỗ đó con, ngày kỷ niệm đó con! Ngày kỵ cơm đó con, Ngày mừng tuổi đó con! Ngày nay là ngày chánh lễ mà Đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG giáng sanh ra vô cực, là ngày kỷ niệm truyền lưu cho hậu thế còn danh từ của đạo là ngày khai minh HUỲNH ĐẠO, là ngày Đại Lễ Diêu Trì Đại xá
Cha dạy đạo rất nhiều vậy cho phép con an tọa. Học thì phải hành nghe thì phải hiểu mới đạt được đạo nghe con? Cha dạy  rất dễ, con có thấy dễ vô cùng mà còn phải lóng tay nghe mới quí. Cha tiếp tục kể chuyện dự Bàn Đào. MẸ ngự trên Vô Cực Phụng Loan Đài  tay cất cao tuyên bố “ Khai mạc” thì một giàn nhạc trổi lên vô cùng huyền diệu, Huỳnh Hoa cũng múa hát huy hoàng, trầm hương thơm ngát, mùi ngạt ngào lan tỏa. Cha đứng xa, thiệt xa nhìn thấy đào thèm vô hạn. Cha mới vừa nghĩ thôi thì nên đến gần MẸ......... cha vừa bước chỉ một bước nhỏ thỉ tuyết vân màn phủ , vừa phủ xuống cũng vừa biến mất để hiện ta một mâm đào muôn ngàn trái trước mặt Cha. Vậy Cha cần gì mà đi lại, cha mới vừa tưởng, Cha không cần đi lại làm chi thì mâm đào nọ biến mất, Cha mới trách rằng” Vị Tiên nào chơi khâm Cha vậy?, vừa trách thế thì mâm bánh ngọt lại tới gần, thôi thì nếu không cho ăn đào, Cha  ăn bánh, ở cõi Tiên mà cũng khó ! Cha nữa nói thế thì dĩa bánh biến thành lá. Vậy Cha hỏi lá ăn được không con? Ăn không được, Cha buồn quá, Cha buồn, Cha giận MẸ, Cha mới nhìn thẳng lên thì thấy gương mặt MẸ tươi cười nhưng chẳng phán một lời nào hết mà mâm đào lại bĩa –bàng hơn, huy hoàng hơn lại hiện trước mắt Cha tên đó bốn chữ đề rằng: Linh-Quang thọ nhẩm “. Con có biết thọ nhẩm là gì không?- Là ăn đó con! Khi Cha vừa ăn thì nghe con dưới trần khóc, Cha mới động lòng quá. Cha nói: ở thế gian các con chỉ ăn cơm mà cơm thì lạt, canh thì chua chát, nào ớt, nào chanh, nào đường, nào tiêu đủ vật dụng chua chát cho các con hết. Cha vừa tưởng như thế thì mâm cơm chua chát của các con hiện đến cho Cha không phải mâm đào nên Cha buồn lòng. Thôi vậy thì Cha xuống trần để dạy con còn sướng hơn, chớ ở chi hội Bàn-đào gì mà lát ăn đào, lát ăn cơm, lát ăn bánh lá không có cái nào ăn no bụng cả. Vậy thà ăn cơm với các con dầu phải chan nước mắt cũng bằng lòng. Con ơi! Tại sao Cha nhớ đến các con không? – vì bổn phận làm Cha cũng như cha mẹ của các con nếu bổn phận Cha muốn con mình no thì tức nhiên lén dấu đồ ăn, lén lấy bánh ngon dành cho con cũng như Cha ăn trộm đào để đem xuống cho con. Đó là thể hiện gì? – có phải thể hiện tình thương của Cha hay không? Cha dạy mà lòng thấy ngậm ngùi vì trần gian có giây phút không vui, là lúc mà hiểu cái hiểu không tường tận, biết cái biết không rõ ràng, thấy cái thấy không tuyệt diệu. Vì vậy mà Cha buồn phải cho biết cái biết tường tận, thấy con của Cha ra công hãy khen cho nó, mà thấy con của Cha hư thì nên nhiền hòa mà dạy dỗ: “ Nầy cháu, cháu đi đó coi chừng gai, hãy bước đường nầy”. Đằng nầy chẳng chỉ mà lại nói rằng “ Con Linh Quang, ổng dạy hay lắm, nó học giỏi lắm nên nó chẳng biết gì chông gai hầm hố”
Các con ơi! Đừng vô cớ mà nước mắt lăn dài trên má. Cha nhắc lại Đạo- con nên thể hiện lòng thương, thương Đạo, thương Cha, thương Thầy, thường MẸ, chẳng phải thương bao nhiêu mà thôi, thương đến cha mẹ song thân, Cửu huyền Thất Tổ còn đọa lạc chốn Âm cung
Các con nghe! Đệ Nhứt Cố Vấn Cha dạy vòng vòng từ văn những ý tứ, Cha cho phép chỉnh lại ngôn ngữ cho đúng theo lý Đạo là ngôn ngữ mà các con thường dùng. Vật các con Thanh Xuân, Thanh- Đồng các con đang ăn cơm  của ai đó? Cơm của Hội Thánh, các con đang ở đâu đây. Đang ở chùa của Hội Thánh, các con đang làm gì cho Hội Thánh? Thì các con cũng biết công ơn, cũng biết người cho mình ăn cơm, cũng  nhớ ơn người dạy mình điều Đạo-Đức. Cơm dầu có hạt, canh dầu có chua thù cũng không thẹn thùa mới xứng đáng con à! Hãy thức tỉnh mà nghe Cha giảng, nhớ từ lớp, từ lớp để đi giảng Đạo mà cứu nhân sanh, không phải Cha giảng rồi con chỉ khen hay chừng một đêm hay một giờ, hay lúc con dờ trang Thánh-giáo mà không khen hay mãi mãi trong tâm. Nhưng con ơi! Còn mang cái thần nầy còn chấp ngã, miến nói chạm đến tự ái thì trốn học, rầy la lớn tiếng thì bỏ  quên, cũng như Đệ nhứt Cố vấn , Cha dạy con dạy Đạo, Cha khônng dạy con là Đão thì con nên dạy Đạo, mà dạy Đạo là lời nhỏ nhỏ, từ từ mà thâm trầm lắng nghe con!
Các con biết tại sao Cha dạy cho thành phần chủ tọa đoàn của các con, bắt thành phần này quì, dạy là sao? Là anh lớn, chị lớn cũng như ngón tay cái mà Cha vừa thí dụ sao trong bàn tay mà con không lấy đó để làm gương? Con chặt đứt ngón tay cái thì bốn ngón tay cái cũng vô dụng như cầm binh không tướng, như có tướng mà không binh, con có hiểu chăng? Đệ nhứt Cố Vấn? Cha dạy thành phần nầy là để con dạy cho thành phần sau là vì Cha dạy ngón tay cái để con dạy ngón tay con, con dạy ngón tay con  thì con cũng phạt như Cha dạy ngón tay cái vậy. Đó là luật bù trừ không có gì phải quê mặt hay mắc cở, con có hiểu không?
H.H. Tuyết ! từ lâu dầu nặng nghiệp đời nhưng tâm con thường nhớ đến Cha, cũng như thường đem lòng vàng để công quả, Cha luôn chứng lòng con, vậy Cha hỏi Đạo con nên nghe mà học, nên hiểu mà theo, đừng thấy văn minh Âu-Mỹ mà ở trong thế Hồng-Bảng, Lạc-Long vội quên nghe con!
Các con đã tường tận thì từ đây nên hoàn toàn tường tận. Cha cấm các con một điều duy nhứt là không được bỏ quên phận sự mà Cha giao, chẳng những phận sư trách nhiệm với đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG. Cha nhắc lại một lần nữa trần gian thường thất lễ, Cha quì mọp xuống Kim Cương thạch mà phủ phục để bạch với Đấng VÔ CỰC MẪU HOÀNG, cha có dám “ Bạch MẸ” đâu con ? Một vị nọ hỏi Cha
Phật gì mà ở Cửu Huyền, Ông?
Cha mới trả lời
Phật đó Phật đi cả giáp vòng
Phật xuống trần gian lên bệ ngọc
Phật về cực lạc xuống Lư Bồng
Cha trả lời như thế một Ông hỏi nữa:
Cửu Huyền thành Phật được không Ông?
Cha mới trả  lời
Thành Phật do duyên nghiệp giáp vòng
Dứt nghiệp Niết Bàn về tự toại
Đó là sau trước chẳng nên bồng

Bồng bột chi Ông Phật có công
Có công đác Phật, bởi do lòng
Lòng không trọn vẹn, không thành phật
Lòng luyến trần gian đó tại lòng
Vậy một vận từ thứ:
Từ thứ vận ta chỉ ngọn roi
Chẳng ai họa lại tặng vàng thoi
Nghe rồi quên hết không còn nhớ
Tốt cất, rồi đem xấu nọ coi

Cái xấu đem coi thật lóe mòi
Lóe mòi trần tục lóe mòi roi
Roi thần chẳng vị người dương thế
Nghe rõ tường minh thấu giọng còi

Vàng thoi Ông giau ở đầu trâu
Mặt ngựa cất tiền chẳng để lâu
Trên dưới của kia Trời vẫn thấy
Đến khi lấy mạng biết về đâu?
Con nghe Cha kể tiếp câu  chuyện, câu chuyện này xứ Trung-Hoa. Con nghe kỷ:
Có một vị nọ giàu sang tột đỉnh, hằng tỷ, hàng triệu tỷ nên chi không chỗ cất hết mới nằm phe phẩy quạt lông mà nghĩ rằng : ta hãy ăn cho no, ăn cho béo, ngủ cho khỏe và hưởng lạc tất cả trên thế gian để sung sướng, cần gì ta đã quá giàu. Thế rồi, một vị Thần linh gọi là Thần-Hoàng Bổn- Cảnh thấy vị đó giàu mà hiền mà không biết cách nên vị Thần Hoàng Bổn Cảnh đốt sớ về tâu Nam-Tài Bắc Đẩu mới cho một vị Tiên xuống trần, Một vị tiên nữ đến xứ Trung Hoa giả làm đầy tớ cho gia đình đó, làm người ngu cho gia đình đó, cho vị đó, cho Bà đó sai khiến, thì Bà đó dạy rằng: “ Nầy đầy tớ! Ta giàu quá rồi, ta để của cho ai đây? Vậy thì ta nên xài, nên sắm cho đẹp, cho sang, những gì thế gian ta cần phải phải hưởng tất cả. Nghe bà chủ hỏi, người đầy tớ mới trả lời rằng : “ Cái hưởng có thể gian mà bà đang hưởng theo tôi nghĩ, thì người đời ai ai  cũng phải chết, mà cái chết thế nào cho vinh quang để tiếng đời phải ca tụng, phải lưu lại cho hậu thế tôn sùng, lẽ nào Bà chết âm thầm trong  đống bạc. Vị đầy tớ nói đến đó sợ xúc phạm đến Bà chủ nên cúi đầu, thì Bà chủ nói nhà ngươi nói tiếp cho ta nghe. Nhưng Nầy! Ta không bao giờ chết, nhà ngươi vô cùng phạm thượng, ta sống hoài, sống đời đời, ta hưởng hoài, ta hưởng đời đời. Vì vậy người tớ mới trả lời: “nếu Bà hưởng đời đời ở thế gian, tại sao có luật sanh tử, nếu có luật sanh tử, thì tức nhiên Bà đã bị sanh ra rồi Bà phải chết, Bà đã già thì Bà không thể hưởng được đến một ngàn năm sau, vậy tôi thấy rằng của tiền nầy nên bố thí cho ăn xin, cho người nghèo hèn. Bà chủ liền nạt lại đầy tớ :
Ngươi vô lý ! Ta bố thí cho người nghèo lấy gì ta giàu?
Thế rồi một bữa nọ và bị trúng phải âm phong, đau nhứt chết nhứt sống, mới gọi đầy tớ lại hỏi: “ Ta giàu như thế nầy sao những vị lương y tới trị cho ta mà không hết bịnh?” thì người đầy tớ mới trả lời” “ Bà chỉ làm phước mới hết bịnh mà thôi!” Bà chủ con đang do dự thì cơn bị lại hành dữ dội, trong cơn mê sảng, Bà thấy lưỡi hái tử thần hiện đến đòi cướp đi mạng sống  của Bà. Nhưng chỉ thử thách đôi giờ trong cơn mê xem Bà có thức tỉnh hướng thiện hay không, rồi cũng cho bà sống lại. Khi tỉnh lại, bà chủ mới gọi  đầy tớ tới bảo rằng: - ta đã biết việc chết như thế nào rồi ? Lúc chết ta chỉ thấy có một điểm sáng nhỏ không có tay của ta, không có mắt của ta, không thấy mình ta, thôi thì của cải thế gian nầy ta giao cho người, ngươi hãy bố thí, ngươi hãy dùng vào việc cất chùa, tạo am miễu, tạo nhà thờ hay tất cả những gì hậu thế được nhờ. Vị giàu có đi thoát xác mới tỉnh ngộ thì được Phật Quan Âm cứu về
Con thấy như thế nào, chuyện xưa tích cũ có hay không con? Vậy thì con nên  roi truyền chuyện xưa tích cũ để học Đạo
Còn chuyện Hội Thánh vài việc hỏi về tà điễn hay chánh điễn hay vài việc mà Cha nhắc thêm, từ lâu Cha không nhắc đến Đặc San, vậy Đệ Nhứt Cố Vấn con thành tựu chưa? Nếu con thành tựu sớm trước ngày thập – ngũ trong ngày lễ con sẽ được phần thưởng của Cha, cũng như về vật chất Cha sẽ nhờ Hội-Thánh trích một số ngân, con biết điều đó?
Vậy sơ lược đạo lý nếu Bữu Liên không nghe hay thiên Tinh không nghe thì nên nghĩ ngơi còn các con Thanh Xuân, Thanh Đồng phải nghe hoài, nhớ kỷ, mà không được lãng tâm trong giấc ngủ
Một vị Thần nói Cha: “ Ông Già Linh Quang tối ngày cứ dạy con nít mà không rồi. “ Cha mới cười: “ Con nít của Linh Quang còn quý hơn Ngài. Ông Thần giận Cha: “ Linh Quang xúc phạm” cha mới nói : “ Ngài coi chừng đấu lý không lại con của ta, vậy con ta đấu lý với Ngài, Ngài dám không?
Vị thần mới bóp trán  suy nghĩ: - vậy thôi! Cha mới nhờ Đệ Nhứt Cố Vấn con đấu lý với vị Thần thì vị Thần nọ thua xa. Con biết như thế nào không ? Tại vì Thần không học lý, Thành ra biết đâu mà đấu với con, nên vị Thần mới xá dài Cha một xá mà nói rằng : “ Tôi chịu thua Ngài, sao Ngài không dạy người lớn mà dạy con nít ?” Cha mới nói rằng : “ Con dễ dạy vì đầu óc nó nhỏ, sư tinh khôn nó còn dễ uốn, cũng như tre và măng; măng uốn theo chiều nào thì nó theo chiều ấy còn tre già lớn  lên rồi uốn túc thì nó gẫy, uống mạnh thì nó đau, vì vậy bên thà rằng Linh – Quang dạy con nít còn sướng thân hơn. Thôi thì an bần thủ phận, ngồi ở bàn Cửu-huyền Thất-Tổ còn yên thân hơn là ngự Liên-Đài, mà nay phải cúi đầu từ-bi mai phải cúi đầu vị tha xả kỷ; Làm Cữu-Huyền thì xính xái cho nhau. Con biết Cha dùng từ Trung Hoa đó
Nên chi, Cha cũng khen TIẾP ĐIỄN vô biên, tiếp được diêu điễn tối thượng, tiếp được lý của Linh-Quang truyền cho hàng các con Thanh-Xuân Thanh-Đồng. Vậy các con cũng được phần thưởng vô biên về vật chất
Nầy các con! Chiếc đò kia đang ở ngoài dòng khơi không người lái, nếu không người lái thì tất nhiên đò không cập bến mà chỉ ở giữa chừng thôi. Nếu ở giữ chừng thì ngày nào con mới tới Bến? Biết đâu sóng dập gió dồi rồi chiếc đò nọ bị đắm chìm vì cơn bão tốt. Các con thương tiếc chiếc đò đó hay thương tiếc cho con. Con không bao giờ thương tiếc chiếc đó mà chỉ thương tiếc cho con vì con cùng chung phận với chiếc đò chìm sâu dưới vực thẳm. Con ơi! Tình thương của Cha không thể nào lấy thước mà đo được, con không thể nào lấy gang tấc mà đo lòng của Cha đối với con. Vậy thì con cũng không thể nào lấy gang tấc mà đo lòng cha mẹ các con đối với các con, mà Hội – Thánh nầy Thiên-Tinh, Bửu – Liên là cha mẹ của các con mà các con chỉ đem gang tấc mà đo lòng thì không thể nào được đó con! Một thể điệu buồn thì con nào cũng gần rơi nước mắt; một thể điệu vui thì con nào cũng hớn hở, cười vui; một lời nói đắng thì con nhăn mặt, một lời nói ngọt thì mặt tươi tốt vui mừng, một ý nói ngoa, một ý nói bẻ thì con tưởng rằng Cha bẻ lý không dạy rõ, Cha định nói thiệt thì con nói hư, Cha không thể theo con nói hư được mà Cha phải nói thiệt, con nói thiệt thì Cha phải nói hư, vậy các con có bạch gì không? Con nghe thâm trầm thì nên  nghe tiếp
HUỲNYH-HOA-THÔNG Con đừng thấy trù phong, nhìn nồi cháo hay ẩm thực. Đừng sợ! Âm phong làm bệnh người hết đi con! không dùng bao nhiêu đâu mà nấu mãi ! Các con khi nghe Cha giao trù phòng cho con nào thì giật mình lo sợ, miếng ăn mà ích lợi gì con! Miếng ăn của thế-gian, đào Tiên Cha còn không cần, vậy Cha hỏi con, Cha không cần hay cha không được ăn, con nào bạch? H.H. Dung ? (..............)  con đừng làm mất thì giờ của Linh Huệ... Con không hiểu hay con nói Cha không được ăn, mà Chính thiệt Cha không được ăn, bởi vì đào nó đắng lắng con à ! con tưởng đào là mùi thơm, mùi ngọt, mùi ngon, đến khi nghe Cha nói đào đắng con lại giật mình. Con có hiểu nghĩa đắng như thế nào mà con sợ? Vậy Linh-Quang hỏi Bửu Liên vị nào muốn nghe kể hội Bàn-Đào thêm? Địa sẽ kể thêm cho nghe, nhiều lắm các ngày! Các ngài sau trở về thì chỉ có quì phủ phục dưới Kim- Cương  Ngọc-Thạch không dám nhìn uy-nghi của Mẹ đâu !
VÔ-CỰC LOAN-PHUNG-ĐÀI gọi là NGÂN-LOAN ĐIỆN DIÊU-TRÌ-ĐẠI-ĐIỆN. Kia! Một bức màng mỏng, hỏi Ngài Thiên-An treo vậy có đúng không? (Bạch....) – Ngài định che như Mẹ đã che Địa vậy. Vậy thì Ngài nên sửa đổi lại bức màng mỏng treo thẳng từ trần nhà treo thẳng xuống như Mẹ đã treo ngang mà Địa không thấy gì hết, như vậy mới đúng mà thôi. Khi cơ bít thì kép màn ngang cho ngăn bớt những ý tưởng bên ngoài, khi mãn cơ bít thì kéo qua một bên để lễ Mẹ. Cám ơn Ngài vậy.
Từ lâu hàng triệu lần Đạo Lý  mà Linh Quang giảng các Ngày ít theo dõi. Ngày nay, Linh Quang giảng nhiều cái hay cũng nên theo dõi để: - Một là, chỉ trích coi Linh-Quang dạy đạo cong, méo, tròn – Hai là, để học thêm những mỹ –ý, những từ –chương. Có vị Bửu-Liên muốn Địa kể tiếp hội Bàn-Đào? Vị nào cũng muốn nghe cả, tâm vị nào cũng thơ thới. Vậy các vị nhắm mặt lại, các vị có thấy Mẹ không? Mẹ là gì ? Các vị là gì? Tại sao Mẹ phải bước xuống chín cấp, từ cấp một đến cấp chín? Thôi phần Đạo – Lý không hỏi làm gi với Bửu-Liên, Địa tả tiếp hội Bàn-Đào
Kìa THÁI-CỰC LONG-QUANG -Ỹ đang uy quyền, các con Thanh Xuân, Thanh –Đồng biết Đấng Mẫu-Hoàng cúi mình lạy cái gì không con? Không phải lại Thầy đâu? Thế gian gọi vua có gì con? Tướng có gì con?  Vua thì có ấn, tướng thì có lịnh, các con hiểu chăng  Mẹ cúi lạy “ CÀN-KHÔN BỬU –NGỌC – CHÂU” là  Ngọc –Châu, là ấn pháp của Thượng-Đế  đang đội trên đầu, các con có hiểu không ? Khi Mẹ cúi mình đãnh lễ, các con đừng tưởng Thầy nghiêm mình để chào lại, Thầy vẫn đứng thẳng, tượng trưng uy-quyền, con ơi! Tam-Giáo Thánh-Thần mọp một lượt, cha sợ quá nên Cha quì sát dưới Kim-Cương-Thạch, Cha có dám ngẩng lên đâu. Khi con không thấy, nghe Cha tả con đang mơ hồ tưởng tượng, kìa ! Con nhìn lên thấy chín Rồng uốn lượn chín sắc trùng trùng, giữa Trời nhạc Thiên inh-ỏi, đó là báo hiệu xe giá của Thầy sắp rời Điện Diêu-Cung, là sắp rời nơi Bàn-Đào hội
Các con nghe rõ! Ngày lễ Mẹ, Đấng Thượng-Đế Huyền-Khung còn đến chúc tụng đừng nói chi đến các con. Nầy các con! Các con biết Mẹ gọi thầy là gì không?  Không phải gọi Thầy, Mẹ gọi “ ĐẤNG HUYỀN KHUNG KIM –KHUYẾT NGỌC-HOÀNG CHỦ-SỬ”, Thầy gọi Mẹ là gì, các con biết không ? “ ĐẤNG  THƯỢNG-ĐẲNG VÔ-CỰC ĐẠI TỪ-TÔN”  Thầy Mẹ gọi nhau bằng “ Đấng” huống chi là các con gọi Đức Ngọc-Hoàng , huống chi là các con gọi Mẹ Diêu-Trì hay Đức Mẹ Diêu-Trì, các con có rõ chăng? Dầu ở ngoài đời mới bước vào Đạo cũng hiểu biết cái lý của Cha giảng, huống chi là các con!
Bàn-Đào chưa mãn chớ nên lui
Địa hỏi rằng con có ngậm ngùi?
Chẳng được tráo đào Cha gởi tặng,
Thì con cũng phải trọn niềm vui

Niềm vui với Đạo ớ, con à!
Đừng để phiền lòng, cực đến Cha
Đừng khóc, đừng buồn nghe trẻ dại!
Thế nào thì cũng có bên Cha

Ngày sau Cha hái trái đào Tiên,
Vạn trái cho con ở thế miền,
Dừng sợ mất phần, Cha hái hết,
Huyền-Linh Cha dấu, dấu Thần-tiên

Thần-Tiên Cha dấu được không con?
Không được, thì Cha dạ héo hon,
Khó lắm con ơi! Sao giải được
Bánh chè thì dễ, rượu  đào Tiên

Đào Tiên khó hái lắm con ơi!
Muốn hái thì tâm phải thế đời,
Đến đó hái mười phân lọc chín
Rồi con mới trọn hưởng niềm chơi

Niềm chơi hay giỡn mặc tình con,
Đâu sơ trần-gian bóp méo tròn,
Ở đó thảnh thơi lui tới dạo
Đâu còn sanh từ, khổ nghe con .!
Các con nghe Cha dạo vườn đào. Cha đến cửa vườn thì lão Thần giữ vườn cũng gạn hỏi Cha: Ông đi đây nầy? Cha mới trả lời
Ông đến vườn đào để kiếm roi
Đừng hay han hỏi chớ ra mòi
Làm Tiên hay hách sa địa  ngục
Đừng có nhiều điều chẳng biết coi
Vị thần mới trả lời:
Kiếm roi đâu ở vườn đào
Chắc rằng ông hái lá đào làm roi
Làm roi ông lại làm còi,
Thổi lên ba giếng coi mòi không xong
Vị thần mới khai môn, Cha bước vào cườn đào, con ơi ! thơm vô cùng. Đi vòng hết một ngày Trời, chân đã mõi Cha không biết đã đến nơi  đâu? Cha tọa xuống, con biết dưới gốc đào Tiên là muôn triệu mã-não san hô, là muôn triệu kim-cương ngọc-thạch, Cha dựa lưng vào gốc đào phe phẩy quạt mà ngâm rằng
Đào Tiên đã chín có hay không ?
Địa thưởng thức chơi để ấm lòng
No bụng mới đi cùng khắp xứ,
Nếu không bụng trống chớ nên hòng
Cha vừa ngâm dứt câu thì trái Đào cũng  vừa rớt xuống, Cha không cần hái mà đào nọ vẫn rớt theo, vừa rớt theo thì Cha vừa dùng huyền-linh tạo thành một chiếc dĩa đựng liền, Cha vừa đựng vào chiếc dĩa nọ thì trái đào kia trả lời Cha rằng
Chén khua dưới bếp dĩa ông chờ,
Đào dựng làm chi nó lấm dơ!
Dĩa để đựng nhờ, nhờ bánh trái
Còn đào chỉ đựng, đựng hồn thơ!
Con có nghe đào cũng biết trả lời, nên Cha mới nói
Hồn thơ mà đựng trái đào
Làm sao ăn được nuốt vào cho trôi ?
Đào rằng : Ông chớ than ôi
Về đi cơm lạt nuốt trôi như thường

Đến khi Cha đi nữa, Cha đi giáp vòng rồi thì được bốn câu thơ của Mẹ
Đã có sẵn, từ đâu âm thanh vọng lại tiếng dội thanh thanh
“ Trung-Thu Kim –Mẫu  Mẹ ban chung,
Rượu rót tay nâng cứ hưởng dng
Đào đó các con nên dụng lấy
Rượu tiên uốnng cạn vài chum
Thì câu sẵn có Tiên tửu, đào hồng kỳ này thì Cha ăn no bụng, mỗi lần ăn no như thế là mỗi lần nhớ con vô cùng, thôi thì thà đừng ăn để nhường lại con  ăn
Con ăn Cha hỏi có no không?
Con trả lời không đó dối lòng
Con dối với, Cha đừng dối Dạo
Con nên dối thế, giữ điều công

Điều công con nhớ gió qua sông
Gió thoảng rồi  bay gió thoảng làng
Đâu phải trường miên đời vạn kiếp
Mà con khắc khoải lửa thiêu lòng
Bài
Canh khuya khoắc Cha về đàn nội,
Dụng tử văn chỉ lối tu hành,
Mong rằng con chẳng cải canh,
Dầu cho khó khổ đã đành, con ơi!
Một bước đi là đời bốn vách
Một bước về tay xách, tay bưng,
Con nên nhớ rõ mấy lần
Khi con bưng xách hồng-trần đau thương,
Con thì tạo nghiệp vương đầy đặc
Con nthì mang thắc mắc nơi lòng,
Kìa xem một ngọn cuồng phong,
Con ơi! Sức khỏe con đồng được không?
Siêu chơn lý con không vẹn vẻ,
Dụng từ ngôn đâu lẽ con quên,
Ngàn xưa  con đà làm nên,
Giờ đây một kiếp không bền sao con?
Dạy ráo tiếng việc tròn nói méo.
Dạy ráo lời việc khéo nói hư;
Dạy con từ chữ Chơn-Như
Dạy con từ lý huyền thư vô cùng.
Con có học mới dùng mai hậu
Lửa thử vàng đem nấu đi con!
Vàng thau lộn lạo, chưa tròn
Cha vàng còn đó thau, bòn hòa nhau.
Vàng với thau như đào với  rượu
Rượu pha đào con thảo nghĩ gì?
Hồng trần là chôn mê-si
Con ơi! Tình nghiệp màng chi kiếp nầy.
Dầu bảy năm chưa đầy ân nghĩa,
Dầu ngàn năm  trong phía luân- hời
Cũng còn trả nghiệp con ơi!
Phận là chị lớn Đạo trời nghĩ sao?
Phải dắt dẫn cho nhau tất cả,
Phận lớn mà vấp ngã trước em
Hỏi con phận lớn vén rèm,
Bao nhiêu rèm cũng lấm lem, con à!
Vậy phận nhỏ con là ở dưới,
Dưới mà cao con tưới như vầy
Dưới cao là lý đủ đầy,
Lửa kia thiêu đốt một bầy con thơ
Nước vừa cho đúng giờ tắt  rụi
Lửa tắt rồi nước tủi ta đi
Còn đâu để lọc thau chì,
Thắng thì con chẳng mừng gì, con ơi ~
Phải âm-thầm dòng khơi tuôn chảy,
Cúi đầu đi dầu phải trổ ngang
Khi nào nước nọ hung tàn
Xưng rằng ta thắng, ta ngoan hơn người
Nướuc âm-thầm cúi lời dòng chảy
Ngấm xuống sâu  thừa-thải hay không?
Nước kia vừa trở xuống dìng
Một lời không nói, một lòng không phai
Còn lửa nọ tưởng rày ta giỏi,
Đốt rừng hoang ráo trọi đi con!
Cây cao, cây thấp, cây tròn
Nửa giờ đốt hết không còn, con ơi!
Đốt cho cháy đốt nơi có lá
Đốt cho tiêu cặn bã trần gian
Có điều lửa nọ hung tàn
Nhưng không đốt nước được toàn đâu con!
Đốt nước vẫn sốnng còn hơi tỏa
Nước vẫn sôi nước đã nên hình
Hòa theo hơi lửa hữu hình
Nhưng không thể cháy hết mình thủy nguyên
Dạy như thế con hiền nào biết
Thì học xong phận việc như vầy
Con ơi! Hãy réo gọi thầy
Đến khi hoạn nạn Thầy ơi, là Thầy!
Khi bình tịnh như vầy không niệm
Đến đạn bon lại tím bầm gan
Niệm rân một tiếng NGỌC-HOÀNG
Niệm  cầu KIM-MẪU bố ban từ –Lành
Tâm thanh tịnh Cha rành dạy rõ,
Con nào thông thì đó là  thông
Nếu không thì đó là không?
Tại sao như thế việc đồng trần gian?
Lý mê-muội không ngoan, khó học
Lý siêu-vi không đọc, khó tường
Con ơi! Nên biến con đường
Tâm thanh tịnh phải  là nương Đạo mầu
Tâm thanh tịnh không sầu tất cả
Nơi đâu đâu chấp ngà không cần
Chỉ tâm là một thể nhân
Là Phần nhân chứng cho phầnn tịnh thanh.
Chữ thanh tịnh d ạy cần phải học
Nơi nào đâu cũng đọc, cũng nghe
Nơi nào cũng tịnh dặt – dè
Đó tâm thanh tịnh mới che bề ngoài
Che bề ngoài tâm rầy chưa tịnh
Đến non cao để tính tu hành
Tới khi gặp cọp tâm sanh
Nghĩ điều trần-hạ đã đành con ơi!
Cọp thỏi sáo giọng thời trầm bỗng
Tâm con sanh tức động rồi con
Làm sao tu ở nhà thoàn
Tu chùa cũng chẳng được toàn đâu con!
Tu càng cốc không tròn hơn nữa
Mà tu tâm mới sửa được tâm
Con ơi! Lời đó không lầm
Lý này Cha giảng âm-thần con minh
Sao Cha gọi con nhìn kìa cọp
Sợ hay không đổi lớp trần gian
Con rằng lời nói rất ngoan
Sợ rằng lời nói dịu dàng  Cha ôi!
Con trả lời Cha rồi việc đó
Con biết rồi không khó đâu con?
Trần-gian như thế nặng đòn
Ngày sau mới thấy việc tròn luân vơi
Tròn luân với là đời sanh tử
Là Luân-Hồi trong chữ đau thương
Nhân nào quả nấy con đường
Lành thì con hưởng, dữ nhường cho ma
Dữ đó con gọi là ác quỷ
Hay là ma để chỉ con người
Vậy con học Đạo dừng lười
Việc làm cố gắng đừng cười con ơi!
Phận anh lớn phải tròn anh lớn
Phận chị lớn chớ giỡn với Cha
Lớn thì con phải trước Tòa,
Đứng lên thuyết pháp như Cha mới thành
Cha vừa chỉ con hành thì đúng
Con không hành không trứng lời Cha
Thì con mới vội bạch ngoa
Không hành mà trúng, con là thật ngoan
Không hành trúng con toàn nghe rõ
Trúng là vì con có nghỉ rằng
Dạy mà chẳng biết chuẩn thằng
Thì là không trúngn bản – năng Cha truyền
Hay! Hay thay! Cha hiền dạy tiếp
Con giỏi thay Cha hiệp là hai
Bên âm, dương để phân rày
Nhược dương thì chắc có rày thanh âm
Con đến đây âm-thầm học Đạo
Hay việc trần khảo đảo con buồn
Dư giờ con đến học tuồng
Mãn giờ  con trở lạo buồn gia trung
Dư giờ học con dùng lý-Đạo
Rãnh thì  tu bận tạo chưa minh
Chưa tu, chưa được cho mình
Ở nhà chồng vợ vẹn tình còn hơn
Con có biết tiếng đờn Diêu – Điện
Thiệt thâm trầm một chuyến nầy thôi,
Tình tiền danh nghiệp con ơi
Tấc hơi con giữ được rồi hay không?
Cha dạy đó hết lòng, hết dạ
Mà các con chấp ngã thế nầy
Ông già nói chuyện dằn dai,
Trước sau, sau trước đó đây luận bàn
Già tuổi  đạo mới càng theo ý
Già tuổi đời mới quí nghe con!
Ngày xưa cha bận nước non
Ngày nay Cha bận vì con vô cùng
Bận hậu-tấn, bận dùng chơn lý,
Bận dùng roi, bận nghĩ vàng thoi,
Bận đưa, bận rước, bận đòi,
Bận con, bận cháu bận rồi trần gian.
Vàng thoi đó con toàn ăn cắp,
Cắp vô-vi tưởng cắp trần gian.
Vô-vi vẫn có bạc vàng,
Mà con ăn cắp rõ ràng thấy không?
Vô-vi cho con hòng giàu có
Con vội rằng mắc-mỏ vô-vi,
Ngày sau khi thác thế thì,
Vô-vi mới hỏi vàng đi theo mình.
Cha cho con hiển vinh vàng bạc
Vậy tạo gì hay mạt Thiên-Cung,
Mạt đây chẳng có đất dùng
Đất Thiên-Cung đó tích tùng kim cương.
Kim cương chỉ lót đường trải sảnh
Nào đâu là lóng-lánh huy hoàng
Chớ đâu phải sỏi trần gian,
Mà không sắc chiếu vẹn toàn con ơi!
Trước thềm ngọc cao vời KIM-MẪU
Mẹ đứng lên tay phủ Đạo bào,
Cực-Đồ ánh tỏa Kim trào,
Tiễn đưa THƯỢNG ĐẾ ngự trào Ngọc-Kinh
Rồng uốn lượng cửu linh qui tựu
Nhạc tấu Thiên cao ngữ đài mây,
Mẹ hiền bước xuống chân Thầy
Tạ từ thọ chúc hội nầy hòa duyên
Nghĩa THẦY, MẸ Thiêng-Liêng cao thượng,
Không nghĩa  đời vấp vướng trần gian
Nghĩa tình, Nghĩa nghiệp MẸ ban
Vợ chồng, chồng vợ thế gian con à!
Cha hết sức gọi là thắm-thiết,
Bởi thương con mới viết từ vần
Dầu rằng khó khổ cực thân
Con ơi! Muốn được đức ân vẹn toàn
Nhắc tới lui con đàn đầu cả
Lớn làm anh em ngã phải nâng
Chị thì làm lớn phải cần
Hai tay đều vớt cho thân được nhờ.
Một bàn tay nảy giờ Cha giảng,
Con học chưa, con ráng hành chưa ?
Nếu không Cha hỏi con thừa,
Đừng mê trong giấc ngủ trưa kéo dài.
Cha chỉ đêm nói ngày có được
Được không con hay phước không con?
Chỉ đêm thì nói đêm tròn,
Chỉ ngày thì nói ngày tròn con ơi!
Theo giờ giấc của đời ấn định,
Từ nếp khuôn quyền bĩnh cha giao,
Nếu không con nghĩ lẽ nào?
Cha còn giáng điễm trước sau phân trần
Cha dạy văn nhiều vần ráng ghép
Nhiều trật văn tại hẹp lời truyền
Cho con chỉnh rõ văn nguyên
Để thành linh động cho quyền tối siêu
Con được thưởng ít nhiều trần hạ,
Đừng vơi lòng cặn bã con ơi!
Bao nhiêu sống ở trên đời,
Cũng không bằng sống ở Trời nghe con!
Cõi Kim-Liên nhiều son nhiều phấn,
Nhiều san hô nhiều hấn nhiều vàng,
Cũng nhiều đạo sắc hào quang
Cũng nhiều báu quí rõ-ràng kim cương.
Cha phân tách con đường giải thoát
Con phá xiềng con đạt  đường mê,
Con mê thì chẳng đi về
Giác ngàn muốn đến tưu-tề Linh-Tiêu.
Con hầu  đàn thiu thiu giấc điệp,
Đêm khuya rồi Cha tiếp dạy thêm,
Hằng ngày, hằng khác, hằng đêm
Cha thường nhìn thấy dưới thềm con xin,
Con xin được cho mình sức khỏe,
Con xin rằng mình lẹ hiểu thông
Con xin con được Thanh-Đồng
Được rồi con bỏ quả công cấp thời,
Con dầu có tuân lời thế mấy
Xác thân này là quấy đó con!
Đâu nào tại trẻ, tại con
Tại thân, tại nghiệp, tại  đòn nhiều hơn
Xác nhân  muốn con hờn vô kể
Nhưng linh hồn kềm chế được đâu?
Còn sanh, tứ đại còn sầu
Mấy ai đắc được nháp mầu con ơi!
Vậy  đàn nầy tức thời sao điễn,
Đến ngày mai một chuyến con bình
Nhớ rằng không phải thông minh
Nhớ rằng tất cả lý-Huỳnh bình theo
Ngồi lẳng-lặng Cha gieo nên ý
Khi động tâm Cha chỉ có liền
Để con biết Đạo Thiêng-Liêng
Đừng hay nóng tánh gợi phiền con ơi!
Nhắc tích xưa  ai thời trung-liệt
Dầu Trương-Phi khí tiết ngang trời,
Không làm quân tử con ơi!
Chỉ còn khí tiết của người mà thôi.
Cha dạy đó lằn vôi ghi mức,
Học tới đây là sức của con
Trèo leo lên tới núi non
Thì không thể học cho tròn lý siêu
Vậy Bửu-Liên ít nhiều thấm hiểu
Cũng vui mừng Địa biểu con Ông,
Hiến thân hay chẳng tùy lòng
Địa không ép buộc tại Ông, tại Bà.
Nếu hiến thân Địa là dạy Đạo
Dạy việc đời, dạy bảo trước sau,
Dạy từ chỗ thấp lên cao,
Dạy qua dạy lại điều nào không minh.
Ngài cứ nói vô tình Địa lắm
Dạy con mà chẳng thấm lòng ta
Thì đừng có dạy nên mà
Để con hư hỏng bước ra lập đời
Dạy ráo tiếng Ông thời thử dạy
Nhín một giờ Ông dạy cho con
Con Ông, Ông dạy việc tròn
Rồi con bóp méo Ông  còn méo theo.
Ông tưởng rằng con treo ý tốt,
Vội chìu theo lửa đốt đồng sao?
Bấy nhiêu Ông giỏi dạy nào.
Dạy đi cho trẻ biết cao, biết người.
Không chịu để một thời giờ rảnh
Dạy cho con ấm lạnh trần gian;
Ngày thì hai buổi sở quan,
Đêm thì cầu nguyện cho an gia-đình
Đến khi ho chuyện mình mình giữ,
Đến khi đau hỏi thủ ngon không?
Hay là ăn uống cho đồng
Mới ngong miếng bí, mới thông miếng trà
(.............................phần điểm danh.................)
Con công lớn ngậm ngùi than trách,
Công nhỏ thì lại thách hơn con,
Tưởng rằng ta được vẹn toàn,
Nên công chưa nửa con toan hơn người.
Vậy con nào biếng lười học Đạo,
Đưa tay lên Cha bảo dạy thêm,
Ngày ngày phận cạn lý đêm
Dụng ngày mà  dụng lý đêm rõ-ràng.
Thôi vắn tắt giã toàn Hội-Thánh
Cùng các con ấm lạnh đừng buồn,
Đạo trời con rõ tiếng chuông
Hồi đầu thức tỉnh đừng buồn nghe con!
Ngày Đại Yến không mòn sức khỏe
Kìa nước Tiên mau lẹ uống vào,
Các con đừng có nghĩ nào,
Đó là nước lạnh Cha trao ích gì?
Đó nước Tiên Cha thì cho trẻ,
Đó Đào Tiên Cha vẽ cho con
Uống đi thì được thêm tròn,
Uống vào thì mát nghe con trần hoàn
Giã tất cả đãi đàn lui gót
Có bánh chưng, bánh ngọt, bánh dày
Chuối, chè, trà  rượu đủ đầy
Đó là phần lễ hội này mà thôi.
Cha đâu dùng trần đời con cúng
Mỗi việc gì đều túng gọi Cha
Về ăn chuối đó đi Cha
Đề Cha tha tội con là trần gian
Con cúng lễ rượu ngoan rượu kĩnh
Con cùng THẦY rượu thỉnh hơi nồng
Thôi Cha dạy Đạo giáp vòng,
Kiếu từ tất cả Điện rồng qui thăng
 THĂNG

PĐ. Vô-vi (HTĐĐ)
TĐ. Bửu-Sơn Pháp  Chủ
CĐ. Quyền Hộ-Pháp
HĐ.Tăng, Ni-Trưởng
Thiên-Tinh, Bửu-Vị
ĐK: Máy ghi-âm
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
(Đệ thập-tam chu niên Kỷ-nguyên Huỳnh-Đạo)
BỬU-TÒA DI –LẠC TRUNG-ƯƠNG
SIÊU NHIÊN
ĐÀI THƯỢNG
Hợi thời, 9/1 Giáp Dần (31/1/1974)

THI
Vương cánh hào quang chiếu địa-cầu
Nương mây lướt gió hiện thần châu,
Siêu-Thiên Đài-Thượng truyền linh báu
BẠCH-HẠC thừa vâng hóa ứng chầu
Bạch-Hạc Đồng-Tử , Tiểu-Thánh chào mừng chung Thiên-Phong nam,nữ hiện tiền, Giờ thiêng, Tiểu –Thánh báo tin Tam-Giáo lâm phàm, Đại Tôn-sự ngự thế. Vậy nam nữ Thiên-Phong Trưởng ấu đồng tịnh tâm, ngưỡng thành siêu hóa hầu càm ứng linh- hư , để cho chơn điển đại-từ truyền-quang nhập bút
Nhập bút siêu quang báo tiệp hồng
Hoàng-đồ Thiên Địa điểm thâm công
Nhược bằng trọn kiếp tu thinh phúc
Muôn thuở Tiên-thiên ngự chín rồng
oOo
Rồng chầu phượng rước đấng hiền-lương
Nam nữ cùng chung một lối đường
Trễ mãi tam-công e khó gặp
Muôn đời đọa lạc cảnh đau thương.
oOo
Thương đau thế tục mãi xoay vần
Liên tiếp muôn đời khổ xác thân
Đừng tưởng ngày nay không nghiệp quả
Ngày mai thanh thảng đác chân nhân
oOo
Chân nhân muốn đắc phải trì tâm
Suốt kiếp bền gan chẳng lạc lầm
Một phút chẳng tròn tinh với tấn
Đường Tiên, Thánh, Phật rất xa xăm!
oOo
Nhân dịp  xuân về chúc nữ nam
Ơn lành Thượng-Tổ phóng kim quang,
Giải trừ nạn ách  chung nhân-loại
Bạch-Hạt truyền tin đáo đại-đàn
Triều nghinh..........
NGƯƠN kỳ tên ........... tâm minh
       THỦY đáo đàn trung điểm Đạo Huỳnh
 THIÊN địa luânlưu châu phục hiện
                                                     TÔN hành nhập diệu độ Kim-tinh
       GIÁNG đàn Xuân đến ban hồng phước
                                                     NGỰ bút Tân Niên phải hóa trình
   SIÊU lý Trung-ương hòa Thánh-Đức
THIÊN đài giải thoát vạn sanh-linh
Thiên-Tôn mừng chung, ban ân chung nam nữ Xuân lai... Miễn lễ tõa thiền đồng thính !
Nhân Xuân quang kính truyền bút siêu linh, thọ ký Đạo Huỳnh chư nguyên-linh kĩnh tin diệu pháp. Nầy Thiên-phong nam nữ ! Giờ thiêng chiếu ứng, lành thay! Lành thay! Cơ đời dồn dập, Trời Đất chuyển xây, lòng tin tưởng nơi nầy nên trên thầy ứng hóa.
Trước nên suy điều cội cả nguyên-lý là người, rối cố gắng càng sửa hạnh đức thêm tươi để trở về với nguyên bổn
Nầy chư nguyên-linh! Tịnh tâm, tọa thính mở trí-tuệ siêu nhiên để nghe lời khuyên của Thiên-Tôn phán dạy .“Nhứt bổn tán vạn thù, vạn thù qui nhứt bổn” nghĩa là một gốc chia ra vạn cành, vạn cành nương về với bổn gốc. Đừng dùng trí phàm xét nét, mất đi Thiên-Lý siêu linh. Nếu tất cả nguyên-nhân từ Thiên –Đình vốn của Thượng-Đế ban ra, nay trở về với Thượng-đế, đó là “ vạn thù qui nhứt bổn” hữu lý thay! Hữu lý thay!.. như cây kia có trái, kết quả đủ đầy nhưng, nếu trái kia không tròn phân, chẳng có hột hoàn toàn thì làm sao trở về với bổn gốc? Trái không thành trái, bông nọ chẳng đơm bông, thì không thể nào trở về như nguyên thể được “ Vạn thù qui nhứt bổn”có nghĩa là mỗi linh-tử của mỗi nguyên-nhân đều do Thượng-Đế mà có, có là có kết trái trổ bông, chớ không phải có trở làm nên cây như trước, nên nhớ: khi ra đi là hột, nay trở về vốn thiệt là cây, đó mói gọi là vạn thù qui nhứt bổn” đừng tưởng rằng ngôi vị ngàn xưa là Tinh-Quân, là Thiên-Tướng ngày nay lâm phàm trở về ngôi vị cũ của mình mà lạc lầm thay! Lạc lầm thay!
Từ thuở sơ khai chỉ một người, một gia đình mới có xã hội, mới có quốc gia; từ một mới chia ra thành nhiều thì chính Thượng-Đế, Diêu Trì ban cho tất cả muôn loài vạn-vật từ khối Vô-cực đến Thái-cực biến dịch thiên thiên hóa hóa... Nơi Trần-gian, điều biến dịch đó muốn huy hoàng thì cũng phải như sơ khai trước vậy. Mỗi nguyên-nhân là mỗi vị xưa căn cũ – Vị xưa căn cũ chỉ là căn xưa vị cũ mà thôi, chớ không phải trở về có vị cũ yên ngồi mà hiện giờ đây, cũng như xưa là một, khác thay ! Khác thay !... Xưa là hột giống, nay phải trở lại thành cây; cây kia có hoa, có lá, kết trái sẵn sàng thì cây nầy vẫn giống như cây xưa mới gọi cây. Cũng như các nguyên-nhân gieo giống vậy, nếu nay là loại hoa mượn hột hoa quỳnh, thì nếu hột hoa quỳnh không được đâm chồi nảy lộc, trổ hoa thì đó không phải là hoa quỳnh. Nếu hột hoa quỳnh kia có lá, có hoa đầy đủ nhân thế nhìn vào; cây trước cũng hoa quỳnh hột sau cũng vẫn cây hoa quỳnh là một. Đó mới gọi là “ vạn thù qui nhứt bổn” Đừng tường rằng ngày hôm nay linh-tử lâm phàm vốn của Thường-Đế rồi trước sau cũng trở vế với Thượng-Đế mà quên tam-công  rèn tâm, tạo trí để trở vế với con đường khi trước – đó là hột giống ngày nay như cây ngày trước vậy. Nên nhớ lời của Thiên-Tôn-Ngươn-Thủy ban ra ! cũng như đây, có hằng-hà sa – số linh- tử của Ngươn-Thủy lâm phảm nhưng cũng hàng-hà sa-số không có bao giờ như trước, nghĩa là không bao giờ trở lại như cây xưa !... Lời này, thử hỏi trong Thiên-phong nam nữ có hiểu thấu được chân lý của Thiên-Tôn cũng chăng ? Thiên-Tôn e rằng chỉ đôi người là hiểu thấu, còn bao nhiêu vẫn mịt mịt mờ mờ ...!
Tam- công có nghĩa là rèn đúc công phu, công quả, công trình để cho hột giống xưa được nẩy mầm trổ lá, có hoa, kết trái như cây xưa  thế đó mới gọi là Vạn thù qui nhứt, mới gọi là giống với tiền kiếp ngàn xưa mới gọi là ngôi vị cũ. Nếu ngày nay hột nọ không được giữ gìn, chẳng có tam công, không có người vun phân tưới nước thì hột nọ chẳng có thành cây, không đơm bông kết quả, thì ai biết đó là cây xưa, vị cũ?
Ngày nay tu hành theo phước duyên của Tam –giáo ban ra, Thượng-tổ hồng ân truyền xuống chỉ cho con đường ngắn nhứt để về với giải thoát ngàn đời. Trong một trăm lẻ tám (108) con  đường về với ngôi xưa vị cũ, về với Bạch- Ngọc Hư-Cung chỉ ba con đường nhẹ nhàng nhứt cho nguyên nhân là: công phu, công quả, công trình. Ngàn xưa không phải chỉ có công phu, công quả, công trình mà đắc được, ngàn xưa phải có sự hy sinh nhưng, ngày nay tất cả nguyên-nhân không thể hy- sinh được, cùng với bí-pháp cao thâm, cùng với công quả tiêu trầm hầu giải thoát về ngôi xưa vị cũ. Đó là ba con đường trong một trăm lẻ tám đường giải thoát mà Thượng-Tổ chiết ra để cho nguyên-nhân thọ nhận hoặc hy-sinh, hoặc công-phu, hoặc luyện pháp, hoặc công quả để trở về với ngôi xưa vị cũ. Nhưng nên nhớ: không thể tách rời ba phần đó được. Ba phần đó tuy phân ra để cho tất cả nguyên-nhân hiểu mà hành theo, nhưng ba đó là một cũng như năm ngón tay chung một cườm tay vậy, nên nhớ !
Diệu lý siêu quang điểm Đạo mầu,
Xuân về hạnh hưởng lý huyền sâu.
Đạt thành chơn quả ngàn muôn kiếp,
Thoát khỏi đau thương chốn địa-cầu.

Địa-cầu thử hỏi được bao nhiêu,
Nguyên-vị đồng về chốn Cửu-Tiêu ?
Hay phải sa trầm muôn vạn kiếp.
Đợi chờ tôn tử độ hồn siêu.


Siêu thoát tự mình chọn tứ công,
Tam truyền đắc thọ lộ nhơn ông
Tự mình giải thoát cho thân thể
Đừng để đời sau nguyện thiết lòng
Vậy có Thông-Thiên lâm bút, Thiên-Tôn mừng chúc Chức-sắc nữ nam Tân Xuân trưởng ấu hồng phước giải truyền, đạt lý cao nhiên qui nguyên bổn giác
Triều nghinh ...
GIÁO truyền Triệt-Giáo chính là ta!
CHỦ hiện hồng ân hiệp tứ gia,
THÔNG lý siêu nhiên hòa thượng hạ,
THIÊN điều bất nghị thị kim sa.
GIÁNG đàn, khuyến thế tu cho kíp,
NGỰ bút hỏi người có nghĩ xa;
SIÊU hóa tâm hư linh thể hiển,
THIÊN đài ứng điển tựu Long-Hoa
Thông-Thiên Giáo-Chủ thừa bút trợ duyên, phò lịnh cao nhiên, giáng trần truyền dạy, Miễn lễ, miễn lễ ... nghe Thông-Thiên bàn điều trái phải. Nếu lời nào đúng nên nhớ vào tâm, chớ có nghe lầm sa vào vòng thảm đọa!
Nầy Thiên-phong nam nữ, tuy giữ chữ tam công dầu Ngươn-Thủy dặn lòng nhớ lời Thông-Thiên dạy bảo:
Xưa, cơ trời đã phân ra biết bao nhiêu nhưng cũng rốt ráo chánh tà, Xiên triệt, chơn ngụy, âm dương, hai con đường đó cũng hợp nhứt về ngôi Thái-Cực. Dầu có tội cũng con của Thượng-Đế, có công cũng tôn tử của Diêu-Trì. Người đi trước dìu dẫn người-sau, tiếng của thông Thiên tuy gốc ở Tàu nhưng huyền-Linh siêu nhiêu trùm Tam-Thiên đại Thiên Thế-giới vậy, Nếu thông thiên còn ngự ở trong tâm trí thì còn sánh hóa biến dịch, nơi nào có không khí tất nhiên có Tam–Giáo cũng như có Thông-Thiên, đó là lý vi-huyền của không-gian và vũ-trụ, nên nhớ!
Lý “ Vạn thù qui nhứt bổn”, “nhứt bổn tán vạn thù” của Ngươn-Thủy tuy đầy đủ nhưng còn thiếu kém lẽ siêu-vi. Nên nhớ : dầu chánh tà, chơn nguy cũng do Thượng-Đế mà ra, dầu con một nhà nữ nam cũng cha lãnh trách nhiệm, Xiển, Triệt, âm , dương ; cao thấp; thiện ác cũng do cha mẹ điều động trách nhiệm gia-đình, thì nay trước Hư-Cung Thượng-Đế vì trách nhiệm là Cha, Diêu-Trì là mẹ nên nhiều năm tá dành Cao-Đài khuyên con trở về với nguyên bản, nhiều năm Diêu-Trì truyền bút khổ cực xuống lên với quả địa-cầu sáu-tám nầy, biết bao nhiêu Thần tiên Thánh phật! Người đi trườc đàn anh, Mẹ Diêu-Trì đấng từ-lành mượn lời khuyên nhủ các bậc lâm trần dìu dẫn người sau, độ cho cùng, dắt cho tận cũng như A-Di-Đà-Phật huyền vận trong vạn hữu sinh-linh, nay trước luật Thiên-Đình tất cả ba kỳ cộng lại, tam kỳ hiệp nhứt đó là lẽ tuần-hoàn không nơi chối cãi, đó là đại-hội Long-hoa, đó là luật của ta bà thành, trụ, hoại không
Nên nhớ! Tuy là Linh-tử của Thượng-đế mặc lòng, nếu nay rèn tam-công thì sớm về với Thượng-Đế mà linh tử hiện tiền vì bởi tiền duyên, cho nên giáo ngộ được lời khuyên trở về sớm thì được sớm nhàn, trở về sau thì cũng tới sau. Đừng tưởng rằng tất cả con cái của Thượng –Đế đều bị hủy diệt như nhau, mà quên rằng lòng từ-bi của Diêu-Trì sanh hòa. Người đi trước thì đến trước người đi sau vẫn đến sau. Lẽ tiêu diệt của Long-Hoa có nghĩ là thấp cao phân rành hai giới, siêu đọa phân rõ đôi đường chớ không phải  tiêu diệt thảm thương như lý phàm thường tưởng. Nếu người kia còn mê-muội, tối tăm đọa đày một mai kia trong ngàn ngày, trong kiếp sau hoặc trăm kiếp nữa giác ngộ cũng vẫn thành Bồ-Tát Như-Lai vậy. Nhưng trăm kiếp đó vẫn còn quanh quanh trong địa-cầu sáu –tám nghĩa là vẫn còn đày đọa, vẫn đớn đau, vẫn là linh vật đại hữu-tình nơi thế tục biến biến sinh sinh luân – hồi tăng trưởng, như thế có nghĩa là vì nhiều kiếp đau thương, vì cảm thông nơi từ tâm đạt lý của Đức Diêu-Trì không muốn cho các con thơ chịu nhiều cay đắng. Cũng như người cha mẹ nơi gia-đình, muốn con sớm rút ngắn đường luân lạc đau thương để trở về sum họp với Cha lành, với mẹ nên gởi từ bức tâm thơ, nên nhắn từ người, ra lời trìu mến, nhưng nếu để thời gian  qua, thời- gian qua đứa con kia cuối cùng cũng trở lại nhưng không biết ngày nào ? Nay là lời của Diêu-Trì, từ-bi của Thượng-Tổ, nếu xét lý hổ qui nhứt trở về bổn-thể, hỡi vạn thù !
Phân rành thanh trược, lý tiêu diệt nơi nhân-gian, tất cả các linh-tử cũng biết rằng thân-xác này chỉ có trăm năm ba vạn sáu, dầu đời chưa tận nhưng người đã tàn theo tuổi thọ của sinh vật kỳ niêm đĩnh số: thế chưa tàn nhưng chính người đã hoại trước ! Nay biết tu là biết được con đường dầu chưa giải thoát thuần dương nhưng cũng được về nơi cỏi mà thất-tình lục –dục không đọa đày như ở kiếp người đau khổ, hiện tiền vậy. Nên hớ : Dầu không tu cũng vẫn trở về, có tu cũng trở về như người không tu vậy, nhưng có tu về sớm hơn đạt thành vị quả trước hơn; không tu về sau nhưng chưa chắc! Nếu phong ba bão táp, nếu nhiều cảnh trái ngang chưa chắc rằng về như Thiên kỳ định số được vậy. Nên nhớ lời của Thông-Thiên.
Xuân lai Giáo-Chủ Chúc Thiên-Phong
Đạt Đạo huyền –Linh đến đại-đồng,
Một kiếp thoát quá điều ác trược,
Sen vàng chín phẩm tạo nên công.
Triều nghinh...
ĐẠO vàng ứng hóa độ nguyên-nhân,
TỔ đức từ-bi hiện hóa thần,
THÁI lập huỳnh quang nghinh tuệ giác
THƯỢNG thừa ngự tứ ngộ đài vân.
SIÊU linh ngọc vi Kim-Cung thọ,
THIÊN thượng duy tôn lý đại càn.
ĐÀI báu giáng lâm phò đại thế,
NGỰ phàm Xuân Giáp chuyển hồng ân
Thái-Thượng Đạo-Tổ mừng nguyên-nhân nam nữ Thiên-Phong trưởng ấu lưỡng phái đồng tọa thính, miễn lễ, tịnh tâm dùng tuệ –quang nghe lời Đạo-tổ
Nầy nguyên-nhân linh-tử! Dầu lành hay dữ, âm dương, chơn ngụy, chánh tà, sau trước như Thông-Thiên đã truyền dạy đều cũng do Thượng-Đế mà ra, trước sau gì cũng trở lại ngôi nhà người Cha kia quản xuyến. Nhưng các nguyên-nhân thử là người hiểu chuyện, nếu Cha trong một gia đình con cái chẳng nghĩ mình, bỏ ra đời không bao giờ trở lại, con  kia ngang trái Cha nọ đau thương, ngày nay chỉ rõ đường nếu đứa con kia không hồi đầu thì thử hỏi nguyên-nhân tính sao trước câu thâm tình phụ-tử ? Dầu lành hay dữ tuy cũng một Cha nhưng, lành được ở nơi nhà, dữ kia phải chịu phạt trừng do luật-pháp; Cha có thương, Mẹ có mến cũng đành nhắm mắt lệ rơi !.. Nay là luật Trời không thể cải quyền trước thiên-nhiên chánh điều pháp luật, nghĩa là dầu linh-tử của Thượng Đế trong tam kỳ hoằng thế giáo Đạo ngàn phương đều dụng vật-chất hữu-hình  tùy căn số của nguyên-linh, tùy mỗi phương mà hóa truyền trơn-lý Ngoài xác thân, con người còn có tâm ý đó chính là tư tưởng,linh-hồn; linh-hồn kia muốn bảo tồn, muốn trở về do ngọn đuốc của Thượng-Đế ban ra trong Tam-Giáo ngày nay, nếu Tam-Kỳ cộng lập đúng là ngày đại sắp của Thiên công phân rành hai lẽ
-         Một là trở về
-         Hai, là sẽ tách  rời nguyên bản
Chớ không thể trở về trước, trở về sau. Cha già không thể đợi, tuổi đời cũng đi mãi nơi trần thế, cũng như Thiên-luật nơi không gian của Thượng-Đế truyền ban. Nếu về trước được hưởng ngôi vị thanh nhàn, về sau phải ở nhà sau; nhà sau không phải là nhà trước; cảnh cũ cũng chẳng phải là cảnh ngày nay, nên nhớ nhiều thảm trạng đọa đày cho quả địa-cầu sáu-mươi-tám; quả địa-cầu sáu-mươi-bảy không còn là vật hữu tình trong ngũ-châu tứ-hải, mà linh-tuệ huyền-nhiên trong tất cả đều chi ứng hiện nhản tiền do tư-tưởng, quang minh tuệ-giác, do người luyện Đạo ngày nay đạt thành Chánh-đẳng; không còn trong cảnh mờ-mịt u-mê trong tam-đồ đọa khổ nữa, thì kẻ về sau vẫn muôn đời đến sau không bao giờ theo kịp trước được vậy, nên nhớ! Đi trước một bước, đi sau một bước, nếu lỡ nhịp bước trước thì nhịp bước sau vẫn ở ngàn sau; ngàn sau không phải là ngàn trước, ngàn trườc chưa phải đợi ngàn sau, nên nhớ! Luật Thiên-điều chí công thượng phạt: lành còn, dữ mất. –Thưởng vô cùng, - phạt tận diệt. Chính là Đại-Hội Long-Hoa quản truyền tam-Giáo. Lý của Thông-Thiên tuy kịp đáo nhưng nhớ chẳng phải ứng dụng đối với nguyên-nhân
Điều tối cần là công phu, công quả, công trình, xét lý hy-sinh trọn vẹn, đến trước một bước là giải thoát bước trước; người đến sau giải thoát sau nhưng, người sau cùng chỉ là sau chớ không phải bằng người trước được, nên nhớ! Nên nhớ!
Giải thoát ngày nay ứng bộ triều
Muôn đời toại hưởng chốn linh-tiêu
Đừng chờ cơ vận trời xoay chuyển
Uổng kiếp ngàn năm chịu thấm nhiều

Nhiều cảnh luân-hồi tán bụi mây
Nguyên-nhân Thiên-luật phải nhìn đây!
Vạn đời thưởng phạt còn trong đó
Muôn kiếp trong tay chính của thầy
Tân niên giáp vận Thiên Khai, chúc Thiên-Phong siêu-Thiên-Đài trí huệ, phước duyên, tam-công đãi ngộ. Long-Hoa ứng trỗ, minh tuyền Đại-đồng, chánh triệu sắc phong, Kim-đài đắc vị
Hồng chung khải tấu Thượng-Tổ lâm trần. Triều nghinh ...
Thầy mừng cung các con !
HỒNG điệp như như chiếu đủ đầy
QUÂN vương sắc tứ hạ đài mây
THƯỢNG thừa tam giới ta là chủ
TỔ thông trần-gian nghĩa gọi Thầy.
GIÁNG bút thâm canh ban diệu pháp
ĐIỂM đàn chơn lý điển vầy xây
SIÊU thừa nam nữ con ghi nhớ!
THIÊN lý tu tâm luyện pháp này

Thầy miễn lễ chung Tam-Giáo cùng các con đồng tọa thính.

Tân Xuân giai hạ chiếu hồng ân
Quang bút truyền thơ giáng cỏi trần,
Nhược thức linh-đài hòa thượng hạ
Vạn niên giải thoát đắc chân-nhân

Nhân tạo từ tâm kiến Nhà-thuyền
Ơn lành thấy xuống diễn huyền-nhiên
Các con đừng tưởng theo phàm tục
Thầy chính chơn linh ứng hóa quyền

Quyền của Tam-Thiên thống vạn loài
Đời đời, kiếp kiếp bố hồng oai
Trên là Tam-Giáo quyền kinh xử
Dưới thế Tam-Thiên định vạn loài

Muôn loài vạn vật ở tay Thầy
Sanh tử huyền nhiên cũng tại đây!
Lớn thể Tam-Thiên vô giới hạn
Nhỏ thì tế-tế diệu sa mây

Sa mây vi tế hiện thần thông
Lớn tại do con ở tấm lòng
Giác ngộ muôn đời thành Phật Thánh
Mê tân phải chịu đọa long-đong

Long-đong số kiếp ở trần gian
Ngán ngẫm nhân-sanh bất cập hoàn
Mượn trí phàm phu xây Bát-nhã
Dòng đời đưa đẩy nhớ than van

Than van tứ-đại khổ trăm năm
Con nhớ đường tu chẳng lạc lầm
Tin tưởng riêng con thầy có một
Nầy các con ! Thầy-giáng ngự Tân Niên khai bút Đại-Lễ Triều-Thiên
Ngày nay các con nên nhớ: Chính là giớ phút giao chuyển âm dương của Thiên-nhiên Đông-Phương định số, của các bực thần tiên Thánh Phật theo lý huyền-nhiên toán thành Thiên Địa “ sở cữu, sơ thập Thượng-Ngươn nhứt ngoạt Thiên Địa Đồng giao” cho nên thế nhân tương truyền” Vía trời, vía đất” có nghĩa âm dương giao chuyển vào mỗi mùa xuân vào ngày chín, mười của tháng Giêng mỗi niên Xuân Ngoạt
Các con nên nhớ :Thầy chẳng phải là một thường nhân với thâm mình Tam-thế, Thầy không phải là như con thường kể lễ, vẽ vời được hình hài mà Thầy vốn là linh oai nhập thức. Chính nơi lòng con, chính nơi vạn vật hữu tình, chính trong Vô-tri hữu giác, chính trong muôn loài đều có thầy. Nếu các con nơi đây, Trung-ương là Việt-Quốc nồi giống Lạc-Long thầy dùng tiếng Việt của Tiên Rồng để ban con điều giải thoát. Nếu Đông phương kia mỗi nước đều mỗi ngôn ngữ khác nhau, Thầy đều nhập diệu vào để chỉ cho mỗi con người thất rõ: Ngoài thân xác hữu-vi, Ngoài tứ-đại hữu tình còn có sự cao linh nhập vào hư không tối diệu. Đó, chính là trở về nguyên bản với Thầy.
Nay các con là hạt giống, Thầy dạy cách tưới phân, Thầy dạy cách tảo tần để lo cho cây sớm nẫy mầm, trổ lá, kết trái, đơm bông để các co chính thiệt là cây xưa; cũng như ngày nay lòng của các con hướng về Đạo nhưng chưa phải là chơn Đạo. Thầy ban phép huyền-nhiên cho các con từ Di-Đà bí-Chỉ , mật-pháp Tam-Thiên các con nên nhớ là thầy dùng quyền  để cho các con thấu thất-tình lục-dục, để các con tịnh yên trong giây phút nghe được lời  nói thâm sâu, trầm lặng của Linh-hồn. Nếu các con nghe được lời nói siêu thâm đó trong tứ-đại, trong vạn vật hữu tình, nghĩa là các con nghe được tiếng nói của Càn khôn. Nay con là vật hiện sinh thì các con phải chịu trong hữu tình nhưng, hữu tình đó khi các con nghe được trong bí-pháp siêu nhiên, đó là những phương tiện dùng quyền để đưa các con về với cỏi miên miên trường trường vô sanh, vô diệt. Nơi đó, các con không cần phải biết nhưng biết rõ mọi điều: nơi đó các con không cần phải dùng trí xét suy nhưng các con đã rõ mọi việc
Nay, thầy dùng chơn quyết truyền bí-pháp tam-thiên, nhân ngày đầu xuân truyền cho Kim-tốn  Thiên-Án, “ Huyền-công-mật-quyết nhiệp thọ tham thiền” con nhớ! Đây là đoạn huyền-công mật-quyết nhiếp thọ tham thiền nghĩa là trong những giờ xuất du của con, nay thầy đã thấy con được một phần tăng tiến xuất vía nhưng chưa trọn hồn, phách còn vương lòng còn bận cho nên, Thầy truyền cho thể cách tham thiền. Có nghĩa là từ đây sau khi tịnh yên, sau khi con xuất du, nghĩa là những giờ hồn nhập thể con vẫn ngồi yên, để nghe tiếng thầy từ hư không truyền xuống. Lần đầu tiên con phải  dùng “ Truyền quang như ý” để tại Linh-Đài, đồng thời “ dùng Tam-Đài quy thống” hiệp nhứt nơi Côn-Lôn; nơi đó con nghe thấy tiếng thầy từ trên hư-không truyền xuống, con nghe trong yên lặng sâu xa, trong thâm kín của bao la, chính đó là chơn-huyền của Thầy ban xuống vậy. Nhưng tuyệt đối không bao giờ tiết lộ, nhứt là con nghe lời Tam-Giáo với Thiên-Cơ. Trong những giờ chỉ có Tý thời trọn vẹn mà thôi, nên nhớ!
Xét công quả, thầy thấy các con đều nhiệt thành với Đạo, thầy sẽ đừng nên bận nghĩ chuyện xa xăm
Xa xăm bận nghỉ để mà chi?
Tà, chánh do con chẳng lạ gì!
Chơn nguy, thiệt hư lòng chưởng quyết
Đừng theo phàm trí sẽ tai nguy

Tai nguy tiêu kiếp hạ căn dày
HUỲNH-ĐẠO Thượng thừa giác ngộ khai
Con tưởng tới Thầy, Thầy giáng ngự
Con nghi ma quỉ, quỉ đương lai

Lai ngự lòng con chính thiệt Thầy
Tùy tâm nhơn đức Đạo vần xoay
Tiên nhân ứng trị cơ duyên giác
Bổn thọ từ-bi sớm hiệp vầy

Vầy hiệu do duyên kiếp tạo thành
Con tìm mối Đạo thiệt cao thanh
Mà lòng những ngỡ điều mê trược
Muôn kiếp ngàn năm khó đạt thành

Thành Đạo do con dốc hết lòng
Đừng đem phàm trí nghĩ Tây-Đông
Mang điều ái, ố vào thân xác
Dẫu, phải luân-hồi cũng chẳng xong

Xong nghiệp trần-ai mới toại nguyền,
Đạt thành chánh-quá  thị Thần tiên
Nếu con cho đó là chơn giác
Chính thiệt từ-bi ngộ giác duyên

Duyên giác do con hóa hiện Thầy
Thầy là tâm-thức ngự nơi đây!
Hiệp hòa tất cả trên cùng dưới
Phân rẽ thì ra chẳng phải Thầy.

Thầy xuống huyền-linh ngự bút vàng
Đêm khuya mượn tiếng của trần-gian
Dìu con thoát khỏi đều mê-muội
Diện  kiến Hư-Cung ngự Niết-Bàn

Niết-Bàn chờ đợi các con về
Thức tỉnh, nghĩa là chẳng phải mê
Trọn vẹn niềm tin thành Phật Đạo
Nghi nghi chấp chấp khỏi mong về

Về đến nơi đâu cũng có thầy
Miễn con tròn phận đạo nơi đây
Linh-Hồn diệu diệu quang-như nhập
Bỏ xác triều dưỡng hóa sắc mây
ân truyền diệu mật cho các con mỗi mỗi đều được thọ thêm phần pháp nguyên
Nay Thầy chiếu Thiên-Điều truyền sắc: Nhân ngày Tân Niên Giáp-Dần, THIÊN-ÁN KIM-TÔN con truyền thêm cho mỗi mỗi một Huyền-công mật quyết, cùng Bửu-Liên_Duyên tăng tiến thêm cho mỗi Bửu-Liên. Đó là hồng ân của Thầy ban xuống vậy. Nên nhớ! Huyền-Công mật-Quyết để tiến đến xuất du
Bí-Pháp Tam-Thiên thoát cỏi trần
Xuất du hồn phách tựa đằng vân
Qua nhiều tinh-tú về nguyên bổn
Khỏi cảnh trầm lao chốn cỏi trần

Trần lụy đa mê lắm nghiệp duyên
Nay Thầy chiếu điển hóa huyền nhiên
Ban con từ thuế Xuân lai đáo
Hồng phước Diệu Linh khai điểm truyền
Nầy các con! Tịnh tâm nghe Thầy giảng về chơn-lý
Lễ hóa  sanh, sanh hóa từ ngàn xưa đến nay nếu các con dùng phàm trí xét qua vật chất hồng trần, thì các con chỉ xét với xác thân chớ các con không xét về phần vô-vi tư tưởng. Có nghĩa là Thầy muốn ban cho các con những lời lẻ thông đạt đấn tâm của con, tới những điều mà các con không thể suy bằng phàm chí, giác ngộ với sự giác ngộ không bị buộc ràng trong phong tục tập quán của đời, nghĩa là Đạo. Khi các con còn nói về Đạo, nói về giáo lý các con chỉ hiểu nghĩa thiện từ làm lành, lánh dữ chớ các con chưa biết luyện Đạo, chưa biết luật hy sinh, chưa biết chân lý hữu tình của muôn loài vạn vật
Nầy các con! Đạo diệu nhập vào muôn loài vạn vật. đạo ở trong tất cả hửu thể nhân gian. Nay các con là Đạo-Thể, vì  trần hoàn, vì phong tục, vì tập quán ngàn xưa truyền lại Đạo không phải chánh điển huyền nhiên của Thầy truyền xuống, cho nên mỗi lần ban Thiên-Điễn mỗi lần Thầy sửa ít nhiều. Nếu sửa một con đường thẳng về Linh-Tiêu e rằng các con không thể về vì còn mê tận nơi cảnh thế tục, đa chấp với phàm gian, bởi lòng dục vọng của các con cũng như rong riêu phủ bám! Mỗi lần Thầy truyền ban Thiên-Điễn là gỡ lần những phàm tâm tục ý, gở lần những điều suy nghĩ từ khi mới lọt lòng. Nay thầy truyền cho hai chữ “ CHƠN KHÔNG” để các con hiểu rành nghĩ lý vậy
Chơn không nghĩa là trong tân hư không biến pháp giới nầy không phải không không mà các con nhìn bằng mắt, nghĩ bằng trí. Nơi đó không thể thấy, không thể vật thể nào tới được, gọi là hư-không; hư-không đó có một sức mạnh thiên nhiên để giữ gìn cho vật-chất hưu hình nầy, nghĩa là tất cả tinh-cầu luân chuyển, sức mạnh đó gọi là sức mạnh của huyền-nhiên, nên nhớ!đó chỉ là “hư-không”! Khi sức mạnh huyền nhiên xây chuyển nhịp nhàng cho tất cả Tam-thiên Đại-Thiên thế-giới như thế mọi gọi là “ chơn không”, tạo thành trong hư-không có nhịp nhàng đó mới chính là chơn-không; trong chơn-không có nhịp nhàng đó mới chính là chơn-không; trong chơn-không đó các con mới nhíp thọ được những huyền nhiên của Thầy, những từ điển trường quang diệu hóa trong Tam-Thiên mà Thầy không thể dùng Vật-chất biện minh hay so  sánh hữu hình để con hiểu bằng phàm tâm tục tánh được. Các con bắt nguồn từ lòng tin tuyệt đối bằng sự hiểu biết cao siêu, bắt nguồn từ lòng từ-ái yêu thương, bắt guồn từ thâm sâu của sự suy nghĩa, để cho lẽ sanh tử của cuộc đời đi qua ... Các con giác ngộ trong điều nguy nan, hiểu  rõ tận cùng trong đau khổ, chìm sâu trong con người tục lụy, hiểu rành nghĩa con người sanh ra trên đời không nghĩa là để vui hưởng cuộc đời trong ba vạn sáu ngàn ngày, mà chính vì trong gai, cam go thử thách để các con học hỏi, tìm trong đó những chân-lý cao siêu, đó gọi là Chân là Lý! tìm thấy nghĩa con người gần với thần tiên Thánh Phật, Tận nghĩa của đau thương , cuối cùng của nguy khổ, các con mới thấy nghĩa của con người khi con trọn vẹn của con người không sa vào hành động trái với nhân-đạo, luân –thường nghĩa là các con vẫn giữ mực con người chịu đứng với kiếp người sống cùng vạn vật; trong đó các con sẽ nghe được trong thâm sâu huyền diệu lời nói của thầy, điều khuất trái của nhân gian các con sẽ siêu hóa tinh thần cao thượng đó tiếng nói trầm lặng huyền vi, chỉ xuất phát nơi lòng con thầm nghiêm kín công tận cùng của sự khổ đau hay yên lặng, mới nghe thấy được điều huyền diệu, ánh sáng của Thầy không bao giờ chiếu rọi trong lúc lòng con hỗn loạn, tâm của con bị dày vò mà chỉ khi nào lòng của con yên lặng, trí của con lắng xuống trong tất cả tận củng của sự hiễu biết con người, Thầy mới truyền cho chơn quan huyền- điễn, Giống như đường Đạo, một trong những con đường các con về với Bạch-Ngọc Hư-Cung là luyện pháp, Thầy chọn ban cho bí-pháp Tam-Thiêm hay là Di-Đà Bí-chỉ là con đường nhàn nhã dễ dàng nhứt trên con đường giải thoát. Nếu các con tu cơ hạnh, cơ Phước các con phải chịu luật hy-sinh,các con phải chịu thọ linh như thế trong Kỳ-ba nầy không hợp cùng nhân duyên của các nhân-nguyên tại thế vậy
Thầy chỉ ứng hóa trong lòng con khi nào con trọn tận tưởng niệm khi nào phàm trí của con không xen vào tâm tưởng, sự trong suốt linh-hồn của con sẽ thấy rõ ánh sáng cùa Thầy ban xuống vậy, điều ưu-tư lo-nghĩ buộc ràng đau khổ chính các con không phải đến nên hay  rứt bỏ ra ngoài mà các con phải yên lặng, vì với con không phải là sự đau khổ con chính là sự yên lặng vô diệt vô sanh, con trở về với con thì sự đau khổ không còn đến với con, sự lo âu nào phải của con mà chính con chịu tập nó vào để đục khoét tâm linh của con, chính con tạo cho con, chính con đem vô cho con những nỗi  đau thường ràng buộc con không thoát ra ngoài: cũng như con lăn vào bùn mà mong thoát khỏi bùn nhơ, con dùng dây trói mà mong thoát khỏi buộc ràng thì muôn đời cũng còn thì đó vậy! Con phải lặng yên đứng nhìn, nghĩa là con nghìn thân con múa may trước sự vật, con nhìn lòng con đang lo âu.................con nhìn lại chính thiệt đó là con tự lúc đó con mới thấy được Thầy , Thầy mới ngự nơi con, nếu con chấp chường lo-âu, buồn khổ, cao hạ, nghèo giàu, chơn ngụy; con phải tách rời những đều đó con mới đạt  được chân giác của Thầy, mới nghe được tiếng nói hư-linh mà Thầy muốn truyền cho các con trong Đạo Huỳnh siêu-lý vậy
Thất-tình lục-dục khổ sở lo-âu, sanh lão bệnh tử những điều đó là những sợi-dây oan nghiệt buộc ràng tâm-linh tối diệu của con không cho nảy nở, buộc lấy kim-thân con không cho bước đi, buốc lấy hồn con không cho  siêu hóa, để các con bị trầm sa trong những vách, những con đường u tối mê man là chính tại con! Nay Thầy khai hóa chỉ rõ : “Con phải đứng riêng con”  Khi nào sự hờn giận, lo-âu , ganh tỵ, buồn phiền đến với con, con cũng phải đứng riêng: con nhìn thấy thế tánh của buồn, nghĩ đến đó con sẽ thấy thể tánh của lo-âu, con tự cười cho con, con tự cười cho thân con chiêu tập, con tự cười cho thất-tình của con chưa trong sáng, đó chính là con mới bước đầu tách rời chơn-linh của con ra linh-hồn của con vậy – Đoạn đầu của các con  để nghe lời thầy, khỏi cần cơ bút nữa vậy
Sau nầy trong giai đoạn biến kỳ, Thầy sẽ tuyệt bút ngưng cơ để tự các con tiếp điễn lấy vậy, Các con nên nhớ! Điển có nhiều phần, chơn tự tâm, để các con suy tâm công quả, chớ Đạo chơn điển chính, Thầy truyền không phải chỉ dạy các con nâng cao điều từ dục phàm nhân, các con nên nhớ
BÀI
Giáp-Dần niên thầy truyền bút tuệ
Xuống hồng trần từ huệ ban ra
Gần ngày khai diễn Long-Hoa
Thánh Thần Tiên Phật, trước Tòa ngự phân
Thầy thương xót hồng trần chuyền tứ
Dạy pháp điều con giữ cho tròn
Ngày nào tiếng nổ năm non
Biển Đông yên lặng thây còn dâng cao
Suối máu lệ dâng trào Nam Bắc
Cảnh khốn cùng dậy giặc âm dương,
Các con thấy rõ đôi đường
Đạo đời thanh trược hầu nương mà về
Mới nhập Đạo đại thể vì Đạo
Khảo đảo rồi phải tạo kỳ công
Lẽ đâu con lại nản lòng
Quên đi lời dặn trần-hồng đau thương!
Thầy giáng bút canh trường khuyên nhủ,
Dụng lời thơ hội đủ điển lành
Lời nầy kêu giữa đêm thanh
Con ơi! Muốn được đắc thành mai sau.
Thì giờ phải trau phận sự,
Phải gìn lòng vẹn giữ y khuôn
Kìa khi nghe giọng hồi chuông
Giác mê khải ngộ luôn luôn dặn lòng
Là nhân thế ai không khổ sở
Biết Đạo rồi thấy nợ trần ai
Các con cố gắng đứng ngoài
Nhìn điều phiền lụy đôi vai chập chồng
Đứng đồng hóa vào vòng tục lụy
Đừng quên mình cao quý thiêng-liêng
Các con lộn với ưu phiền
Trầm mình đày đọa triền miên khổ sầu
Rồi con tưởng đâu đâu cũng thế
Con quen rằng Thượng-đế từ –bi
Ban cho chơn-lý huyền-vi
Chỉ cho con được ra về với thầy
Thoát khỏi cảnh như cầu đau khổ
Thoát nợ đời tầm chổ yên vui
Thanh nhàn con chẳng tới lui
Bước vào phiền lụy ngậm ngùi chi con?
Xác thân con cũng còn là giả,
Điều lụy phiền tất cả thiệt sao?
Thế gian muôn sắc ngàn màu,
Khuyên con ráng nhớ nhập vào thâm tâm.
Chỉ duy nhứt đừng làm cội cả
Chỉ chính con siêu đọa do con
Cuộc đời hai chữ mất còn
Thế gian vật chất mỏi mòn thạnh suy
Con chớ để sầu bi tâm dạ
Vì lòng con thiên hóa pháp huyền
Nay con thọ lãnh chơn truyền
Mà con còn chịu trần miên thảm thương?
Thầy xét thấy doạn đường hành Đạo,
Đã qua rồi quý báu lắm thay!
Nữ nam già trẻ gái trai
Nghe lời thầy dạy hôm nay giữ gìn
Thân của con  tự mình nhận lấy
Nghiệp của con phải, quấy do con
Tội công, siêu đọa mất, còn
Trời ban cho đó vuông tròn tùy duyên
Nay thầy dạy diệu huyền siêu lý
Tùy mỗi con ý nghĩ  riêng tư
Ráng nuôi được chí đại từ
Ngàn năm đắc Đạo cũng Hư thọ nhàn
Các thiên-phong lời vàng thầy dạy
Phần của con trái phải dắt dìu
Một lòng khoan ái mến yêu
Nghiêm từ hạnh quả cao siêu mới mầu
Phận nữ-phái cao sâu công quả
Phước đức lành cao quả nhờ đây
Ngàn xưa muốn đến chân thầy
Phước duyên cố gắng hiệp vầy mới xong.
Các con thơ hiệp đồng nghe dạy
Ráng tìm thanh lọc trái, nghe con!
Ấu thơ tâm trí méo tròn
Giữ gìn cho đúng vẹn toàn thượng-ngươn
Thầy xuống bút ban ơn tất cả
Giáo giảng truyền hoằng hóa Trung-Ương,
Ngày nay trích diệu Tòa-chương
Giáo quyền CHƯỞNG-GIÁO lo lương Hà-Giang
Ngày chuyển hoa chung đoàn tất cả
Trong Thương-Ngươn này đã định rồi
Tuy con trọn phận con ôi!
Không còn lâu nữa vị ngôi con về
Nay phải ráng vẹn thề lo liệu
Bền tâm lành trí hiểu nêu gương
GIÁO-TÔNG con đã tinh tường
Huyền-vi hé lộ con đường Long-Hoa
Đức từ-bi Di Đà thường dạy
Nhiên-Đăng truyền lý phải cao sâu
Thân này con tại địa-cầu
Hồn thiêng giải thoát Thượng lầu mới ngoan
HỘ-PHÁP con chọn đàng bi-chỉ
Xuất hồn thiêng cao quý chầu Thầy
Đinh rằng trong một năm nầy
Hư-cung có dịp hiệp vầy Thiên_Tinh
Con chưởng chấp Đạo Huỳnh pháp hóa
Ráng bền công chớ sá khảo trần
Thân nầy con có Kim-Thân
Như-Lai cũng sẽ được gần vị ngôi
THƯỢNG-PHẨM con định rồi ngôi thứ
Quả công truyền hành chữ từ duyên,
Dầu con nghiệp bao năng quyền
Cùng còn ơn phước môn thiền gia tăng
Đạo quả chuyển qui thằng chuẩn sắp
Kể từ nay định lập khuôn vàng
Một mình thầm nghĩ lo toan
Đừng nên nhọc tri gia đàng chi chi
THIÊN-HOA con huyền vi thầy đinh
Phận sự còn cao lĩnh huyền-năng
Từ nay trọn lý Đạo hằng
Diệu mầu ban xuống chuẩn thằng cho con
Ráng tách khỏi để con Kim-Vi
Ráng bồi tô cao quý chơn hồn
Đạo lành dứt nẻo hàn ôn
Muôn năm thoát hóa Càn-không trở về
THIÊN-BẢO con lời thể từ trước
Đã bền công mức thước ghi lòng
Ngàn xưa quân-tử long đong
Huống hồ chi một Thiên-phong pháp hành
Ráng nhẫn nhục dể dành tâm trí
Bỏ qua điều suy nghĩ  đau đương
Nợ đời còn chút vấn vương
Thì còn nghiệp quả vạn trường điêu linh
THIÊN-HUỆ con tự mình hiểu biết
Lý mầu siêu chí quyết tạo thành
Giờ nầy linh điển cao thanh
Điểm qua con trẻ duyên lành Long-Hoa
THIÊN –CÁC được Tam-Tòa ưng triệu
Ráng bến công kết liễu gần đây
Hồng-Quận chính thiệt là Thầy
Tam-Thiên truyền xuống hội nầy quang nhiên
THIÊN-VÂN con lời như Bát-nhã
Của Như-Lai con đã y truyền
An Giang phân –sự cao quyền
Ngày sau tuyệt quý nơi miền Thất-Sơn
Chờ đúng buổi ban ơn xây đắp
Hiện giờ đây tạo lập tuân hành
Ngày sau Huỳnh-Đạo nêu danh
Quyền Tam-Trấn Đạo lành là con
Cùng Thiên-Minh lo tròn vận đạo
Chuyển huyền năng cơ khảo lướt qua,
Từ-bi nhẫn nhục gọi là,
Đức lành thiếu kém ta-bà khổ thân
Đức nhẫn nhục ân cần cho đó,
Thần thánh truyền công khó khảo thi
Nếu con yên lặng nghĩ suy
Tình Thầy nghĩa mẹ huyền vi vô cùng
Thiên Trung con tích tùng để sẵn
Nhờ ơn truyền yên lặng lo tu
Cuộc đời khảo đảo phù du
Xem qua cảnh ấy ngục tù trần-gian
Con thực ngộ Đạo vàng kiên chí
Là huyền năng cao quý vô cùng
Tân niên thầy điểm cho chung
THIÊN ĐƯỜNG con trẻ chí hùng đắp xây
Nhiều khảo đảo trên Thầy đã chứng
Càng khảo thi mới xứng con Thầy
Không điều dồn dập chua cay
Biết người kiên chí là ai mà truyền ?
THIÊN TÀI con tinh yên nhiều lúc
Ráng bền tâm những phút quang truyền
Giờ nầy cố gắng huyền nhiên
Để thêm phước huệ Thiêng-liêng xuất đề.
THIÊN HẢI con giác mê hai nẽo
Bước đường đời khôn khéo nhàn yên
Chữ trinh, chhữ nghĩa cửa thiền
Trọn điều tinh tấn diệu huyền Thầy ban
Con Thiên-phong Đạo Vàng duy nhứt
Giữ pháp-điều thược mực con ơi!
Xác thân có hạn do trời,
Chỉ điều siêu thoát đời đời mà thôi
THIÊN HẠNH con phải rồi phận sự,
Nhớ rằng Thầy giữ chữ từ-bi
Lý công con đã nghĩ suy,
Hy sinh chữ ấy huyền –vi chấp truyền.
Thầy thương con ít phiền nhiều nghĩ
Lo Đạo-mầu cao quý mà thôi
Hạnh tùng pháp huệ xong rồi
Ngày sau đắc Đạo vị ngôi tuyệt vời
Nay hanh hưởng ơn Trời ban xuống
Các Thiên-Phong vô lượng Thầy truyền
Nầy con THIÊN BÁ Lời khuyên,
Những điều cao quý sắc truyền ban ra.
Trước sau cũng là cửa Đao,
Dầu hèn sáng quý báu do Thầy,
Toại lòng ngự chốn ngàn mây
Do nơi đức cả trân Thầy chứng minh
Con THIÊN THẢO Đạo Huỳnh điểm ứng
Ơn Tam-Tòa xây dựng bao nhiêu?
Tính xem coi được mấy điều,
Công kia, nghĩa nọ cao siêu mấy phần?
Con phải ráng ân cần lo Đạo,
Đời còn dài cơ khảo con qua
Tỉnh tu đoạt lý ma-ha
Thoát điều đau khổ trầm sa muôn nđời
THIÊN LƯU con những lời dạy dỗ
Nghĩa Thầy trò tinh chỗ siêu thâm
Nguyên cầu con đã âm thầm
Khoan nghiêm Thiên-Luật diêu trầm ban ra
Dầu con chẳng tâm tà tục ý
Cũng đừng mong đem chí của đời
Đã đánh Chưởng-Quản con ơi!
Phạm vào Thiên-Luật Đạo trời không dung
THIÊN HỘ con nghe cùng điểm hoa
Mười mấy năm cao cả vì Thầy
Giáp-dần mười bốn nơi đây
Điểm truyền chấm quả công nầy cho con
Phận Tiếp-Điển bìa son ghi đó
Muốn thưởng đời hỏi có bao nhiêu ?
Nếu con tính lại làm liều
Nẽo đời dồn dập sớm chiều tiêu tan
Con nhớ rõ đạo vàng qui luật
Con xin Thầy ra sức gắng công
Thượng-ngươn ban thưởng chung đồng
Bao nhiêu cuộc thế trần-Hồng Thầy cho
Con muốn thế hẹn hò như thế
Đời Thượng-Ngươn là để ban truyền
Ngày nay cố gắng lo yên
Đừng nên tính chuyện quàng xiên hồng trần
Ráng tho mạng bảo thân giữ thể
Gìn tâm vàng Ngọc-Đế triều quang
Thiên-Phong nam nữ hiện đàn
Thay thầy ban thưởng Đạo Vàng tiếp nghinh
Phần PHÁP CHỦ cơ Huỳnh Giang-Hầu
Chớ nghĩ suy tiết lâu thiên-điều
Dầu cho đoạt lý cao siêu
Cũng đừng đem chuyện Linh-Tiêu phân bày
Con nên nhớ những ngày tu học
Thiên Linh Thầy chí dốc tu học
Huệ-Linh chơn điển pháp truyền
Thành công kịp đáo Hà –Tiên mới tròn.
Sang nữ-phái các con nên nhớ
Điểm vài con khuyên chớ lo buồn
Tình Thầy nghĩa Mẹ luôn luôn
Thương con như thể suối nguồn bao la.
Phận Đầu-Sư thì là cao khiết
BỬU-LIÊN-DUYÊN con quyết tạo thành
Pháp huyền năng nhọc tinh anh
Cố công giải thoát côi lành kịp nương
LIÊN-TRANG ráng tạo đường công quả
Hợp LIÊN-THÔNG cao cả định phân
Huyền-vi hé lộ hồng ân,
Thầy trên ban xuống một lần cho chung
Nhắc lại việc Kim-Cung Diệu-Điện
Thầy thương con những chuyện trần-gian
Đầu-Sư tam vị huy hoàng
THÔNG, DUYÊN cùng với LIÊN-TRANG lo tròn
Hễ công quả các con cố gắng!
Dầu khão thi đừng năng nghiệp đời,
Đã đành chịu đựng con ơi!
Lẽ đây Thầy nỡ quên lời thưởng ban
Chung các con điểm đàn nghe dạy
Nơi Thiên-Đài xét phải quang huy
Trước đây Tam-Giáo hiên quỳ
LIÊN TƯỜNG xin thọ công nghi Điện vàng
Thầy chứng chiếu huy hoàng tất cả
Ráng bền tâm thầy đã chứng lòng,
Kẻ nào con thấy cố công
Thì nên tạo đức chung đồng thêm duyên
Nhắc nhở lại chí hiền của Đạo
BỬU-LIÊN-PHI quý báu lời phê
Từ khi con nhân linh đề
Chưởng-Tòa an phận trở về nơi đây
Thầy sắc linh như vầy chuyển hoa
Trao THIÊN-AN cội cả quay về
Chưởng-Tòa công quả trọn thề
Để LIÊN-PHI pháp vẹn bề hành y
Điển mòn mõi lời thi nhắc nhở
Vào Hơi-thời chớ lỡ nghe con!
Đúng ngày thập-nhứt vẹn toàn
Hay là thập-nhi huy hoàng nơi đây
Giao Chường-Giao Linh Thầy truyền xuống
Chấp-Pháp Tòa con muốn tạo xây
Sau khi đông đủ hiệp vầy
Bàn xong con được Linh Thầy tiếp nghinh
Vào Hợi-Thời Bửu-Đình lo lắng
Con y hành sẽ đăng ban ân
Đời con còn lắm nợ nần
Cầu xin lắm lúc Chư Thần thở than
Thầy  cũng muốn Đạo  Vàng ban bố
Nhưng con ơi! Còn chỗ tiền duyên
Nay Thầy xuống bút điểm khuyên
Có đau có khổ Phật tiên mới thành
Giã từ con đêm thanh nhắc nhở
Phận sự tròn đừng lỡ từ đây
Cữu-Long hạ xuống chân thầy
Điền mòn mõi chuyển từ mây Thầy hồi
Thăng