-----oOo-----
*三 十 二 相 * 八 十 種 好
TAM THẬP NHỊ TƯỚNG – BÁT THẬP CHỦNG HẢO
Khảo Dịch: HT. Thích Huyền-Tôn.
Liên Thanh Sưu Tập
考译: 释玄宗 和尚
---o0o---
*******
TÂM NIỆM
( 3 lạy )
THÁNH GIÁO ĐỨC BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
MÊ VÀ CHẤP
14 - 4 Giáp Thìn (26-5-1964)
THI
TA là chánh pháp Đạo hư không,
BÀ sắc trần gian lắm bụi hồng,
GIÁO vị nhân sanh hồi tánh Phật,
CHỦ hòa chánh pháp tạo Nhân Ông,
ĐẲNG nhàn nhã hiện cơ minh triết,
GIÁC lý huyền thâm chỉ đại đồng,
MÂU huệ
tiêu dao huỳnh sắc hiện,
NI thừa tăng chấp Đạo hằng thông.
Bần-Đạo mừng chung! Nầy các nguyên
nhân được miễn lễ, đồng tọa nghe Bần-Đạo mừng lễ Đản-sanh mà thế nhân cho đây
là chính là ngày Phật Đản. Lành thay! Lành thay! Phật tâm viên tánh bất chấp
trần gian, chỉ mong sao thế nhân hồi đâu hướng thiện, dầu ngày Đản sanh là ngày
nào cũng vẫn công đức kiên trì nhắc nhở cho chung chúng sanh nơi đây là trần ai
tục lụy, chốn mê đồ tân khổ phải vượt khổ hầu có trở về nơi Cực lạc nhàn du.
Nầy các nguyên nhân! Kìa đường đời
càng ngày càng thấy biết bao nhiêu là điên đảo lòng người, càng ngày các nguyên
nhân cũng càng thấy điều say đắm hồng trần, mê mang nơi đoản lạc, không biết
mình là một chơn linh tàng ẩn siêu-vi, hầu có trau giồi bản thể Phật Thánh trở
về với cảnh an nhàn tuyệt lạc. Lầm thay, lầm thay! Chấp giả thị chơn, thương
cho thế nhân nên Bần-Đạo hóa sanh truyền chánh pháp, đến nay đã hai ngàn năm lẽ
thì tại sao chưa vớt được chín mươi hai ức nguyên-nhân, lòng Bần-Đạo cũng thấy
còn thiết tha vì đại từ-bi muốn truyền huệ linh thông cho tất cả, nhưng vì tâm
phàm còn lộn lạo biết bao nhiêu điều ô-trược, mang mễn bao nhiêu là thất tình
lục dục, cho nên ngày nay phải chịu trả vay trong kiếp luân hồi thì làm sao
nhiếp thọ được đại hồng ân của Thiêng Liêng ban bố. Nầy các nguyên nhân, mỗi
mỗi đều có Phật tâm, Tiên tánh nhưng tự mình làm hủy hoại, cũng như các nguyên
nhân thấy kia, nhìn thẳng nơi Thiên-bàn, Bửu-vị nọ là chiếc đèn, các nguyên
nhân có thấy chăng? Đó cũng như là lẽ thiên nhiên mà Trời đất ban cho mỗi mỗi,
nếu các nguyên nhân thắp lên cho sáng, cứ thắp mãi như thế thì đến ngày kia
tiêm sẽ hết, dầu sẽ tan. Nếu không thắp thì các nguyên nhân sẽ còn nguyên vẹn,
nhưng nếu các nguyên nhân không thắp thì làm sao cho có được ánh sáng soi
chung!
Điều
tâm pháp mà Bần-Đạo giảng ra đây vì chấp cho nên các nguyên nhân vẫn thấp, dầu
cho các nguyên nhân có chấp đến đâu, có mê lầm đến đâu thì cũng đến ngày tàn
tạ, nhưng nếu không thắp lên sáng thì đèn kia làm sao soi chung? Vì thắp, không
thắp cũng trong là mê chấp vậy. Làm sao không thắp, không sáng mà các nguyên
nhân tự thấy, tự tìm thì mới đúng là chánh pháp siêu vi. Lời Bần-Đạo giảng ra
đây là lời tâm pháp, ráng trì nghiệm, xem xét bản tánh ngày nay, vì thiên lương
đã mất cho nên thân trần
lục đạo luân hồi làm hoại Nho Tông, làm mất đường chánh pháp, đua sửa tôn-chỉ
công bình, thông nghiêm cho nên phải chịu họa điên đảo mạt kỳ loạn ly là thế.
Nơi nơi chúng sanh vì lòng dục vọng mà tạo thành biết bao nhiêu là ác nghiệp.
Tất cả các nguyên nhân quỳ dưới Phật đài đều biết là vì dục vọng, vì ác nghiệp
cho nên làm cho thế gian phải đảo điên, biết như thế tại sao không hành cho
đúng chánh pháp, biết mà không hành làm sao đi đến đại đồng cực lạc. Tuy biết
cũng không bằng hành, phải thật hành cho đúng, phải diệt dục, giữ lòng thanh
tịnh, đừng nói rằng chỉ một mình ta, dầu diệt dục, dầu giữ lòng thanh tịnh cũng
không giữ được phong hóa thuần lương, hoặc chánh pháp kỷ cương của Huỳnh-Đạo mà
phải biết rõ tự mình sửa tâm tánh, diệt dục rèn thân còn hơn là không đương sửa để đua đòi theo vật chất xa
hoa, khi gần bỏ xác ân-hận thì đã muộn màng, thương thay!
Tại
sao Bần-Đạo truyền tinh-quang siêu điễn cho một chơn đồng để tìm ra chánh pháp?
Nầy các nguyên nhân, vạn pháp cho tâm tạo, trước khi nhập Niết-Bàn, Bần-Đạo có
đại thệ cùng thế gian sẽ chuyển pháp luân dùng mọi phương tiện để truyền bá
chánh pháp, miễn làm sao cho chúng sanh tỏ ngộ được chơn-lý tu hành mà thôi.
Nơi nầy truyền cơ bút, nơi kia chuyển hóa hồng ân, nơi nọ dùng hào quang chiếu
rọi chuyển đức lành cho chung, tùy căn duyên, tùy đại kiếp, tùy phong hóa dân
sanh phù hợp mà Bần-Đạo chuyển huyền linh. Vì thời kỳ mạt pháp cho nên phải
dụng tinh-quang siêu điễn tá khắp trần gian mới độ rỗi toàn cầu, chớ hiện ra
một thân tứ đại thì cũng không thể nào Thống được Ngũ Chi. Tam-Giáo không lập
lại đời Thượng-Nguơn Thánh-Đức. Ngày kia Di-Lạc Thiên-Tôn lâm phàm là đương lai
Giáo-Chủ Long-Hoa sẽ trọn quyền phán xét, Tam-Giáo công đồng, tất cả nguyên
nhân phải tin tưởng rằng ngày tận thế sắp gần kề, điều phán xét đại đồng không
xa vậy. Biết như thế mà vẫn ngồi yên, nhìn thế cuộc, thương thay!
Tiếp
điễn …
Nầy
các nguyên-nhân, đang hồi khảo đảo, thế cuộc đảo điên, vì thương chúng sanh nên
Phật quì dưới bệ tiền cầu xin Ngọc-Đế gia ân cho tùy duyên Thánh, Thần, Tiên,
Phật phổ truyền giáo pháp, đại xá kỳ ba. Trong thời Phong-thần diễn biến vay
trả trả vay, từ đây sẽ biết đừng ham đoản lạc, đừng tiếc cảnh trần gian mới
thấy rõ Đạo mầu tuyệt diệu cao siêu. Nữa trần tục, nữa tin tưởng Đạo mầu thì
cũng chưa thực được lý cao siêu của Trời ban bố vậy. Nếu tất cả nguyên-nhân
chịu bỏ tất cả thì sẽ được tất cả, nếu còn ham muốn tất cả thì sẽ mất tất cả,
chẳng phải mất tất cả mà thôi còn mất luôn cả linh hồn. Kìa linh hồn báu trọng
tinh anh tại sao các nguyên nhân không biết trau luyện lại, rèn chi thân thể tứ
đại ngày kia sẽ trả về với gió bụi. Nhưng muốn luyện linh hồn trước phải tập
rèn cho thân thể phục tùng theo lý trí, từ lý trí mới được huệ linh của Tiên
Phật truyền ra, các nguyên nhân mới thọ lấy. Cảnh trần gian đã biết là ô trược
đắng cay, lòng phiền não cứ nối tiếp theo làm cho con người phải điên đảo trong
thất tình lục dục. Ai cũng biết thế, ai cũng suy nghĩ thế mà không ai hành đúng
theo chánh pháp hư-vô, không có lòng tin trọn vẹn, chẳng có dạ hy-sinh tuyệt
đối cho nên không thành Tiên, đắc Phật là vậy.
Kìa
nhìn xem trong tất cả Bửu Tự, Thánh Thất, Thánh Tịnh biết bao nhiêu từ mấy ngàn
năm nay chưa có người đắc được, vì không có một nguyên nhân trọn lòng thành
tín, trọn dạ hy-sinh, mượn Đạo tạo đời gây biết bao nghiệp quả cho nên không
đắc được Tiên, Phật tại thế. Chúng sanh thì đa chấp, nhìn thấy thế cho nên cho
là chánh pháp chẳng được anh linh mới có điều bán rẻ khinh khi. Ngày nay nếu
không trọn tin, không trọn dạ hy-sinh thì cũng chẳng đắc được chi Tiên, Thánh.
Đường
trần ngắn ngủi, đời của các nguyên-nhân cũng như con phù du. Nầy các
nguyên-nhân, trong một khắc, trong một ngày của một sinh vật nhỏ nhứt trần gian
mà các nguyên-nhân nhìn thấy đó thì chính nó cũng ngỡ rằng sống trăm năm, cũng
như tinh thần của các nguyên-nhân đang nghĩ đến vậy. Phần Thần, Tiên, Thánh,
Phật cũng như người nhìn thấy các sinh vật nhỏ bé, cảm động lòng thương, truyền
chánh pháp cho hầu có tránh khỏi điều tang thương, nhưng vì quá u tối mê lầm.
Người
cha thương con thường dạy bảo cho con điều hay lẽ phải, dạy cho con học hành,
dạy cho con bước vào khuôn khổ của Đạo Đức, nhưng đứa con cho rằng cha mẹ khó,
điều đó cũng chẳng ích chi. Khi lớn khôn mới hiểu rõ đó là lời châu tiếng ngọc,
nghĩ lại lúc bé thơ cãi lời cha mẹ, điều đó rất là ân hận. Thương thay! Các
nguyên-nhân ngày nay quì trước Phật đài chấp lấy chánh pháp siêu vi, bỏ điều
đau thương trần tục một dạ tin tưởng, nơi gia đình phải làm tròn bổn phận để
trả nợ đời. Nơi Thiêng-Liêng phải tự rèn lòng, tự trau giồi linh hồn cho riêng
mình, đừng vì quá cảnh đời mà phải luân hồi vì oan gia nghiệp chướng. Không có
một điều gì trường cửu nơi thế gian, nhưng nơi thế gian cũng là nơi trường miên
vĩnh cửu. Tại sao? Điều trường miên vĩnh cửu là do người tạo ngay bây giờ để
dành cho ngày sau vậy! Còn điều không trường miên vĩnh cửu là vì luật vô thường
điên đảo của thế gian, biết luật thiên nhiên, biết điều trọng đại thì tự mình
tầm lấy chơn pháp siêu vi, tự giải thoát cho mình. Còn riêng về Thần, Tiên,
Thánh, Phật thương chúng sanh vì lòng đại từ bi điểm hóa cũng như người khai
đuốc, chỉ rõ đường đi nước bước chớ không thể kề vai gánh lấy được. Đi hay
không là tự người vậy. Thấy người đang cơn đói khổ, Tiên, Phật chạnh lòng thương
xót ban cho chén nước, ban cho chén cơm, còn ăn hay không là tự người vậy.
THI BÀI
Phong quang Đạo pháp diệu thường
Hạ đàn khuyên nhủ vẹn đường tâm kinh
Thế trần muôn việc tại tin
Tin là tối diệu, tối linh cuộc đời
Khuyên
tất cả tin trời, tưởng Phật
Có
hoại gì, có mất gì đâu?
Sớm hôm trần tục não sầu
Cuộc đời lăn lộn cơ cầu đắm say.
Sáng
đến chiều trọn ngày vất-vả,
Chỉ
vài giờ thong thả tâm hồn,
Suy cơ quảng đại kiền khôn,
Mau chơn thoát khỏi hàn ôn hội này.
Tự
tin trên có Thầy NGỌC-ĐẾ,
Quản
năng quyền lập thế cứu đời,
Nguyên nhân kỉnh Phật trọng Trời,
Tự tin Thần Thánh vạn lời chép biên.
Đâu đâu cũng ban truyền chánh pháp,
Phải rèn lòng bồi đắp hiếu trung,
Một là trả nợ cúc cung,
Cù lao dưỡng dục trọng dùng con thơ.
Nơi trần tục đợi chờ tu tỉnh,
Cho Cửu-Huyền được lỉnh giáo truyền,
Thiên-Thai nguyên vị hồi nguyên,
Con đường than thở Diêm-tuyền ai ơi!
Vì cha mẹ trước thời bất ngộ,
Mối Đạo Vàng là chỗ cao siêu,
Muốn về được cảnh Linh-Tiêu,
Niết-Bàn tự toại cần yêu Ông Bà.
Phải cầu nguyện thiết tha cứu rỗi,
Cho Cửu-Huyền xá tội được lên,
Thì con tâm chí mới bền,
Đạo mầu mới được Ơn Trên chiếu truyền.
Lời tâm pháp cửa Thiền rộng mở,
Nơi đây là nâng đỡ nguyên nhân,
Tránh qua khỏi cảnh Phong-Thần,
Tránh điều bạo ác xây vần đó đây.
Đời chuyển biến hồi này cố gắng,
Phải tròn tin để đặng bảo tồn,
Trước là trọng vệ linh hồn,
Sau là Thất-Tổ được Ơn triệu hồi.
Nay tinh-tấn tô bồi Giáo-Pháp,
Theo Thánh-Ngôn xây đắp Đạo-Vàng,
Trước là chữ hiếu trang hoàng,
Sau lo trả nợ trần gian kịp kỳ.
Luật vay trả huyền-vi Trời định,
Nay vay rồi lừa phỉnh làm sao?
Kiếp này nếu chẳng trả mau,
Kiếp sau còn phải lời trao vạn ngàn.
Nay gặp Đạo mau toan vì Đạo,
Lập quả công cố tạo đức lành,
Ông Cha chắc chắn sẽ thành,
Nhờ nơi con trẻ để dành đức tin.
Thương trần tục Thiên-Đình đại-xá,
Tại nhân loài vội ngã lòng tin,
Vô Thần bày thuyết tự mình,
Lo cho đoản lạc kiếp sinh hiện tồn.
Rồi mặc kệ dại khôn ngàn kiếp,
Để linh hồn nối tiếp đọa đày,
Thương là thương cảnh trần ai,
Thương người hướng thiện Thiên-Đài muốn lên.
Nhưng
tâm vẫn mãi quên trì niệm,
Quên
cuộc đời toàn kiếm hư danh,
Truyền trong cho mối Đạo lành,
Mà không suy xét khó thành Phật, Tiên.
Kỳ
đại xá diệu huyền ân tứ,
Khuyên
nguyên nhân nên giữ từ nay,
Ta là Giáo-Chủ Đương Lai,
Lập đời Thánh-Đức hoằng khai Đạo-Vàng.
Thăng
DI -LẠC THIÊN-TÔN
TA là Thái-Tử hiện trần-gian,
BÀ giới đương nhiên chịu ách nàn,
GIÁO vận huyền thông linh sắc ấn,
CHỦ tâm
độ thế thọ bằng an,
MÂU tiền
Hà hậu thông thời kiến,
NI chúng kiên tâm lãnh Đạo Hoàng,
ĐẲNG thượng Huyền-Khung khai Thượng-Đức,
GIÁC tâm viên tánh lập Nam-bang.
Bần-Đạo THÍCH-CA GIÁO-CHỦ ĐẲNG-GIÁC MÂU-NI mừng chung Thiên-Phong nam nữ Tân niên
triều kiến. Vậy giờ lành giao-thừa Đinh-vị, Bần-Đạo chuyển bút huyền để cho
hàng Thiên-Phong hiểu rõ cơ nguyên ngày Long-Hoa Đại-Hội. Nếu giờ đây không kịp
tự mình cứu rỗi, ngày nọ khó ăn năn, hễ
chí quyết Đạo hằng, thì dầu năm
này tháng nọ cũng không bỏ, đường công quả vẫn như như, Bần-Đạo chuyển tả lời
thư để cho chung cùng suy nhiệm lý.
Đường
còn xa, nhưng xa với phàm-nhân thế-tục, nẻo quanh co với sắc giới luân-hồi,
người Đạo pháp đã thông suốt rồi thì không bao giờ nghinh ai phải hiểu rành lý
đời cho tạng, lý Đạo cho sâu, thông tường nẻo nhiệm-mầu, bất cầu, bất chấp, thọ
lấy pháp-nguyên thì đừng phân cao hay thấp, vẫn một mực tu hành, trên chứng có
Tam-Thanh, đem tất cả lòng thành để hiến dâng cho THẦY MẸ.
Đạo- lý siêu thâm tại pháp huyền,
Ngày xưa Bần-Đạo thọ cao nhiên,
Chỉ cho sanh chúng đường Long-Hội,
Tiểu kiếp thiểu căn khó đoạt liền.
Đoạt liền Tâm-pháp phải Thiên-Tinh,
Bửu-vị ngàn năm hiện sắc Huỳnh,
Đài thượng nhiếp hòa tâm ý thọ,
Đời sau mới thấy rõ huyền-Linh.
Huyền-Linh ngày trước có chi đâu!
Nhân chúng mang khai giữa địa-cầu,
Giờ đến Long-Hoa đường ngắn ngủi,
Nên chi Trời Phật thế-gian thâu.
Thâu trọn thời gian lập Đại-đồng,
Chuyển Thần xuất Thánh thị Hoa-Long,
Tân-niên Bần-Đạo ban ân cả,
Nam nữ
Thiên-Phong mỗi hưởng phần.
…………………………………………………………………………….
THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
GIẢI VỀ TAM GIÁO
QUI-NGUYÊN
(Thiên-Lý Bửu-Tòa, 12g30 ngày 1-7-1977)
Thi rằng:
BỔN tánh từ-bi mới trọn lành,
SƯ đệ phăng tầm rõ trược thanh,
THÍCH, Ðạo cũng là
chung một gốc,
CA tụng đức dày đấng liệt oanh.
MÂU thuẫn cuộc đời toan cấu
xé,
NI tăng ngộ giác khá học hành,
PHẬT pháp cổ truyền đường
chánh-giác,
Giáng trần miêu tỏa phép luyện phanh.
Thi:
THÁI độ người lành gắng học lo,
TỬ phủ quê xưa cố lần dò,
SĨ hiền tạo lập
nên danh tốt,
ÐẠT bảng tên đề mới phải cho.
TA nguyền độ thế
thành Phật-đạo,
ÐỜI khổ tầm tu đáng mặt trò,
NHÀ rách chớ phiền trau luyện
tánh,
CHÂU đáo Phật thành ngọc chẳng
so.
Tản
văn:
Nay
Bần-Ðạo nhậm sắc Thiên-triều giáng Ðàn tả Kinh. Cũng vì nay đã cận kỳ mạt thế,
nên sắc-chỉ Thiên-Ðình mới xuống lịnh ban truyền khai thông Ðại-Ðạo, Tam
Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng hiệp nhứt hầu độ tận nhân sinh qua kỳ thế
diệt. Nay Tam-Giáo thượng tòa mới hợp đồng qui cơ mà khai thác quyểnThánh-Kinh.
Các vị Giáo-Chủ Tam-Giáo đồng thọ lịnh giáng trần nơi Thiên-Lý Diệu-Ðàn mà
để lập thành cơ qui-nguyên thống-nhứt, khai Ðạo truyền Kinh lưu hành toàn cõi
đại-đồng thế-giới và lưu cổ truyền kim.
Ðạo
có qui-nguyên, có tác-hiệp, có dung-hòa, thì mới có tầm đến mối chơn-truyền
bí-pháp tối-thượng vô-vi, hầu mới dìu dẫn Linh-Căn phục hồi cựu vị. Nầy hỡi các
chư môn-đồ hãy nghiêm tịnh lắng nghe, Ta sẽ giải rành về mục Tam-Giáo
qui-nguyên.
Vì
nay là buổi đời cùng tận, mạt hậu tam nguơn nên nhân sinh trên toàn cõi
dinh-hoàn nầy đồng chung chịu qua những cơn xây chuyển lập đời. Khắp
vũ-trụ-quan nầy cũng đều sắp chuyển mình mà đưa sang một kỳ tiêu diệt cuối cùng
vì loài người đã lần lượt gây nhiều tội lỗi. Vì thế, mà cuộc đời phải đành cam
chịu cảnh nguy vong thống khổ. Ðức Chí- Tôn có dạy rằng:
Ðời mạt hậu tầm đường giải-thoát,
Như kiến bò miệng bát vòng quanh.
Lời
phán của Ðức Chí-Tôn nghĩa một ý hai. Ðọc Kinh phải cầu lý. Chớ như việc đọc
Kinh mà cứ đọc suông qua, cốt để giải trí thì cũng đâu có thắm thía gì đến ý
nghĩa cao siêu huyền huyền diệu diệu.
Ðạo
Phật sơ khai vốn đời Thượng-Cổ. Thuở ấy, loài người còn bổn tánh thiện-lương,
thiệt là đời Thánh-Ðức! Thế nên, những người chơn-tu thành Phật rất nhiều. Lần
lượt sang qua thời Trung-Cổ, khi ấy bổn tánh đã lạc xa, ít người tu niệm. Ta ra
đời nhằm thuở thái-bình. Phụ Vương ta vốn là một bực Chúa-Tể san hà vinh vang
ngôi báu. Nhưng riêng Ta vì chán ngán kiếp làm người, thân thể nhục bào như phù
du ngắn ngủi. Cõi trần giả tạm nay còn mai mất. Sanh, Lão, Bịnh, Tử khổ là vị
chi tứ khổ của loài người. Thể xác nầy vốn là tạm giả, sự còn mất chẳng hẹn
ngày giờ. Sống và thác vẫn coi như tên bay trước mặt, như cửa sổ ngựa
qua. Dầu cho của cải trăm muôn, một phút vô-thường cũng không mua chuộc
đặng. Dầu cho bực Thiên-Tử nắm quyền sanh sát, quản trị một tay, nhưng đến phút
vô-thường cũng phải cam đành xuôi tay nhắm mắt. Lời Thánh cũng có câu:
Vô-thường chẳng sợ tay oanh-liệt,
Quỷ tốt nào kiêng bực phẩm hàm.
Thế
cho nên, dầu bực Công, Hầu, Khanh, Tướng, phú quý vinh hoa đối với sự đời cũng
đều xem như là bọt nước ven sông. Người sanh trong cõi đời tạm giả, vòng tứ khổ
vây hãm nhục-thân khiến cho ta lúc nào cũng ngại lo lũ quỷ vô-thường đang chực
chờ bên ta mà vẫn không hẹn ngày giờ cho ta biết trước. Chi cho bằng ta sớm xả
thân tầm Ðạo, ấy là ta tầm đặng một con đường giải-thoát tối thượng tối cao
vĩnh sanh bất diệt. Dùng gươm trí huệ mà cắt đứt dây oan, giải vòng tứ khổ, dứt
đoạn sầu bi thì thân tâm ta mới đặng nhẹ nhàng, tinh thần phát huệ, lưu thông
cửu khiếu thì ta mới vượt khỏi vòng đời trần lụy mà nhập cảnh Niết-Bàn thiên
thu tự toại.
Ta
xưa nương cội Bồ-Ðề sáu năm tu luyện, Phật-đạo đắc thành, Ta bèn đem chơn-lý mà
phổ độ nhân sinh, dắt dìu bá tánh. Nhưng Ta cũng rất thương thay cho ngày nay
người đời cũng có lắm kẻ quyết chí tu thân, cũng muốn học đòi gương xuất-gia
giải-thoát, cũng quyết tâm cắt ái ly thân, nhưng rốt cuộc rồi đời tu khổ hạnh
ấy vì không được mối chơn-truyền thì làm sao đắc thành chánh-quả? Bởi vì từ xưa,
thời kỳ mạt pháp, cửa Ðạo đã bế môn, thất lạc mối chơn-truyền từ khi Thần-Tú ra
đời. Vì thế mà những thế kỷ trôi qua thì Phật-Ðạo chỉ còn là các phần vi-hữu,
sắc tướng thinh âm. Còn phần tâm-pháp bí-truyền ngồi tu luyện như xưa thì vẫn
không còn nữa. Bởi thế, cho nên tu hành thì nhiều kẻ, mà thành công đắc quả thì
lại rất hiếm hoi. Ðến nay là thời kỳ Long-Hoa Ðại-Hội, Huỳnh-Ðạo
Thiên-Khai, Tam-Giáo Qui-Nguyên, đại-đồng tác hiệp, ban truyền tâm pháp độ
rỗi Linh-Căn và dành riêng cho những bậc tầm tu giải thoát để đưa về nguyên-vị
và độ tận nhân sinh, dìu dắt lẫn nhau hầu vượt qua cơn biến thiên đại-cuộc mới
mong còn giữ lại được sự sống mà để bước sang qua đến một thời cuộc thái-bình
Thượng-Nguơn Thánh-Ðức mà hưởng cuộc nhàn yên.
Nầy
hỡi chúng-sanh, con đường tu luyện để cần giải thoát cho linh-hồn nghe qua rất
là khó khăn, nhưng thật ra cũng chẳng có chi khó nhọc tột cùng, mà cũng vẫn
không quá dễ dàng để cho mọi người đều được thấy. Các vị có hiểu chăng? Phép
Ðạo luyện tu tâm-pháp bí-truyền từ xưa vốn đời Phật Ðạt-Ma Ngũ-Tổ tích
cổ truyền lưu. Bí truyền cho Ðức Lục-Tổ là Huệ-Năng, Kinh sử vẫn
lưu truyền cho đời hiểu biết. Xiển-Giáo vô-vi thậm-thâm vô-thượng, nhưng nếu
người đời mà không gắng chí thì cũng đâu có dễ chi kiếm tầm đặng ra phép báu!
Châu
ngọc ở thế-gian dầu là quý báu mà vẫn còn dùng giấy bạc mua đổi được thì thật
là không quý. Vàng ngọc trong tay vẫn còn lo ngại nay còn mai mất. Còn như phép
Ðạo luyện tu kết thành Kim-Ðơn Xá-Lợi để cho linh-hồn người đặng trường cửu,
bất diệt, bất sanh, ấy mới thật là quý báu hơn trăm ngàn lần ngà ngọc. Sang
giàu như bọt nước, công hầu phú quý cũng tan hợp tợ phù-vân. Cõi trần tạm giả.
Xác thể nhục-bì cũng chỉ là tạm. Cõi đất bụi nầy mãn hạn đúng kỳ ta cũng phải
trả về cho đất bụi. Linh-hồn phải vướng víu nghiệp trần mà chịu luân-hồi tứ
khổ, vay trả, trả vay... đời đời chẳng dứt. Mãi cho đến lúc thối thân từ kiếp
thú cầm sang qua thảo mộc; thối đến các loại kim khí, sắt thép, thau chì, ...
thì biết đến mấy ngàn năm mới có đặng cơ hội tiến hóa từ kim khí chuyển sang
đến cầm thú, và từ kiếp thú cầm mới bước sang đến nhân-loại. Sự phục hồi ấy sẽ
khó nỗi mong ước. Gẫm đáng thương thay và đáng tiếc lắm thay!
Thi bài:
Khuyên
bá tánh tịnh thần nghe dạy,
Lòng
từ-bi hà hải độ đời,
Nhân
sinh tai biến chiều mơi,
Cần lo tu
niệm Phật Trời noi gương.
Nương
bút Thánh tận tường phân giải,
Khuyên
người đời đường phải bước mau,
Ðừng
than phận khó nghèo giàu,
Ðạo, Ðời,
chung bước cùng nhau lo tròn.
Tu
tại gia phận tròn công đắc,
Tu
chẳng cần bưng bát chùa am,
Màng
chi mão áo, tước hàm,
Không phiền
cạo tóc, tu tham một mình.
Tu
lẫn lộn thế tình ai biết?
Tu
trọn gìn chẳng thiết xuất gia,
Ðừng
chi áo trắng nhuộm dà,
Tâm còn tráo
chác mị tà ích chi!
Tu
giữ kỷ điều qui tâm tánh,
Giữ
mười điều xa lánh tu cao,
Tu
sao vô phạm nhứt hào,
Tu cầu bá
tánh khỏi vào sông mê.
Tu
cứu khắp người quê kẻ chợ,
Tu
rèn lòng như tợ nước trong,
Tu
gìn giữ một chữ KHÔNG,
Ðừng cho lay
động mới mong đắc thành.
Tu
cho đặng Công-Bình cư xử,
Tu
rèn lòng hai chữ Từ-Bi,
Tu
gìn Bác-Ái gắng ghi,
Ðường tu mới
hãn chứng vì Phật-gia.
Tu
đắc Ðạo, ta-bà cứu thế,
Mới
gọi tu thật thể Ðạo-mầu,
Tu
phân thiện ác khác nhau,
Tu gìn tâm
địa răn câu mị tà.
Lời
châu ngọc Phật-gia nghiêm thuyết,
Xin
người đời lý triết hiểu thông,
Bút
cơ miêu tỏa mấy dòng,
Ban ơn
Hiền-Nữ chơn-đồng lui chân.
Giả
tín-nữ ban ơn mầu nhiệm,
Nương
khiếu người diện kiến tác văn,
Diệu
mầu đôi phút hãn tường,
Khuyên trong
bá tánh mọi đường tầm tu!
Thăng...
THÍCH-CA GIÁO-CHỦ
(Thiên-Lý Bửu-Tòa, 9g ngày 3-7-1977)
Thi rằng:
THÍCH giáo, Phật tăng cõi Nam
Phần,
CA ngợi đức dày Phật Pháp ân,
GIÁO dục ngàn đời noi Ðạo-pháp,
CHỦ quyền thay đổi khốn ni
tăng.
Thi bài:
Cùng
môn sinh mây mù lần vẹt,
Hãy
nghiệm suy rõ biết diệu huyền,
Thơ
bài tiếng Phật, lời Tiên,
Xin người
thế tục đức hiền trau tâm.
Ta
xuống thế sanh làm vua chúa,
Ta
còn không hoen ố bụi trần,
Dốc
lòng tầm Ðạo xá thân,
Một người
một ngựa băng rừng tầm tu.
Cội
bồ-đề công phu luyện thuốc,
Sáu
năm tròn thì đắc Kim-thân,
Ta-bà
trong cõi dương-trần,
Ðộ người
biết nẻo tu thân đắc thành.
Ðộ
phụ mẫu Ðạo lành tỏ rạng,
Cứu
cửu-huyền cho hãn Ðạo mầu,
Giúp
đời thoát khỏi vực sâu,
Thoát vòng
sanh tử khổ sầu thương tâm.
Ta
gương mẫu nghìn năm rạng rỡ,
Tấm
gương lành muôn thuở đời soi,
Ðừng
ham quyến luyến mùi đời,
Ðỉnh chung
cát bụi đâu thời bền lâu.
Sống
cõi tạm trong bầu hiện hữu,
Chịu
bốn đường sanh lão bệnh căn,
Thảm
thê là sự mất còn,
Ngựa qua cửa
sổ đường mòn phải đi.
Giờ
nhắm mắt hiệp ly thảm khốc,
Chịu
nỗi sầu tang tóc mến thương,
Nhớ
khi chung gối, chung giường,
Rồi ra ly
biệt, sầu thương ích gì.
Tu
là cắt sầu bi đứt đoạn,
Cắt
dây oan ràng buộc khỏi vòng,
Luân
hồi tứ khổ sạch không,
Sen vàng nối
bước non Bồng thảnh thơi.
Sống
muôn Thu đời đời kiếp kiếp,
Cõi
Phật, Tiên không nghiệp buộc ràng,
Màng
gì cõi tục đa đoan,
Nay giàu,
mai khó, nào an tấc lòng.
Giàu
cũng khổ, nghèo trông cũng khổ,
Nhọc
sức lo câu xé giựt giành,
Tuồng
gì là bả hôi tanh,
Hết rồi một
kiếp hồn linh đọa đày.
Ta
thương tâm giãi bày mọi nỗi,
Người
hãy tua tự hối răn lòng,
Tu
là gắng giữ tâm không,
Chớ đừng phế
bỏ vợ chồng con thơ.
Không
xuất gia tầm cơ giải thoát,
Cư
tại gia mà đạt phép mầu,
Gánh
đời, gánh Ðạo song tu,
Vẹn toàn
công đắc tu mau một đời.
Tu
lập công độ thời bá tánh,
Không
vào chùa trốn lánh nợ trần,
Kiếp
tu tròn nghĩa vẹn ân,
Hoàn toàn
bổn phận nghĩa nhân cũng đồng.
Lo
công phu dày công tần tảo,
Trả
nợ đời hiếu thảo cho xong,
Nghĩa
tình tròn phận đạo đồng,
Giữ câu
trong sạch dày công trọn lòng.
Giờ
mãn điển đạo đồng ghi lấy,
Ngẫm
mấy lời Phật dạy rõ thông,
Ban
ơn hiền-nữ chơn-đồng,
Giã từ lui
bước non Bồng phi thăng.
Thăng...
THÍCH-CA
GIÁO-CHỦ
Thi rằng:
THÍCH ý
bởi do thuận máy Trời,
CA ngợi
chí hùng khắp các nơi,
GIÁO truyền
vẹn cuộc qui Tam Giáo,
CHỦ chánh
Diệu-Ðàn dạ chẳng lơi.
Thi:
Chứng cuộc Lễ
tròn vẹn tốt tươi,
Mừng thay cõi
thế được ơn Trời,
Có thuyền
Bát-Nhã chèo đưa khách,
Cứu nguy đại
họa buổi mạt đời.
Tản
văn:
Nay
Bần-Ðạo lai đàn chứng lễ. Mừng thay ngày Tam Giáo Qui-Nguyên! Vui
thay cho nhân loại gặp kỳ đại xá! Buổi đời mạt hậu mà rất hữu hạnh thay, nay
kịp kỳ Ðạo mở ơn Trời cứu thế,
Tam
Giáo hội đồng Thiên-Khai Huỳnh-Ðạo.
Vì
Trời xót thương cho cuộc đời tàn, những cơn thống khổ, nên tất cả mới động lòng
mà ra tay cứu vớt cho nhân loài thoát qua khỏi cảnh lầm than. Bần-Ðạo cũng ước
mong cho toàn cõi đại đồng cũng đều được hiệp hòa ý chí mà hầu lo tu cho sớm
đặng hoàn toàn mối liên giao một niềm thân mến để cho đường đạo-đức được phát
huy mạnh mẽ thì mới được quỉ phục thần khâm, đời mới mong hàn gắn lại được cảnh
tượng nguy vong thoát qua cơn nước lửa.
Giờ
nay Bần-Ðạo xin ban ơn cho tín nữ hằng dày công tu luyện giúp đời, đảm đang
trọng trách với Thiên mạng mà hành Ðạo ngày nay. Bần-Ðạo cũng xin chúc cho tín
nữ được bền tâm gắng chí mà để được đoạt đến mục đích tối hậu thì sự thành tựu
Trời sẽ thưởng ban. Vì trên bước đường tu thì ai ai cũng phải thực thi
công quả độ đời. Việc ấy là lẽ cố nhiên từ kim chí cổ. Nếu như tu hành mà chỉ
biết ích kỷ tự thân thì làm sao đoạt đến mức tu cho đắc thành chánh quả?
Chữ Ðạo là một lý rất thiên nhiên rộng
rãi không riêng tư, không quyền lợi, không trước, không sau, không cùng, không
tận, mà vốn là mênh mông không bờ, không bến, không thấp, không cao. Nếu nơi
đâu có Trời, có đất, có người thì Ðạo vẫn lưu thông khắp vòng quanh vũ trụ. Vậy
nên tâm tánh của người tu đều phải có sự từ bi, bác ái, công bình, mà
xem các sự đau khổ của nhân loài cũng như sự đau khổ của chính mình, mà phải
cần có sự cứu độ chúng-sanh khổ. Bần-Ðạo cũng chúc cho nữ hiền mau sớm tiến
tới một ngày ly gia cắt ái, hầu cất bước lên đường dìu nhân thoát khổ thì mới
đáng gọi là bực tu nhân độ thế.
Nay đã mãn giờ chứng lễ, tín nữ hãy lo
nghinh tiếp Ðức Giáo-Chủ Thánh-Ðạo Tây-Phương. Bần-Ðạo xin phản hồi
Tây-Vực.
Thăng.
PHÁP CHỈ THƯỢNG THỪA
Tý thời, đêm 15 tháng 4 năm Quý Sửu - Đại Đạo 47 (17.5.1973).
THI
THÍCH Chủ minh tâm kiến tánh chơn,
CA thành mạng lập bổn nguyên huờn.
NHƯ nhiên tịch tịnh vi cơ động,
NHƯ nhiên tịch tịnh vi cơ động,
LAI định chân thời thể thủ đương.
Điểm xuyết Càn Khôn thông giác hải,
Truyền giao Ly Khảm hội quan nguơn.
Pháp luân khởi trụ xuy khư hóa,
Chỉ sở linh minh xuất tử đơn.
Chỉ sở linh minh xuất tử đơn.
Bổn Sư chào mừng chư môn đệ đàn tiền, miễn lễ, tỉnh tâm an tọa nghe dạy đề tài: "Pháp Chỉ Thượng Thừa".
Lành thay! Lành thay! Trước tiên Bổn Sư có lời mừng cho những môn đệ có lòng chí thành thiện nguyện nên được Thượng Đế đặc ân cho "Phẩm Thượng Thừa" này.
Hỡi chư thiện tâm! Giữa lúc đa phần nhân loại đang say mê theo cuộc sống vật chất trần hồng, trí óc con người đều dốc trọn vào sự nghiệp hữu hình, vào cơ giới hóa thời đại. Còn phần tinh thần thiêng liêng của con người gần như xa lạ.
Giới tu hành lại nặng về tín ngưỡng, theo sắc tướng âm thinh hoặc ưa thích theo lối dị đoan, mê tín, bùa chú, pháp thuật, không lối giải thoát tâm linh, không hội nhập được chân truyền của nền Đại Đạo.
Chân truyền còn gọi là bí quyết tu luyện.
Công phu tu luyện có hai phần là: Trúc Cơ và tu Tánh luyện Mạng.
Trúc Cơ có bốn công phu:
- Trúc Cơ
Minh Đường là thực hành Nhơn Đạo.
- Trúc Cơ Lập
Đức là thí pháp, giúp người học Đạo.
- Trúc Cơ
Tâm Hư là luyện kỹ Tinh thuần.
- Trúc Cơ
Vô Lậu là luyện Tinh Khí không còn tẩu lậu.
Trúc Cơ hoàn thành mới kiến tạo Tam Đài:
- Bát Quái Đài là
ngôi Thần.
- Hiệp
Thiên Đài là ngôi Khí.
- Cửu
Trùng Đài là ngôi Tinh.
Tam Đài là sự thể hiện của Pháp môn "Tánh Mạng song tu, dĩ Thần ngự Khí".
THI
Đại Đạo là gì? Đạo ở đâu?
Đó là cương yếu đặt từ lâu,
Thân, tâm "đóng - mở" Trời ban phú,
Tánh, Mạng "sanh - huờn" pháp hiệp thâu.
Khải ngộ an nhiên cơ định giác,
Viên dung chiếu hiện tợ minh châu.
Thoát vòng cương tỏa vô lai khứ,
Chẳng bận tử sanh, chẳng nguyện cầu.
Con người có Tâm và Thân, có Tánh và Mạng, có Thần và Khí, tức là có âm và dương. Thiếu một thành phần là không thành con người, do đó phải có cả hai. Nếu tu Tánh mà không tu Mạng, hoặc tu Mạng mà không tu Tánh là không
đúng với
chân pháp Đại
Đạo,
uổng
phí công lao.
THI
Đạo tại nhãn tiền, tại bản thân,
Luyện tâm hư cực, Tánh huờn chân.
Luyện Thân giả hiệp thành thân Pháp,
Luyện nội ngoại công tụ Khí Thần.
Công phu tu luyện đều nhắm vào Tánh, Mạng nên Bổn Sư nhắc đi nhắc lại nhiều lần cho hàng Tu sĩ lưu ý hầu khỏi lạc vào nẻo bàng môn ngoại đạo.
Tánh tức là tâm. Tâm thường an thì Tánh thể thường minh. Thân không lậu thì Mạng căn vĩnh cố. Tánh thể thường minh thì vô lai vô khứ. Mạng căn bền vững thì chẳng tử chẳng sanh.
Công phu Tánh, Mạng phải qua từng trình tự gọi là 5 bước công phu, hay gọi là "Ngũ Thiền", từ khởi thủy đến thực chứng.
1. Sơ
thiền: Luyện kỹ Trúc Cơ.
Luyện kỹ là luyện cái tâm cho thuần nhất, không còn nghĩ thiện nghĩ ác, nghĩ có nghĩ không,
nghĩ phúc nghĩ họa,
nghĩ hơn
nghĩ thua... tức
là không còn những
đối
tượng nhị nguyên nữa. Tịch nhiên bất động.
Thức
thần
không còn chỗ nương. Chơn thần trở về chủ vị như thuở Tiên Thiên, gọi là tâm thuần
dương, bất sanh bất
tử.
2. Nhị
thiền: Luyện Tinh hóa Khí.
- Nam giới thì luyện Tinh hóa Khí.
- Nữ giới thì luyện Huyết hóa Khí.
* Luyện Tinh hóa Khí: là luyện cho tinh thông không còn tẩu lậu. Thể thủ Chân Tinh đem về chỗ vị sanh thân rồi dùng Chân Hỏa huân hóa cho Tinh này trong sạch như nước thanh nguyên (nguồn nước trong sạch) rồi hóa thành Khí.
Tinh thủy hạ lậu chỉ có một đường dương quang nhưng sau khi đã hóa thành Khí thì
lậu
khắp
chín cửa
do đó phải
đóng kín chín
Khiếu
bên ngoài và một
Khiếu
bên trong là ý bất
động.
Lúc này Chân Khí không còn vọng xuất nữa mà tụ về Tổ Khiếu mà chầu Chơn Thần, và lúc này Thần Khí mới tạm thời hiệp nhứt, mà phải chờ đến lúc Chân Khí kết thành Chân Chủng Tử mới thật hiệp nhất và hiệp mãi mãi.
Tuy Chân Khí đã quy tụ nơi Tổ Khiếu nhưng chưa được hoàn toàn thanh chân, nên
Chân Ý phải
hướng dẫn nó theo con đường về Tây Phương và xuống Địa Phủ vài mươi hiệp để
dung hóa với
nội
dược là chơn Âm và chơn Dương cho thành một loại chân dược vô giá bửu.
Rồi còn phải tiếp theo một thời công phu nữa mới viên mãn thời Tiểu Châu Thiên, Chơn Thần không giây phút xa lìa Cốc Thần, gọi là Cốc Thần bất tử. Công phu này vừa huân chưng vừa thể thủ.
* Luyện Huyết hóa Khí: còn gọi là: "Thái âm luyện hình". Cùng với pháp tu luyện của nam giới. Đại
thì đồng, tiểu thì dị.
Sơ công hạ thủ, bế mục tồn thần đại thể là một. Là khiến cho tâm an tịnh, cho tức điều hòa. Sau đó mới ngưng Thần nhập Khí huyệt (tại lưỡng nhủ gian). Pháp nữ tu có bài dạy riêng.
3. Tam thiền: Luyện Khí hóa Thần.
Luyện Khí hóa Thần, còn gọi là pháp "Dưỡng thai thần hóa" mười tháng công phu.
Nói luyện Khí nhưng không phải luyện Khí mà là nuôi dưỡng Thánh Thai cho thật sung mãn, chẳng khác mẹ nuôi con mười tháng trong thai.
Nói là Thánh Thai nhưng là Chân Chủng Tử tợ như hạt ngọc minh châu.
Lúc đầu viên ngọc minh châu mới kết, hình dáng chưa viên mãn, ánh bạch quang chưa được sáng rõ nên nói luyện Khí tức là luyện cho viên ngọc này thật viên mãn, thật sáng rỡ. Sáng cho đến ám thất (nhà tối) thành bạch quang, cho ánh thái dương không còn tác dụng.
Vậy luyện hạt minh châu như thế nào?
Tuyệt đối không dùng võ hỏa mà chỉ dùng chân hỏa kết hợp với Tiên Thiên Chân Khí mà huân
hóa, mà tu dưỡng.
Châu Thiên Vận không còn độ số như thời Tiểu Châu Thiên mà vận hành Chân Tức như lúc còn trong bụng mẹ.
4. Tứ
thiền: Luyện Thần huờn Hư.
Luyện Thần huờn Hư, còn gọi là "Tam niên nhủ bộ". Tức là luyện xuất Thần thâu Thần.
Công phu Tứ Thiền chẳng khác người mẹ nuôi con ba năm cho bú mớm, dạy đứng, dạy đi, mẹ không rời con một bước.
Luyện xuất thần thâu thần cũng vậy, chân ý không lìa dương thần. Thần một xuất thì liền thâu. Tuần tự từ gần đến xa, cho đến lúc Thần đi thật xa thì chân ý không còn thâu
nữa
mà để
cho dương thần tự
nhiên xuất
hóa.
5. Ngũ thiền: Nhập Đại Định.
Thời nhập Đại Định là thời kỳ Tu Sĩ đã chứng quả thuần Càn, là thời
thừa lục long dĩ ngự Thiên, là cỡi sáu rồng đi khắp Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới để thuyết pháp độ sinh.
THI
Luyện Đạo hư vô, trước luyện tâm,
Tâm sanh duyên khởi nghiệp mê lầm.
Mê lầm tưởng Đạo là không ảo,
Nào biết trong người Đạo ẩn thâm.
BÀI
Tu thiền định hư vô Đại Đạo,
Pháp Thượng Thừa chí bảo chí chơn.
Là cơ vận chuyển âm dương,
Âm dương đắc chánh hiệp huờn linh thai.
Linh thai vốn không ngoài Tánh, Mạng.
Tánh, Mạng là căn bản công phu.
Cổ kim bao lớp người tu,
Lần cơ
mật nhiệm,
truyền thu dặt
dè.
Nay trường Đạo chuẩn phê sắc chỉ,
Trao pháp đồ phục vị nguyên căn.
Khởi đề lập hướng Thần đăng,
Chiếu minh thổ phủ, Đạo hằng lai sanh.
Từ phàm thể hóa thành Pháp thể,
Từ Hậu Thiên phục khế Tiên Thiên.
Từ cơ sanh diệt trái khiên,
Chuyển siêu giác hóa thiên nguyên tựu thành.
Công chứng ngộ thâm hành vô thượng,
Nguyện lực cao là hướng định cao.
Lần theo lối thẳng đi vào,
Đi vào cửa Pháp phải vào chánh môn.
Môn luyện kỹ nhuần ôn thời tập,
Bát Nhã thuyền hội tập nguyên nhân.
Nghiệp trần giải sạch trái oan.
Từ không mà có, có hoàn lại không.
Đoạn hỏa tánh, dứt lòng Thần thức,
Chuyển dục tình lập cực Vô Vi.
Hành tàng cơ diệu thời tri,
Âm dương thăng giáng đúng kỳ khai
thông.
Thời chuẩn bị hành công tiếp bổ,
Hô hấp cơ Pháp độ lần khơi,
Giáng thăng không nhặt không lơi,
Ý chân dẫn lối, Thần dời cung vi.
Đóng sáu cửa phục quy căn nội,
Cho lục trần tự thối về không.
Lục thức lặng ẩn bên trong,
Tịch nhiên hư cực viên thông giác thần.
Thần hiệp Khí, Thần chân Khí tụ,
Khí Thần giao cho đủ thời hầu.
Tịch trung vô lự cô câu,
Miên miên tâm tích tương cầu tương y.
Hiệp thành Pháp Chỉ sơ kỳ.
THI
Hạt giống Linh Căn tự thuở nào,
Gieo vào Thánh Địa quý dường bao.
Ngày đêm vun tưới nên công tích,
Quả vị trường sanh đoạn khổ lao.
Toàn Ban Hiệp Thiên Đài kể từ nay phải nghiêm túc công phu để thuần hóa trong công việc hành trì pháp Đạo nghe!
Thánh Giáo Thượng Thừa chỉ được phổ biến trong nội bộ. Việc ban hành phải chờ lịnh.
Bổn Sư ban ân
chung.
Thăng...
Ý NGHĨA TƯỢNG ĐỨC PHẬT THÍCH CA NIÊM HOA VI TIẾU
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm. Ngài Ca Diếp đã nhận tâm ấn của Đức Phật.
Tại hội Linh Sơn, Đức Phật cầm một hoa sen đưa ra trước đại chúng xem, toàn thể đại chúng không một ai hiểu ý gì, tất cả đều lặng thinh, trừ Ngài Ca Diếp(Kasyapa) mĩm cười.
Phật bảo nầy Ca Diếp : « Ta có chánh pháp mầu nhiệm, không dùng văn tự là giáo lý truyền riêng, vậy ngươi cẩn thận gìn giữ chánh pháp này, và sau sẽ truyền lại cho A Nan chớ cho đoạt tuyệt ».
Vậy chánh pháp mầu nhiệm có phải chăng là Bát Chánh Đạo, là Tứ Diệu Đế v.v. Và tất cả những lời giảng trong 49 năm của Phật xuôi ngược khắp nẻo đường trần độ sanh.
Không dùng văn tự thì trao truyền bằng gì để lại nền văn học phật giáo đồ sộ như ngày hôm nay ? Khi Phật sấp nhập diệt Ngài Ca Diếp nghĩ ngay : sau khi Phật nhật diệt đại chúng nên trùng tụng lại tất cả những gì Phật đã dạy tùy căn cơ, thứ lớp trong 49 năm. Lúc bấy giờ đại chúng biết rằng chỉ có Ngài A Nan có trí tuệ sáng suốt và nhớ từng lời Phật giảng như nước rót vào đồ đựng, không một chút dư thừa, nên Ngài Ca Diếp cử Ngài A Nan trùng tụng lại những lời Phật dạy mạch lạc coi như lần kiết tập kinh điển khởi đầu từ đây.
Còn giáo lý truyền riêng nào nữa đây ? Phải chăng câu nói chấn động mọi tâm thức : Bởi 49 năm giảng pháp độ sanh Phật tùy cơ duyên và nhân duyên mà hóa độ nên giáo pháp của Ngài có cao có thấp, có hiển có mật v.v. .Tuy 49 năm giảng pháp độ sanh, vô số pháp môn mà Ngài tự nói : « Ta chưa từng nói một lời ».
Trải dài dòng truyền thừa từ Phật Thích Ca xuống tới Huệ Năng là 33 vị. Sơ tổ là Ngài Ca Diếp nhị tổ là Ngài A Nan . . . đến Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28, tiếp nối chánh pháp Bồ Dề Dạt Ma dến Trung Hoa coi như tổ thứ nhất ở Trung Hoa và truyền đến Huệ Năng là vị tổ thứ 33 và cũng từ đây chánh pháp được các vị đạo hạnh chân tu phát triển ra nhiều dòng truyền thừa khác về sau.
Tổ thứ nhất là Ngài Ca Diếp
Một hôm Ngài Ca Diếp gọi A Nan căn dặn rằng : « Không bao lâu tôi còn trụ nơi thế gian nầy nữa, nên tôi đem chánh pháp của Thế Tôn mà phó chúc lại cho ngươi. Vậy ngươi khéo giữ gìn để hóa độ chúng sanh và lưu truyền phật pháp về sau, chớ để đoạt tuyệt. Ngươi hết lòng tôn trọng mà hộ trì.
Đây nầy Ngươi hãy nghe đây :
« Pháp vốn pháp bổn lai
Không pháp, không phi pháp
Sao lại trong một pháp
Có pháp, có chẳng pháp .”
Đây là bài kệ đầu tiên, sơ tổ Ca Diếp truyền cho A Nan bài kệ gồm 20 chữ để hiểu rõ hơn chúng ta thay thế bằng các chữ như: tâm, cảnh, có và không v.v .. Sẽ có vô lượng bài kệ nếu như nhìn ở mọi gốc độ khác nhau nhưng “ bổn lai “ không có gì thay đổi.
Thí dụ 1
Tâm vốn tâm bổn lai
Không tâm không phi tâm
Sao lại trong một tâm
Có tâm có chẳng tâm
Thí dụ 2
Cảnh vốn cảnh bổn lai
Không cảnh không phi cảnh
Sao lại trong một cảnh
Có cảnh có chẳng cảnh
Câu 1 nguyên gốc “ Pháp vốn pháp bổn lai” phải chăng ý nói về pháp thân thanh tịnh, tâm cảnh đề huề hay phật tánh vốn sẵn có trong mõi chúng ta không thiếu, ở Thánh Chúng không thừa.
Câu 2 “ Không pháp không phi pháp” phải chăng nói về cách đối trị căn bệnh chấp có chấp không, chấp phi có phi không của dòng đời biến dịch.
Câu 3 và câu 4 “ Sao lại trong một pháp ” “ có pháp có chẳng pháp ” phải chăng tự vấn và tự giải để phân biệt rõ ràng đâu là chánh pháp đâu là phi pháp, đâu là không pháp, đâu là không phi pháp, đâu là có pháp đâu là có chẳng pháp: Thử đưa ra một pháp làm biểu tượng ẩn dụ chẳng hạn như “Đêm qua sân trước một cành mai ”.
Cành mai là một hiện hữu có thật đứng vào gốc độ khách quan mà nhìn, còn đúng vào nguyên lý biến dịch tương quan tương duyên thì cành mai hôm qua, hôm nay và ngày mai, nó có là do duyên sanh không có thực thể thực tướng, thực vậy hôm qua cành mai tươi rộ nở đẹp, hôm nay hoa rụng hết. Phải chăng sinh diệt trong bất diệt qua cành mai của Thiền sư Mãn Giác.
Tông môn tạp lục nêu xuất xứ của sự việc Đức Phật Thích Ca niêm hoa vi tiếu như sau: Học giả và là nhà chính trị Vương An Thạch (1021-1086) hỏi Thiền sư Tuệ Tuyền: “Thiền tông nói Đức Phật Thích – Ca đưa cành hoa lên có xuất xứ ở kinh điển nào?”
Sư Tuệ Tuyền đáp: “Tạng kinh cũng không thấy chép việc này”.
Vương An Thạch nói: “Tôi vào Hàn Uyển, ngẫu nhiên thấy có bộ Đại Phạm Thiên Vấn Phật Quyết Nghi kinh gồm ba quyển, nhân đó mà đọc thấy kinh ghi chép tường tận việc Phạm vương đến núi Linh Thứu dâng Phật một cành hoa ba-la vàng rồi xả thân làm sàng toạ, thỉnh Phật thuyết pháp. Đức Thế Tôn đăng toà, đưa cành hoa lên cho đại chúng xem. Nhân thiên trăm vạn không ai hiểu gì, chỉ một vị Đầu-đà nước da vàng ánh rạng rỡ mỉm cười. Thế Tôn nói: “Ta có Chính pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, nay ta trao cho Ma-ha Ca-diếp”. (Đức Phật truyền cho ngài Ca Diếp cái kho chứa con mắt Chính pháp, cái tâm vi diệu Niết bàn, cái vô tướng của tướng chân thật).
Các sách như Bích Nham lục do Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135) soạn, Liên Đăng hội yếu do Ngộ Minh soạn năm 1183, Vô Môn quan do Vô Môn Huệ khai soạn năm 1228… nhắc lại sự việc trên và có thêm vào lời dạy trên của Đức Phật: “… Bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (Không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo điển).
Về sau, các học giả, thiền gia nhắc lại sự việc trên và xem đó là một công án thiền. Lại có thuyết cho rằng Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc (năm 520) có trao cho Nhị tổ Huệ Khả một bản kinh Lăng Giàgồm bốn quyển, nhân đó thành lập Thiền tông Trung Hoa và chính Ngài đã truyền kệ như trên.
Qua câu hỏi của Vương An Thạch, ta có thể biết trước đó sự việc trên đã được lưu truyền trong thiền giới, nhưng như ngài Tuệ Tuyền nói, các kinh sách Phật giáo từ trước cho đến đời Tống (960-1280) không hề nhắc đến sự việc trên. Kinh Đại Phạm Vương Vấn Phật Quyết Nghi không tìm được, không được đưa vào Đại tạng và nhiều học giả cho rằng có thể là nguỵ kinh.
Tuy vậy, tinh thần của sự việc và lời dạy trên hẳn cũng là một sự phát triển của giáo lý Phật giáo được ghi trong nhiều kinh điển chính thống của Đại thừa. Kinh Niết Bàn (bản Bắc) chép lời Phật: “Này các Tỳ-kheo, ta có Chính pháp vô thượng, trao cho Ma-ha Ca-diếp. Ca-diếp sẽ là chỗ y chỉ của các Tỳ-kheo, cũng như Như Lai là chỗ y chỉ của chúng sinh”.
Kinh Lăng Già ghi lời Phật dạy Bồ tát Đại Huệ: “Chư Phật và chư Bồ tát chẳng nói, chẳng đáp một chữ nào. Tại sao? Vì pháp lìa văn tự”. Trong Pháp Bảo Đàn kinh, Lục tổ Huệ Năng cũng dạy: “Diệu lý của chư Phật chẳng có liên hệ gì đến văn tự”.
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm. Ngài Ca Diếp đã nhận tâm ấn của Đức Phật. Tâm ấn thường được diễn dịch là dấu ấn của tâm, nhưng nên được hiểu là tâm này (của người thọ nhận) ấn khớp với tâm kia (của người trao truyền, tức chư Phật, Tổ…) kho chứa con mắt chính pháp là toàn bộ nội dung của giáo lý Phật giáo, chân thật, tuyệt đối. Đó cũng là cái tâm vi diệu Niết bàn mà thật tướng là vô tướng.
Vì là truyền tâm, cái tâm tuyệt đối, nên chỉ truyền riêng cho người có căn cơ khế hợp chứ không thể dùng ngôn ngữ văn tự hạn hẹp của thế gian mà thuyết giảng được. Đây chính là yếu chỉ của Thiền tông Đông Độ.
Sự việc Đức Phật niêm hoa và lời dạy trên của Ngài có thể không xảy ra trên thực tế, nhưng cái ý nghĩa của nó là chân thực, đã trở thành yếu chỉ của Thiền môn và do tu tập theo yếu chỉ này, các thiền gia đã đạt lợi ích trong đời sống thường nhật, trong tu tập hoặc đã đạt chứng ngộ
Liên Thanh Sưu Tập
KINH
Diệu Pháp Liên Hoa
Ðời Diêu Tần Ngài Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ tiếng Phạn sang Hoa văn,
MỤC LỤC
Nghi Thức Sám Hối Trước Khi Tụng Kinh
Quyển I
| 1. Phẩm Tựa |
2. Phẩm Phương tiện | |
Quyển II
| 3. Phẩm Thí dụ |
4. Phẩm Tín giải | |
Quyển III
| 5. Phẩm Dược thảo dụ |
6. Phẩm Thọ ký | |
7. Phẩm Hóa thành dụ | |
Quyển IV
| 8. Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký |
9. Phẩm Thọ-học vô-học nhơn-ký | |
10. Phẩm Pháp sư | |
11. Phẩm Hiện Bửu tháp | |
12. Phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa | |
13. Phẩm Trì | |
Quyển V
| 14. Phẩm An-lạc hạnh |
15. Phẩm Tùng địa dũng xuất | |
16. Phẩm Như Lai thọ-lượng | |
17. Phẩm Phân biệt công đức | |
Quyển VI
| 18. Phẩm Tùy-hỷ công đức |
19. Phẩm Pháp-sư công-đức | |
20. Phẩm Thường-Bất-Khinh Bồ-Tát | |
21. Phẩm Như Lai thần-lực | |
22. Phẩm Chúc-lụy | |
23. Phẩm Dược-Vương Bồ-Tát bổn-sự | |
Quyển VII
| 24. Phẩm Diệu-Âm Bồ-Tát |
25. Phẩm Quán-Thế-Âm Bồ-Tát Phổ-Môn | |
26. Phẩm Đà-La-Ni | |
27. Phẩm Diệu-Trang-Nghiêm-Vương bổn-sự | |
28. Phẩm Phổ-Hiền Bồ-Tát khuyến-phát |
Mười Vị Đệ Tử Lớn của Phật
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
Biên soạn phần Phụ Lục Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Nguyên tác Hán Văn: Tinh Vân Pháp Sư
Việt dịch: Cư Sĩ Hạnh Cơ
Biên soạn phần Phụ Lục Hiệu đính: Nữ Cư Sĩ Tịnh Kiên
Liên Thanh Sưu Tập
---o0o---
---o0o---