Thứ Sáu, 2 tháng 3, 2018

- KÍNH MỪNG ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT ĐẢN SANH NGÀY 19/02 ÂM LỊCH 2018




Đầu cúi lạy Phổ Đà Phật Tổ,
Quan Thế Âm cứu độ hồng trần,
Từ bi phổ tế lê dân,
Muôn loài nhuần gội oai ân đức Ngài.
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng,
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên,
Gió dông sa đọa ghe thuyền,
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan.
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc,
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu,
Nhờ ơn bố khắp bốn châu,
Tiếng than xúc động tầm âu độ người.
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa,
Ở hiền lành mắc họa thình lình,
Rất thành khẩn vái Thánh minh,
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn.
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ,
Đức Từ Hàng chẳng bỏ người lành,
Tà ma nghe đến oai danh,
Mắt không dám ngó, khó hành hại thân.
Cảm thử thấp, tâm thần trầm trệ,
Mang bịnh căn, thân thể xốn xang,
Hôn mê, chợt tỉnh trí ngoan,
Quan Âm niệm đặng, tai nàn tán tiêu.
Người vô tự quạnh hiu sau trước,
Sửa tấc lòng, tác phước khẩn cầu,
Từ bi linh hiển phép mầu,
Cho trai hiển đạt, gái hầu thuần lương.
Lòng lê thứ nhiều phương tin tưởng,
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân,
Xót thương trợ kẻ phàm trần,
Dẫn dìu thuyết pháp, chóng gần Phật Tiên.
Trí ngu muội, đảo nguyền minh mẫn,
Tánh sân si, cầu khẩn giải oan,
Như lòng tà dục dấy loàn,
Sớm khuya tụng niệm, đặng an tinh thần.
Cơn nước lửa, khó phần trốn tránh,
Lúc hiểm nguy, tâm tánh kinh hoàng,
Thật lòng khẩn vái khỏi nàn,
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ.
Đệ tử chí tâm quy mạng lễ,
Mong Ơn Trên phổ tế mười phương,
Chúng sanh thoát chốn tai ương,
Tỵ nơi khổ não, lánh đường chông gai.
Nhờ Bồ Tát Như Lai lân mẫn,
Độ cho tôi tinh tấn tu hành,
Bền lòng chặt dạ kỉnh thành,
Lâm chung may đặng vãng sanh Thiên Đàng.
Cầu cha mẹ bình an, khương thái,
Thất tổ đồng thượng giái siêu thăng,
Muôn dân phước, lộc, thọ tăng,
Nhà yên nước thạnh người năng làm lành.

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Linh Cảm Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.


BỬU ĐIỆN HUỲNH LIÊN
Ngọ thời, mùng 14 tháng 5 năm Đinh Dậu
(Nhằm ngày 8-6-2017)

THI
       Thiện nguyện lòng thành kính Phật Tiên
       Tài cao đức đủ trọn ân truyền
       Đồntâm hiệp lực lo Huỳnh Đạo
       Tử kiến Như Lai ngự điện tiền
Thiện Tài Đồng Tử chào mừng chung tất cả Thiên Phong Huỳnh Đạo nam nữ hiện tiền.
Thành tâm tiếp kiến Đức Quan Âm
Ngự tứ đàn trung Đạo đức thành
Kỉnh lễ hồi chuông nghinh Phật diệu
Quan Âm Từ Mẫu ngự đàn linh
Triều thăng
Từ Bi Nam Hải ngự trần
Hào quang chiếu tỏa chuyển thành ngự lâm
Thương con thảo có tâm cầu nguyện
Cơ Đạo trời đương chuyển khắp nơi
Đạo thì con ráng chèo bơi
Đời thì mặc thế đầy vơi không màng
Mẹ Quan âm giáng đàn dạy Đạo
Thương con hiền hiếu thảo thành tâm
Lúc nào cũng nguyện Quan Âm
Mẹ ơi độ trẻ cao thâm Đạo mầu
Độ con thảo hết sầu thết thảm
Phật trần mê mờ ám vô biên
Làm sao trọn được chơn truyền
Thiên Khai Thầy mở diệu huyền cao minh
Tam Trấn ngự Bửu Bình dạy Đạo.
Để khuyên con thuận thảo tu hành
Đại đàn miễn lễ nhơn sanh
Các con an tọa tâm thành nghe qua
Lời Từ Mẫu thiết tha dạy bảo
Con quyết tu tầm đạo cao minh
Trước là diu dẫn nhơn sanh
Sau là mới độ cho mình thoát thai
Thân t đại trần ai vạn khổ
Kiếp đời người có chổ nào an
Khuyên con hiểu lý Đạo Vàng
Chung tay góp sức thoát màn vô minh
Quan âm hiện Bửu Đình hiển hóa
Cho linh căn cùng cả vạn linh
Các con đồng hiệp ý tình
Thời giờ nhặt thúc Đạo Huỳnh triển khai
Gọi con gái hay trai một dạ
Quyết từ đây công quả công trình
Đủ đầy hai chữ đức tin
Lo tu giải thoát cho mình nghe con
Ngồi tịnh thủ lòng son cầu nguyện
Mẹ từ bi giáng hiện đàn Tiên
Để nghe lời dậy tu hiền
Các con tâm ý khẩn nguyện trước sau
Con nào cũng buồn đau sự sống
Trong gia đình khi động khi an
Nhiều khi vất vả gian nan
Rồi con cũng lắm phàn nàn phận duyên
Tại nghiệp lực trần miền phải khổ
Mang tấm thân là chỗ khó khăn
Con nào có được linh căn
Tức nhiên sáng suốt huệ đăng tinh tường
Giờ Chánh Ngọ tình thương Mẹ giáng
Thấy tâm con xứng đáng Mẹ mừng
Đạo Vảng con nguyện khâm tuân
Quyết lo bổn phận không dừng tại đây
Buớc theo Đạo theo Thầy theo Mẹ
Để học hành lời lẽ cao minh
Cuộc trần là kiếp hữu hình
Gian nan vất vả thân mình khó yên
Nào gia đình tình tiền danh lợi
Nào Đạo mầu nhơn nghiã chưa xong
Cuộc đời ai khỏi bềnh bồng
Cũng như chiếc bóng hư không chưa rồi
Nhìn các con đương ngồi suy nghĩ
Cuộc đời này hữu lý là đâu
Con ơi biết được Đạo mầu
Tức nhiên giải khổ giải sầu tâm linh
Mẹ vì thương thâm tình vắn dạy
Trong cõi đời chướng ngại khó khăn
Xác thân tứ đại vô căn
Nhiều khi phải gặp khó khăn khổ nàn
Muốn giải hết nghiệp oan cho trẻ
Nhưng việc đời nặng nhẹ tùy theo
Con tu mà vẫn bị nghèo
Là do nghiệp trước truyền gieo kiếp này
Khuyên các con nơi đây tinh tấn
Lo trường chay lo phận tu hiền
Pháp mầu rèn luyện cho yên
Tinh thần hiệp với khí huyền hòa nhau
Hữu hình con đớn đau khổ ải
Trong vô vi hăng hái lo lường
Đạo Vàng con muốn phô trương
Để cho sanh chúng biết đường hồi nguyên
Mẹ Quan âm đàn tiền ngự tứ
Nhìn các con vẹn chữ tu hành
Giờ trưa Mẹ giáng điển thanh
Thấy con tâm ý hiệp thần mừng vui
Nhưng lòng Mẹ bùi ngùi than thở
Kiếp đời con hoa nở tàn rồi
Đời Xuân cũng đã đi thôi
Cuộc trần con đã nhã nhồi bao phen
Lúc sáng được lúc hèn theo đó
Chữ sang hèn ai có được vui
Nhìn con mà Mẹ ngậm ngùi
Muốn sao ngọc quý biết chùi biết lau
Con nam phái đứa nào ngang ngạnh
Phải tập tâm tập tánh thuần hòa
Hiếu ân trên Mẹ với Cha
Thầy thương Mẹ độ cho qua tai nàn
Con nữ phái hiền ngoan chăm chỉ
Ráng tu hành đừng phí ngày giờ
Đạo Vàng con chớ ngẫn ngơ
Nơi đây là bến là bờ cao minh
Giờ trưa Ngọ huệ linh Mẹ chuyển
Cho các con hiểu chuyện tu hành
Nhỏ nhen cũng có lòng thành
Tuổi cao con phải biết rành trước sau
Tuổi chồng chất thêm cao năm tháng
Đạo con cần soi sáng tâm đăng
Con nào cũng có huệ  căn
Thì mau bước tới tầm phăng cho tròn
Giờ thanh vắng Mẹ còn dạy Đạo
Thương con nào tâm thảo hiền lương
Chúc con mọi việc kiết tường
Mọi điều vui hưởng thuận buồm hân hoan
Gương của Mẹ trăm ngàn cay đắng
Kiếp làm người có đặng vui đâu
Nhẫn kiên nhịn nhục mới mầu
Thuận hòa trên dưới tròn câu hiếu từ
Nam phái con tâm dư trí tuệ
Ráng từ đây huynh đệ dắt dìu
Lý chơn Thầy Mẹ đã nêu
Đạo huỳnh Chánh pháp cao siêu Đại Thừa
Con đừng có sớm trưa buồn bã
Thấy đệ huynh phân ngã chia lìa
Thương cho tỷ muội sớt chia
Nặng mang chữ Đạo không lìa tâm nhau
Hiểu ý Mẹ trước sau gìn dạ
Con quyết tâm công quả lo lường
Bao giờ Mẹ cũng quý thương
Từ bi bác ái là đường siêu nhiên
Nhìn nam phái con hiền ngơ ngẫn
Con xem coi Tôn-Tẩn, Bàn-Quyên
Tích xưa còn để hiện tiền
Làm người nghĩa thảo trọn duyên mới mầu
Biết được giữ sáu câu niệm Phật
Thì mọi điều ố tật bỏ qua
Con ơi sáu chữ Phật Đà
Thì con phải giữ thật là báu thay
Mẹ từ bi dạy bài chơn lý
Con tu hành rối trí rối tâm
Điều chi đi đứng ngồi nằm
Mà con chưa được yên tâm thế này?
Tu theo Đạo theo Thầy theo Phật
Thì bao nhiêu chơn chất thật lòng
Đạo là chỉ có chữ không
Không mong danh lợi không mong tiền tài
Tu ở trong ở ngoài cho vẹn
Kiếp làm người đừng thẹn con ơi
Mẹ thương mới thốt thành lời
Cho con mỗi đứa rạng ngồi tâm minh
Dạy nữ phái chân tình Mẹ bảo
Tu dù nhiều khảo đảo cũng vui
Gia đình nhiều lúc ngậm ngùi
Có vui rồi cũng ngọt bùi đắng cay
Thân tứ đại mấy ai yên ổn
Kiếp làm người hổn độn con ơi
Xưa kia gương tánh để đời
Đó là gương Mẹ còn nơi cõi này
Phải nhẫn nhục tâm rày cho chắc
Đừng rẻ chia Nam Bắc đôi đường
Đạo là chơn lý tình thương
Đạo là bác ai phô trương đại đồng
Mẹ Nam Hải mát lòng mát dạ
Dạy con cho công quả công trình
Đủ đầy hai chữ đức tin
Để con tự cứu lấy mình từ nay
Mẹ luân giảng một bài giáo lý
Để vào tâm nghe kỹ từng câu
Học hành để trẻ giải sầu
Nghiệp đời ai có vui đâu con à
Xưa gương hạnh Phật Bà còn đó
Mẹ Quan Âm chỉ rõ con thông
Sự đời ai khỏi gai chông
Việc tu chỉ phải môt lòng mà thôi
Phận nam phái con Trời Thượng Đế
Ráng gìn lòng dưới bệ Chí Tôn
Thân này nhờ có phần hồn
Phần hồn Thầy dẫn Kiền Khôn dắt đường
Xác tứ đại còn đương bịnh khổ
Tuổi càng cao có tránh (chỗ) ốm đau
Lúc sanh lúc diệt lẽ nào
Sanh thời có tử làm sao con à!
Mẹ dạy rõ trước tòa Tam Giáo
Thấy con hiền tâm Đạo Mẹ thương
Ráng lo phận sự cho tường
Tất nhiên con đến Phật đường không hay
Sợ con quên Mẹ Thầy Tiên Phật
Rồi tấm lòng ố tật lại sanh
Tứ tường danh lợi ghét ganh
Tạo chi cái cảnh bất thành ngày mai
Dạy cho con thi bài mỗi đứa
Tự lòng mình sửa lấy phận mình
Đủ đầy hai chữ đức tin
Mẹ về dạy dỗ ráng gìn đường tu
Trong Hội Thánh cần cù nhẫn nhục
Gọi các con Mẹ chúc bình an
Lo tu phấn khởi vững vàng
Đức tin sáng suốt Đạo Vàng vinh quang
Con tất cả là hàng Thiên tước
Con của Thầy Mẹ được hồng ân
Về đây bái lịnh trước sân
Xin trên Mẹ cứu hồng trần thoát qua
Thân tứ đại thiệt là gian khổ
Xin Mẹ hiền ủng hộ cho con
Trần ai nhiều lúc tiêu mòn
Chữ ân chữ hiếu cho tròn con ơi!
Hàng Bửu Liên nghe lời Mẹ dặn
Việc tu hành cay đắng đừng than
Lửa kia đốt thử tuổi vàng
Người tu thử sức gian nan con à
Trưa thanh vắng Mẹ già chuyển điền
Mừng các con chầu kiến nơi đây
Nghe thơ mẹ dạy một bài
Đạo tâm con phải rèn mài cho trong
Mẹ thấy con ngóng trông điểm dạy
Mẹ day chung nam phải hiện tiền
Các con có đức có quyền
Có danh có chức vẹn nguyền đừng phai
Con nữ phái cũng tái oanh liệt
Cũng tinh thần nhiệt huyết không than
Bước tu theo mối Đạo Vàng
Trường chay mật pháp lo toan công trình
Lo công quả giữ gìn cơ đạo
Lo phước điền quý báo lòng thương
Chị em con được kiết tường
Gia đình hạnh phúc kỷ cương trao đổi
Mẹ dạy qua những lời tao nhã
Ráng giữ gìn công quả công phu
Làm sao xứng đáng người tu
Làm sao cho trọn công phu công trình
Con hiểu biết tâm mình chưa biết
Nhìn chuyện đời luếng tiếc khổ tâm
Muốn sao cơ đạo siêu thâm
Không còn bao việc thăng trầm khảo thi
Đạo không khảo khó thì đắc đạo
Đời không mê khó bảo lánh đời
Khuyên con nghe rõ những lời
Việc chi con trẻ bồi hồi trong tâm
Chơn lý đạo siêu thâm mẹ dạy
Chữ ân tình hăng hái đại đồng
Con hiền hãy ráng thẳng xong
Đạo tâm nam nữ có lòng về đây
Tượng quan âm Mẹ xoay cơ pháp
Dạy tâm con phù hạp căn duyên
Muốn làm được phật thánh tiên
Thì con phải ráng nhẫn kiên mà hành
Hiểu tâm ý chúng sanh tất cả
Hiểu các con Mẹ đã dạy bài
Muốn nghe điểm đạo giờ nay
Nhưng con yên dạ sau này Mẹ ban
Dầu vất vã trần gian nhọc khổ
Tuổi càng cao càng hổ phận mình
Ốm đau bịnh tật liên thinh
Xác thân mòn mõi sức mình chưa yên
Cầu xin Mẹ diệu huyên ban bố
Cho đoàn con bớt khổ bớt sầu
Cam lồ Mẹ trút cạn bầu
Dược tiên Mẹ chuyển linh màu cao xa
Ban cho con Ma Ha nước mát
Bạch thủy truyền xây tạo từ đây.
Một bầu bạch thủy đủ đầy
Mẹ ban rải khắp nơi này các con
Lời Mẹ dạy bút son chơn lý
Con hiểu rảnh cao quý hành xong
Nhìn con nóng nảy cõi lòng
Hãy dùng bạch thủy ngoài trong cho hòa
Về nơi trước bửu tỏa chầu Mẹ
Mẹ Quan Âm mát mẻ ban truyền
Bởi con có cội có duyên
Cam lồ của Mẹ diệu huyền ban cho
Ban cho con được no được ấm
Ban cho con áo gấm đẹp màu
Tấm lòng bác ái thanh cao
Cùng nhau tu học bước vào đài sen
Khêu cho sáng ngọn đèn chơn lý
Hiểu cho thông chánh kỷ hóa nhân
Trước là phải biết tu thân
Trường chay đạo pháp chuyên cần nghe con
Rồi công quả hoàn toàn lo liệu
Chữ công phu đừng thiếu mới thành
Con tu đi trước biết rành
Đi sau con học con hành cho y
Chỉ mấy chữ Mâu Ni Đà Phật
Nhưng tâm con ố tật còn nhiều
Làm sao về đến cầu kiều
Để qua sông khổ trăm điều khó khăn
Con Bửu Liên có căn có cội
Thì các con sám hối lòng mình
Mau về nơi cõi ngọc kinh
Hay về diêu điện cao linh mẫu từ
Lòng con bận điều chi lẽ thiếu
Nghĩ đời mình chưa hiểu được sâu
Xin cha mẹ độ nhiệm mầu
Cho con sáng suốt cạn sâu rõ ràng
Mẹ điểm chung đại đàn tất cả
Các con hiền nay đã về đây
Chúc con phước huệ đủ đầy
Thân tâm thường lạc Mẹ Thầy bố ban
Ban cai quản hoàn toàn sắp đặt
Các con cần dạ chắc lòng tin
Quyết tu vì mối Đạo Huỳnh
Là con chí quyết hy sinh kiếp này
Nếu thương Mẹ thương Thầy hành đạo
Để trở về ngôi báu nghe con
Thiên phong chức sắc vẹn toàn
Phước lành Mẹ bố cho con đủ đầy
Chánh ngọ Mẹ về chuyển điển linh
Các con nam nữ một lòng tin
Từ bi bác ái công bình vẹn
Bác ái vị tha khá giữ gìn
Hãy theo gương Mẹ để tu hành
Khi Mẹ vẫn còn kiếp chúng sanh
Trăm đắng ngàn cay muôn sự khổ
Ngày nay ngôi vị được yên lành
Đem lòng bác ái từ bi
Độ con diệt hết sân si tronglo2ng
Thì con sẽ được đắc phong
Trở về ngôi vị mát lòng Mẹ Cha
Thân con còn ngự tại gia
Tình chồng nghĩa vợ thiết tha nặng nề
Nghĩa Cha con thảo trọn bề
Con thì phải hướng nhớ về ân sâu
Trước là ân Mẹ ngõ hầu
Ân Cha nặng gánh làm sao cho tròn
Nhìn thân xác các con oằn oại
Bởi thân này tứ đại lập nên
Đất nước gió lửa xây nền
Nóng rồi lại lạnh trước đền khó phân
Con nào cũng tinh thần trong sáng
Đúng và sai tỏ rạng phân tường
Nhưng vì mờ ám ma vương
Chữ sai nghĩ đúng chữ thương thành thù
Nên con biết người tu rất khó
Mọi việc chi hãy bỏ con ơi
Xả thân không nghĩ chi đời
Hãy nhìn gương Mẹ đạo trời ráng lo
Mẹ biết bao dầy vò cuộc sống
Đời thảm nàn ước mộng chi đâu
Ngày nay hiệp ngọc về chầu
Như lai đắc đạo tròn câu diệu huyền
Mẹ Quan Âm lý truyền bửu vị
Hàng thiên tinh phẩm quý tuyệt vời
Con nào vai đạo vai đời
Cũng như xưa Mẹ biết người khổ đau
Khi con phải ốm đau bịnh tật
Khi con trần đánh mất lương tri
Bởi vì cái chữ sân si
Nên con phải chịu loạn ly xác trần
Tu trước nhứt chữ sân phải diệt
Rồi chữ tham đừng tiếc nghe con
Chữ sân phải đốt cho xong
Sân si ái ố lòng con diệt rồi
Ở gia đình đến hồi khó nhọc
Cũng sân si trong thật nọ nầy
Anh em mà vẫn sân rày
Mẹ Cha phải cũng chuyện này chuyện kia
Vì con có khóa chìa không giữ
Nên nhiều khi thứ tự chưa tường
Muốn con thoát kiếp oan ương
Thôi thì ánh sáng thái dương chiếu vào
Lời lý đạo trước sau Mẹ dặn
Thì con hiền cố gắng học theo
Tu hành con chớ sợ nghèo
Nghèo đời nhưng đạo con gieo giống lành
Thôi Mẹ dứt điển thanh từ giã
Nhìn các con lả chã dòng châu
Mẹ khuyên Mẹ giải cơn sầu
Cho con ráng giữ đạo mầu cao minh
Muốn điểm danh thâm tình Mẹ điểm
Chấm huệ linh Mẹ chuyển về con
Đứa nào cũng được chữ son
Chữ vàng chữ ngọc cho con vui lòng
Đời dầu có bưởi bồng chanh khế
Đạo phải cần huynh đệ hòa nhau
Lớn thì phải giữ trước sau
Dẫn em dìu chị bước mau về Thầy
Phải hòa ái từ đây tất cả
Đừng cho mình lớn quá rồi quên
Chị em tỷ muội cho bền
Anh em huynh đệ là nền đạo tâm
Tu Huỳnh Đạo không lầm nghe trẻ
Có Huệ Linh chỉ vẽ đường ngay
Con tu thì cứ tu hoài
Trường tồn mã lực mới hoài con ơi
Nhìn các con cạn lời Mẹ dặn
Việc tu hành cay đắng không phiền
Có căn có nghiệp có duyên
Nên chi mới được phật Tiên dạy bài
Giã con cả trong ngoài nam nữ
Mới bước theo gìn giữ thương yêu
Con ơi mới cũ ít nhiều
Cũng con Thượng Đế Cung Diêu Mẫu Hoàng
Thôi Mẹ dứt tiếng đàn tao nhã
Cho các con thông thả tinh thần
Biết tu thì diệt chữ sân
Biết tu thì nguyện hồng ân có Thầy
Giã con nam nữ trước đàn đây
Sóc vọng các con đến chốn nầy
Để có hiển linh lời giáo huấn
Để con chia sớt nỗi nồng cay
Thiên Tinh con thảo nhớ lời đây
Mẹ độ các con đến gặp Thầy
Chỉ lối đường về nơi Bạch Ngọc
Thì con chí quyết chẳng hề phai
Bạch thủy các con Mẹ tạo thành
Cam lồ Mẹ rưới điện hòa nhân
Độ con bịnh tật qua tai ách
Cứu vớt mê tâm đến gặp Thầy
Tâm mê không vướng nhờ bạch thủy
Linh dược Mẹ truyền tất cả đây
Bửu vị các con suy nghĩ mãi
Tính toán gia thế muốn sanh rày
Thôi thì thuận thảo vui đường đạo
Mọi việc bỏ qua chỉ có Thầy.
Con nào muốn được tách xa rời
Hải ngoại đăng trường cũng thảnh thơi
Mẹ độ cho con an hưởng lạc
Lúc nào tưởng Đạo hỡi con ơi
Quan Âm nhành liễu phất tay ngàn
Cứu vớt con trần thoát khổ than
Nghiệp chướng trần ai còn nặng nợ
Mong rằng được tắm nước ma ha
Giã con ở lại Bửu Tòa
Mẹ về Nam Hải Phật Đà cao minh
Quỳ đảnh lễ đăng trình bái Mẹ
Kìa hào quang vẹn vẽ muôn màu
Con nhìn ngũ sắc cung cao
Gót Tiên Mẹ bước để vào Nam Thiên
Nhìn con tâm đạo tu hiền
Điển lành mẹ dứt đài liên Mẹ về

Thăng
"QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH"
(Ðàn Chấp Bút lúc 4g07ph sáng 15-5-1986)
* * * * * * *
THI:
 đồ một giải biếc màu xanh,
TIÊN thể hằng xa chốn thị thành,
NỮ nam tròn Ðạo ngày cư thế,
Sau đặng vui nhàn tận cõi thanh.
      Nam Mô A-Di-Ðà Phật.
      Nam Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật Thế-Tôn.
      Trước thấp mình lễ Phật, cung phụng triều bái Ðấng Chí-Tôn, Diêu-Trì cùng chư Tiên Thánh.
      Sau thi lễ chào quí Thiện-Ðạo Chưởng-Quản Bạch-Diệu-Hoa.
      Bần Nữ HÀ-TIÊN-CÔ phi lai cấp báo hỷ tin. Quý thiện đạo tịnh tâm đảnh lễ tiếp lịnh Ðấng CHÍ-TÔN ngự bút. Bần Nữ thi lễ hộ Ðàn...
      (Tiếp điển:)
      THẦY hoan hỷ tứ phước. Con hãy đại tịnh tiếp tròn ân điển. Thầy mừng các con, chúc các con thăng vinh phúc lạc.
      Thầy ban ơn và đồng thời giáo khuyến các con kiên trì tâm hạnh tu tiến mọi công năng vun bồi phước đức. Ấy là các con nêu cao gương sáng lẫn nhau hầu noi bước Ðạo cao để tròn mãn mọi công năng đạo hạnh tu thân cùng độ chúng.
      Giữa thời mạt hậu cuộc ác chiến đã hầu kề, thì công đức độ nhân nơi các con càng phải tinh tiến dũng mãnh hơn. Các con cần phải lưu bố mọi quyền năng hóa độ của Bề-Trên, tức là phổ biến những bài Thánh-Ngôn cần thiết, ấy là các con góp tâm trợ lực nơi Ðạo mầu, tiếp sức cùng Bề-Trên rưới giọt nước Ma-Ha lợi sanh cho đại thế chúng.
      Nay là ngày kỷ niệm Khai Minh an lập mối Ðệ-Nhị Ðạo Huỳnh, thể hiện chi Phật-Tông Chánh-Giáo để cho cơ nghi Ðại-Ðạo thành lạc đủ Ngũ-Chi. Thập niên khai hóa nay đã hình thành, các con nên dụng ngày nầy mà làm một ngày hạnh lạc thứ nhứt. Trước là chung mừng cho cơ Ðại-Ðạo viên thành, sau là mừng cho công hạnh của các con đã vun bồi nền Ðạo-pháp ngay từ thuở ban sơ, kể biết bao là khó nhọc, thắng hết mọi chướng duyên, dụng tâm lực góp tay nhau trợ Ðạo giúp Thầy. Nay đã hoàn thành cơ hữu Ðạo báu, để cho các Ðấng Phật Thánh Tiên dùng làm nơi sở trụ mà cứu thế. Thật là vô biên thắng phước! Vậy nay muốn thể hiện ân lành cho các con một ân huệ hiện tại để các con được niềm vui nơi cảnh Ðạo, Thầy ân tứ sắc ban Ngự-tửu, mỗi con đồng đẳng một chung bồ-đào thưởng thức hương vị. Vậy sau buổi Lễ Ðại-Ðàn, các con sẽ được rót Ngự-tửu mà trao tặng cho nhau để chứng niềm hạnh hữu. Thì giờ kém ít, Bạch-Diệu-Hoa hãy tịnh tâm tả một đoạn thi bài.
THI BÀI:
       Ngày kỷ niệm Khai Minh cứu thế,
       Mối Ðạo Huỳnh trợ tế Nguơn Ba,
              Nhơn sanh khắp cõi Ta-Bà,
Tri cơ thế mạt quỉ ma lộng quyền.
       Thời vật chất khắp miền đua nở,
       Cõi trược trần nhiều nợ máu xương,
              Nhìn xem địa cảnh chán chường,
Khuyên con tỉnh trí dò đường Ðạo chơn.
       Cuộc Thánh-Ðức là Nguơn Tái-Tạo,
       Kịp hồi chơn thiện bảo nầy con,
              Thầy thương giáo cạn bút mòn,
Trần lao thấy trẻ vẫn còn luyến mê.
       Lòng từ mẫn năng kề ngũ dục,
       Cùng con thơ giũ phước trao lời,
              Nhưng còn nặng quả con ơi,
Mãi mong ương ngạnh lắm lời siểm chê.
       Ðời trọng trược lầm mê vật chất,
       Ngủ say vùi trong giấc huỳnh-lương,
              Con ôi! khá tỉnh mộng trường,
Trần ai cõi tạm muôn đường khổ gay.
       Phương giải thoát là ngày chuộc lỗi,
       Trường học tu sám hối hồi đầu,
              Cải tà quy chánh cho mau,
Trì trai thiện niệm một câu Di-Ðà.
       Dầu vạn quỉ thiên ma nảo hại,
       Nhờ phước sanh tự tại không sờn,
              Cõi trần ức vạn thiên nhơn,
So loài quỉ đạo số hơn loài người.
       Ma quỉ cứ theo người giục khiến,
       Giục lòng người ác kiến lẫn nhau,
              Khiến xui giết lẫn đồng bào,
Giục tâm ác niệm hại nhau dẫy đầy.
       Họa diệt thế do đây sanh nở,
       Khiến loài người gây nợ máu xương,
              Giết người chẳng chút lòng thương,
Hại nhau mà chẳng dung nhường mảy chi.
       Thức giấc mộng tư duy tự tỉnh,
       Gợi lòng lành chơn chính thương nhau,
              Dứt tâm bất mục đồng bào,
Thì Nguơn Thánh-Ðức đặng mau vãn hồi.
       Xương với máu ngưng bồi mặt đất,
       Cảnh tương tàn sớm dứt cõi người,
              Giác rồi nhìn lại hổ ngươi,
Ngộ rồi mới thấy kiếp người có chi.
       Thân lao nhọc, bạc chì thậm giả,
       Có rồi không, ác quả càng dày,
              Vô thường rồi lại phủi tay,
Con ôi! ruộng phước cấy cầy cho mau.
       Giờ nghiêm huấn cùng nhau nhẫn thọ,
       Kịp hồi tâm chớ có diên trì,
              Nguyện cầu mau giảm nạn nguy,
Quan-Âm Cứu-Khổ con thì gắng tâm.
        Nầy Bạch-Diệu-Hoa, sau đây là phần giáo lịnh con hiền được rõ:
      Ðức QUAN-ÂM vì lòng đại-bi đại-nguyện, trong thời gian sắp tới đây, Ngài sẽ biến chiếu điển quang đến cảnh thiền nầy mà giáo pháp một quyển Tâm-Kinh hầu xiển minh phép nhiệm, tuyên dương Phật lực đại-bi đại nguyện, cứu vớt khổ nàn cho toàn thể tứ châu thiên hạ trong thời mạt hầu nầy. Và Thầy cũng hoan hỷ mà nhắc cho toàn cõi nhân sinh được rõ biết sự mầu diệu cứu cánh nơi lòng đại-bi đại-nguyện của Ðấng Quan-Âm: Vì Ngài muốn cho nhân sinh thọ được đại-ân của Ngài độ vớt, thế nên Ngài mới thị hiện tướng mầu để cho nhân sinh nhiếp vào ảnh thiệt tế. Từ nay toàn tất cũng nên dụng thiệt tế Thánh-Ảnh của Ngài mà tôn kính phụng trì. Ngài tự phát nguyện rằng nếu Thánh-Ảnh của Ngài được an trụ nơi nào, xứ sở nào, chùa am nào, hoặc gia trụ nào, nếu mà chủ tâm nơi đó được thành thì hào quang Ngài sẽ chiếu soi hóa độ cho nơi đó được thanh tịnh, được phúc lạc. Ngài quyết không để cho thời cơ tận diệt nầy tàn phá hết chúng sanh theo định luật của ma đạo.
      Giờ điển an sắp mãn, Thầy gia ân cho toàn tất chúng con. Một lần nữa nhắc nhở cho đoàn con kiên bền chí thiện, đường Tu tinh tiến, Ðạo-pháp gắn chặt chớ lơi tâm.
      Thầy thượng giá.
      Thăng...

QUAN-ÂM PHỔ-CHIẾU PHÁP-BẢO TÂM-KINH

THÁNH TỰA

     Nam-mô A-Di-Ðà Phật.
       Nam-mô Bổn-Sư Thích-Tôn.
      Nay nhằm ngày Ðại-Khánh-Ðản Phật Thế-Tôn, là một ngày đại hạnh lạc đến cõi dương trần, là một nguồn ánh sáng vô tận đã chiếu diệu đến cõi Ta-Bà sánh như ngôi mặt nhựt lố mọc từ phương Ðông!
      Vầng Thái-Dương ấy sẽ phát vô lượng ánh quang minh chiếu khắp bầu trời, phá hết cảnh tối tăm nơi màn vô minh giữa đêm dài u tịch. Cõi thế nhân cũng vì sống trong màn vô minh, trong đêm tăm tối ấy nên tạng thức phải mê mờ, nhân đó làm cho tâm thần đảo vọng, phiền não tham sân, khó bề giác tánh. Càng đi sâu vào đời hậu mạt thì Ðạo-Pháp càng rời xa, say nhiễm bả trược trần, lợi danh trói buộc, cơm áo là món tội chướng khổ của con người, khiến phải tạo đoan nhiều hoặc nghiệp nên mãi trôi lăn trong những kiếp tử sanh khó bề thoát họa!
      Là một ngày toàn tất chúng sanh trên cõi Ta-Bà đồng hưởng được pháp lạc thanh tịnh thứ nhứt. Nay Ta cũng nương vào ngày nầy, nhờ phước lực của ÐẤNG THẾ-TÔN, tựa ánh quang dương ấy hầu khai thị quyển TÂM-KINH, từ bi tế khổ vớt kẻ trần lao chìm biển mê tân đưa vào giác ngạn.
      Buổi đời hậu mạt, tai ách dẫy đầy, thế cuộc đồi suy, nhân tâm đảo loạn, vật chất phồn thịnh tới đâu thì hoạn khổ tới đó, là ác chướng tới đó, bịnh chứng nan y, chiến tranh dồn dập, nạn diệt thế mỗi lúc càng chuyển mạnh và đến mau!

      Tại vì sao?

      Vì thời kỳ mạt pháp, hễ càng xa Phật tức phải gần ma! Bọn ngạ-quỷ thừa cơ hội lan tràn quấy nhiễu, thâm nhập vào chúng sanh giục người làm cho não loạn. Giả danh Trời Phật huyển hoặc kẻ mê nhân gây nhiều hoạn họa, giục khiến kẻ tà tâm gieo thêm giống độc, làm cho cang kỷ đảo điên, luân thường xiêu đổ, làm cho thế giới nhân loài phải sống cảnh đục nhơ, giục thúc cho cường độ chiến tranh càng bộc phát! Chúng quyết đưa đẩy khiến nhân loài mau sa chân vào cuộc tận vong, để cho mặt đất trống không chẳng bóng người trần còn lai vãng. Chúng ấy sẽ mặc tình biến chuyển cuộc đời trở thành một thế giới ma đạo! Chúa vương tinh cầm quyền tối thượng trong thế giới ấy cho đến vô số kiếp. Chờ khi Phật xuất sanh thì bọn chúng sẽ xả thân mạng, hồi phục lại cuộc đời gọi là phục thỉ hoàn nguyên tái tạo.

      ÐẤNG CHÍ-TÔN vì vô lượng từ bi tốc bố điển lành khai minh ÐẠI-ÐẠO, quy Tam-Giáo, hiệp Ngũ-Chi là mở đường tận độ. QUAN-ÂM chấp chưởng quyền Tam-Trấn, dụng oai đức đại-từ-bi hàng tà phục oán, pháp-thuyền độ vớt, cam-lộ cứu nguy. Ðức DI-LẶC THIÊN-TÔN hạ lịnh khai nguơn dựng nền Thánh-Ðức, xiển dương Ðạo-pháp cứu cánh nhân loài rấp nhập cảnh họa ương trong thời pháp mạt, gia trì phước lực truyền bá Ðạo mầu tuyên lưu máy nhiệm là hồi chuông cảnh tỉnh, tiếng trống giác mê, giúp cho toàn thể nhân sinh hồi đầu hướng thiện, biết thương yêu lẫn nhau như ruột thịt.

      Ta vì lòng bi mẫn, vì pháp lợi sanh giáo huấn cạn dòng.

      Nguyện cho pháp giới chúng sanh phát khai trí huệ, giải thoát nghiệp mê lầm dứt rời ma chướng, chánh tâm, chánh niệm, Thánh-Ðức phục hồi, thân tâm thường lạc.

      Nguyện cho chư ác đạo hoàn lương tốc tật, thi vi chánh pháp, ngục môn bế tắc, THIÊN-ÐẠO hoát khai, cuộc cứu cánh được hoàn mãn vào Nguơn Thánh-Ðức, thoát khỏi họa diệt.

      Nguyện hành chánh dũng, hộ trì Ðạo-pháp không để diệt dứt, độ tận chúng sanh. Hàng tà ma, trừ yêu quái là bổn nguyện công đức vô tận tạng của BỒ-TÁT QUAN-THẾ-ÂM vậy!

      Những lời tuyên thuyết hãy minh liễu tường tận, thâm nhập trí Như-Lai, phát xuất vô lượng chánh tâm, diệt tà trừ chướng, nhứt niệm nội ngoại hãy lìa xa thì thân tâm thanh tịnh, tâm linh khai ngộ, tướng hảo phát sanh, phục thỉ hườn nguyên, thái bình an lạc.

      Dứt lời Thánh-Tựa...

      Nam-mô Ðại-Bi Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.

      Nam-mô A-Di-Ðà Phật.



  PHÁP-BẢO TÂM-KINH


Nam-Mô Ðại-Từ Ðại-Bi Quảng-Ðại Linh-Cảm
Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
Sấm kệ:
      Nam-mô PHẬT-TỔ DI-ÐÀ,
Quang minh phổ chiếu Ta-Bà độ nhân.
      Liên đài ngũ sắc tường vân,
Hằng hà Phật Thánh lai trần hộ Kinh.
      Cõi Trời hiện sắc quang minh,
Hào quang muôn trượng âm thinh vang rền.
      Kim-Tòa NGỌC-ÐẾ ngự đền,
Chư Thiên hộ hựu cõi trên hằng hà.
      Kinh mầu khai xuất truyền ra,
Sánh bằng giọt nước Ma-Ha cứu trần.
      Ta nương vào ngọn bút thần,
Ví như tiếng sấm trong trần hiện vang.
      Thuyết minh cơ nhiệm hành tàng,
Giáo nghiêm diệu-pháp Ðạo vàng xiển dương.
      Kỳ ba ÐẠI-ÐẠO khai trường,
QUAN-ÂM Tam-Trấn oai cường lực nghi.
      Hành tàng Ðại-Nguyện Ðại-Bi,
Hàng tà phục oán thi vi trọn lành.
      Tuần du tế sát hiện hành,
Mười hai Chánh Nguyện dương danh đời đời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Tri cơ thế mạt cõi đời tai nguy.
      Nồi da xáo thịt dị kỳ,
Buôn dân bán quốc loạn ly oán thù.
      Buôn Trời bán Phật mà tu,
Thù Cha, hại Mẹ, thê phu lỗi niềm.
      Ðổi ân làm oán ganh hiềm,
Cạnh tranh giết lẫn càng thêm thỏa lòng.
      Chiến tràng xương núi máu sông,
Xây dần mãi thế mà không thấy rồi.
      Dân càng phiêu dạt nổi trôi,
Khóc than thảm thiết ôi thôi dẫy đầy.
      Gieo mình vào chốn hiểm nguy,
Thể lâm họa diệt, hồn thì vất vơ.
      Thương thay cảnh trạng mê mờ,
Kẻ vay người trả đục nhơ cõi trần.
      Chiến tranh nguyên tử hầu gần,
Ði đâu trốn nạn hồng trần cho kham?
      Họa kia chướng nọ ai làm?
Hay là nhân chủng vì ham lợi quyền?
      Rốt rồi mặt đất còn nguyên,
Loài người vắng bặt của tiền làm chi?
      Tự mình tạo tác thi vi,
Rồi kham thọ lấy quả ni đem vào.
      Xót xa mấy đoạn tâm bào,
Ðại ngôn pháp giáo người mau phục hồi.
      Tư duy từ huấn bao lời,
Hoàn lương chánh niệm dứt rời nghiệp ma.
      Ðoạn nầy hiển thị soi ra,
Thể thời pháp mạt thì ma lộng quyền.
      Vào đời dối thế Phật Tiên,
Gây điều não nhiệt đảo điên tánh người.
      Giục tâm quấy niệm dư mười,
Hoặc khi ám ảnh cho người cuồng ngây.
      Nương theo thể, tánh cõi nầy,
Có thân, có thế, có tay, có quyền.
      Chúng dùng làm một con thuyền,
Thi vi ác nghiệp phỉ nguyền tâm ma.
      Âm mưu những sự gian tà,
Giục gây ác sát để ma no lòng.
      Thức ăn toàn những huyết hồng,
Toàn là thi thể thương vong chiến tràng.
      Ðược lời thiện tín tâm an,
Dày công tưởng niệm phước càng đa sanh.
      Giác mê tự bởi lòng thành,
Mắt phàm khó chứng lời lành của Ta.
      Chiến trường binh lính ngã ra,
Thảy không có đủ quân ma tạm dùng.
      Chúng hằng thôi thúc nhân tâm,
Càng gây chiến cuộc thâu năm nối liền.
      Nỗi niềm thống khổ triền miên,
Tử hồn binh sĩ bố quyền trục thâu.
      Không ai tiết lộ mưu sâu,
Chúa yêu sẵn đủ phép mầu đối tranh.
      Thần thông sẵn đủ hiện hành,
Thị oai ma lực đấu danh cùng Trời.
      Ta vì chúng khổ đòi nơi,
Từ bi vô ngại tuyên lời phổ lưu.
      Tín tâm chơn thật vô ưu,
Chẳng sanh nghi hoặc càng sưu lý mầu.
      Sau nầy rõ đặng máy sâu,
Huyền vi hiển hiện có đâu sai lầm.
      Chúa yêu sân hận Quan-Âm,
Quyết toan đấu phép thậm thâm giữa trời.
      Dốc lòng ám triệt Như-Lai,
Giao phuông trận địa giữa ngoài biển khơi.
      Mây đen mịt mịt khung trời,
Phổ-Ðà khiêu chiến xin mời Quan-Âm.
      Từ bi thanh tịnh quang lâm,
Yêu phun lửa độc tối tăm bầu trời.
      Thiện-nam, tín-nữ nầy lời,
Mưa chan sấm dậy đất trời chuyển rung.
      Hoàn toàn hắc khí như un,
Chúng sanh cấu nhiễm khó mong đặng tuyền.
      Bảo bùng động địa kinh thiên,
Khí yêu độc địa khói đen ngạt mùi.
      Không gian chẳng thấy mặt trời,
Ðất không hơi thở là thời lâm nguy.
      Khắp nơi Thiên-Thần Ðịa-Kỳ,
Khắp chư Thánh-chúng từ bi giải nàn.
      Bây giờ khắp cõi trần hoàn,
Thi hành diệu pháp cứu an tinh thần.
      Phép mầu sở hữu tùy thân,
Ngày đêm thiện niệm bảo thân nhiệm mầu.
      Nơi nơi đồng nguyện sở cầu,
Cùng môn Cứu-Khổ người hầu niệm mau.
      NHƯ-LAI sát sát trên đầu,
Chư Thiên hộ hựu thì mau phục hồi.
      NGỌC-HOÀNG ngự trị phong lôi,
QUAN-ÂM trí ấn thâu hồi ngạ tinh.
      Ðến khi sấm chớp đặng bình,
Phong ba lẳng lặng ánh minh rọi vào.
      Cõi trần thảm khốc mòn hao,
Thương người thiểu phước làm sao cứu hồi!
      Hàng ma phục oán đã rồi,
Trần dương nay mới vãn hồi bình an.
      Ai ôi! nắm vững Ðạo vàng,
Tu thân là món bảo toàn tâm linh.
      Muốn mau hưởng cuộc thái bình,
Muốn đời an lạc hãy gìn chữ Tâm.
      Tâm là thế chủ đâu lầm,
Tâm là Thiên-Ðạo hãy tầm lý sâu.
      Tâm là Phật chủ diệu mầu,
Hoặc ma làm chủ cũng âu tại mình.
      Vì trong tư tưởng hiện hình,
Cũng mê với giác biến sinh liền liền.
      Nếu Tâm phát giác lập nguyền,
Thì nên tạo phước gieo duyên buổi nầy.
      Rèn lòng niệm Phật ăn chay,
Cải tà quy chánh ngày ngày phát minh.
      Cầu an cho chiến họa bình,
Cấy cầy ruộng phước Thiên-Ðình đặng sung.
      Họa kia tự thể biến lần,
Phước càng tô điểm cõi trần càng thanh.
      Chư căn ngộ pháp lòng thành,
Thức-thần huệ-giác tu hành từ bi.
      Chư linh vào đời cứu nguy,
Thọ thân kịp hội Tam-Kỳ độ tha.
      Gặp thời thì hãy bước ra,
Góp tay trợ Ðạo Kỳ-Ba nạn cùng.
      Trên nhờ NGỌC-ÐẾ nhiêu dung,
Phật ân siêu diệu vô cùng từ bi.
      Vào tu nghiệp lực kéo trì,
Mê vui thích đẹp thiếu gì nghiệp ma.
      Vật chất lôi cuốn hằng sa,
Vô minh đậy mắt Liên-tòa khó trông.
      Hỡi chư Thánh-Chúng trần hồng,
Ðuốc thiêng phổ chiếu khai thông thức thần.
      Nhớ rằng bổn-nguyện vào trần,
Long-Hoa đại thệ thọ thân Ta-Bà.
      Mạt đời là buổi độ tha,
Trần dương hóa Ðạo âu là ngó ngơ.
      Nầy khuyên bá tánh kịp giờ,
Tu nhân tích đức chớ lơ lãng lòng.
      Trì Kinh niệm Chú thuộc thông,
Dầu cơn ngộ biến cũng không ngại gì.
      Có QUAN-ÂM lực phò nguy,
Thành tâm thiện niệm giữ y lời truyền.  
      Nam-Mô A-Di-Ðà Phật.
   (Bạch-Diệu-Hoa bạch: Nam-mô Quan-Thế-Âm Bồ-Tát. Con xin kính bạch: trước kỉnh lễ, bái Ðức Quan-Âm, vì con gốc cũng phàm phu tánh còn mê tối, cúi nhờ ơn Phật từ bi cho con được vài điều thỉnh vấn. Vì con đã có nghe thấy Kinh Sấm thường tuyên thuyết rằng đến hai ngàn năm cuộc tận thế hiện trạng sẽ bặt khí âm dương, không thấy mặt Nhựt, mặt Nguyệt. Lúc tuyệt khí âm dương như vậy nhân vật sẽ không có hơi thở điều hòa, bầu trời tối mịt suốt năm ngày năm đêm. Bạch Ðức Quan-Âm, có phải đó là trận chúa yêu đấu phép với Phật Quan-Âm đó chăng?)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân khéo hiểu! Ðúng như thế. Nhưng nào phải do Ta toan tranh tài đấu phép với ngoại đạo. Ta chỉ vì rộng lượng cứu thế, thường hành bổn nguyện, nhưng vô lượng bổn nguyện cứu thế của Bồ-Tát tức đại cừu hiềm của chúng ma! Vì lý tánh đối trị hàng phục tà đạo, với quân ma là oán.
      Yêu tà thì chủ động nhiệt não, gieo giống cấu trược, dục vọng điên đảo vì nghiệp chướng vây bủa như sấm sét, như mây giăng, như cuồng phong, như sóng bảo. Kiếp khổ như bức não, như lửa đốt, như dầu sôi! Thường chịu đau nhức như búa đánh, như dao bầm. Sợ hãi như sắp bị người xô đạp vào hầm lửa, núi đao, không một phút nào được an ổn!
      Quanh năm suốt kiếp phải luôn chịu đói khát, khô gầy chỉ còn da bọc lấy xương! Kiếp sống của ngạ-quỷ vô lượng khổ não, dầu một ngày, một tháng, một năm đến mười năm, trăm năm, ngàn năm cũng không được một giờ, một phút đến nửa phút hưởng an lạc thanh tịnh!
      Nếu có được sự ăn uống thì chỉ là máu, mủ, xác thúi, giòi nhặn, phân, tiểu, nước miếng, bọt, dãi, những miệng mũi răng của kẻ thiểu thực; hoặc huyết bẩn uế nhơ, hoặc những ghè hủ nhổ nước bọt, trầu cau, cặn bả, cấu uế, tất những mùi hôi tanh có màu đỏ; hoặc miểng chậu, miểng lu mái, miểng bát, miểng chai, vỏ ốc thúi, chúng phải nhai nuốt như vậy dầu miệng lưỡi bị tuôn chảy máu me đầm đìa; hoặc tựa theo trụ cầu đón xác thúi, giòi nhặn của thú tử mà làm thức ăn, hoặc ăn tro, ăn đất cát dưới các chổ sanh sản!!!
      Tất cả những sự thọ thực của ngạ-quỷ đều tùy nghiệp lực mà được dùng mỗi thứ đều khác. Thoảng như tìm không được những thức ăn phù hợp như vậy thì cam chịu đói khát, khô gầy, rên khóc kêu la khô khan cả cổ họng, kêu không nên tiếng, chỉ bò lăn dưới đất cát nóng như lửa than, phỏng vuột tay chân lại ngã lăn như trục trục, dầu cho nước đầy sông tràn hồ cũng không được uống!!! May thay gặp thời pháp mạt, thế cuộc chuyển xoay, lòng người xa Ðạo, tu hành rất hiếm kẻ, Ðức-Thánh Nhân-Hiền mỗi lúc càng suy giảm, vật chất đa sanh, văn minh đồi loạn, lòng người thêm dục vọng, tham, sân, làm cho trần dương sự cấu nhiễm, tội lỗi tăng gia, ấy là tạo cơ hội, đem tất cả phương tiện đến cho ma quân tạo lợi thế, chúng được nắm thế ưu mới gây cuộc sống động, hoành hoại cõi dương đưa đẩy loài người vào tội ác để cho nhân nhân, quả quả dày nặng như núi Tu-Di, làm đà tiến triển rốt ráo đến họa diệt thế.
 (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Kính bạch Ðức Quan-Âm: vừa nghe qua mọi khổ não của bọn ngạ-quỷ, con liền phát tâm thương xót, và những cái mầm mống giao khởi cấu tạo thời cuộc như vậy, con nguyện thỉnh ý Quan-Âm vì sao tâm hạnh từ bi nơi đại hải Bồ-Tát và Ðức Quảng-Ðại Quan-Thế-Âm lại chẳng cứu độ, vớt hồn ngạ-quỷ khỏi chốn trầm luân đưa về cõi siêu lạc, thứ nhứt là lợi cho ma đạo thoát khổ thọ lạc, thứ hai dầu thời pháp mạt nhưng loài người cũng đở phải động lực của bọn ác quỷ ám ảnh để hoành hoại mà đưa đến cơ tận diệt. Và thoảng như hiện trạng ngày nay cuộc chiến tranh nguyên tử rủi bùng nổ thình lình, như vậy những người có tham gia trong cuộc chiến hoặc những kẻ chủ động, hoặc những người đã gây tạo nhiều tội trọng thì việc thọ báo đã đành; nếu kẻ vô tội, người thiện đức hoặc người tu hành, hoặc chư vị Bồ-Tát thọ thân hóa độ, rủi họ vướng phải họa lây thì có oan khúc chi cho họ chăng?
      Và Cơ Ðại-Ðạo Tam-Kỳ Phổ-Ðộ khai sáng ra mối Ðệ Nhị Huỳnh-Ðạo nơi hải ngoại ngày nay, thời kỳ thế chiến thứ ba quá cận kề thì thế gì hóa độ cho kịp? Hơn nữa là đời nay đức tin rất yếu ớt, lòng nghi hoặc lại mạnh lớn hơn vô biên, thế gì hóa độ chúng sanh cho được hoàn mãn trong kỳ đại họa sắp tới???)
      - Lành thay! Lành thay! Thiện-nhân vừa khai thị những lời thỉnh nguyện đại lành như thế! Hãy khéo nghe cho kỹ, biên chép cho rành rõ, phổ cập đúng thời những lời lành Ta nay tuyên thuyết, ấy là phương thức lợi hành thứ nhứt.
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Ðại-Bồ-Tát tâm từ vô lượng, dầu cho nước nơi đại-hải không bì được, và tâm vô ngại đại-bi chẳng chổ rốt ráo sánh như hư không, nhưng vì sao chẳng thể độ dứt chúng sanh nơi ba đường ác?
      Nầy Bạch-Diệu-Hoa! Chư Ðại-Bồ-Tát đối với chúng sanh như bi-mẫu, dầu căn tánh lợi, độn, dầu cho thiện ác thắng liệt như thế nào đối chư Bồ-Tát vẫn một tánh bình đẳng không hai, với ÐẤNG CHÍ-TÔN cũng như vậy. Còn Ðạo pháp ví như ngọn minh-đăng. Những Kinh điển pháp giáo lưu bá phổ cập khuyến cáo ví như sức mạnh chư Ðại-Bồ Tát từ trên thuyền bè đưa tay xuống nơi ba đào nước cuốn lầy lội đục nhơ mà vớt người sắp bị chết đắm. Chết đắm vì sóng mồi vật chất; chết đắm vì cặn bả đục nhơ nơi ngũ-dục; chết đắm vì nước biển tam độc cuốn nhanh! Nhưng nếu Tam Thế Chư Phật hằng hóa độ chúng sanh chẳng ngớt, thì chúng sanh ở trong tam sanh kiếp vẫn lưu trử tập nghiệp chứa nhóm tam độc. Ðời nào cũng có kẻ thiện người ác, kiếp nào cũng có lành có dữ, có giác có mê, có thiện giác, có ác giác. Huống nay cuối đời pháp mạt, thế giới nhân loài càng ảnh hưởng kiếp trọng trược nặng nề, từ hai ngàn năm qua loài người hoặc chướng, ác giác đã vân tập như mây che!
            Vì chúng sanh khổ, vì cứu vớt hiểm nạn nơi ba đường ác nên Chư Ðại-Bồ-Tát hằng dùng con thuyền Ðạo-Pháp làm phương tiện cứu cánh, dùng Kinh điển giáo hóa chúng sanh như dùng món thuốc hồi sinh cứu người bịnh ngặt đang cơn hấp hối. Tuy nhiên, chẳng phải hoàn toàn trọn đủ tất mỗi căn trí chúng nhân. Thiện-nhân! Chính Phật Thế-Tôn còn phải trừ lại hạng Nhứt-Xiển-Ðề. Lại huống chi nay nhằm thời Pháp mạt, trong vòng hai ngàn năm qua lại hiếm gì hạng người bất giác như vậy, trừ khi tại cõi thế nhân đã dứt hết căn ác giác Nhứt-Xiển-Ðề và tam độc Thân, Ngữ, Ý nghiệp thì ba đường ác đạo tự nhiên chấm dứt.
Nếu áp lực cơ diệt hóa tới cùng nhân loại chậm hay mau sẽ có ba yếu tố, và ba cái yếu tố đó sẽ bài tiết rất tỏ rõ ở trong cuộc sống của nhân loại hằng ngày, mà nhân loại sẽ là nắm quyền tối hậu quyết định lấy cho chính mình, chớ không phải quyền tối hậu quyết định ấy là do nơi ma đạo.
YẾU TỐ THỨ NHỨT
Là nhân loại ngày nay đã xét thấy cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử có lẽ sẽ đến với thế giới một sớm một chiều, và xét thấy khắp nơi trên cõi Ta-Bà xiển dương Ðạo-Pháp, Kinh điển lưu bá một cách khẩn trương và đủ trong Tam-Thừa Cửu-Phẩm. Như vậy, tất cả căn trí thắng liệt phải khéo tư duy, khéo hồi minh cảnh trí, ngộ sám hoàn lương cải tà quy chánh, tu niệm cho được phù hợp với căn cơ mình, trước lợi mình, sau lợi người, chăm học Kinh điển để dứt trừ tập nghiệp, thường niệm Di-Ðà cầu phước huệ vinh thăng.
      Ðược như vậy hết thảy thì cuộc Thế-Chiến Nguyên-Tử sẽ tự tiêu hủy, đó là "Bất chiến tự nhiên thành", ấy là cái phúc lạc thanh tịnh chính người phải tự lập.

YẾU TỐ THỨ HAI
      Là toàn tất Chư Linh có nhẫn thọ hành trì Bổn-Nguyện cứu cánh nhân loài, xả thân tu cầu hồi hướng công đức lợi tha cho chúng sanh hay chăng là yếu tố thứ hai. Nếu các chư Linh-Căn chẳng quyết tâm đem sức thiện căn của mình, phúc đức của mình, công năng của mình mà hồi hướng gia trì phước lực tăng tấn cho chúng sanh, thì chúng sanh dầu có ăn năn cũng chưa thấm bổ với nghiệp lực tập thể giữa nhơn loài trong thời Pháp mạt ngũ trược tăng tấn, khoa văn minh tấn hóa cực tiến như hiện nay!
      Lại xét cuộc họa diệt nơi cõi Ta-Bà trong thời đại nói chung, bất cứ với hình trạng diệt hóa tập thể nào: thiên tai, địa ách, thế chiến hoặc chiến tranh lẻ, hoặc trong quốc độ nào, châu bộ nào thì số nạn vong tập thể đó tuy không trọn hẳn được lành dữ thiện ác, thì số nạn nhân đó phải có đủ căn đủ nghiệp, có thiện có ác, nhưng đại đa số là những người thiếu tu niệm, ít phước đức. Những xứ sở đó, quốc độ đó đã nhiều kiếp chẳng được chư Bồ-Tát trụ xứ để hóa độ. Vì sao? Vì chẳng đó Ðức-tin nơi Phật-pháp nên Thánh-linh chẳng đến. Tuy nhiên, vẫn phải có kẻ lương thiện, có bực hiền nhân lẫn lộn với số rất tối thiểu, thế nên chẳng đủ phước lực để che chở hiểm họa chung phần! Vì thiếu diễm phúc nên chẳng được ÐẠI-ÐẠO quảng truyền, Kinh pháp chẳng được lưu bá, chư vị Bồ-Tát cùng các Thánh-Linh chẳng đến lưu trụ, cơ TẬN-ÐỘ chẳng được phổ cập đúng thời để cứu cánh!
      Nhưng vào vòng hiểm họa chúng sanh đồng phải thọ nạn tập thể như vậy. Những kẻ nhiều tội ác thì tất phải thọ quả ác. Người lương thiện thọ nạn như vậy tức là thọ phước. Vì sao? Vì những kẻ tội ác hiểm độc nếu chết là hiểm nạn, chết là khổ não, chết là thối hóa, chết là mất mạng, mất lộc, mất lợi, mất thân, mất thể.
      Người hiền lương, sống thường tu tạo phước đức, chết là hủy khổ sanh lạc, chết là chuyển nữ sanh nam, bần khổ sanh phú quý; nếu tướng mạo thô ác xấu tật lại chuyển sanh tướng hảo, căn trí hạ liệt chuyển sanh nhà tôn quý, được gần gủi thiện-nhân, học thông Ðạo-lý thành bực đa văn.
      Vậy lúc thọ hiểm nạn tuy đồng, chỉ dứt một tấc hơi khổ lạc đều khác hẳn, tất chẳng có gì là oan cả.

YẾU TỐ THỨ BA
      Nó sẽ hoàn toàn ảnh hưởng trong hiện tượng của hai yếu tố trên mà dung nạp thành quả.
      Thoảng như hết thảy nhân loại nói chung, tất cả người Việt từ quốc độ Việt-Nam tị nạn chánh trị, mang danh nghĩa Ðại-Ðạo lưu trú khắp thế giới nói riêng, trong số đó có đủ căn đủ trí, đủ Tam-Giáo Ngũ-Chi, chư vị Bồ-Tát, Thánh- Linh, căn cơ thắng liệt, thiện ác, hiền lương, hiểm hung, độc dữ, tu niệm, thánh đức, hiền nhân chẳng thiếu, mà sứ mạng Tận-độ là cái sứ mạng chánh của quốc độ Việt-NamÐược một sứ mạng hy hữu như vậy dầu rằng một quốc độ tiểu nhược nhưng hậu lai sẽ tràn đầy thắng phước, công đức dân tộc ấy như nước biển chẳng lường! Một diễm phúc tối cao được Bề-Trên chọn cuộc khai sáng cơ nghi ÐẠI-ÐẠO ngay trong thời Pháp mạtGồm năm nhánh dựng thành cơ hữu Tận-Ðộ, cứu cánh đúng thời, sánh như dựng lên một tòa nhà bằng Pháp-Bảo giữa trung vị đường ngã năm. Ngôi nhà kia chứa đầy Pháp vị, sắm đủ các món ăn nuôi dưỡng tinh thần, đủ các loại thuốc cứu nguy bịnh ngặt.
      Còn số kiếp nhơn loài ngày nay sánh như những khách bộ hành đang lở bước hành trình gặp lúc hoàng hôn giữa rừng thiêng núi hiểm, không tìm ra lối thoát, thành ấp lưu trụ hãy còn xa..., họa diệt thế cùng tập nghiệp chúng sanh như rấp nhập cảnh hoàng hôn bán lộ! Thì tòa nhà Pháp-Bảo kia là nơi tá túc mà lánh họa hiểm cùng. Sống nơi tòa nhà Pháp-Bảo kia đã sẵn đủ phương tiện, chẳng đói khát, không sợ hãi, chẳng còn thành vách ngăn che giữa màu sắc, giữa phái tông, mà chỉ dung thông sự Bình-Ðẳng, nối kết tình cốt nhục tương quan, thương yêu lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau, dùng Ðạo-Pháp mà làm món ăn nuôi dưỡng tinh thần cho được khôn lớn, được lành mạnh. Dụng THIÊN-NHÃN làm ánh sáng mặt trời, sự soi sáng tâm hồn ngõ tìm nguồn thiện phước mà phục thỉ hồi chơn...
      ...Dầu cho muôn Kinh ngàn điển, Tam-Giáo, Ngũ-Chi, triết môn, huyền học, rốt ráo cũng trở về một nguồn Ðạo vô thượng đệ nhứt nghĩa là chỗ tối hậu pháp yếu.
      Còn cơ ÐẠI-ÐẠO khai minh, NHÃN mục thần dương là lý, biểu tượng ÐỨC NGỌC-HOÀNG THƯỢNG-ÐẾ, sự soi sáng là lằn thượng diệu điển quang. Dầu Ngài chẳng thọ thân vì thời Pháp mạt, sự giáo Ðạo chỉ dùng lối vô hình phối trí cùng hữu vi để hóa Ðạo. Ngoài ra, những nền tảng giáo pháp kinh tạng, Nho, Lão, Thích, giới luật, điều qui, văn ngôn, luận ngữ, luân lý giáo điều tất đều đầy dẫy, thừa sức thông dùng cho tất hàng hữu học, trừ khi lòng người chẳng mộ ưa cầu học thì rất khó nghĩ bàn.
      Tuy nhiên, Ðạo khai dùng thuyết Tận-Ðộ, tức phải tùy thuộc căn cơ chúng sanh, bổ túc Kinh điển được phù hợp căn trí, phù hợp bối cảnh, tương ứng nguyện vọng, điều thuận sự ngăn chia, hòa nhu thời ác chiến, như dùng những giọt mưa bằng nước Ma-Ha tưới ngọn lửa phiền não đã bừng cháy khắp cõi đại địa, ấy gọi là phương châm cứu cánh tận độ.
      Ngoài còn diệu lực gia trì vô năng thắng nơi Bề-Trên đại-bi, đại-từ nhiếp niệm. Hằng hà chư Ðại-Bồ-Tát, ức vạn chư Thiên bủa tràn thắng phước tăng tấn sức thiện căn, giúp chư thiện chúng hành trì Ðạo-Pháp được kiên nhẫn, thâu nhiếp các thiện nguyện lợi tha, giảm hoặc chướng, tăng phước lực, làm cho cõi đại địa mây chướng mòn tan, ánh quang đãng thượng diệu mặt Nhựt rọi vào, muôn loài vạn vật được nhờ hơi ấm thiên nhiên cùng ánh sáng vô nhị ấy mà hưởng được phúc lạc thanh tịnh.
      Vậy toàn cõi thế nhân hãy lưu tâm định ý phục nguyện hoàn lương, gieo giống thiện căn, tài bồi ruộng phước, tự giác tự tu mà độ mình cứu người hầu được khỏi phụ lòng Trời Phật, và để cho biển phước thế nhân luôn được chứa đầy nước mát mùi thơm, đời đời chẳng bị khô cạn. Ðó là kết ba yếu tố đem lại thành quả vậy...
QUAN-THẾ-ÂM BỒ-TÁT

                              Thi bài:
      Cơ cứu thế mạt đời gieo rải,
      Thức tâm hồn nhơn loại ngủ say,
            Thiên-Cơ tuy chẳng lộ bày,
Nhân duyên kiếp mạt hằng ngày tấn mau.
      Dòng suối nghiệp tuôn trào ngập bể,
      Cuộc đáo đầu nguơn hệ kỳ ba,
            Sấm Kinh khuyến thiện hằng hà,
Hồi chơn tỉnh thế Ta-Bà giải nguy.
      Cõi đại-địa trong kỳ diệt hóa,
      Lòng Trời thương khai xá Ðạo mầu,
            Hóa hoằng tận độ Ngũ-Châu,
VIỆT-NAM trọng trách hoàn cầu lợi tha.
      ÐẠI-ÐẠO như tòa nhà Pháp-Bảo,
      Ẩn vào đây nương náu đêm dài,
            Bốn bề hiểm trở chông gai,
Hùm beo rắn độc muôn loài bao quanh.
      Phật nhập diệt, bộ hành lở tối,
      Mạt pháp đời, hấp hối tai nguy,
            Ðạo khai tận độ tam kỳ,
Dựng nhà giữa cuộc đường đi lỡ chừng.
      Bồ-Tát chúng hóa thân che chở,
      Chư Thánh-Linh khắp ở tứ châu,
            Nguyện trong bá tánh hồi đầu,
Chấp tay niệm Phật mà cầu vãng sanh.
      Chuyên tập sửa tánh lành phát hóa,
      Thì họa ương bất khả xâm thân,
            Chớ nên vọng nhiễm mùi trần,
Công danh phú quí xa lần mới kham.
      Phước đức trọng Dà-Lam che chở,
      Lợi danh cao hơi thở phập phồng,
            Của đời tuy có mà không,
Nay đây mai đó cùng trong não phiền.
      Ðạo là món ăn hiền pháp vị,
      Vừa thanh lương, khai trí trụ thần,
            Xa lìa hiểm nạn bảo thân,
Mé bờ Cực-Lạc thấy gần kề bên.
      Người tu niệm Ơn-Trên thường giúp,
      Kẻ lăng loàn lặn hụp biển trần,
            Hằng ngày tam độc nhiễm thân,
Ngộ luồng ác khí khó mong cứu hồi.
      Dòng nước bợn cuốn trôi kẻ yếu,
      Yếu tinh thần lại thiếu tu thân,
            Sống vui với cuộc giả trần,
Nào hay bẫy rập vướng chân hiểm nàn.
      Tu là tạo sen vàng cửu phẩm,
      Tu là trừ ngũ ấm dứt rời,
            Ba độc trừ dứt nhớ lời,
Ngọn đèn trí huệ sáng ngời trước sau.
      Ao Thất-Bửu nhìn màu chiếu lạ,
      Nước tịnh minh siêu hóa diệu mầu,
            Tẩy lòng hoặc chướng dứt mau,
Bồ-đề giữ chặt ma nào dám lung?
      Ma ngoài dữ muôn trùng khó sánh,
      Ma nội tâm hay đánh giác hồn,
            Dại mà tu niệm: dại khôn,
Khôn đường thế sự xác hồn khổ thâm.
      Ðời đảo loạn chủ tâm không đảo,
      Cuộc hổn nàn Tam-Bảo móng nền,
            Tu tâm luyện tánh vững bền,
Gieo trồng ruộng phước ghi tên bảng vàng.
      Kiếp người thế canh tàn ảo mộng,
      Như rừng đêm cọp rống voi rền,
            Khôn thời thuyền Ðạo bước lên,
Thoát vòng khổ lụy kề bên sớm chiều.
      Ngàn thuở mới ngân-kiều gặp hội,
      Biết bao phen chìm nổi ngục trần,
            Mạt đời bẫy cạm vướng chân,
Buổi đời trọng ác muôn phần khổ gay.
      Cuộc đại-chiến chờ ngày phát họa,
      Lễ Cầu-An tua khá lưu tâm,
            Trì Kinh Cứu-Khổ Quan-Âm,
Cầu-An Sám-Hối ân thâm hộ trì.
      Ngày đêm niệm A-Di thường nhớ,
      Là phương châm tế trợ hiểm nàn,
            Tại trần cũng được vạn an,
Ðến kỳ thoát hóa Tây-Phang liền kề.
      Nhìn thế mạt ê chề vật chất,
      Miếng đỉnh chung thực vật đủ mùi,
            Trăm ngàn thú cuộc trò vui,
Miếng mồi câu nhử loài người đọa mê.
      Từ chỗ vui trở về tăm tối,
      Từ cao sang mượn lối ngục tù,
            Biết thời gìn một chữ Tu,
Thuộc lòng nhẫn nhục ngàn thu cảnh nhàn.
      Vì cuộc thế sôi tràn quả nghiệp,
      Lòng từ bi minh thiệp bày lời,
            Liễu tâm chánh huấn kịp thời,
Kia thuyền Bát-Nhã độ người thoát mê.
      Bờ ngạn-giác trở về hội hiệp,
      Lánh biển mê trong kiếp mạt đời,
            Sóng trần trôi dạt mòn hơi,
Hạ-Nguơn kiếp mạt, đáo đời họa lây.
      Hỡi thiện-căn! chớ chầy bổn nguyện,
      Góp tâm thành thực hiện Ðạo chơn,
            Tu tâm gương hậu thế nhân,
Tu cầu phúc lạc tha thân buổi cùng.
      Chư thiện-tín đồng chung hạnh ngộ,
      Ðược lời chơn hãy cố tâm gìn,
            Rèn lòng niệm Phật trì Kinh,
Phước cầu tăng tấn, thái bình dựng mau.
  Nầy Thiện-nhân, thời PHỔ-CHIẾU TÂM-KINH sắp mãn, nay còn điều chi tối cần Thiện-nhân khá bạch trình lên.
      (Bạch-Diệu-Hoa bạch: - Nam mô A-Di-Ðà Phật! Kính bạch Ðức Quan-Âm: vì con nhớ kỳ Ðàn Cơ-Bút ngày 15 tháng 5 dương lịch, Ðấng Chí-Tôn dạy rằng: Ðức Quan-Âm thị hiện cỡi rồng nơi biển Nam-Hải ấy là có ý ban cho bá tánh một bức Thánh-Ảnh chơn thật, để cho tất cả trăm họ bốn phương thờ kính phụng trì. Ðức Quan-Âm sẽ ban hành diệu lực cứu khổ phò nguy trong thời kỳ mạt pháp nầy. Vì nhiều khổ nạn đến trong chúng sanh cấp thiết, vì nạn vô minh che chướng mà chúng sanh chưa được minh liễu sự lợi ích cho mình và cho người, nên khi lâm nạn hoặc cấp, hoặc trì, hoặc sắp đến, hoặc bịnh chứng nguy cấp, hoặc nan y, kẻ biết cầu Quan-Âm cứu khổ cứu nạn thì rất ít, mà người chưa biết đại diệu lực cứu khổ nạn nơi Quan-Âm thì rất nhiều!
      Nay Ðức Quan-Âm Như-Lai phổ minh quyển Tâm Kinh nầy vào đại thế chúng, vậy con kính lạy Quan-Âm xin nhờ chỉ giáo cho biết cách thờ phượng cũng như nghi thức, hoặc phương tụng niệm để được khỏi sai lạc. Ðây là một niềm đại ân phúc đến cõi thế nhân, ví như biển nước Ma-Ha toàn đầy vị ngọt, mát mẻ thanh trong, và nguồn nước tám công đức vô lượng nầy được lưu vận vào tất cả sông ngòi cho tất chúng sanh đồng được uống để giải trừ nạn khát, hoặc từ lâu vì quá khát phải uống nhằm nước độc, mặn, nay đã sắp chết, gặp được bát nước trong mát ngọt, tức thì được hồi phục sự sống.
      Hoặc sánh như số người đang ngủ quên trong ngôi nhà rộng lớn kia, nửa đêm bị lửa bốc cháy, tất cả người đều chẳng có lối thoát, bỗng gặp ân nhân đem nước tới tưới lửa dẫn ra khỏi nạn chết. Thì đây là một đại-diễm-phúc cho nhân loại, là do nhờ ơn đức đại từ bi của Ðức Quan-Thế-Âm, công đức bổn nguyện mười hai hoằng thệ thâm như đại hải! Sau khi lời bạch trình cầu thỉnh Phật ngôn giáo điều cần thiết, con xin thay mặt cho toàn thể chúng nhân, khắp thiện-nam tín-nữ, khắp hết đạo-đồ các nơi, thành tâm kỉnh lễ Ðức Quan-Âm trước đây trăm lạy, ấy gọi là thay mặt chúng sanh dưng chút lễ rất nhỏ mọn trong lúc nghèo cùng, phước, trí chẳng có, công lao cùng bảo phẩm quí giá cũng không! Chỉ dâng hiến món tâm thành vô lượng ngỏ báo Phật ân, và cầu Phật gia trì cho hết thảy chúng nhân đồng thụ hưởng phúc lạc thanh tịnh thứ nhứt, cầu được cõi âm đồng siêu liễu, cõi dương được thái bình, đồng hạnh lạc nhờ nơi phước lực đại từ bi và đại công đức cứu khổ nàn nơi Phật lực. Nam mô Ðại Từ Ðại-Bi Linh Cảm Ứng Quan-Thế-Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát.)
      - A-Di-Ðà Phật! Lành thay! Niệm ý lành thay! Nầy Thiện-nhân! Như quyển TÂM-KINH ngày nay được phổ cập nhân sinh, một là nơi bổn nguyện độ thế trong phần thiểu vị nơi lòng từ mẫn của Quan-Âm thôi! Ngoài đây lại còn biết bao nhiêu công năng nơi thiện-nam tín-nữ, tức là Bồ-Tát lực phối tác nhơn lực mới gieo rải duyên lành. Nếu quên lãng công đức nơi chư căn thiện-nam tín-nữ thì Bồ-Tát lực nơi cõi siêu diêu thế gì tạo tác phần hữu thể.
      Sự tán dương công đức nơi Quan-Âm Ta rất cảm, nhưng đối công năng chư Ðại-Bồ-Tát chúng, và tất chư bổn nguyện lợi tha, dũng lực đại bi, tâm từ mẫn thiệp nơi chư Ðại-Bồ-Tát chúng thì Ta chưa nhằm được vi ti trong xứ sa mạc, lại đâu thể gọi đây là đại công đức.
      Cũng như chính Ta thuở quá khứ vì lòng thương xót kẻ nạn nhân, những khi hành thuyền lâm nạn, hoặc bảo tố, hoặc giặc cướp, hoặc thuyền xiêu biển cả, Ta bèn tự tay cắt mái tóc xanh thả trôi dòng đại hải, biến thành tám vạn bốn ngàn Thần Hải-Ngư, tất những Thần Hải-Ngư đồng lực thần thông, tầm thinh cứu khổ y như Bồ-Tát Quan-Thế- Âm, nhưng đối với chư Ðại-Bồ-Tát cũng chưa sánh được công đức vậy. Huống nay chỉ bộ Kinh. Tuy dầu đối với Bồ Tát thì chẳng mộ xưng công, nhưng bổn tánh Kinh điển báu lạ vô biên, giúp giải họa đời sánh như ao nước bát công đức! Ta nguyện đem phước lực này mà bố hóa toàn diện cho hết thảy chư chúng sanh, cho hết thảy thiện-nam tín-nữ, người thành tâm hiếu mộ, đọc tụng, tin ưa, phụng trì thiết thực, thờ phượng chơn thật Thánh-Ảnh, tin sâu lời giáo pháp không nghi chấp, không quên lãng.
      Và những người thiện-tín trọn thành tâm gom công góp sức bồi bổ vào công cuộc ấn tống Kinh, hoặc cúng dường bằng công năng, bằng tài hóa, hoặc thành tâm đem Kinh điển giao tận tay, tận nhà cho người được ngộ nhận, thì phước lực đồng đẳng cả không sai.
      Tất cả chư căn thiện-tín đạo đời hãy vững vàng tâm niệm, diệu lực phước báo nơi công đức ấn tống Kinh nầy sẽ được tài bồi hậu hữu, tiêu giảm chướng căn, tập nghiệp mòn tan, giải trừ hoạn họa, sánh như người được tắm gội Cam-Lồ vậy!
      Ngoài phần nội dung Tâm-Kinh thì những Kinh thường tụng tại gia chư thiện-tín thì chỉ dùng Cứu-Khổ Kinh vào mỗi thời trong ngày. Nếu vì bận bịu thời giờ và không đủ phương tiện lập Thiên-Bàn, chỉ một Thánh-Ảnh Quan-Âm thì hãy thành tâm cầu bận Kinh Cứu-Khổ, vậy cầu cho đệ tử tên họ mình (người tụng đọc: nhứt gia ly khổ nạn). Ngoài thời trì Kinh thì ít hơn hết là mỗi gia đạo phải có một hoặc hai người vào phụng trì môn niệm Phật, tràng hạt chuỗi 108 xem như bửu-pháp hộ mạng ở thời khốn mạt tai ách quá kề. Thì đó là phương châm thoát họa đệ nhứt và môn Cứu-Khổ Quan-Thế-Âm mà thôi.
      Lại quyển TÂM-KINH QUAN-ÂM nầy mọi phương cách xin được thuần thục vào giác quan để nhắc lòng hầu hối ngộ ăn năn hồi chơn phục thỉ.
      Ðiều cần yếu tối trọng là những lúc về sau bất cứ lúc nào, bất cứ sự sợ hãi nào xảy đến hoặc sắp xảy thì tất cả đều vào niệm Cứu-Khổ thành tâm và chuỗi A-Di-Ðà phải kiên cố. Ðó là phép tốc tật giải nàn trong những thời gian cấp thiết quá hạn hẹp mà không thể dùng kịp những pháp môn khác.
            Ngoài đây hãy còn sự tế cấp diệu lực Bề-Trên gia trì hộ hựu chẳng ngớt. Khuyến cáo toàn thể tín-nữ thiện-nam tin sâu nơi diệu-pháp, dứt hẳn lòng nghi, hộ trì Chánh-Giáo là góp sức thiện-căn chung tay cùng chư Ðại-Bồ-Tát mà thi thố bổn nguyện cho được thành mãn CƠ TẬN-ÐỘ vậy!

Kệ rằng:
Hậu phước thay cho trong thời pháp mạt,
Cả chư linh năng phát tác nghiệp lành,
CƠ TẬN-ÐỘ nầy cần trí giác giữa nhơn sanh,
Chư Thánh-chúng mới trọn thành bổn-nguyện.
Bực căn-trí năng thuần đường tu luyện,
Chư thiện-tâm cùng phát nguyện hộ trì,
Kẻ chưa, thời vào nhập Pháp qui y,
Người Phật-tử gắng hành trì câu niệm Phật.
Còn xử thế hãy gìn lòng chơn thật,
Ai cũng phải cần manh áo với cơm,
Sống làm sao giữ được tiếng danh thơm,
Nghèo cơm áo, quí hơn giàu nhơ bợn.
Nghèo tiền bạc, giàu lòng nhơn đức,
Kẻ nghèo nầy sánh bực thượng-lưu,
Cơm ngày hai tâm trí vẫn vô ưu,
Thức giấc ngủ huân lưu câu niệm Phật.
Xét cho cạn kiếp người là sự thật,
Cõi vô thường, nhân vật mãi vần xoay,
Biển luân hồi muôn kiếp mãi lưu đày,
Nhơn thể mất, biết bao ngày tìm lại được?
Dòng ái dục cuộn trào như thác nước,
Ba món độc làm cho lợi trước hại về sau,
Như cá gặp mưa lực vận nhảy hố hào,
Chẳng suy cạn nơi nào là cạm bẫy.
Người có trí khôn ngoan hơn biết mấy,
Vật chất là chỗ thấy giục lòng tham,
Máu với xương thảm họa chúng đành cam,
Nguyên-Tử chiến cũng vì ham bá chủ.
Người độc ác ấy vì mê giấc ngủ,
Trống canh tàn bạch thủ chốn âm ty,
Hỡi chư căn, tỉnh giác kịp hồi quy,
Sen chín phẩm nơi Liên-trì còn đợi mãi.

NAM-MÔ A-DI-ÐÀ PHẬT.




I/. KINH VĂN:
 KINH CỨU KHỔ
         Nam mô Đại Từ, đại Bi Quảng Đại Linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát. (đọc 3 lần)
         Nam mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ, cứu nạn Linh Cảm  Quán Thế Âm Bồ Tát, bá thiên vạn ức Phật, hằng hà sa số Phật, vô lượng công đức Phật. Phật cáo A Nan ngôn, thử kinh Đại Thánh, năng cứu ngục tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ.
         Nhược hữu nhơn tụng đắc nhất thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn, tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn.
         Nam mô Phật lực oai, Nam mô Phật lực hộ, sử nhơn vô ác tâm linh nhơn thân đắc độ, hồi quang Bồ Tát, hồi thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện Bồ Tát, ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo, quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu, chư Đại Bồ Tát, ngũ bá A La Hớn, cứu hộ đệ tử..….nhứt thân ly khổ nạn, tự ngôn Quan Thế Âm. Anh lạc bất tu giải, cần đọc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát, tín thọ phụng hành tức thuyết, Chơn ngôn viết: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đà La Ni Đế, Ni Ha La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Ta Bà Ha.

II/. VIẾT RA CHỮ HÁN:

  

             
                                               .
                            .
                 使                    殿                         ...............                              :
                                  .
III/.CHÚ GIẢI:
         Vào thời Hạ nguơn này, đời càng đi sâu vào mạt pháp, nhơn loại càng sống trong dầu sôi lửa bỏng: Chiến tranh khốc liệt ở nhiều nước trên thế giới; thiên tai tàn phá như bão lụt, sống thần, hạn hán…; bệnh chướng hoành hành nhiều thứ dịch bệnh phát sinh...làm cho con nguời phải chịu nhiều điêu linh, khổ sở.
         Như chúng ta biết, sở dĩ đời nhiều khổ đau là do tâm niệm và hành vi hung dữ của con người. Muốn làm dịu bớt thảm trạng này, mỗi con người phải tự tỉnh ăn năn và cầu xin Đức Quan Thế Âm giảm trừ nghiệp chướng, tiêu tai miễn họa. Vì vậy, bài Kinh Cứu Khổ rất cần thiết cho người biết tu để tụng niệm trong hiện cảnh ngày nay.
      Kinh Cứu khổ   : Kinh cứu khổ là một bài kinh tụng cầu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ, cứu nạn cho chúng sinh khi gặp tai ương hay bệnh tật. Bởi vì Đức Quan Thế Âm là vị Bồ Tát có hạnh nguyện “Tầm thinh cứu khổ    ”, tức là nơi nào chúng sanh có sự khổ đau, tai ách mà có lòng thành cầu xin cứu giúp, thì Đức Ngài liền ban ơn cho tiêu tai miễn họa. Theo Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, phẩm Phổ Môn, hễ ai thờ Ngài ắt được phước đức, ai cầu nguyện và niệm danh hiệu Ngài thì được Ngài chở che cứu giúp qua khỏi nạn tai.
         Đạo Cao Đài thường tụng bài kinh Cứu khổ để cầu siêu cho Cửu Huyền Thất Tổ, thượng Tượng, cầu an (An vị Thánh Tượng), hay cầu giải bệnh cho người bịnh tật.
         A- CHÚ THÍCH:
Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát
             
         Nam Mô  : Kính lễ, đãnh lễ (cúi đầu làm lễ).
         Chữ Nam Mô có sáu ý nghĩa:
         - Quy y: Trở về nương tựa Phật, Bồ Tát.
         - Quy mạng: Quy gởi thân mạng của mình.
         - Cung kính: Hết lòng chí thành cung kính.
         - Cứu ngã: Mong được cứu độ.
         - Đãnh lễ: Lòng thành kính lễ.
         - Độ ngã: Ngưỡng mong tu tập được qua bờ giác ngộ.
         Tín đồ Cao Đài, người tu theo Phật thường đặt từ Nam Mô trước danh hiệu của Đức Chí Tôn hay chư Phật với ý nghĩa là nguyện đem lòng thành kính hướng về Chí Tôn, chư Phật để nương tựa, cầu mong được cứu độ, và được giải thoát.
         Đại Từ Đại Bi    Có lòng Từ bi to lớn.
         Từ bi là lòng thương yêu, lo lắng mong giúp đỡ cho chúng sanh được an lành và cứu vớt chúng sanh ra khỏi tai ương, khổ não. Lòng Từ bi phải là một chân tâm, xuất phát từ lòng trắc ẩn thành thật, không vụ lợi, không phân biệt thân sơ hay sang hèn. Từ bi là một thứ tình thương đem đến niềm an vui cho kẻ khác. Người có Từ tâm, thì lúc nào cũng muốn tạo và dâng hiến sự an lành, hạnh phúc cho kẻ khác, còn người có lòng bi thì bao giờ cũng mong xoa dịu hay làm vơi bớt những nỗi đau của kẻ khác.
         Ban cho điều sung sướng, cứu giúp sự khổ não, mà làm sao tự ta không thấy mình là kẻ ban ơn, người là kẻ thọ ơn, như thế mới thật là lòng từ bi.
         Đại Từ Đại Bi là lòng Từ bi tối thượng, chỉ đạt được khi đã đạt được Trí huệ tối thượng, tức là tâm Từ bi tuyệt đối, vô điều kiện, chỉ có được nhờ sự giác ngộ rốt ráo về chân lý. Đó là lòng Từ Bi của Đức Thượng Đế và chư Phật, chư Tiên.
         Quảng đại  : Rộng lớn, tức là chỉ lòng thương yêu vô biên, rộng lớn.
         Linh Thiêng liêng.
      Quan Thế Âm Bồ Tát     
         Quan Thế Âm hay Quán Thế Âm Bồ Tát là một vị Bồ Tát có lòng Đại Từ Đại Bi và thường hay cứu khổ cứu nạn, cho nên chúng sanh đâu đâu cũng thờ và tụng niệm đến danh hiệu của Ngài. Ba chữ Quán Thế Âm nói lên được lòng thương vô lượng vô biên của Ngài, lúc nào Ngài cũng lắng nghe âm thanh ở thế gian, nơi nào, lúc nào có tiếng kêu đau, kêu khổ của chúng sanh thì Ngài đều đến cứu giúp, hóa độ.
         Trong kinh Pháp Hoa có câu:                       (Khổ não chúng sinh, nhất tâm xưng danh, Bồ Tát tức thì quan kỳ âm thanh, giai đắc giải thoát. Dĩ thị danh Quan Thế Âm).
         Nghĩa là chúng sanh bị khổ não mà nhứt tâm niệm đến tên Bồ Tát, tức thì Ngài xem âm thanh của chúng sanh mà độ cho được giải thoát. Vì thế, nên gọi Ngài là Quan Thế Âm.
         Người Đời thường gọi tắt là Quan Âm. Ngài còn có hiệu là Quán Tự Tại Bồ Tát, có nghĩa là quán chiếu thâm sâu, giác ngộ tự tại mà cứu độ chúng sinh.
         Đức Quán thế Âm có phép thần thông quảng đại, thường hay biến hiện nhiều sắc tướng để cứu giúp chúng sanh, nên người đời thường thờ Ngài bằng nhiều tượng khác nhau.
- Thiên thủ thiên nhãn Quan Thế Âm Bồ Tát          tượng có nghìn tay nghìn mắt.
- Chuẩn Đề Quan Âm    : Tượng có ba mắt và mười tám tay.
- Nam Hải Viên Thông Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi, Tầm Thanh Cứu Khổ, Linh Cảm Quan Âm Bồ Tát                 : Danh hiệu nầy có nghĩa là Đức Quan Thế Âm làm Giáo Chủ Đạo Viên Thông ở miền Nam Hải, thường tìm tiếng kêu mà cứu khổ, rất cảm ứng và rất Thiêng liêng.
- Quan Âm Nữ Phật    : Tượng là một người phụ nữ, cho nên còn gọi là Phật Bà Quan Âm, do hai sự tích : Quan Âm Diệu Thiện và Quan Âm Thị Kính.
         Trong nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Quan Thế Âm là một tướng nữ, tượng trưng cho tình thương của một bà mẹ hiền, đứng trên hoa sen, tay cầm cành dương liễu để tiếp dẫn chúng sanh và bình nước cam lồ để rưới tắt các phiền não. Trụ Xứ của Ngài là Nam Hải, nên còn được gọi Nam Hải Quan Âm hay Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai. Ngài được Đức Chí Tôn phong làm Nhị Trấn Oai Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai để đại diện cho Phật trong thời Tam Kỳ Phổ Độ.
         Bát Nương có giáng cơ cho biết về Đức Quan Âm như sau: “Dưới quyền của Phật Mẫu có Cửu Tiên Nương trông nom về cơ giáo hóa cho vạn linh, còn ngoài ra có hằng hà sa số Phật trông nom về cơ Phổ Độ mà Quan Thế Âm Bồ Tát là Đấng cầm đầu. Quan Thế Âm Bồ Tát ngự tại Cung Nam Hải, ở An Nhàn Động, còn Cung Diêu Trì thì ở tại Tạo Hóa Thiên”. Sau đây là bài Thánh thi của Đức Quan Âm Như Lai:
                              Khán đắc phù sinh nhứt thế không,
                                     
                              Điền viên sản nghiệp diệc giai không.
                                             
                    Thê nhi phụ tử chung ly biệt,
                                             
                              Phú quý công danh tổng thị không.
                                             
                              Cổ ngữ vạn ban đô thị giả,
                                             
                              Kim ngôn bá kế nhứt trường không.
                                             
                              Tiền tài thâu thập đa tân khổ,
                                             
                              Lộ thượng huỳnh tuyền lưỡng thủ không.
                                             
                                                      (Quan Âm Như Lai)
DỊCH NGHĨA
                              Được thấy phù sinh vốn cõi không,
                              Ruộng vườn sự nghiệp cũng đều không.
                              Vợ con cha mẹ rồi ly biệt,
                              Danh lợi sang giàu rốt cũng không.
                              Lời cổ: muôn điều toàn giả tạm,
                              Câu nay: trăm kế một trường không.
                              Tiền tài gom góp nhiều lao khổ,
                              Nẽo đến Suối Vàng, tay sạch không.
(Thiên Vân dịch).
         Nam mô Đại Từ, Đại Bi Quảng Đại Linh Quan Thế Âm Bồ Tát              Vị Bồ Tát Quán Thế Âm Thiêng Liêng có lòng Đại Từ Đại Bi rộng lớn.
Nam Mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát.
          
       Cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát        Đức Quán Thế Âm là một vị cổ Phật trong đời quá khứ, cách nay vô lượng kiếp Ngài đã thành Phật, hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai. Vì hạnh nguyện đại bi muốn cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh và làm chúng sanh được an lạc, nên Ngài hiện thân làm Bồ Tát qua lời giới thiệu của Đức Thích Ca Mâu Ni được ghi chép trong nhiều kinh Phật.
         Phẩm Phổ Môn trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói về hạnh nguyện cứu độ chúng sanh như sau: “…Phật bảo Vô Tận Ý: Này Thiện Nam Tử! Nếu có vô lượng trăm ngàn ức chúng sanh bị bao khổ não, được nghe danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, mà nhứt tâm xưng danh hiệu của Bồ Tát. Bồ Tát Quán Thế Âm tức thời quán sát những âm thanh đó thì những chúng sanh kia đều được giải thoát khổ não. Người thường trì tụng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, nếu gặp nạn lửa lớn, lửa chẳng đốt cháy được, vì do oai thần lực của Bồ Tát. Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát, liền được đến chỗ cạn…”.Tóm lại, hễ ai thờ Ngài, có lòng cầu nguyện và niệm tưởng thì được Ngài phù hộ và cứu giúp qua khỏi nạn tai.
         Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Bi Tâm Đà La Ni cũng có chép rằng: “Đại oai thần lực của Bồ Tát Quán Thế Âm không thể nào suy xét bàn luận được. Bồ Tát Quán Thế Âm phát lời thệ nguyện rằng: Nếu tôi về đương lai có thể làm nổi những việc lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh thì ngay bây giờ đây thân tôi hãy phát sanh đủ ngàn tay ngàn mắt. Quả như vậy, Ngài phát lời nguyện vừa xong bèn hiện đủ ngàn tay, ngàn mắt”. Thật là Đấng Đại từ bi cứu khổ cứu nạn!
Bá thiên vạn ức Phật
    
         Bá thiên  Trăm và ngàn.
         Vạn ức  : Muôn và trăm ngàn.
         Bá thiên vạn ức    : Chỉ một con số nhiều.
Hằng hà sa số Phật
    
         Hằng hà sa   Cát sông Hằng, tức là cát của con sông Gange ở Ấn Độ.
         Hằng hà sa số    : Số nhiều như cát sông Hằng. Đây là từ dùng để ví dụ một số lượng rất nhiều, không thể đếm được.
Vô lượng công đức Phật     
      Công đức  : Công đức là những công việc làm lành, có công năng tạo phước và đem lại phước đức cho mình, cho người khác. Những công việc như in kinh, bố thí, lễ bái, tụng kinh, ủng hộ những người tu hành chân chính là những việc làm tạo ra công đức, đây là một điều quan trọng của người tu hành. Nếu không có phương tiện tài chánh thì ta có thể dùng thời giờ của mình đến Thánh thất làm công quả hoặc giúp đỡ cho mọi người để tạo dựng thêm công đức.
         Trong Kinh Phật có nói: Công đức phải là nơi tự tánh thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu có được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau.
         Vào thời Tam Kỳ Phổ Độ, Chí Tôn lập Đạo kỳ nầy là mở một trường thi công quả. Thầy dặn: “Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế để làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo, phải có công quả”.
         Vô lượng công đức Phật     : Hạnh nguyện Đức Phật Quan Thế Âm thật là vô biên, nên công đức của Ngài thật là vô lượng, , không thể nào nghĩ bàn được.
Phật cáo A Nan ngôn     
         Cáo : Kẻ trên bảo người dưới là cáo, kẻ dưới thưa cùng người trên là bạch, nhằm biểu thị sự tôn kính.
      Phật cáo A Nan ngôn     : Phật bảo cho Ông A Nan biết rằng.
         A Nan  : Còn gọi là A Nan Đà    (Ananda), dịch nghĩa Khánh Hỷ, là một trong mười đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Ngài sinh ở Ca Tì La Vệ, em họ sinh cùng ngày nhưng nhỏ tuổi hơn Đức Phật. Năm 20 tuổi, Ngài xuất gia theo Phật, và luôn ở cạnh Đức Phật để làm thị giả, nên Ngài được nghe thuyết giảng nhiều kinh và có trí nhớ rất giỏi, vì vậy, trong các đệ tử, Ngài là bậc đa văn (nghe nhiều) nhất. Chính tôn giả Ca Diếp đã nói về Ngài như sau: “Nước trong biển cả Phật pháp rót hết vào trong tâm A Nan”.
         Tên Ngài đôi khi còn được dịch là Vô Nhiễm, vì những khi theo hầu Phật vào Thiên cung, Long cung…thuyết pháp, tâm Ngài không hề nhiễm trước nơi sắc cảnh. Nữ giới được Đức Phật chấp nhận cho xuất gia làn ni cũng nhờ Ngài đặc biệt thỉnh cầu. Trong các ni viện Trung Hoa, thường thờ Ngài A Nan tại Tổ đường để tưởng niệm ân đức là vì lẽ đó.
         Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, và Ngài chứng được quả A La Hán, Đại Ca Diếp Tôn Giả mới đề cử Ngài đứng ra kết tập Bộ Kinh Tạng.
         Sau Ngài được Đại Ca Diếp truyền y bát cho làm tổ thứ nhì bên phái Thiền Tông.
         Phật cáo A Nan ngôn     : Phật bảo cho Ông A Nan biết rằng.
Thử kinh Đại Thánh    
         Thử kinh  : Là kinh nầy, tức là bài kinh Cứu khổ. Bài kinh nầy đặc biệt cầu nguyện Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh.
         Bài kinh nầy, trong Đạo Cao Đài thường dùng để tụng khi cầu an, cầu bệnh, hay cầu siêu Cửu Huyền Thất Tổ (Cáo Từ Tổ). Như trên ta đã biết chỉ cần nghe âm thanh kêu cầu cứu khổ của chúng sanh là Đức Quan Thế Âm Bồ Tát sẽ thị hiện cứu giúp. Do đó, theo lời Kinh dạy: Nếu tụng bài kinh này được một ngàn lượt thì một thân lìa khỏi khổ nạn; một muôn lượt thì cả nhà lìa khỏi khổ nạn. Tóm lại, khi tụng cầu bài kinh Cứu Khổ với lòng thành làm cảm ứng Bồ Tát thì Ngài sẽ phò trợ tiêu tai thoát nạn, giải trừ bệnh chướng, siêu sanh Tịnh độ…
         Đại Thánh  : Là vị Thánh lớn. Ở đây ý chỉ Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
         Thử kinh Đại Thánh có nghĩa là quyển kinh nầy của vị Đại Thánh Quan Âm Bồ Tát.
Năng cứu ngục tù
   
         Năng cứu  : Có thể cứu giúp.
         Ngục tù  Ngục là nhà giam.  là giam giữ. Ngục tù là bị bắt giữ lại nơi nhà giam.
         Năng cứu ngục tù    : Có thể cứu khỏi cảnh bị giam giữ nơi nhà ngục.
         Thế gian đã là một biển khổ, mà con người bị cảnh tù ngục nơi cõi ấy, thì ta tưởng tượng sự khổ đau không biết là ngần nào! Con người bị tù ngục, tức là phải chịu cảnh lao lung, quanh năm suốt tháng mất tự do, bốn bức tường bao kín, không thấy được mặt trời, mặt trăng, huống chi lại bị đày đọa thân xác, thiếu phương tiện, thiếu cơm ăn áo mặc. Người ta thường nói: “Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại       ” có nghĩa là một ngày ở tù, bằng ngàn thu ở ngoài.
         Người bị hàm oan, hay người bị tù tội do lầm lỡ gây ra tội lỗi và biết ăn năn hối cải, khi tụng đọc bài kinh này, Bồ Tát Quan thế Âm cũng có thể giải trừ tù ngục cho người có lòng thành sám hối ăn năn. Điều này Bồ Tát cũng đã nói trong Phổ Môn như sau: “…nếu người có tội hay vô tội, bị cầm tù xiềng xích, mà xưng danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm, thì xiềng xích liền bị đứt đoạn, khiến được giải thoát…”. Có bài kệ rằng:
                                 Hoặc tù cấm xiềng xích,
                                 Tay chân bị gông cùm.
                                 Do sức niệm Quán Âm,
                                 Tháo rã đặng giải thoát.
Năng cứu trọng bịnh    
         Trọng bịnh  Bị bệnh nặng.
         Năng cứu trọng bịnh    : Có thể cứu được bệnh nặng.
         Con người thường dùng tâm giả để mà sinh hoạt sống còn, từ lúc sanh đến lúc chết, chưa từng có một niệm giác để được thấy lại tự tâm hay bản lai diện mục. Vì chưa giác ngộ nên không biết gốc rễ bịnh tật. Do nước lửa xung đột, bốn đại công phá, đó là thân bịnh, bịnh có thể dùng thuốc trị, nếu chẳng hết thì có thể dùng tứ vô lượng tâm để điều trị, hoặc cầu các Đấng giải bịnh oan khiên. Còn nếu do vọng tưởng, phiền não nhiễm tâm, đó là tâm bịnh, bịnh nầy thì không có thuốc để trị.
         Chí Tôn và chư Phật là Đấng lương y ở thế gian, có thể điều trị tâm bịnh của chúng sanh. Các Ngài sẽ dùng Chánh giác để phá vọng tưởng vô tánh, đó là lương dược để hoàn sinh rất huyền diệu.
         Hay nói cách khác, nếu biết phá trừ tâm vọng tưởng hay tâm phiền não, không để chúng trói buộc xoay chuyển thì tự khắc diệt trừ được tâm bịnh.
         Kinh Cứu Khổ là một bài Kinh dùng để chư tín đồ có lòng thành tụng niệm cầu xin Đức Quan Thế Âm Bồ Tát giải trừ các loại thân và tâm bị bệnh.
Năng cứu tam tai bá nạn khổ
      
         Tam tai  : Ba thứ tai họa xảy đến: Hỏa tai  , Phong tai  và Thủy tai   .

      Hỏa tai  Tai họa do lửa như cháy nhà cửa...

         Phong tai  Tai họa do gió gây ra như bão lụt, cuồng phong…

         Thủy tai  : Tai họa do nước gây nên như hồng thủy, lụt ngập, sóng thần...
         Bá nạn khổ   : Hằng trăm thứ tai nạn khổ sở.
         Thế gian là biển khổ, một phần cũng do con người từ vô thủy đến nay, bị hạt giống ái căn, vọng tuởng ô nhiễm thâm sâu, nên che mờ tự tánh vi diệu, khiến cuộc sống dựa trên tâm vọng tưởng, và thế giới hư huyễn, nên cứ mãi trôi theo vòng sinh tử luân hồi. Vì vậy, trăm ngàn thứ tai ương, khổ sở do nghiệp trước tạo ra, mãi triền miên trói buộc kiếp hiện tại, không bao giờ giải ra được. Nếu con người biết ăn năn hối lỗi, thành tâm tụng niệm bài kinh Cứu khổ này, tức thì Đức Quan Thế Âm liền hóa giải trăm ngàn nạn khổ cho chúng sanh.
Nhược hữu nhơn tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ nạn
           
         Nhược hữu nhơn   : Nếu như có người.
         Tụng đắc  : Tụng kinh được.
         Nhứt thiên biến   : Là một ngàn lượt, tức là tụng một ngàn lần bài Kinh Cứu Khổ ấy.
         Nhứt thân ly khổ nạn     : Một thân mình lìa khỏi khổ nạn.
         Nhứt thiên biến nhứt thân ly khổ nạn        : Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có hứa với chúng sanh, nếu thành tâm mà tụng được một ngàn biến (tức 1000 lượt) kinh Cứu Khổ thì một thân người sẽ được lìa khỏi khổ sở tai nạn.
Tụng đắc nhứt vạn biến, hiệp gia ly khổ nạn
        
         Nhứt vạn biến   Một muôn biến hay mười ngàn biến, tức là tụng được mười ngàn lượt bài Kinh Cứu Khổ.
         Hiệp gia ly khổ nạn     : Cả nhà lìa khỏi khổ sở hoạn nạn.
         Nhứt vạn biến hiệp gia ly khổ nạn        : Nếu nhứt tâm bất loạn mà người công phu tụng được mười ngàn biến kinh cứu khổ thì Bồ Tát Quan Thế Âm sẽ cứu giúp cho cả nhà lìa khỏi khổ nạn.
Nam Mô Phật lực oai, Nam Mô Phật lực hộ
        
         Oai lực  Hoặc uy lực là oai phong, tức là uy quyền sức mạnh.
         Phật lực oai   Hay là oai lực của Đức Phật, có nghĩa là sức mạnh uy quyền của đức Phật.
         Đối với chúng sanh đang bị khổ não, Đức Phật thường hiện tướng hiền lành, từ bi ra để cứu giúp cho chúng sanh đang bị khổ nạn. Đối với ma vương, tà quái, Đức Phật phải hiện tướng uy nghi, bởi vì sức hay tướng uy nghi của Đức Phật có thể khiến cho ma vương, tà quái kinh sợ mà hàng phục chúng. Chính vì thế, tượng Đức Quan Thế Âm thường hiện tướng oai nghi Thiên thủ thiên nhãn, tức nghìn tay nghìn mắt, hay khi Ngài cai quản các âm hồn thì Ngài hiện ra tướng có lưỡi dài, mặt xanh như tàu chuối, vì thế Ngài được gọi là Tiêu Diện Đại Sĩ     (Tiêu diện: Mặt xanh như tàu lá chuối).
         Hộ lực  : Là sức che chở, sức bảo vệ, sức giữ gìn.
         Phật lực hộ   Nghĩa là sức bảo vệ giữ gìn của Đức Phật.
         Thánh hiệu Quan Thế Âm Bồ Tát gồm đủ hết thảy công đức và lòng đại từ bi, chẳng cần biết hạng chúng sanh nào đang bị đau khổ, nạn tai mà có lòng xưng niệm, thì sẽ được hộ lực của Đức Ngài. Chỉ có đều do công lực của tâm trì niệm sai khác, nên tự nhiên cảm thọ hộ lực của Phật sâu cạn cũng sai khác. Như vậy, người có lòng thành tụng niệm, nhất tâm bất loạn, thì sẽ đạt được cảm ứng từ hộ lực của Đức Phật.
Sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ
使        
         Sử nhơn 使 Sai khiến người, làm cho người.
         Vô ác tâm   : Không có lòng hung ác.
         Linh nhơn  : Khiến cho người.
      Đắc độ  : Được cứu giúp, được tế độ.
         Đức Phật Quan Âm là Đấng Đại Từ bi, khi nghe chúng sanh kêu cầu liền ra tay cứu khổ cứu nạn. Muốn được Đức Phật độ trì thì người niệm Phật phải có lòng thành, lòng có thành thì Phật mới cảm mà cứu giúp cho.
Hồi quang Bồ Tát, Hồi thiện Bồ Tát
      
         Hồi quang  : Là ánh sáng quay về trở lại, ánh sáng phản chiếu.
         Hồi Quang Bồ Tát    : Vị Bồ Tát đem Linh Quang là nguồn ánh sáng huyền diệu của trí tuệ bát nhã trở lại cho chúng sanh để được xa lìa cuộc đời khổ đau, đen tối.
         Phật quang hay ánh sáng của Phật có thể chiếu một cách triệt để, xuyên thấu mọi nơi, tột cùng chốn sâu kín để trừ tà ma, trị bệnh tật hay cứu khổ nạn.
         Hồi thiện  : Là trở về điều lành, quay về điều lành.
         Hồi Thiện Bồ Tát    : Vị Bồ Tát Đại Từ bi giáo hóa chúng sanh giác ngộ để quay về với điều thiện lành.
         Theo Mạnh Tử, “Nhân chi sơ tánh bản thiện      . Có nghĩa là con người khi xưa bản tính vốn lành, nhưng vì tập nhiễm thói xấu trong xã hội nên trở thành người hung ác. Phật giáo thì cho rằng chúng sanh đều có Phật tính: “Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính        ”. Riêng Cao Đài thì quan niệm rằng mỗi con người đều có Thiên tánh của Thượng Đế ban cho.
         Vì thế, cứu cánh của Bồ Tát Quan Thế Âm là mong muốn giáo hóa chúng sanh hầu đem con người trở lại tính thiện của ban đầu: Đó là Phật tánh hay Thiên tánh. Vì thế, danh hiệu Ngài cũng xưng tụng là Hồi Thiện Bồ Tát.
A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện Bồ Tát
      殿  
         A Nậu  A Nậu do phiên âm từ chữ Phạn ngữ là Anout, có nghĩa là vô thượng.
         Thiên Vương  : Các vị Thần ở bốn phương có nhiệm vụ bảo vệ Phật pháp.
         Đại Thiên Vương   Các vị Đại Thiên Vương.
         Trong Kinh nói Đức Quan Thế Âm Bồ Tát là vị Đại thần thông nên thường hiện nhiều tướng để cứu độ chúng sanh, có khi hiện ra làm Phạm Thiên Vương, hoặc làm Đế Thích, có khi Ngài hiện ra làm một vị Thiên Vương hoặc làm một vị Thiên Tướng. Nên còn gọi là Vô Thượng Đại Thiên Vương.
         Chánh Điện  殿Còn gọi là Bửu Điện là nơi Đền chánh thờ Chí Tôn hoặc thờ Phật.
         Nơi Chánh điện thờ Đức Chí Tôn được gọi là: “Linh Tiêu Bửu Điện”. Chánh điện thờ Phật thường được gọi là: “Đại Hùng Bửu Điện”.
         A Nậu Đại Thiên Vương chánh điện Bồ Tát       殿  Là vị Vô Thượng Đại Thiên Vương hộ trì nơi Chánh Điện.
Ma kheo ma kheo thanh tịnh tỳ kheo
       
         Ma kheo  Hay Ma khưu do chữ Ma ha Tỳ kheo (tỳ khưu) tức là một vị Tỳ kheo lớn, một vị Đại Tỳ Kheo.
         Tỳ kheo là những người xuất gia đã thọ Đại giới hay Giới Cụ túc, giữ 250 điều giới luật.
         Tỳ kheo gồm ba nghĩa:
                  Khất Sĩ: Là người trên xin giáo pháp của Phật để dưỡng huệ thân, dưới xin thức ăn của đàn việt để dưỡng nhục thân.
                  Phá ác: Diệt trừ các phiền não tham sân si, đoạn trừ nghiệp ác.
                  Bố ma: Nhờ công đức thọ giới luật, do chuyên tâm tu hành mà khiến cho các loài ma đều phải khiếp sợ.
         Người Nữ tu theo hạnh Tỳ kheo được gọi là Tỳ kheo ni.
         Ma kheo tức Ma Ha Tỳ kheo là vị Tỳ kheo lớn, vị Đại Tỳ kheo nhằm tỏ lòng tán tụng hạnh đức lớn lao, siêu việt của Đấng Tỳ kheo.
         Thanh tịnh tỳ kheo    : Là vị Tỳ kheo thanh tịnh.
Quan sự đắc tán, tụng sự đắc hưu
       
         Quan sự  Công việc thuộc về quan.
         Quan Sự đắc tán `   : Là chỉ những điều rắc rối cần đến quan, những công việc dính dấp với quan, phải đến cửa quan đều được tiêu tán, chấm dứt.
         Tụng sự  : Việc thưa kiện, việc tố tụng.
         Tụng sự đắc hưu    Việc kiện tụng đều được dẹp bỏ hết.
         Quan sự và tụng sự là những việc dính líu với quan quyền và việc kiện tụng, tức hai việc rất phiền não của chúng sanh. Người có Đạo đức hay trí thức thì phải biết tự xử lý công việc của mình không để phạm luật, không để cho kẻ khác hay quan lại phân xử, bởi Nho gia thường nói: “Người trí thì tự xử lấy mình, kẻ ngu mới nhờ quan phân xử” (Trí giả tự xử, ngu giả quan phân       ).
         Nếu lỡ như mang lấy quả nghiệp nầy thì phải thành tâm trì tụng bài Kinh Cứu Khổ để Đức Quan Thế Âm hộ trì cho việc quan được tiêu tan, điều kiện tụng được chấm dứt. Lời Kệ trong Phổ Môn Giảng Lục có viết như sau:
                                 Kiện tụng qua chỗ quan,
                                 Trong quân trận sợ sệt.
                                 Do sức niệm Quán Âm,
                                 Cừu oán đều tiêu tan.
Chư Đại Bồ Tát, Ngũ bá A La Hán cứu hộ
         
         Chư Đại Bồ Tát    Các vị Đại Bồ Tát.
         Ngũ bá A La Hớn     : Ngũ bá A La Hớn hay ngũ bá A La Hán là năm trăm vị A La Hán.
         A La Hán dịch từ phạn ngữ Arahat, là bậc Thánh đã đoạn trừ được tâm tham ái, chấp thủ và vô minh. A La Hán là một quả cao nhất trong bốn quả Thánh của Phật giáo Nam Tông, gồm có ba nghĩa:
         * Ứng cúng: Bậc xứng đáng được cúng dường. A La Hán là bậc Phạm hạnh đã lập, siêu xuất tam giới, đáng thọ lãnh sự cúng dường, tôn kính của Trời người, nên gọi là ứng cúng.
         * Sát tặc: Sát là giết chết, đoạn diệt. Tặc là trộm cướp. Dùng trộm cướp ví kiến hoặc hay tư hoặc thường cướp đoạt Pháp tài công đức của chúng sanh, khiến họ vĩnh viễn trầm luân trong sanh tử luân hồi. Bậc A La Hán đã đoạn sạch phiền não Kiến Hoặc, Tư Hoặc nên gọi là Sát tặc.
         * Vô sinh: Bậc không còn sinh tử luân hồi nữa.
         Ở đây, Ngũ bá A La Hán là chỉ năm trăm vị Thánh Tăng đã đắc được A La Hán, sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, họp nhau lần đầu tiên gần Thành Vương Xá để kết tập kinh điển do lời Đức Phật thuyết pháp thành Tam Tạng kinh.
         Cứu hộ  : Cứu giúp và bảo vệ.
         Sau chữ cứu hộ bài Kinh này chừa một khoảng trống để ta điền thêm vào:
            - Nếu tụng Kinh Cứu Khổ trong đàn Thượng Tượng, An vị, cầu an…thì điền: Chúng sanh thoát ly khổ nạn.
            - Nếu tụng Kinh Cứu Khổ để cầu giải bệnh thì điền: Đệ tử…(Họ tên và tuổi người bệnh)…nhứt thân ly khổ nạn.
            - Nếu đọc Cứu Khổ trong nghi cáo Từ tổ thì điền: Chơn linh Cửu Huyền Thất Tổ siêu thăng Tịnh độ.
Tự ngôn Quan Thế Âm
    
         Tự ngôn Quan Thế Âm     : Là từ lời nói của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, nói một cách rõ hơn, đó là lời hứa của Ngài với chúng sanh.
         Quan Thế Âm Bồ Tát là một bậc Đại Bồ Tát có lòng đại từ đại bi, có thần thông quảng đại, chỉ vì trông thấy chúng sanh đau đớn khổ sở ở chốn trần gian, nên Ngài có phát lời thệ nguyện là cứu cho hết mọi loài, rồi mới thành Phật. Ngài nói: “Hễ ở đâu có con ruồi con muỗi phải đau khổ là có Ta ở đó”. Trong bài kinh này, chính lời nói của Bồ Tát đã ký hứa cho những ai có lòng thành trì niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ cứu hộ cho. Vì thế, khi gặp nạn tai, tật bệnh hay khổ cảnh, chúng sanh thường cầu đảo Ngài.
         Hình tượng và công đức của Phật Quan Thế Âm đã ăn sâu vào tâm khảm mọi chúng sanh, dù có Tôn giáo hay không. Ta thường thấy, trên các xe khách hay tàu thuyền đều có vọng bàn thờ Ngài để cầu: “Thượng lộ bình an”. Như vậy, do căn cơ của chúng sanh chẳng đồng, nên Quan Thế Âm phải thị hiện trong khắp cả pháp giới, Kinh có câu:
                           Xứ xứ trì trung hữu minh nguyệt,
                                          
                           Gia gia môn hội hữu Quán Âm.
                                          
         Nghĩa là:
Ao nào cũng có ánh trăng,
Nhà nào cũng có Quan Âm hiện hình.
Anh lạc bất tu giải
    
         Anh lạc  : Xâu chuỗi ngọc, lấy ngọc châu xâu từng chuỗi đeo vào cổ cho đẹp gọi là Anh lạc.
         Tục người phụ nữ sang trọng Ấn Độ thường trang sức bằng xâu chuỗi ngọc Anh lạc. Ở đây chỉ xâu chuỗi thần thông của Đức Quan Thế Âm. Trong Kinh “Quán Vô Lượng Thọ”, nơi phần quán thân tướng Đức Quan Thế Âm, Phật có nói về xâu chuỗi Anh lạc như sau: “Cánh tay của Bồ Tát như sắc hoa sen hồng, có tám mươi ức tia sáng nhiệm mầu dường như chuỗi Anh lạc, trong ấy hiện ra tất cả việc trang nghiêm…
         Anh lạc bất tu giải     : Không cần phải lấy xâu chuỗi Anh lạc để giải (khổ sở, bệnh tật, tai nạn…).
Cần độc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoát
           
         Cần độc 勤讀Là siêng năng tụng đọc, tuy nhiên cũng cần phải chí thành tụng đọc để đạt đến nhứt tâm bất loạn.
         Tụng kinh Cứu Khổ là đọc kinh với giọng trầm bổng, nhịp nhàng, để âm thanh vi diệu lắng sâu vào lòng mà xoa dịu đi mọi phiền não, khổ đau, tham muốn. Ngoài ra, tụng kinh còn nhận được hộ lực nhiệm mầu của Đức Quan Thế Âm khiến cho người tụng dứt trừ ma chướng, tiêu tai giải nạn.
         Thiên vạn biến 千萬遍Ngàn muôn biến, tức là cần tụng đọc ngàn muôn lượt lần.
         Cần độc thiên vạn biến 勤讀千萬遍: Nên siêng năng tụng niệm ngàn muôn lượt kinh.
         Anh lạc bất tu giải. Cần độc thiên vạn biến tai nạn tự nhiên đắc giải thoátĐức Quan Thế Âm Bồ Tát không cần phải lấy xâu chuỗi Anh lạc để giải khổ nạn hay bịnh tật… mà chỉ cần siêng năng tụng niệm ngàn muôn biến kinh, ắt được giải thoát.
Tín thọ phụng hành tức thuyết chơn ngôn viết
        
          Tín : Hay tín tâm, tức là lòng tin tưởng, đức tin.
          Bất cứ một Tôn giáo nào cũng lấy lòng tin tưởng làm gốc. Lòng tin rất cần thiết cho người theo Đạo và giữ Đạo. Có được lòng tin con người mới vững vàng tu học, không có lòng tin sớm muộn gì cũng ngã.
          Song lòng tin phải có trí phán xét, chỉ nên hướng về nẻo chánh, điều lành. Chớ không nên bạ đâu tin đó, tin một cách cực đoan, không phân biệt chánh tà thì rất hại cho đức tin ta lắm vậy.
          Có lòng tin vào Trời, Phật và các Đấng Thiêng Liêng, tin tưởng có linh hồn bất tiêu bất diệt thì chúng ta mới sùng bái, học theo đức háo sinh của các Đấng, không dám tạo ác nghiệp mà phải gieo nghiệp lành để được thoát ra luân hồi sinh tử.
         Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tín là căn nguyên của Đạo, là mẹ của mọi công đức, nuôi lớn hết thảy thiện pháp, đoạn trừ lưới nghi, đưa vượt qua dòng nước ái dục, khai thị con đường tối thượng dẫn đến Niết Bàn”.
         Thọ : Hay Thụ, chỉ việc tiếp nhận thế giới hữu hình để đưa nó vào ý thức, là tin tưởng, vui thích nhận lãnh.
         Tín thọ  Tin tưởng và nhận giữ. Tín thọ ở đây có nghĩa không những tin tưởng, ghi nhớ kỹ vào tận đáy lòng, lại còn đúng như giáo pháp mà hành trì.
         Phụng hành  : Vâng theo rồi thi hành.
         Tín thọ phụng hành    Tin tưởng và nhận lãnh lời các Đấng dạy bảo rồi vâng lệnh thi hành đúng như Chơn pháp.
      Tức thuyết  : Tức thì giảng hay nói ra, liền nói ra. Trong bài kinh nầy do chính Đức Quan Âm Như Lai giảng ra.
         Chơn ngôn  : Chơn ngôn hay Chân ngôn do từ chữ Phạn Dharani, Hán dịch là Đà La Ni, có nghĩa là tổng trì tức là sự nắm giữ các pháp. Chân ngôn hay Chú là những lời bí mật của Chư Phật không nói rõ ra bằng lời. Những câu Thần Chú, Mật Chú khi trì tụng có sức mạnh huyền bí có thể diệt trừ khổ ách, tiêu tai giải nạn một cách kỳ diệu, không thể nào nghĩ bàn được.
         Thường những câu Chân ngôn, Chú hay Thần Chú đều bằng chữ Phạn, nên trong các bài kinh có Mật Chú đều được phiên ra âm Hán, chỉ đọc âm chứ không hiểu nghĩa. Ví dụ như bài kinh Vãng Sanh Thần Chú”.
         Theo Phật giáo Việt Nam, các Đạo sư thấy không cần thiết phải giải thích ý nghĩa của những câu Thần chú hay mật chú, vì nghĩ rằng thần chú không phải là để tìm hiểu, mà là để trụ tâm trì tụng hầu có sự cảm ứng với chư Phật và Bồ Tát.
         Viết : Rằng, là.
         Ta Bà Ha : Do từ Phạn ngữ Svaha. Đây là câu nguyện mật ngữ ở cuối những câu Thần chú có nghĩa là: Thành tựu, kiết tường, tiêu tai, tăng phước, xin được như nguyện.
      B- DỊCH NGHĨA:
         Nam mô Đức Bồ Tát Thiêng Liêng Đại từ bi, quảng đại Quan Thế Âm.
         Nam mô cầu Đấng cứu khổ, cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát, trăm ngàn muôn ức Phật, hằng hà sa số Phật, các vị Phật có công đức không thể đo lường được.
         Đức Phật bảo Ông A Nan rằng: Kinh nầy là của vị Đại Thánh là Đức Quan Thế Âm, có thể cứu được người ra khỏi ngục tù, có thể cứu người hết bịnh nặng, có thể cứu được người bị ba tai họa và trăm điều hoạn nạn khổ sở.
         Nếu có người nào tụng được một ngàn lượt kinh thì chính thân mình sẽ lìa được nạn tai khổ ách, tụng được một muôn lượt kinh thì cả nhà sẽ lìa khỏi khổ nạn.
         Nam Mô nguyện cầu oai lực của Đức Phật, Nam Mô nguyện cầu sức che chở của Đức Phật, làm cho lòng của con người hết hung ác, khiến cho thân con ngườl được cứu độ.
         Hồi Quang Bồ Tát, Hồi Thiện Bồ Tát, A Nậu Đại Thiên Vương Chánh Điện Bồ Tát, các vị Đại Tỳ Kheo, Thanh tịnh Tỳ Kheo, cứu giúp cho việc dính dấp đến quan được tiêu tán, việc kiện thưa được bãi bỏ.
         Chư vị Đại Bồ Tát, cùng với năm trăm vị A La Hán cứu hộ, chở che cho ................ lìa xa những khổ nạn. Đây là lời của chính Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
         Không phải cần lấy xâu chuỗi Anh lạc để giải khổ ách, chỉ cần siêng năng tụng đọc ngàn muôn lượt kinh, thì tai nạn tự nhiên được giải thoát.
         Phải tin theo, nhận lấy  và  thi hành, bèn đọc câu Chơn ngôn rằng: Kim Ba Kim Ba Đế, Cầu Ha Cầu Ha Đế, Đa La Ni Đế, Ni Ha La Đế, Tì Lê Ni Đế, Ma Ha Dà Đế, Chơn Lăng Càn Đế, Ta Bà Ha”.
Thiên Văn Hiền Tài QUÁCH  VĂN HÒA