Dù ai đi ngược về xuôi
.
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng
Mười tháng Ba.
Từ bao
đời nay, câu ca ấy vẫn in sâu trong tâm thức mỗi người dân Việt Nam, và dù ở
bất cứ nơi đâu trên trái đất này, cứ đến ngày Giỗ Tổ HÙNG VƯƠNG là hàng
triệu người con mang dòng máu Việt Nam cùng nhau thành tâm hành hương hoặc
hướng về đất Tổ, thắp nén tâm hương, nhớ về nguồn cội, tri ân tổ tiên với lòng
thành kính.
Hồng oai chuyển thế gia phong con hiền .
Mạng thừa dựng nước phân biên ,
HỒNG QUÂN chiết thể RỒNG TIÊN hạ trần .
Điệp ân Ngọc sắc Lăng Vân ,
Sơn hà Xã tắc Thiên phân tục phàm .
LẠC LONG riêng cõi trời Nam ,
Tạo thành Việt Quốc hội Tam thế triều .
Cửu Long hệ xuất LINH TIÊU ,
Vĩnh lưu Đạo pháp cao siêu nhiệm màu .
Các con thành kỉnh chực chầu ,
Thâm ân nhất nguyện đê đầu noi gương .
Cầu xin QUÂN PHỤ tòa chương
Chứng minh cứu khổ quê hương Lạc Hồng .
Yên nhàn hoa gấm non sông ,
Cha hiền con hiếu thề không phụ phàng .
Dầu cho bao cuộc nguy nan ,
Xin đem sĩ tiết thi gan trợ đời .
Công ơn QUÂN PHỤ rạng ngời ,
Gìn câu đạo nghĩa nhớ lời CHA trao .
Các con quỳ trước điện trào ,
Khải tâu QUÂN PHỤ tầng cao chứng lòng .
Thanh bình tứ phước non sông ,
Đồng hòa huynh đệ giống dòng thương nhau .
Tàn cơn lửa loạn binh đao ,
Trên hòa dưới thuận chung trao pháp huyền .
Nam mô QUÂN PHỤ CAO NHIÊN ,
Long Hoa Đại Hội quy nguyên Đạo Vàng .
( 3 lạy ) .
TÂM NIỆM
LỜI VÀNG QUÂN PHỤ
15 tháng 07 Mậu Thân
(08.08.1968)
THI
LẠC bang chứng vị tuyển con lành,
LONG hội lễ triều sắp bảng danh
QUÂN ngự trung kiên ban ấn khuyết,
PHỤ triều Nguơn chuyển pháp cao thanh.
KHẢI cơ Thống chưởng Tiền Thiên nhập,
LỄ vị hội minh Đạo pháp thành,
TRUNG sắc đề chương xây Chánh Đạo,
NGUƠN đồng chưởng lập thị lôi oanh.
Lôi oanh trị thế trạch lương hiền,
Lành dữ hai đường khó trọn duyên,
Lập đức cẩn ngôn nguồn Đạo mạch,
Hơn thua danh lợi chỉ đeo phiền.
Phiền lụy con ơi, kiếp sống trần,
Một ngày tuổi thọ khó toàn nhân;
Nguyên linh ngộ Đạo hành siêu pháp,
Để thoát khổ lao kiếp nợ nần.
Nầy các con! Sự sống của các con là sự sống của vô vi định đặt, chỉ quanh quẩn trong kiếp luân hồi gang tấc trong vòng trăm tuổi thì thử hỏi con có toại hưởng những gì thú vị của trần ai, còn sanh tử trong vòng thì làm sao được trường miên vĩnh cửu. Kiếp sống tạm của các con chưa gọi rằng đủ toàn nhiên kiếp sống cao linh, kiếp sống trường cửu khi các con đoạt được diệu pháp Kim thân Thánh thể, luân được Ngũ Khí Triều Nguơn, Huyền Nhiên Chi Khí con gom tụ thì sống vĩnh cữu trường miên nơi Niết-Bàn hay Bạch-Ngọc. Kiếp sống còn mang thân tứ đại giả thì muôn đời các con phải chịu vòng luân hồi sanh, lão, bịnh, tử, não phiền cay đắng, buồn khổ thì làm sao thung dung tự toại sớm dạo non bồn, chiều về Điện Ngọc? Các con chớ quên tình Cha thương các con như tình thương con ở thế hạ, nơi gia đình con thương các con của con vậy, thì tình thương vĩnh cửu trường miên muôn đời không đoạn dứt.
Các con ngày nay đoạt được siêu pháp thượng thừa, ráng rèn luyện tâm linh chuyển lằn Kim quang đi vòng trong châu thân, luân tỉnh trụ huê-quang xuất khiếu triều nguơn nơi Thượng-đài mở Huyền-quang khiếu, Cữu huyện phải đã thông, Truyền Quang Như Ý phải đi đồng, đừng vì dục vọng trần ai, xa rời tâm pháp nhiệm mầu của Thượng Phụ Hồng Quân bí khuyết cao linh vì thế hạ Long Hoa khai diễn Thầy chẳng riêng tình. Các con thọ mạng cao linh lập đời Nghiêu Thuấn, xây bảng Phong Thần, dựng lập Vương Triều, Thầy mới sắc phong diệu pháp mầu siêu để cứu cánh các con về nơi cựu vị. Các con ơi! Biển trần ai các con phải thức tỉnh trở về với huệ điễn cao linh, đừng đắm sa nơi thế hạ trần tình dục vọng cuốn lôi theo ác trược thì muôn đời con phải chịu luân hồi sống trong vòng trăm tuổi mà thôi!
Cơ tận diệt đã diễn biến khắp nơi từ Âu sang Á, hoàn cầu thế giới năm châu triều đại tuần hoàn vận chuyển. Xét chung cùng nòi giống Lạc bang Tiên Tổ, động lòng Cha xót thương con biết tâm truyền diệu lý, Cha vui mừng. Con thù nghịch lẫn nhau, giết hại nhau, lòng Cha đớn đau dường dao cắt! ... Con ơi! Cố gắng tu hành cho vẹn vẻ, dứt sân si thịnh nộ, dứt nghiệp quả cuồng loạn thân tâm hầu đạt được siêu thâm diệu lý, chánh pháp đại thừa .
THI
THI
Các con quì trước bệ đài
Lòng Cha thương xót điểm lai cơ mầu.
Tu hành kiên chí lo âu,
Cuộc trần biến chuyển Năm châu rối cuồng .
Giờ đây Long Hội khai tuồng,
Sao con còn biết cội nguồn Tổ Tiên.
Tưởng rằng con nghĩ tình riêng,
Tu cao con lại than phiền khổ thân.
Nghiệp đời con phải lao thân,
Đường tu luyện pháp chuyên cần con ơi!
Ngày sau cơ chuyển tức thời,
Nghe ba tiếng sấm vang trời Phật lâm.
Con tu đừng nghĩ lạc lầm,
Có Thầy, có Mẹ chứng tâm con hiền.
Thành lòng vọng thỉnh Cữu Huyền,
Nên Cha ngự xuống bệ tiền đêm nay.
Nhắc con công quả kịp ngày
Pháp lành lo luyện chớ phai mật truyền.
oOo
Mật truyền diệu lý ráng con ơi!
Khẩu khuyết cao linh khá kịp thời,
Luyện đúng Tiên-Thiên khai Cửu-khúc,
Huỳnh-Hà vận chuyển ngự lưng vơi.
Lưng vơi ngoan cảnh triệu đài son,
Nhập vị kim-thân điệp khuyết tròn,
Diệu hòa liên-Hoa khai bửu-vị,
Thoát hồi phong hỏa đắc đài son.
BÀI
Lạc-Long-Quân Cha truyền diệu hóa,
Lễ Trung-Nguơn Cha hạ Siêu đài,
Động lòng Cha xuống cơ lai,
Truyền con tất cả trong ngoài quang huy.
Con cầu nguyện Điện Trì Cha xuống,
Dạy con lành ráng chuộng pháp nguyên,
Đợi chờ Di-Lạc phán truyền,
Long-Hoa khai hội Cao-Thiên ngự triều.
Ngày Trung-Nguơn hội đều tất cả,
Các con lành điểm hóa đêm thanh,
Nhẹ lằn linh huệ ân lành,
Ban cho tất cả hồng danh điểm truyền.
Con cố gắng Đạo huyền diễn biến,
Khắp nơi nơi hóa biển thành sâu,
Hồng-Bàng Tiên-Tổ từ lâu,
Lạc-Long sắc tứ nhiệm mầu cao linh.
Con biết tu riêng tình thương nhớ,
Cứu Ông Cha lòng nỡ xa khơi,
Thương vì Thất-Tổ muôn đời,
Chịu điều phiền não cuộc đời lao thân.
Nuôi nấng con thân trần khổ cực,
Ngày xác phàm còn mất thế gian,
Linh-hồn còn phải ngục mang,
Động lòng cầu nguyện vớt đàn Vu-Lan.
Con biết tu Đạo Vàng tin tưởng,
Nguyện cầu Thầy hầu hưởng hồng ân,
Cuộc đời dập tắt nợ nần,
Biết lo Đạo pháp chuyên cần luyện đơn.
Nay các con phản hườn tỉnh trụ,
Chiếu huệ quang hiện ngũ linh-đài,
Nhập Thần xuất Thánh điểm khai,
Huyền-nhiên chi-khí trong ngoài cao linh.
Tuệ quang thông Bửu-đình trụ điễn,
Phóng kim-quang hóa hiện muôn màu,
Tường vân ngũ sắc tay trao,
Triều-Nguơn hiện chiếu linh mao trụ thần.
Nơi Điền-Đan linh thân bổn pháp,
Hiện Dũ-Hà tiếp nạp huê quang,
Hạ điền thượng đỉnh huy hoàng,
Chuyển luân Thái-Cực rỡ ràng kim chuyên.
Nơi Ngọc Chẩm liền liền diệu pháp,
Trụ điễn trung xây lập huê quang,
Mở thông huyền khiếu huy hoàng,
Luân dương hiển Thánh khai quang nhập Thần.
Con luyện pháp chuyên cần tịnh thủ,
Trí Hườn-Hư cho đủ mới mầu,
Luyện sao hiện rõ Minh-Châu,
Hườn-Hư Đẳng-Giác tóm thâu mật truyền.
Con luyện cho huyền huyền thiệt thiệt,
Đừng vọng tâm, đừng khuyết mật ngôn,
Minh-minh, yểu-yểu linh-hồn,
Lâng lâng thân xác triều tôn nhập đài.
Con Đạo-pháp oằn vai gánh Đạo,
Hữu-hình lo bồi tạo đền Vàng,
Vô-vi huyền pháp cao ban,
Hữu-vi Đạo lý ẩn tàng Thiên-cơ.
Con lộ liễu đúng giờ trọn vẹn,
Con xuất ngôn còn thẹn hồng trần,
Xét rằng con mến nợ nần,
Xưng Tiên, xưng Phật lòng trần khó minh.
Vậy con ơi! Đạo trình Thiên sử,
Phải cẩn ngôn vẹn giữ trong ngoài,
Hồng trần dứt bỏ ngoài tai,
Non Tiên bước đến Bồng-Lai thanh nhàn.
Cha thấy con trần hoàn lao nhọc,
Nặng gia trung tước lộc công hầu,
Đời toan lo lắng đâu đâu,
Nghĩa về Đạo-pháp con sầu riêng tư.
Muốn cho con thâm trừ luật định,
Đạo với Đời con tính lẽ nào?
Chỉ hai đường thẳng con vào,
Thân con trần trược đớn đau khảo nhồi.
Cha thương con chưa rồi phận sự,
Muốn vớt con thoát chữ khảo thi,
Con ơi, Thiên Luật đúng kỳ,
Cha con cúi lạy Đơn-Trì Ngọc-Kinh.
Cầu nguyện trước bệ đài Kim-Khuyết,
Giảm Thiên-điều cao-khiết uy linh,
Ban cho trần hạ thâm tình,
Hồng-Bàng nòi giống phục sinh Liên-đài.
Trước Long-án Thầy khai ấn khuyết,
Sắc Thiên-Tòa cao khiết phán truyền,
Lòng Thầy đâu có tư riêng,
Chí-Tôn nhứt luận phán truyền huyền năng.
Tam-Giáo phân Đạo hằng vận chuyển,
Phật Tiên triều hóa hiện Long-Hoa,
Các con quỳ dưới Chương-Tòa,
Lịnh Thiên chỉnh sắp Kỳ-Ba nhiệm huyền.
Luận cho con Đạo truyền siêu-lý,
Đã từ lâu Kim-chỉ ngọc ban,
Thánh ngôn, Thánh huấn huy hoàng,
Muôn điều vàng ngọc điểm đàn khai cơ.
Chỉ khuyên con kịp giờ Long-Hội,
Rốt cuộc rồi con vội rẽ chia,
Đệ huynh con nỡ đoạn lìa,
Long-Hoa tuyển trạch danh bia bảng vàng.
Điểm danh con siêu đàn khải hóa,
Lễ Trung-Nguơn Cha hạ hồng trần,
Chứng lòng con trẻ chuyên cần,
Hiếu ân Cha Mẹ, Thánh Thần chứng minh.
Điệp sớ văn thượng trình Kim Viết,
Trước Ngọc-Kinh THẦY khuyết ấn đề;
Đem con điện-các trở về,
Thoát hồi khổ não thảm thê hồng trần.
Cậy tay con tinh thần cao cả,
Lo cho tròn Đạo hóa cao nhiên,
Đừng vì tâm ý tư riêng,
Đừng quên Tâm-Pháp mật truyền Thiên-Thơ./.
Thăng
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Cách đây lâu đời lắm, ở Lĩnh Nam có một thủ lĩnh tên là
Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Vương, sức khoẻ tuyệt trần, lại có tài đi lại dưới
nước như đi trên cạn. Một hôm, Kinh Dương Vương đi chơi hồ Ðộng Ðình, gặp Long
Nữ là con gái Long Vương, hai người kết thành vợ chồng và ít lâu sau sinh được
một trai, đặt tên là Sùng Lâm. Lớn lên Sùng làm rất khoẻ, một tay có thể nhấc
bổng lên cao tảng đá hai người ôm. Cũng như cha, Sùng Lâm có tài đi lại dưới
nước như đi trên cạn. Khi nối nghiệp cha, chàng lấy hiệu là Lạc Long Quân.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! "
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
- Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
- Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Lúc bấy giờ ở đất Lĩnh Nam còn hoang vu, không một nơi nào yên ổn, Lạc Long Quân quyết chí đi du ngoạn khắp nơi.
Ðến vùng bờ biển Ðông Nam, Lạc Long Quân gặp một con cá rất lớn. Con cá này đã sống từ lâu đời, mình dài hơn năm mươi trượng, đuôi như cánh buồm, miệng có thể nuốt chửng mười người một lúc. Khi nó bơi thì sóng nổi ngất trời, thuyền bè qua lại đề bị nó nhận chìm, người trên thuyền đều bị nó nuốt sống. Dân chài rất sợ con quái vật ấy. Họ gọi nó là Ngư tinh. Chỗ ở của Ngư tinh là một cái hang lớn ăn sâu xuống đáy biển, trên hang có một dãy núi đá cao ngăn miền duyên hải ra làm hai vùng.
Lạc Long Quân quyết tâm giết loài yêu quái, trừ hại cho dân, Lạc Long Quân đóng một chiếc thuyền thật chắc và thật lớn, rèn một khối sắt có nhiều cạnh sắc, nung cho thật đỏ, rồi đem khối sắt xuống thuyền chèo thẳng đến Ngư Tinh, Lạc Long Quân giơ khối sắt lên giả cách như cầm một người ném vào miệng cho nó ăn. Ngư Tinh há miệng đón mồi. Lạc Long Quân lao thẳng khối sắt nóng bỏng vào miệng nó. Ngư Tinh bị cháy họng vùng lên chống cự, quật đuôi vào thuyền của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân liền rút gươm chém Ngư Tinh làm ba khúc. Khúc đầu hoá thành con chó biển. Lạc Long Quân lấy đá ngăn biển chặn đường giết chết con chó biển, vứt đầu lên một hòn núi, nay gọi hòn núi ấy là Cẩu Ðầu Sơn, khúc mình của Ngư Tinh trôi ra xứ Mạn Cẩu, nay còn gọi là Cẩu Ðầu Thủy, còn khúc đuôi của Ngư Tinh thì Lạc Long Quân lột lấy da đem phủ lên hòn đảo giữa biển, đảo ấy nay còn mang tên là Bạch Long Vĩ.
Trừ xong nạn Ngư Tinh, Lạc Long Quân đến Long Biên. Ở đây có con cáo chín đuôi sống đến hơn nghìn năm, đã thành tinh. Nó trú trong một hang sâu, dưới chân một hòn núi đá ở phía Tây Long Biên. Con yêu này thường hóa thành người trà trộn trong nhân dân dụ bắt con gái đem về hang hãm hại. Một vùng từ Long Biên đến núi Tản Viên, đâu đâu cũng bị Hồ Tinh hãm hại. Nhân dân hai miền rất lo sợ, nhiều người phải bỏ cả ruộng đồng, nương rẫy, kéo nhau đi nơi khác làm ăn.
Lạc Long Quân thương dân, một mình một gươm đến sào huyệt Hồ tinh, tìm cách diệt trừ nó. Khi Lạc Long Quân về đến tới cửa hang, con yêu tinh thấy bóng người, liền xông ra, Lạc Long Quân liền hoá phép làm mưa gió, sấm sét vây chặt lấy con yêu. Giao chiến luôn ba ngày ba đêm, con yêu dần dần yếu sức, tìm đường tháo chạy, Lạc Long Quân đuổi theo chém đứt đầu nó. Nó hiện nguyên hình là một con cáo khổng lồ chín đuôi. Lạc Long Quân vào hang cứu những người còn sống sót, rồi sai các loài thủy tộc dâng nước sông Cái, xoáy hang cáo thành một vực sâu, người đương thời gọi là đầm Xác Cáo, đời sau mới gọi là Tây Hồ.
Dẹp yên nạn Hồ Tinh nhân dân quanh vùng lại trở về cày cấy trên cánh đồng ven hồ, và dựng nhà lập xóm trên khu đất cao nhất gọi là làng Hồ, đến nay vẫn còn.
Thấy dân vùng Long Biên đã được yên ổn làm ăn Lạc Long Quân đi ngược lên vùng rừng núi đến đất Phong Châu. Ở vùng này có một cây cổ thụ gọi là cây chiên đàn, cao hàng nghìn trượng, trước kia cành lá sum suê tươi tốt che kín cả một khoảng đất rộng, nhưng sau nhiều năm, cây khô héo, biến thành yêu tinh, người ta gọi là Mộc Tinh. Con yêu này hung ác và quỷ quyệt lạ thường. Chỗ ở của nó không nhất định, khi thì ở khu rừng này, khi thì ở khu rừng khác. Nó còn luôn luôn thay hình đổi hạng ẩn nấp khắp nơi, dồn bắt người để ăn thịt. Ði đến đâu cũng nghe thấy tiếng khóc than thảm thiết, Lạc Long Quân quyết ra tay cứu dân diệt trừ loài yêu quái. Lạc Long quân phải luồn hết rừng này đến rừng kia và qua nhiều ngày gian khổ mới tìm thấy chỗ ở của con yêu. Lạc Long Quân giao chiến với nó trăm ngày đêm, làm cho cây long đá lở, trời đất mịt mù mà không thắng được nó. Cuối cùng Lạc Long Quân phải dùng đến những nhạc cụ như chiêng, trống làm nó khiếp sợ và chạy về phía Tây Nam, sống quanh quất ở vùng đó, người ta gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Diệt xong được nạn yêu quái, Lạc Long Quân thấy dân vùng này vẫn còn đói khổ thiếu thốn, phải lấy vỏ cây che thân, tết cỏ gianh làm ổ nằm bèn dạy cho dân biết cách trồng lúa nếp, lấy ống tre thổi cơm, đốn gỗ làm nhà sàn để ở, phòng thú dữ. Lạc Long Quân còn dạy dân ở cho ra cha con, vợ chồng. Dân cảm ơn đức ấy, xây cho Lạc Long Quân một toà cung điện nguy nga trên một ngọn núi cao. Nhưng Lạc Long Quân không ở, thường về quê mẹ dưới thủy phủ và dặn dân chúng rằng: "Hễ có tai biến gì thì gọi ta, ta sẽ về ngay! "
Lúc bấy giờ có Ðế Lai từ phương Bắc đem quân tràn xuống phương Nam. Ðế Lai đem theo cả người con gái yêu rất xinh đẹp của mình là Âu Cơ và nhiều thị nữ. Thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, lại nhiều chim muông, nhiều gỗ quý. Ðế Lai sai quân dựng thành đắp lũy định ở lâu dài. Phải phục dịch rất cực khổ, nhân dân chịu không nổi, hướng về biển Ðông gọi to: "Bố ơi! Sao không về cứu dân chúng con!". Chỉ trong chớp mắt, Lạc Long Quân đã về.
Nhân dân kể chuyện, Lạc Long Quân hóa làm một chàng trai rất đẹp, có hàng trăm đầy tớ theo hầu, vừa đi vừa hát đến thẳng chỗ Ðế Lai ở. Lạc Long Quân không thấy Ðế Lai đâu cả, mà chỉ thấy một cô gái nhan sắc tuyệt trần cùng vô số thị tỳ và binh lính. Cô gái xinh đẹp đó là Âu Cơ. Thấy Lạc Long Quân uy nghi tuấn tú nàng đem lòng say mê, xin đi theo Lạc Long Quân. Lạc Long Quân đưa Âu Cơ về ở trong cung điện của mình, trên núi cao. Ðế Lai về, không thấy con gái đâu, liền sai quân lính đi tìm khắp nơi, hết ngày này qua ngày khác. Lạc Long Quân sai hàng vạn các ác thú ra chặn các nẻo đường, xé xác bọn chúng làm cho chúng khiếp sợ bỏ chạy. Ðế Lai đành thu quân về phương bắc.
Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang, sinh ra một cái bọc. Sau bảy ngày cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở ra một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên như thổi, tất cả đều xinh đẹp khoẻ mạnh và thông minh tuyệt vời.
Hàng chục năm trôi qua, Lạc Long Quân sống đầm ấm bên cạnh đàn con, nhưng lòng vẫn nhớ thủy phủ. Một hôm Lạc Long Quân từ giã Âu Cơ và đàn con, hóa làm một con rồng vụt bay lên mây, bay về biển cả. Âu Cơ và đàn con muốn theo Lạc Long Quân, nhưng không đi được, buồn bã ở lại trên núi. Hết ngày này qua ngày khác, họ mỏi mắt trông chờ mà vẫn biền biệt tăm hơi. Không thấy Lạc Long Quân trở về, nhớ chồng quá, Âu Cơ đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Ðông lên tiếng gọi: "Bố nó ơi! Sao không về để mẹ con chúng tôi sầu khổ thế này".
Lạc Long Quân trở về tức khắc. Âu Cơ trách chồng:
- Thiếp vốn sinh trưởng ở núi cao, động lớn, ăn ở với chàng sinh được trăm trai, thế mà chàng nỡ lòng bỏ đi, để mặc con thiếp sống bơ vơ khổ não.
Lạc Long Quân nói:
- Ta là loài rồng, nàng là giống tiên, khó ở với nhau lâu dài. Nay ta đem năm mươi con về miền biển, còn nàng đem năm mươi con về miền núi, chia nhau trị vì các nơi, kẻ lên núi, người xuống biển, nếu gặp sự nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau, đừng có quên.
Hai người từ biệt nhau, trăm người con trai tỏa đi các nơi, trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn làm vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương. Vua Hùng chia ra làm mười năm bộ, đặt tướng văn, võ gọi là lạc hầu, lạc tướng. Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mỵ Nương. Ngôi vua đời đời gọi chung một danh hiệu là Hùng Vương.
Lạc Long Quân là người mở mang cõi Lĩnh Nam, đem lại sự yên ổn cho dân. Vua Hùng là người dựng nước, truyền nối được mười tám đời. Do sự tích Lạc Long Quân và Âu Cơ, nên dân tộc Việt Nam vẫn kể mình là dòng giống Tiên Rồng.
Liên Thanh Sưu Tập
18 chi Đời Vua Hùng Vương
Ôn lại cổ đại xa vời,
Hàng vạn năm trước đất trời thế gian
Lục địa, cây cối bạt ngàn
Sông hồ, rừng núi như đan địa cầu.
Nơi thấp là biển nước sâu,
Mênh mông nào biết nơi đâu bến bờ.
Nhiều loài động vật cổ sơ,
Trên đất dưới nước, nhỏ to nhiều loài.
Thế gian trong chuỗi ngày dài,
Thiên nhiên, cảnh vật nguyên khai cõi Trần.
Thời gian biết mấy triệu xuân,
Không đường, không ruộng, không dân, không nhà.
Đại dương, lục địa bao la
Nhiều loài động vật cũng hòa thiên nhiên.
Ngày đêm nối tiếp triền miên,
Âm u, hoang vắng khắp miền Trần gian.
Cầm thú các loài vô vàn,
Có loài động vật khôn ngoan từng bầy.
Kiếm ăn nhờ có đôi tay
Hái nhặt rau bẹ, trái cây lần hồi.
Ngót sáu ngàn tiết đông trôi,
Đã biết dùng lửa đốt thui, nướng lùi.
Không phải ăn sống nuốt tươi,
Hơn loài thú vật khắp nơi phàm trần.
Trí khôn được mở rộng dần,
Nhưng nam nữ vẫn hôn quần, loạn luân.
1.
Đức Kinh
Dương Vương hiện thân
Qua năm ngàn tiết mùa xuân trước ngày.
Người đã tập hợp các bầy
Đều là nòi Việt từ đây hợp thành.
Văn Lang, bộ lạc tạo hình
Mở đường dẫn tới khai sinh loài người.
Một xã hội mới ra đời,
Gồm nhiều dòng tộc khắp nơi hợp thành.
Đều là nòi Việt đồng sinh,
Dòng tộc theo mẹ, hiện tình nguyên sơ.
Từng bầy, mẫu chủ bấy giờ
Chính là dòng tộc cổ sơ lưu truyền.
Quần hôn, vô phụ đương nhiên
Mẫu sinh, mẫu dưỡng, mẫu quyền, hỗn mang.
Tục truyền từ thủa Hồng Bàng
Sinh ra trăm họ khắp giang sơn này.
Hồng Bàng - thực
nghĩa bấy nay
Da vàng máu đỏ, nhiều bầy dã hoang.
Hồng Bàng rõ nghĩa “đỏ-vàng”
Nhiều dòng, nên gọi Hồng Bàng chung danh.
Văn Lang - công
xã hình thành
Hai ngàn tám trăm bảy chín, rõ rành nguyên khai
Trước Công nguyên đó, chẳng sai.
Lộc Tục, tên húy của Ngài còn lưu
Tám sáu năm được dân theo,
Có nhiều dòng tộc sớm chiều đồng sinh.
Buổi đầu bộ lạc hình thành,
Thiên Sứ ─ Người đã giáng sinh cõi Trần.
2. Lạc
Long - Sùng Lãm, Thiên nhân
Di Lặc - Phật Tổ, hiện thân chính Người.
Cõi Trần mù mịt khắp nơi,
Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi?
Thời gian, năm tháng qua trôi
Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài.
Lạc Long, Di Lặc chẳng sai
Ra tay tế độ mở khai cõi đời.
Đã đem đạo lý làm người
Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây.
Đức nhân, lễ nghĩa dựng xây
Làm cho xã hội đổi thay khác thường.
Người như vầng Nhật Thái Dương,
Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời.
Người dạy sống ở trên đời
Thực thà, lương thiện là nơi an lành.
Thiện tâm - bản
tính Trời sinh
Đó là chí cốt tâm linh con người.
Bính Thìn, năm đó ra đời
Di Lặc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần.
Chính là Đức Lạc Long Quân.
Tháng ba mười tám ngày xuân thanh bình,
Là ngày Phật Tổ giáng sinh,
Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay.
Tính đến năm hai ngàn này:
Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất
trời.
Văn Lang - Bách Việt đón Người
Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì.
Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy,
Hùng Hiền Vương hiệu còn ghi Sử Vàng.
Hiền Vương nhân đức chói chang,
Dẫn dắt bộ lạc Văn Lang thời Hùng.
Dạy dân lễ - nghĩa - hiếu - trung,
Quan hệ nam nữ - vợ
chồng kết đôi.
Cùng nhau chung thuỷ suốt đời,
Sinh con cũng phải dưỡng nuôi thành người.
Thay đổi tập quán đương thời,
Dân dã chưa rõ ngược xuôi, dữ lành.
Người cùng Mẫu Mẹ Đức Sinh
Âu Cơ Tiên Nữ đẹp tình phu thê.
Rồng - Tiên hội ngộ duyên xe,
Trăm năm vững một lời thề thuỷ chung.
Sáng gương tình nghĩa vợ chồng,
Toàn dân Bách Việt dốc lòng noi theo.
Tiếng chuông đạo lý vang reo,
Xoá được hỗn tính, bỏ điều quần hôn.
Từ đây cuộc sống sinh tồn
Ánh sáng đạo lý khai môn loài người.
Văn Lang khắp chốn khắp nơi,
Nam nữ cùng lứa kết đôi vợ chồng.
Cùng nhau chung sức chung lòng,
Dưỡng nuôi, giáo dục con chung gia đình.
Tiếng “cha” từ đó phát sinh,
Ngôn từ “chồng-vợ” nghĩa tình sắt son.
Từ đó mới có “cha-con”,
Người Cha trước nhất mãi còn lưu danh.
Tên Người sáng chói sử xanh,
Lạc Long Tổ Phụ tạo sinh giống nòi.
Người dạy: Sống ở trên đời
Tu tâm, dưỡng tính thành người lương dân.
Sống phải có đức có nhân,
Hiếu trung, hiếu thảo, chuyên cần mới nên.
Cùng dòng máu Việt chớ quên,
Đồng lòng, chung sức vững bền muôn thu.
Chữ ‘đồng” sức mạnh có dư,
Đem thắng lợi đến ngọn cờ thành công.
Tình thương con cháu Lạc Hồng,
Đó là cốt huyết con chung một nhà.
Tình thương nòi giống chan hoà,
Đồng bào dân tộc thiết tha ân tình.
Trước không, giờ có gia đình
Tế bào xã hội thành hình từ đây.
Hiếu - trung - lễ - nghĩa cao dầy,
Công ơn Cha Mẹ cao tày Thái Sơn.
Cháu con phải biết nhớ ơn,
Thờ Cha kính Mẹ cho tròn đạo con.
Tổ Tiên vắng bóng khuất non,
Khói hương tưởng niệm mãi còn đời sau.
Phong tục thờ cúng khởi đầu,
Trở thành tập quán thắm mầu Rồng - Tiên.
Thuần phong mỹ tục lưu truyền
Từ thời Cha Lạc, Mẹ Hiền Âu Cơ.
Cuộc sống thủa ấy nguyên sơ,
Nay đây mai đó, trông nhờ thiên nhiên.
Định cư, tự sản - Người
khuyên,
Trồng cây lấy quả khắp miền Văn Lang.
Từ đó có xóm có làng,
Trồng ngô, khoai, sắn, lúa vàng, nông gia.
Tạo sức sống mới đại đa,
Tự túc lương thực - mọi
nhà đều theo.
Thôn trang vẻ đẹp yêu kiều,
Gia đình đoàn tụ sớm chiều bên nhau.
Trong cảnh hoang dã bấy lâu
Văn Lang nay khởi sắc mầu xuân tươi.
Cha dạy bộ lạc, mọi người
Đốt nung quặng đá để khơi lấy đồng.
Rèn đúc công cụ nghề nông,
Búa, dao, rìu, cuốc, thau đồng từ đây.
Thay công cụ đá trước ngày,
Làm ra lương thực đủ đầy hơn xưa.
Người cùng dân chúng sớm trưa
Cùng làm cùng hưởng, cùng đùa cùng vui.
Thôn trang, làng xóm khắp nơi
Ngân vang giọng hát, tiếng cười lời ru.
Mừng sao thoát cảnh âm u,
Tháng năm đen tối, mịt mù đã qua.
Cuộc đời nay đã nở hoa,
Con người tiến vọt, vượt xa muôn loài.
Con người đủ trí, đức, tài
Thông minh, sáng tạo từ khai nguyên này.
Ơn Cha tài trí, đức dầy
Lạc Long Tổ Phụ - Người
Thầy thế gian.
Tạo dựng xã hội thịnh an,
Công minh, bình đẳng, quân san điều hoà.
Cộng sản nguyên thuỷ chính là
Chủ nghĩa xã hội khai hoa cõi Trần.
Công bằng thoả nguyện muôn dân,
Dân sinh, dân chủ trăm phần đẹp tươi.
Theo Luật Tạo Hoá vận Trời,
Thuận Thiên hợp với lòng người là đây.
Dầy công, Cha Mẹ dựng xây
Kỷ cương, đạo lý, đủ đầy đức ân.
Buổi đầu lập thế, tạo nhân
Chính thể tiên tiến, vì dân đương thời.
Xã hội tiến bộ trên đời,
Đẩy mạnh sản xuất của người nguyên khai.
Chính thể tồn tại lâu dài,
Ngót ba ngàn tuổi, chẳng sai, thời Hùng.
Hai ngàn sáu trăm hai mốt năm ròng,
Di Lặc Phật Tổ - Lạc Long xây nền
Công bằng xã hội vững bền,
Lâu nhất thế giới, đẹp Thiên Sử Vàng.
Đó chính là thủa Hồng Bàng,
Là người Bách Việt da vàng, máu son.
Muôn đời hậu thế cháu con,
Luôn nhớ Gốc Tổ mãi còn là đây.
Chớ đừng lầm tưởng trước ngày,
Hồng Bàng thị tộc dựng xây sơn hà.
Hồng Bàng đúng nghĩa chính là:
Nhiều dòng đồng chủng, máu da đồng màu.
Các dòng tộc Việt cùng nhau
Hợp thành bộ lạc buổi đầu, chẳng sai.
Đức Kinh Dương Vương nguyên khai,
Tám sáu năm đã hợp loài “vượn hoang”.
Lạc Long Di Lặc chuyển sang
Thực sự Cha đã khai quang cõi Trần.
Dẫn đường, giáo huấn muôn dân
Chuyển từ kiếp “vật” thành thân con người.
Văn Lang - Bách Việt ra đời,
Xã hội nguyên thuỷ từ thời hoang sơ.
Lạc Long - Cha
dựng cơ đồ,
Khai sinh nòi Việt nên thơ muôn đời.
Cháu con Hồng Lạc mọi người
Tổ Tông dựng nước, con thời ghi sâu.
Đền Hùng đất Tổ Phong Châu,
Thuộc tỉnh Phú Thọ - nhịp
cầu cổ kim.
Dấu tích khai quốc còn in,
Tổ Tông như vẫn dõi nhìn hôm nay.
Núi Hùng. đền Hạ nơi đây
Âu Cơ Đức Mẹ sinh bầy trăm con.
Một con kế giữ ngôi son,
Số nửa theo Mẹ lên non hành trình.
Đảm bảo cho sự tồn sinh,
Địa bàn sản xuất thành hình là đây.
Một nửa còn lại đó ngày,
Miền xuôi, định hướng dựng xây sơn hà.
Cùng nhau lập nghiệp theo Cha,
Từ đó ta có quốc gia sinh tồn.
Ứng với Bách Việt giang sơn,
Rồng Tiên cất cánh bay vờn trời xanh.
Núi thiêng Nghĩa Lĩnh thiên thành,
Voi quỳ, hổ phục vây quanh núi Hùng.
Lên cao hơn nữa - đền
Trung
Nơi đây Thủ lĩnh Lạc Long hội bàn.
Cùng người giúp việc trị an,
Dân sự, phòng vệ lo toan cộng đồng.
Quản lý bộ lạc thời Hùng,
Giúp việc dân sự - tước
phong Lạc hầu.
Bảo vệ bờ cõi, đứng đầu -
Tước phong Lạc tướng trong khâu chính quyền.
Đầu lĩnh cùng các quan viên
Dốc lòng lo việc dân yên cộng đồng.
Lo việc sản xuất, gieo trồng
Phân phối hợp lý, yên lòng muôn dân.
Trẻ già, trai gái có phần
Nhiều no, ít đủ, quân phân hợp thời.
Dân cùng Thủ lĩnh, mọi người
Cùng nhau lao động, vui chơi cùng hoà.
Bốn phương như thể một nhà,
Người trong bộ lạc đều là anh em.
Gần xa, đây đó, lạ quen
Giầu lòng hữu ái tự nguyên khai này.
Khởi nguồn văn hiến từ đây,
Con người ý thức đủ đầy nghĩa nhân.
Lạc Long - Thủ
lĩnh minh quân,
Danh Thiên - Di
Lặc, hiện thân chính Người.
Ra tay tế độ xây đời,
Khai sinh Bách Việt, đất trời Văn Lang.
Nguyên khai thủa đó Hồng Bàng,
Người thực là Đấng khai quang cõi Trần.
Cứu tinh trăm họ, muôn dân
Thoát khỏi kiếp vật, thành nhân Lạc Hồng.
Đền Hùng - Nguồn
Cội Tổ Tông,
Lạc Long, Tổ Phụ đức công cao dầy.
Đỉnh cao, đền Thượng nơi đây
Thủ lĩnh, Người đã cho xây bệ thờ.
Rằm Giêng, đúng tháng tròn giờ
Người cầu Ngọc Đế độ cho dân lành.
Mùa màng, cây quả tốt xanh
Bình an trăm họ, tâm thành cầu Thiên.
Thủ Lĩnh bộ lạc - Hùng
Hiền
Tiến hành nghi lễ cầu Thiên đó ngày.
Hiền Vương công lớn đức dầy,
Hai trăm sáu chín năm chày tại ngôi.
Thủ lĩnh khoảng độ mười đời,
Ngôi Chủ truyền tiếp đến thời chi ba.
3. Hùng
Lân, Thủ lĩnh chính là
Năm mười tám tuổi, Người đà lên ngôi.
Hiệu Hùng Quốc Vương đó thời,
Hai trăm bảy mốt năm trời chuyển chi.
Kinh đô đóng tại Việt Trì,
Dư mười đời Chủ trị vì Văn Lang.
Chi Hùng thứ tư chuyển sang,
4. Hùng Hoa Vương hiệu, tiếp trang sử
tiền.
Bửu Long tên huý, giữ quyền
Ba trăm bốn hai năm liền dài lâu.
Hơn mười đời Chủ truyền nhau,
Chi năm lại kế tiếp sau Hoa Hùng.
5. Bửu
Lang tên huý nối dòng,
Hùng Hy Vương hiệu, Lang Công đó ngày.
Trăm chín mươi chín năm dài,
Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ.
Chuyển sang chi sáu giữ cờ,
6. Long Tiên Lang huý kế
thừa vẻ vang.
Hùng Hồn Vương, Chủ Văn Lang
Bên kia Bắc quốc, Thành Thang trị vì.
Tung tin tuần thú biên thùy,
Tràn sang xâm chiếm thực thi bá quyền.
Hùng Hồn Vương ban cáo tuyên,
Cho người đi khắp các miền thôn quê.
Tìm người trí, dũng mọi bề
Cầm quân diệt giặc, trở về tước phong.
Tới làng Phù Đổng, báo thông
Vang như sấm, tiếng nhi đồng vọng ra:
Nhờ người tâu với Vua Cha,
Cho ngựa, roi sắt cùng là thịt, xôi.
Đúng ngày tháng đó, Gióng tôi
Nhận đủ binh mã, ra nơi chiến trường.
Xin thề quét sạch giặc Thương,
Diệt lũ Bắc tặc bạo cường bấy lâu.
Binh mã đã đạt yêu cầu,
Vua giao Cậu Gióng đứng đầu cầm binh.
Người nhằm hướng giặc xuất chinh,
Chiến trường chính - núi
Vệ Linh bấy giờ.
Mãnh xung, Cậu Gióng thét to
Tiếng như sấm động, giặc thù khiếp kinh.
Lại bị đánh bất thình lình,
Ta khí giới sắt, giặc binh khí đồng.
Đó là lợi thế tiến công,
Tướng binh ta dốc một lòng diệt Thương.
Quân ta xung trận kiên cường,
Những tên sống sót, Bắc phương - chạy về.
Quất giặc, roi sắt gãy lìa
Sức Thần, Cậu Gióng nhổ tre quật thù.
Nhật thời mười tám bấy giờ,
Ba mươi sáu tiếng đồng hồ ngày nay.
Diệt Thương - Ân tặc là đây,
Khắp trong bộ lạc vui thay dân tình.
Thánh Gióng cho ngựa tiến nhanh,
Lên đỉnh núi Sóc ngắm quanh bốn bề.
Bỗng cơn Thần lốc đón đi,
Cả người lẫn ngựa đưa về trên Thiên.
Vua Hùng được cấp báo tin,
Miếu thờ cho dựng đỉnh trên núi Hùng.
Trong lễ truy điệu sắc phong,
Thiên Vương Phù Đổng lưu trong Sử Vàng.
Hồn Vương lịch sử vẻ vang,
Tám mươi năm đã rõ ràng tại ngôi.
Thủ lĩnh truyền kế hai đời,
Ngôi Chủ lại chuyển tiếp đời Hùng sau.
7. Là chi thứ bảy nối cầu,
Hùng Chiêu Vương tiếp đứng đầu Văn Lang.
Quốc Lang tên huý của chàng,
Tuổi tròn mười tám, trai đang sức thừa.
Truyền nối được năm đời vua,
Hai trăm năm chẵn đúng vừa tại ngôi.
Nhiều năm trồng trọt, chăn nuôi
Được mùa ngũ cốc, nơi nơi vui mừng.
Dân đã biết làm bánh chưng,
Bánh dầy ngày Tết, mãi cùng dân ta.
Chi bảy cũng đã trải qua,
Thời gian dựng nước, nay đà chuyển chi.
8. Là chi thứ tám trị vì,
Vân Lang tên huý nay thì lên ngôi.
Năm ba mươi chín tuổi đời,
Hùng Vi Vương hiệu tại ngôi bấy giờ.
Năm đời nối tiếp kế thừa,
Thiếu một năm nữa thì vừa trăm niên.
Đến đây chi tám hết duyên,
9. Chuyển sang chi chín
giữ quyền tiếp theo.
Chân Nhân Lang huý ngự triều,
Bốn mươi lăm tuổi lái chèo nước non.
Ba đời truyền nối cháu con,
Tám mươi năm giữ ngôi son bấy giờ.
10. Chi mười tiếp giữ ngọn
cờ,
Hoàng Long Lang nối nghiệp xưa Hùng triều.
Hùng Uy Vương hiệu tiếp theo,
Ba mươi bảy tuổi sớm chiều ngự ngôi.
Cháu con cả thảy ba đời,
Chi mười đó chính là thời Hùng Uy.
Thời vận đã tới hạn kỳ,
11.
Chi thứ mười một nay thì lên thay.
Chính danh Hưng Đức Lang nay,
Hùng Trinh Vương hiệu ngày rày lên ngôi.
Truyền kế nhau được bốn đời,
Một trăm lẻ bảy năm trời trôi qua.
Tới đây xã tắc sơn hà,
Thay đổi niên hiệu cũng là tất nhiên.
12.
Chi thứ mười hai nối liền,
Hùng Vũ Vương hiệu, nguyên niên bắt đầu.
Ba đời Thủ lĩnh trước sau,
Tám lăm năm vững nhịp cầu Hùng xưa.
13.
Chi thứ mười ba kế thừa,
Tuấn Lang danh huý, tuổi vừa hai ba.
Hùng Việt Vương hiệu, chính là
Một trăm lẻ ngũ niên qua nắm quyền.
Năm đời, Thủ lĩnh kế truyền
Triều đại có hậu, có tiền xưa nay.
Chi Hùng Việt Vương tới ngày
Phiên hiệu đến lúc đổi thay, lẽ thường.
14.
Chi thứ mười bốn khai chương,
Hùng Anh Vương hiệu, tiếp đường Tổ Tiên.
Viên Lang tên huý, giữ quyền
Bốn đời Thủ lĩnh giữ nền Tổ Tông.
Qua chín mươi chín năm ròng,
Anh Vương cũng đã tới vòng chuyển luân.
15.
Chi thứ mười lăm đến tuần,
Hùng Triệu Vương hiệu, đầu xuân ngự trào.
Cảnh Chiêu Lang huý ngôi cao,
Ba mươi lăm tuổi bước vào cung son.
Ba đời cả thảy Cha Con,
Chín tư năm đó vẫn còn sử ghi.
Việc đời đều có hạn kỳ,
Cuối đời Hùng Triệu chuyển chi, lẽ thường.
16.
Nay chuyển sang Hùng Tạo Vương,
Là chi mười sáu, lẽ đương nhiên rồi.
Đức Quân Lang huý tiếp ngôi,
Thủ lĩnh bộ lạc, ba đời truyền nhau.
Chín mốt năm nối nhịp cầu,
Hùng Vương thời đại dài lâu vững bền.
Kể từ khởi thuỷ khai nguyên,
Dư hai ngàn ba trăm niên hẳn là.
Mười sáu chi Hùng đã qua,
17.
Chuyển chi mười bảy, đó là Hùng Nghi.
Bảo Quang Lang huý trị vì,
Khi mới chín tuổi đã thì lên ngôi.
Hùng Nghi Vương được bốn đời,
Trăm năm mươi chín niên thời trải
qua.
Thời đó xã tắc sơn hà,
Địa phương vài chỗ thật là rối ren,
Nổi lên chống lệnh cấp trên,
Ý đồ cát cứ riêng quyền đó khi.
Triều đình cho mở khoa thi,
Tìm người tài trí, tâm vì nước, dân.
Có chàng họ Lý, chí nhân
Văn Lang tên gọi, tuổi gần hai lăm.
Giỏi cả võ nghệ, thi văn
Vua cử giữ chức Trung quân lãnh đầu.
Cầm quân dẹp loạn các châu,
Yên dân, yên nước, Tước hầu - Vua phong.
Chàng trai vẹn cả hiếu trung,
Nguyệt Cư công chúa trong Cung mến tài.
Vừa đôi, phải lứa gái trai
Vua cho được phép duyên hài là đây.
Vua tôi, dân đã chung tay
Vượt qua cả chuỗi tháng ngày khó khăn.
Việc đời tuần tự thứ lân,
Chi thứ mười bảy chuyển luân ngày rày.
18.
Chi thứ mười tám lên thay,
Hùng Duệ Vương hiệu, đến ngày lên ngôi.
Khi mới mười bốn tuổi đời,
Huệ Lang tên huý, chính Người ngôi Vua.
Trăm năm mươi tết đúng vừa,
Khoảng sáu đời đã kế thừa ngôi Vương.
Tới đây như cuối chặng đường,
Nguyên khai công xã thọ trường Văn Lang.
Hùng Duệ Hoàng tử, nhiều chàng
Đều bị yểu tử, xốn xang hậu kỳ.
Còn lại hai gái, nữ nhi
Tiên Dung là chị, em thì Ngọc Hoa.
Tính tình hiền dịu, nết na
Dung, công, ngôn, hạnh thật là mười mươi.
Tiên Dung nhan sắc tuyệt vời,
Một hôm, nàng đã đi chơi bằng thuyền.
Gặp Chử Đồng Tử, kết duyên
Người con chí hiếu, thảo hiền phúc đa.
Còn nàng công chúa Ngọc Hoa,
Cung đình nàng được Vua Cha quý chiều.
Công hầu mai mối cũng nhiều,
Duyên thiên chưa định, nàng đều chưa ưng.
Nàng đã trọng dũng, hiếu, trung
Vua cho mở hội võ công thi tài.
Thủ lĩnh ban lệnh thi bài
Tay không thắng hổ, chớ ai coi thường.
Nguyễn Tuấn bước tới đấu trường,
Tay không đánh hổ, bị thương bấy giờ.
Trên người không vết hổ vồ,
Chàng trai bước tới trước Vua vái chào.
Vua khen mưu trí, tài cao
Công chúa vui vẻ ưng giao duyên cùng.
Lúc này giặc dã tứ tung,
Nổi lên chiếm giữ mấy vùng sơn khê.
Thục Phán, cháu họ cũng thì
Đòi Vua nhường lại quyền uy cho mình.
Đã từng gây chuyện bất bình,
Vua phong Nguyễn Tuấn lãnh binh đứng đầu.
Tuấn liền quỳ gối muôn tâu:
Vì dân vì nước, con đâu chối từ.
Cầm quân dẹp loạn, nội thù
Chàng thật dũng, trí, mưu cơ hơn người.
Dẹp yên phiến loạn khắp nơi,
Trời quang mây tạnh cuối thời Văn Lang.
Vua Cha gợi ý với chàng:
Tuổi già, Cha muốn ngai vàng nhường con.
Thiết tha, lời lẽ thiệt hơn:
Tước hầu, con được đội ơn Cha rồi.
Để hợp tình lý ở đời,
Tổ Phụ để lại từ thời xa xưa.
Xin Cha trao lại ngọn cờ
Nội tộc Thục Phán, cơ đồ Văn Lang.
Đây là thực đáy lòng vàng,
Xin Cha độ lượng, kỹ càng xét soi.
Vua Cha cảm động lệ rơi,
Thuận ưng thành ý con người hiếu trung.
Duệ Vương trao lại Long cung
Thục Phán được kế bệ Rồng, còn ghi.
Phán đã dựng cột đá thề,
Trên đỉnh núi Tổ nguyện vì giang sơn.
Đến nay cột đá vẫn còn,
Ghi lại dấu tích vàng son thời Hùng.
* * * * *
Khai nguyên lịch sử lẫy lừng,
Ngày nay con cháu Lạc Hồng tiếp theo.
Đảng, Bác vĩ đại lái chèo
Con thuyền cách mạng vượt nhiều gian nguy.
Nay dân tộc vững bước đi,
Con đường lịch sử đã ghi Sổ Vàng:
Tổ Quốc to đẹp đàng hoàng,
Xã hội chủ nghĩa vững vàng tiến lên.
Cộng sản nguyên thuỷ khai nguyên,
Xã hội chủ nghĩa đương nhiên hiện giờ.
Ngày nay cộng với nguyên sơ,
Hai bảy thế kỷ gần vừa đủ niên.
Đó là đất nước Rồng Tiên,
Công bằng xã hội đẹp thiên Sử Vàng.
Hai bảy thế kỷ chói chang,
Xã hội chủ nghĩa - rõ
ràng chẳng sai.
Năm châu bốn biển, không hai
Việt Nam lịch sử đó dài quang vinh.
Xã hội chủ nghĩa trường sinh,
Hàng đầu thế giới đã thành vô song.
Đã là con Lạc cháu Hồng,
Phải hiểu lịch sử Tổ Tông dựng nền.
Xã hội chủ nghĩa lưu truyền,
Tổ quốc Hồng Lạc lâu bền chói chang.
Dân tộc vĩ đại vinh quang,
Tổ Tông để lại cả giang sơn hồng.
Xứng danh đất nước Tiên Rồng,
Vẻ vang con cháu Vua Hùng muôn thu.
Văn Lang từ thủa xa xưa,
Thật là hùng vĩ, nên thơ cõi Trần.
Tổ quốc tươi đẹp muôn phần,
Chính là Tiên Tổ đức nhân xây đời.
Cháu con Hồng Lạc giống nòi,
Phải hiểu Quốc sử từ thời Hùng xưa.
Văn Lang, công xã nguyên sơ
Hai sáu thế kỷ, có thừa xuân tươi.
Ngót ba ngàn tuổi xây đời,
Bách Việt một khối chung nôi Mẹ Hiền.
Xã hội không có nhiễu phiền,
Không có ganh tỵ, tranh quyền thứ ngôi.
Thủ lĩnh cùng với mọi người
Cùng làm cùng hưởng, đó thời Văn Lang.
Không có giai cấp cao sang,
Mọi người bình đẳng, ngang hàng bình dân.
Cộng đồng hữu ái, hợp quần
Coi nhau như thể tình thân gia đình.
Bách Việt từ thủa khai sinh,
Là những năm tháng bình minh rực hồng.
Là nhờ công đức Cha Ông,
Đó là truyền thống Tổ Tông nhân hiền.
Cũng là văn hiến Rồng Tiên,
Cũng là đạo lý khởi tiền Việt nhân.
Dư hai ngàn sáu trăm xuân,
Hùng Vương dựng nước muôn phần uy linh.
Công bằng xã hội tạo hình,
Rõ ràng quản lý, công minh điều hành.
Người người đồng cảm chân thành,
Cộng đồng chung sống nghĩa tình trước sau.
Ý thức hệ thủa ban đầu,
Tinh thần tập thể in sâu chữ “đồng”.
Chỉ có một lợi ích chung,
Đó là bản sắc Lạc Hồng khai nguyên.
Khắp trong toàn quốc, mọi miền
Ngược xuôi, nam bắc tâm hiền cháu con.
Kiên trung một dạ sắt son,
Lễ nghĩa, hiếu thảo sao tròn đức nhân.
Trong nước, ngoài nước, xa gần
Là dòng máu Việt, là dân Lạc Hồng.
Hướng về Nguồn Cội Tổ Tông,
Giang sơn Bách Việt, Cha Ông tạo hình.
Phong Châu - Phú Thọ, nơi sinh
Giống nòi Hồng Lạc quang vinh đời đời.
Đền Hùng đó, cháu con ơi
Việt Nam linh tự đời đời nhớ ghi.
Hồn thiêng đất nước tụ quy,
“Sơn hà Nam quốc...” - Quốc
thề tối linh.
Rồng Tiên nòi giống quang vinh,
Gần năm ngàn tuổi tồn sinh đẹp bền.
Thật là kỳ tích khai nguyên,
Hùng Vương - mười
tám chi truyền kế nhau.
Khoảng trăm đời Chủ đứng đầu,
Văn Lang bộ lạc thắm mầu vàng son.
Muôn đời Hồng Lạc cháu con,
Luôn luôn ghi nhớ công ơn Nhân Tiền.
Nhìn lại lịch sử khai nguyên,
Mẹ Cha - thật Đấng Phật Tiên
tôn thờ.
Trăm trứng ứng Bách Việt xưa,
Khởi đầu Việt quốc, bài Thơ nghĩa tình.
Thiên Việt sử đã chứng minh,
Rồng Tiên duyên thắm nghĩa tình Văn Lang.
Hùng Vương, lịch sử sang trang
Thủ lĩnh Hùng Duệ chuyển sang Thục triều.
Khai nguyên sơ lược mấy điều,
Dâng Nam Phật điện đài chiêu Quốc hồn.
Cũng là Ngọc điện, Quốc ơn
Tâm trung, hiếu, nghĩa cháu con dâng
trình...