A-Di-Đà Phật, Bần Đạo hoan hỉ Trung Tôn nguyên vị, Tôn Sư mừng đệ tử.
VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG ngự Bửu Đài,
A-DI-ĐÀ PHẬT hiện hồng-oai,
Giáng lâm trần-thế vì môn-đệ,
Ngự tứ Siêu Thiên hiện Bửu-đài.
Nầy các nguyên-căn, nầy các môn đồ đệ tử! Bần-Đạo miễn lễ cùng đệ tử định tâm tọa thính nghe Bần-Đạo cùng Tôn-Sư giảng về phần tâm pháp.
Lý tuần hoàn của Tạo hóa, lẽ mầu nhiệm Thiên công hễ người cố gắng một lòng sẽ được đáp đền mai hậu. Nầy môn đồ đệ tử! Tôn-Sư khuyên phải bình tâm suy nghiệm lý Đạo cao siêu đừng có bỏ liều một ngày một xa, nếu hôm nay tâm không hòa, ý không hiệp thì ngày mai càng nối tiếp vì dục vọng cuồng say, như ngọn lửa ở trên đời gặp dầu nên lan dần dần ngoài thế tục. Đời là vọng dục, tâm của các con còn cao ngút, lửa lòng còn thôi thúc tự tâm linh, ráng dùng nước tịnh bình để Tôn-Sư phóng hào quang cứu về nơi Cực-lạc. Lời Tôn-Sư là lời Cam lồ diệu mát từ Thượng đảnh đến Trung Huỳnh, lời của trần tục hãy khắc in; đó là lửa trần gian hỏa diệm. Nếu Đạo mầu nhị khiếm e mất việc cao thâm, Tôn-Sư khuyên đệ tử chớ lạc lầm, một lòng tinh tấn, vì cuộc trần hễ chen lấn đều phải chịu cảnh đảo điên, một ngày một lụy phiền. Tại nghe thì tất nhiên ý phải đảo điên; mắt thấy thì tâm xao động, người tu diệt dục vọng, tai tuy nghe mà trí không động, mắt tuy thấy mà tâm chẳng đảo điên, đó là chánh pháp diệu huyền mà Tôn-Sư truyền cho đệ-tử, như việc đời nhiều điều dữ hãy để ngoài tai, dẫu rằng thân xác mượn ở cảnh trần phải nghe, phải thấy. Nghe thì vẫn nghe nhưng không nhập vào trí Đạo, thấy thì vẫn thấy nhưng không thâu vào Tâm pháp cao siêu, không chất nơi lòng Đạo đức. Tôn-Sư khuyên, Tôn-Sư nhủ, Tôn-sư dùng hào quang diệu huyền để ban cho đệ tử. Tôn-Sư phóng hào quang muôn nơi thấy toàn điều dữ, nơi đây nhiều đệ tử bí pháp cao thâm, thì cố gắng luyện tâm cho tròn “Song tu tánh mạng”.
Nơi nầy, nơi kia, Tôn-Sư phóng hào quang nhìn xuống tuy bên ngoài toàn là bảng vạn như tâm chẳng chút tịnh yên, pháp chẳng nhiếp thọ được diệu huyền thì làm sao về Niết Bàn, Bạch Ngọc. Thôi; Tôn-Sư khuyên đời ô trọc, nếu đệ tử thương Thầy, vì Đạo, vì Bí-pháp cao siêu chớ có bỏ liều, ngày qua một niềm tin mất, phải xa rời lẽ thật về với hữu sắc đó đây, Thượng Thừa chánh pháp như thế nầy từ từ Tôn-Sư truyền thêm cho đệ tử. Đừng xa rời e gặp nhiều chuyện dữ, đừng mê điều huyển hoặc đó đây. Tôn-Sư cho hay tà luân phiếm Đạo nổi dậy khắp trời cũng dùng cơ chuyển bút, nhiều lý lẽ trần nhơ, để lôi cuốn hững hờ, lấy danh quyền của Đạo, để cho người gây tạo hầu xa bí-pháp cao siêu, Tôn-Sư khuyên đệ-tử chớ bỏ liều e ngày kia chút niềm tin nhỏ nhặt nhưng chưa phải là sự thật rồi xa bổn vị nguyên lai, cố gắng tại Bửu đài, có hào quang Thiên-Điễn trợ.
Tôn-Sư giải về phần Thiên-Điễn cho các Trung-Tôn cùng đệ tử nghe rành:
Thiên-điễn của Tôn-Sư cùng Thượng-Tổ hay các bậc Thần, Tiên, Thánh, Phật, mỗi khi triệu dụng đều soi rọi cơ duyên diệu diệu huyền huyền, cũng là dùng người có duyên trong ngàn kiếp để nối tiếp, từ pháp tướng, Đạo tướng, thể tướng cho xứng danh vị Long Hoa, dầu cuộc trần gian chánh chánh tà tà nhưng Tôn-Sư chọn tâm linh là gốc. Tuy cuộc đời cũng cần điều ăn học. Nhưng chẳng phải thế tục đua bơi mà dùng để phụng sự Phật Trời, đó mới diệu huyền cao cả vậy. Tôn-Sư thường thấy trong hàng đệ-tử đôi lúc thầm than, nên cố gắng Đạo Vàng, Tôn-Sư sẽ thưởng ban trong ngày Long Hoa Đại Hội. Nếu từ đây đệ tử nào muốn cầu xin về hữu chất, Tôn-Sư sẽ ban bằng sự thật nhưng giảm mất ở vô vi, đúng lúc Hạ kỳ sẽ có toàn nơi Long-Hội vậy.
BÀI
Động Linh Quang bút vàng vội chuyển,
Hạ trần gian vài chuyện môn đồ,
Từ nay cố gắng nam mô,
Tôn-Sư thường chỉ Hà-đồ luyện nhanh.
Đường Đạo-đức trược thanh con rõ,
Phần Bửu-Liên công khó chớ nài,
Lời xưa chỉ rõ không sai,
Chưởng ân đức để hậu lai hưởng nhờ.
Thì nay đây vần thơ dạy dỗ,
Tuy ngày rày công khổ đừng than,
Để cho Thượng ngự Tòa Vàng,
Lấy công đắp quả mới hoàn Thượng-Thiên.
Có ai đâu chơn duyên một buổi,
Được đắc thành không tuổi không tên,
Liên-đài một phút bước lên,
Mà không chịu khảo chỉ bền dày công.
Nay tử-đệ ân hồng điểm-Đạo,
Hạ bút huyền chỉ bảo cho chung,
Hễ tu thì giữ tâm hùng,
Đừng nên mê muội thính tùng đó đây.
Luôn ghi khắc lời Thầy dạy dỗ,
Dầu muôn nơi không chỗ nào thanh,
Vì chưng luyện pháp không rành,
Tam-Thiên bí-chỉ thọ hành nơi đâu.
Dầu có luyện Địa-cầu thân xác,
Tôn-Sư đâu định đoạt mà truyền,
Con là thượng tứ Bửu-Liên,
Thì nên nhiếp thọ lời khuyên của Thầy.
Hạ bút ngọc lời nầy lần chót,
Khuyên nhủ hoài thánh thót đêm thâu,
Thấy đời mê muội Thầy sầu,
Thấy trần thãm khổ Thầy rầu Hư-cung.
Tôn-Sư xuống Đại-hùng đại-lực,
Đại từ-bi ra sức Hạ-kỳ,
Đời tàn nào có luận chi,
Chỉ trao mật-pháp là đi về Thầy.
Mặc tình ai đó đây ràng buộc,
Phần quả-công vị thuốc Thiêng-Liêng,
Pháp là nhiếp thọ chơn truyền,
Cũng như người bịnh phục quyền vị xưa.
Dạy cho con chưa vừa tâm ý,
Bởi lời nầy cao quí tuyệt luân,
Dạy cao con chẳng khâm tuân,
Vì là lý lẽ không ngừng cơ duyên.
Dạy hạ thế chơn truyền rất dễ,
Thì con nghe vội để ngoài tai,
Con ơi! hiện trước Bửu-đài,
Tôn-Sư chua xót hằng ngày Hư-linh.
Đã ban xuống Đạo-Huỳnh khâm diệu,
Đã truyền cho sắc chiếu ân phê,
Vài con thế tục còn mê,
Tôn-Sư không trách chẳng phê lời nào.
Nhưng con xét lời trao diệu quả,
Thương tình thương thì đã tỏ bày,
Lẽ đâu hiện xuống hằng ngày,
Bằng thân thế tục hằng ngày hay sao?
Dầu nhỏ lệ trên cao tuôn xuống,
Bằng từ-bi vô lượng con ơi!
Hễ nghe lời Phật sắc Trời,
Thì nên vững dạ coi đời Thượng-Nguơn.
Một ngày qua dừng chơn con nghĩ,
Nếu không Thầy điểm chỉ hôm nay,
Tôn-Sư không hiện hằng ngày,
Thần Tiên không hiện quằn vai giúp đời.
Con đâu được thảnh thơi tâm trí,
Con ra đời cao quí chi đâu?
Hôm nay hồi tưởng con sầu,
Nếu không có Đạo con cầu được chi?
Thử tưởng tượng nhiều khi bỏ dỡ,
Con ra đời Tần Sở đua chen,
Lợi danh con lại làm quen,
Khổ đau chồng chất như đèn trước giông.
Hạnh-phúc chi mà hòng cao hưởng,
Sung-sướng gì vô lượng đó con,
Tâm-linh càng mãi mõi mòn,
Thượng-Thiên khó trở cuốn tròn trầm-luân.
Lằn gió thoảng không ngừng thổi tới ,
Như bụi trần danh lợi phủ giăng,
Con ơi! kìa ánh Đạo hằng,
Như đèn ngọn nhỏ dưới trăng đêm vàng.
______________ “ *”_______________
LỤC TỰ DI ĐÀ
A niệm từ-bi chiếu bút lành,
DI truyền đệ-tử hiệp chơn thành,
ĐÀ tâm tịnh thất duyên ngàn kiếp,
PHẬT lý chơn ngôn trọn Đạo lành.
Vậy miễn lễ đệ-tử tọa thiền nghe Tôn-Sư giảng về phần Tâm-pháp.
Bí-pháp của Tôn-Sư còn nhiều phần huyền huyền diệu diệu, nhưng duyên của các con thì chưa thông hiểu đoạt tới cao lý siêu thâm. Vậy Tôn-Sư truyền cho pháp niệm danh Tôn-Sư mà chẳng mê lầm, để khỏi có quên lời Tôn-Sư nhắn nhủ:
“ Nhứt cú DI-ĐÀ vô biệt niệm,
Bất lao đàn chỉ đáo Tây-Phương”
Nghĩa là: chỉ niệm một hồng danh của Tôn-Sư rồi, chẳng cần phải lao nhọc điều chi cũng trở về Tây-Phương Phật-Quốc. Đó là niệm như vầy; Khi ngồi tọa thiền, muốn niệm danh Tôn-Sư, các con cứ tưởng rằng thân của các con đang chơi vơi giữa biển, thể của các con sắp sa vào ác trược cuồng si, sắp sửa bị ma quỉ lôi đi làm cho con xúc tình cảm động, đó là tính hiệp hòa không, con như người lạc lỏng mênh mông giữa rừng Thiêng nước độc, hay sa-mạc âm-u, con tưởng chừng như trong một khám tù không bao giờ thoát khỏi, phát động từ tâm cảm xúc kêu cứu nơi Tôn-Sư thì cảm ứng trong giờ khắc đó. Con niệm làm sao nơi Linh-Đài của con, nơi huyền-quang-khiếu có lằn hào quang chiếu thấu Tam-Thiên Đại-Thiên Thế-Giới, như tiếng chuông gióng cõi Hư-linh, nghe tiếng niệm A-DI ĐÀ-Phật ….từ trên truyền xuống, con không phải niệm bằng tâm, chẳng quán tưởng bằng trí, chẳng nghe bằng tai, nhưng khi con muốn niệm sự cảm Huyền-nhiên sẽ ứng ở Tam-Thiên cho các con thấy Tôn-Sư thiệt tướng vậy.
Tôn-Sư ban ân đệ-tử, A-DI ĐÀ Phật chiếu hào quang ban ân lành cho toàn gia nam nữ hưởng Xuân Mậu Tuất Đạo-đức uy phong hòa nguyên Bửu-vị. Triều nghinh…
……………………………………………………………………………………
(Truyền
dạy các đệ tử Bửu Liên)
****
Thế sự
đa mang cảnh loạn cuồng,
Lòng
Thầy chua xót biết ngàn muôn
Ngày đêm
dạy dỗ chưa thông đạt,
Nhục thể
sao con mãi cúi luồn....!
Luồn cúi
muôn đời chịu thảm thương !
Từ đây
nạn ách thể thân vương
Nếu con
sai lạc đường “Tâm pháp”
Sẽ gặp
ngàn muôn cảnh đoạn trường
I. VUN BỒI CHƠN THẾ :
Này các con, cảnh này là vô thường, thân này là tạm giả thế này chẳng còn mãi
với các con. Luật Thiên Công đã định sẵn: ba vạn sáu ngàn ngày các con phải còn
chịu đắng cay trong vòng tứ khổ. Tứ khổ là mức thước để cho các con đo lương
trong kiếp luân hồi của các con : dữ, lành tội, phước được là baonhiêu ? mà các
con cũng vẫn còn nghĩ rằng : “Còn thân là còn các con”, các con quên rằng trong
giấc ngủ mê của các con, các con lấy gì để điều khiển châu thân. Trong lúc các
con hoạt động nơi thế trần chẳng phải thân các con điều đông mà do pầhn vô vi,
vô vi đó là linh phách chơn như tối thượng của các con, từ trong muôn kiếp luận
hồi. Nếu ngày nay không lấy phần thể chất để bù đắp cho vô vi, nghĩa là các con
cứ sử dụng phần linh phách của các con mà các con không cần bồi dưỡng, thì cũng
như ăn trái mà quên nguồn cội, các con không có tưới nước cho sum cành để các
con hưởng muôn đời với trái kia mơn mởn, mà các con chỉ biết ăn trái mà thôi,
quên vun cội cho nhành kia sum nở thì sẽ tàn tạ càng ngày các con thấy linh
phách của các con không còn trong sáng như ngày nay mà phải xa rời lằn điển hệ.
Từ giày sang các con sẽ trở thành nghèo khó, từ lúc từ bi chơn thế các con sẽ
trở thành ác Đạo ma vương sa vào trầm luân khổ hải, nếu các con không chọn
đường Đạo pháp cao siêu. Mượn thân này không phải các con để hưởng ở trần gian
mà các con phải nhớ rằng: khi các con đã có chiếc thân tứ đại là các con đền
tội để trả quả trong kiếp luân hồi, thì như thế các con mới rạng tỏ phân linh
phách. Nếu các con nghĩ rằng còn thân là còn hưởng, còn thân là các con còn
điều Thiên phú nơi trần gian, tận dụng sở năng của các con mà Thượng Đế đã ban
cho, thì pầhn linh phách của các con như ngọn đèn kia hết dầu tiêm lụn vậy.
II. ĐẠT CHƠN LÝ, CHƠN
PHÁP :
Tôn Sư thường khuyên các con : Nếu các con nhịn phần vật chất sẽ được phần
thưởng ở linh hồn, cũng như người tiết kiệm nếu mốn trở thành giàu sang giờ đây
các con phải nhịn nhục, khó nhọc ngày ngày mớ trở thành giàu sang được. Nhưng
trước khi giàu sang các con nhớ rằng đừng ch thiếu nợ. Muốn làm lành, tất nhiên
các con đừng tạo thêm nghiệp ác.
Ngày nay, muốn thọ pháp cao siêu, muốn đạt huyền năng của Tôn Sư truyền ban cho
các con, các con phải có điều kiện là : giữ tâm bình tịnh giữ lòng cho trong
sáng như gương. Cũng như các con muốn đốt ngọn Thiêng đăng Thái Cực thì các con
phải sửa soạn cho đâu tiêm sạch sẽ, đầu tiêm đã có sẵn nhưng các con còn
phải đợi ngọn lửa các con tự tạo mới được. Nếu các con nghĩ có dầu có tiêm sẵn
sàng nhưng chỉ chờ ngọn lửa Thiêng liêng đến, điều đó là ảo vọng hoài công mà
các con phải tự tạo các con lần lửa thiên nhiên, tự đốt ngọn thiêng đăng
sáng rõ, như thế các con mới đoạt tâm pháp của Tôn sư.
Học Đạo để hành Đạo, không phải các con vì mê mê, hoặc hoặc, vì muốn Tôn sư cứu
về Niết Bàn Bạch Ngọc, vì muốn Tôn sư, hỗ trợ các phàm cho các con được tai qua
nạn khỏi nên các con mới đến với Tôn Sư, quì trước Tôn sư , khấn cầu Tôn Sư ban
hồng ân cho thân các con yên, xác các con vẹn để tu hành. Đó trước tiên là con
khơi mầm dục vọng mà con quên rằng từ ngàn xưa các bâc Bồ Tát Thiên Tịnh qua
địa cầu đều bỏ xác một cách đau thương bỏ lại trần gian những điều thống khổ ?
Các con không tập điều thống khổ đó mà các con đòi hỏi điều sung sướng, các con
đòi hỏi trước tiên là dục vọng thi làm sao các con được tỏ rằng ngọn tâm đăng
của Tôn sư truyền lại ?
Này các con ! Nếu thế gian này hoàn toàn sang cả, hạnh phúc ngang nhau mà
Tôn sư truyền ban cho thì đâu còn Phật Đạo, thì đạu còn Tiên Giáo thì đâu còn
con đường Thánh Nhân đã truyền ban cho nhân chủng. Mỗi người các con cầu nguyện
mà Tôn sư ban cho điệu hóa chơn thường bảo toàn thé xác lâm gia đình thì Tôn sư
còn hoằng hóa mối Đạo làm chi ?
Tôn sư thường khuyên các con Tâm pháp là ngọn đèn trong đêm tối, các con
lần theo để thấy chân lý cao siêu, Đèn đó chưa phải chơn lý mà các con đi đến,
trên bước đường đi các con đi đến, trên bước đường đi các con sẽ gặp Chơn
Lý sẽ tìm được ngọn Tâm đăng đèn kia chưa phải là chơn lý vậy. Cũng như ngày
nay các con đến với Đạo quì dưới chân Tôn sư để nghe thuyết pháp, lời thuyết
pháp, lời thuyết pháp hôm nay chưa phải là thuyết pháp đó các con tìm được ngọn
Tâm đăng, tìm được chơn lý cao siêu làm cho tâm thần thanh thoảng, trí huệ
thống minh. Đó chỉ là một phần thuyết pháp mà các con nhiếp thọ được mà thôi.
Các con học pháp của Tôn Sư chưa phải là chơn pháp đó là thế pháp, đó là phương
tiện các con đang luyện pháp các con tìm trong đó điều huyền diệu hư linh mà
Tôn sư không thể diễn bằng lời truyền bằng ý mà chỉ các con nhiếp thọ bằng cảm
trí hư linh của các con từ lằn hào quang của Tôn sư truyền xuống, đó mới chính
thiệt là Chơn pháp vậy. Nếu các con mong mỏi rằng Tôn sư sẽ truyền các con
bằng, hành theo bằng thân, noi theo bằng thế, từ thời luyện như thế
đắc Đạo Long Hoa, thì cũng như các con gieo trồng lành trên sỏi đá
để mong ngày nở nhị đơm bông.
III. NƯƠNG ĐỜI LO ĐẠO.
Điều Tôn sư mong mỏi là các con đứng vào ngôi Phật thế, Tiên gia để nhìn đời.
Các con tự cho mình và thoát tục mà nhờm gớm việc trần ai, đừng mượn việc
trần ai mà hòa đồng cho Tiên tánh. Các con biết bằng : trần ai là khổ
lụy, cũng như hạt son kia dưới bùn nhơ vậy. Nhưng sen kia tách bùn sen kia
không nở được, nhưng không phải vì bùn mà sen kia ngâm mình mãi muôn đời trong
đó vậy. Nếu các con vì đời không vì Đạo, các con sẽ mất Đạo. Các con vì sao không
vì đợi, các con sẽ mất đời, Đạo, đời cac con tự làm sao cho hòa hợp, không phải
quá vi Đạo mà các con bỏ thể xác này thì Đạo kia cũng vô dụng. Không phải quá
vì đời mà các con quên Đạo thì muôn đời sau các con cũng không nhiếp thọ được
Chơn Đạo cao siêu . Phải làm sao ép lòng, vì đời, hy sinh vì Đạo, nương mình
theo đời để rồi chọn Chơn Đạo cao siêu đó là phần giải thoát cuối cùng
của con vậy.
Trong Bí pháp Di Đà mà Tôn sư truyền cho các con là từ vô thường trở lại nhiên
thường từ nhiên thường các con trở về phần giải thoát. Kìa ! ngọn hỏa đăng chói
sáng, một sát na bước qua là tiêu lần một Sát na vậy. Môt hơi thở của các con
là một tế bào tiêu hủy, các con có thể lặp lại hơi thở khác nhưng hơi thở xưa
của các con không thể nào tìm lại được thì tại sao trong hơi thở đó, các
con không đem lằn Thiên điển chơn hư của các con để tạo thành một tế bào Đạo
pháp ? để cho tế bào luân hồi thay thế cho tế bào dục vọng chết đi trong
thân .
Chẳng phải riêng các con mà thôi, Tôn sư còn hóa hoằng tùy duyên trong muôn
loài vật nhưng các con có duyên tiếp nói được lằn thiên điển, nghe lời của Tôn
sư cần phải giải thoát ý phàm phu trần tục. Nếu lời của Tôn sư không phải là
mũi cưa hay đục để đẻo một cây kia còn đang sần sùi, thì các con cũng coi đó là
dòng bích thuỷ chảy vào tâm linh truyền cảm hư vô mát da, để các con có giây
phút trở về với Tôn sư, yên lòng nơi thế hạ, để này kia khi bỏ xác này các con
không còn lưu luyến. Con biết Đạo là trường miên nhứt là cơ duyên pháp của Thầy
là vĩnh cửu, nhưng các con đem doãn lạc, đem điều ngắn ngủi để đổi với
Đạo pháp cao siêu là ngược với lý Đạo Thiên huyền của Thầy truyền xuống
vậy.
Sắt đá kia còn mòn theo thời gian, lời dạy của Thầy, của Tôn sư chẳng lẽ
không truyền cảm các con một phần nào ư ? Tôn sư muốn nhỏ dòng nước mắt truyền
cho các con, Tôn sư khóc không phải bằng giọt nước mắt của trần ai đau khổ mà
bằng lằn hào quang thống xót đau thương, truyền trong tim của các con.
Các con hãy rạch tim đem vào lời tâm huyết của Tôn sư...
Này các con ! các con phải nhớ rằng lời của Tôn sư là một lời cao siêu tuyệt
diệu, không phải bằng lời của một phàm nhân truyền ra mà các con phải đem vào
tâm trí suy gẫm thường xuyên. Suy gẩm không đủ, các con phải năgn hành cho vẹn
vẻ. Vì suy gẫm các con sẽ được phần linh điển bù vào kiếp luân hồi hầu có gội
rửa tội ngàn xưa của con , thi hành là các con tránh khỏi điều cám dỗ của trần
gian đoãn lạc...
Con hữu
duyên gọi là nghe dạy
Còn muôn
người mắc phải nợ trần
Cuôc đời
danh lợi đày thân
Tan rồi
xác thế tinh thần rã theo
Tôn sư
giảng giàu nghèo chung một
Hiệp
nghe lời rường côt hôm nay
Chiếc
thân dầu có đọa dày
Linh hồn
nuôi dưỡng đợi này Long Hoa
Đức Tôn Sư
A DI ĐÀ PHẬT
Lạy mừng Vô Thượng Y Vương,
DI ĐÀ nguyện độ mười phương tận cùng .
Chiết thân KIM MẪU DIÊU CUNG ,
Tình thương như Mẹ bao dung diệu huyền .
Từ bi chan chứa thiêng liêng ,
Mỏi mòn đợi chốn Hoa Liên Niết bàn .
Hữu hình mộng huyễn Dương gian ,
Mấy ai tỏ ngộ linh quang cội nguồn .
Nương theo câu kệ hồi chuông ,
Tịnh lòng mới rõ nghiệp buồn trần ai .
Cúi đầu PHẬT TỔ NHƯ LAI ,
Tôn sư ứng hóa hoằng khai Đạo vàng .
Ban cho mật chỉ Kim Cang ,
Tuyển người đức cả chọn trang Thánh Hiền .
Mượn lằn từ điển cao nhiên ,
Pháp Tâm chơn giáo Đạo huyền gia ân .
Nay đây kỉnh lễ thừa vâng ,
Lòng thành nguyện dứt bụi trần nghiệp oan .
Tôn sư thương chứng tâm vàng ,
Độ con vững chí trên đàng Long Hoa .
Nam mô PHẬT TỔ DI ĐÀ ,
Tôn sư VÔ CỰC THƯỢNG TÒA chứng minh .
( 3 lạy )
Ngày đại lễ đức DI ĐÀ : 17/11 âm lịch.
Đầu vọng bái Tây Phương Phật tổ ,
A Di Đà Phật độ chúng dân .
Quán Thế Âm lân mẫn ân cần ,
Vớt lê thứ khổ trần đọa lạc .
Đại Thánh Địa Tạng Vương Bồ tát ,
Bố từ bi tế bạt vong hồn .
Cứu khổ nàn Thái Ất Thiên tôn ,
Miền âm cảnh ngục môn khai giải .
Ơn Đông Nhạc Đế Quân quảng đại ,
Độ kẻ lành chế cải tai ương .
Chốn dạ đài Thập Điện Từ Vương ,
Thấy hình khổ lòng thương thảm thiết .
Giảm hình phạt bớt đường ly tiết ,
Xá linh quang tiêu diệt tiền khiên .
Đặng nhẹ nhàng thẳng đến cung Tiên ,
Nơi phước địa ở yên tu luyện .
Xin Trời Phật chứng lòng sở nguyện ,
Hộ thương sanh u hiển khương ninh .
Ngày 25 tháng 10 âm lịch, năm 1967, Ngài Ðại Pháp Sư KHOAN TỊNH ngồi thiền trong động Di
Lặc, núi Cưu Tiên, dãy Quế Lạc, Công Xã Thượng Dõng Huyện Đức Hóa Tỉnh Phước
Kiến, đột nhiên được Bồ Tát Quán Thế Âm tiếp dẫn
đi, khiến mất cả tông tích.
Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến Thế Giới Tây Phương Cực Lạc, tham
quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm,
nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mùng 8 tháng 4 âm lịch, năm 1973 chạy ra
đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường
tình, khó mà lý giải được. Có câu nói: “Trên trời 1 ngày, dưới này vài năm” là
vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống, khái niệm thời gian cũng có
khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
Thế gian lúc ấy không thấy dấu tích Pháp Sư đâu, đổ xô đi tìm,
tăng lục cả Chùa, tìm khắp cả núi, hằng trăm cái động, lớn có nhỏ có, vẫn không
thấy tông tích của Pháp Sư, thậm chí huy động cả các đội trục vớt, đội cứu nạn
bãi biển, cứu nạn thác ghềng vẫn không thấy. Một số thiện tín nhiệt thành, còn
tuôn ra các huyện thành, các chợ Tuyền Châu, chợ Hạ Môn, chợ Phước Châu, chợ
Nam Bình kiếm tìm, còn gởi thơ nhờ các tỉnh huyện lân cận như huyện Vĩnh Thái,
Huyện Vĩnh Xuân, Đức Hóa, Phước Thanh, lăng xăng cả mấy năm dài mà vẫn không
tin tức gì cả.
Thế rồi, mọi người đều nghĩ Pháp Sư đã viên tịch trong lòng
thương tiếc vô cùng. Thật ra từ đầu đến cuối, Pháp sư chưa hề rời khỏi động Di
Lạc nữa bước. Do được Phật hộ, nhục thể để trong động những sáu bảy năm mà
không bị phát hiện, không bị mục hư, cũng không rõ là được dấu ở đâu (rất có
thể dấu ở một dạng không gia khác), về điểm nầy có các cư sĩ ở đây xác minh
được, như cư sĩ Trịnh Tú Kiên chẳng hạn.
Suốt quá trình dấn bước đến đất Phật Tây Phương Cực Lạc nầy,
không thể sánh với bất kỳ một cảnh giới nào trong mộng được. Ngài là một vị
tăng đắc đạo, không hề nói chuyện thêu đặt, vọng ngữ, mà cũng chẳng cần vọng
ngữ làm gì, hơn nữa, cảnh giới mà Pháp Sư thấy được không hề giống cảnh giới
nào của thiền định thấy, mà cả cảnh giới mà thiền định thấy, cũng chẳng nên đem
ra tiết lộ, nếu không tam bộ Thiên Long, mà cả Thiên Ma nữa cũng có thể đến
quấy nhiễu được.
Đằng nầy Pháp Sư đã nhận chỉ thị của đức Phật A Di Đà và Bồ Tát Quán Thế Âm nên mới
công khai đem chuyện mắt thấy tai nghe trong các cảnh giới của chính phẩm hoa
sen nơi Thế Giới Tây Phương Cực Lạc mà chi tiết trình bày ra đây.
Phàm những người học Phật đều biết, tội đại vọng ngữ phải xuống
ngục Vô Gián, khó có ngày ra, vì thế mà những gì Pháp Sư diễn thuật về Thế Giới
Cực Lạc mà Ngài thân hành bước tới là chuyện xác thực ngày vạn lần, có tam giới
thần tiên, tám bộ Thiên Long làm chứng.
Ngoài cái thế giới ta đang sống, có một thế giới Cực Lạc mà đức
Phật nói trong kinh A Di Đà, đều là thực có, Khoan Tịnh Đại Pháp Sư làm một
nhân chứng sống về việc ấy.
Bút giả cư sĩ Lưu Thế Hoa căn cứ lời kể mà ghi lại…
Khoan Tịnh Đại Pháp Sư ra đời lúc 10 giờ mùng 7 tháng 7 năm
giáp Tý (1924).
Ngài ra đời trong căn nhà số 140 đại lộ Thành Quan Trấn Đông
thuộc huyện Bồ Điền Tỉnh Phước Kiến. Là một hộ cư sĩ Phật giáo họ Phan.
Cái đêm Ngài sinh ấy, chân trời đông tây 2 hướng ánh vàng óng
ánh chớp liên hồi khiến cả cõi đất nơi ấy như vàng óng ánh, vinh diệu, nên lấy
đó đặt tên ngài là Phan Kim Vinh.
Lúc nhỏ không học, nhưng tư chất thông minh vượt thường, 7 tuổi
đã rời nhà tu tập Chùa Giáo Trung, Phước Kiến; 15 tuổi chính thức phủi tóc quy
y với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại chùa Tô, hiệu chùa Nam Hoa, Quảng Đông.
Lại thọ chánh nhãn tạng với thầy Hư Vân lão Hoà Thượng tại núi Vân Cư, Giang
Tây, là người truyền đăng, đời thứ 48 của Tông Động Vân, từng làm trục trì một
số chùa ở Phước Kiến như chùa Đế Bình, chùa Thủy Liên, chùa Tiên Phật, chùa
Năng Nhân, chùa Khai Bình, chùa Mạch Tà, chùa Tam Hội.
Lúc trụ trì chùa Tam Hội thuộc huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23-12 ngồi riết đến ngày 29-12 mới xá, cộng lại cả 6 ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả huyện Tiên Du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn 3,000.
Lúc trụ trì chùa Tam Hội thuộc huyện Tiên Du, Phước Kiến năm 1980, Ngài bắt đầu tọa thiền từ ngày 23-12 ngồi riết đến ngày 29-12 mới xá, cộng lại cả 6 ngày rưỡi thiền, đã chấn động cả huyện Tiên Du, lúc ấy thiện tín đến quy y với Ngài có hơn 3,000.
Năm 1982, đến New York làm hành cước tăng, tuyên Hội Phật Pháp,
đã từng lưu trú lại, làm việc tại Giáo Hội Phật Giáo Bắc Mỹ và được mời làm Hội
Trưởng danh dự Giáo Hội Phật Giáo San Phan – Mỹ Châu. Chùa Nhã Na, Chùa Quán Thế Âm v.v… Đúng
là một vị nho tăng hữu duyên trong đạo.
Hôm nay chúng ta có đủ Phật duyên cùng hội tụ một chỗ tại đây,
cũng là nhân duyên kiếp rồi và quá khứ vô số kiếp về trước. Đó là nhân duyên
kiếp rồi và quá khứ nhiều kiếp tập đặng, do đó hôm nay mới có thể gặp mặt nhau
tại nơi nầy.
Câu chuyện mà tôi sắp nói đây là quá trình bản thân tôi hành dấn
bước đến thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi sẽ trình bày cặn kẽ những cảnh giới,
tình hình được thấy được nghe trong thế giới Cực Lạc cùng chư vi…
Tôi sẽ nói thành 5 phần như sau:
1. Tôi đến thế giới Cực Lạc bằng cách nào? Với nhân duyên gì có
thể đến nơi ấy được? Thật ra thì tôi viếng Thế Giới Cực Lạc trước sau vỏn vẹn
chừng 20 tiếng đồng hồ trong ý nghĩ tôi ước đoán, thế mà, về tới thế gian này
so lại, đã trôi qua hơn 6 năm 5 tháng dài.
2. Trên lộ trình tôi đến thế giới Cực Lạc tuần tự ghé qua địa
phương nào, kể thì có đông La Hán, trời Đao Lợi, trời Đâu Suất, rồi đến 3 địa
điểm chính của thế giới Cực Lạc, Hạ phẩm Liên Hoa, Trung phẩm Liên Hoa (ghi
nhận rằng mỗi phẩm Liên Hoa lại chia làm 3 bậc: Thượng, Trung, Hạ, cho nên hợp
thành cửu phẩm Liên Hoa). Tôi sẽ nói cùng chư vị thật cặn kẽ cảnh giới của 3
địa điểm chính ấy như thế nào.
3. Tôi sẽ nói về tình hình vãng sanh vào 9 phẩm Liên Hoa như thế
nào, nói cách khác, nghĩa là tôi sẽ nói cách tu trì như thế nào để được công
quả như thế nào của chúng sanh trong thế giới ta bà này mà định đoạt sẽ được
vãnh sanh vào phẩm nào trong 9 phẩm Liên Hoa ấy và tình hình sinh hoạt thực tế
của chúng sanh trong mỗi phẩm Liên Hoa như thế nào. Thí dụ: đặc trưng thân
hình, màu sắc, y phục, ăn uống nghỉ ngơi và độ cao, độ lớn của chúng sanh trong
từng phẩm Liên Hoa trên ấy như thế nào.
4. Tôi sẽ nói về phương pháp tu trì của chúng sanh trong nước
Cực Lạc như thế nào, nói dễ hiểu hơn: Tức là nói chúng sanh của từng phẩm một,
tu trì như thế nào để được lên từng phẩm, từ dưới lên trên, lên mãi đến thành
Phật đạo.
5. Sẽ trình bày lại lời của chư vị ở trên ấy mà trước này tôi
biết được; nhắn nhủ tôi khi trở lại ta bà nầy dặn dò tôi chuyển lời lại chư vị
ở ta bà như thế nào.
Ấy là câu chuyện ngày 25 tháng 10 năm 1967.
Hôm ấy tôi đang ngồi thiền trong chùa Mạch Tà Nham (ghi
chú: Pháp Sư là trụ trì của chùa này). Đột nhiên, dường như có tiếng ai gọi tên
tôi, còn xô tôi về phía trước, lúc ấy, tôi có hơi giống người ngà ngà say, lâng
lâng làm sao ấy, cũng chẳng hỏi nguyên do, cứ thế mà bước ra khỏi chùa. Trong
ký thức tôi nghĩ: giờ đây phải qua núi Cửu Tiên ở huyện Đức Hoà, tỉnh Phước
Kiến dạo chơi (từ chùa Mạch Tà Nham đến núi Cửu Tiên ước chừng 200 cây số) cứ
thế tôi bước đi, suốt dọc đường không hề cảm thấy mệt nhọc, cũng không thấy đói
bụng, miệng khác thì nốc vài ngụm nước suối, cũng chẳng biết được bao lâu rồi,
hầu như không hề ngủ nghỉ qua, chỉ biết rằng lúc ấy đang tạnh ráo không mưa.
Đúng vào lúc đang dấy lên đại cách mạng văn hóa bên Trung Quốc.
Khi tôi đến nơi cách núi Cửu Tiên, huyện Đức Hóa không bao xa,
đột nhiên, thần trí tôi tỉnh trở lại, lúc ấy tôi nghe tiếng nói chuyện của nhóm
người đi đường, biết được nay là ngày 25 tháng 10 thời kỳ cách mạng văn hóa,
nơi nơi loạn lạc dân chúng đợi ban đêm mới ra đường, tôi si như vậy cũng không
khác thường. Lúc ấy cũng 3 giờ khuya, trên đường tôi gặp một sư già, cách phục
sức y áo giống như tôi vậy, chúng tôi vốn chưa quen biết, giữa đường gặp người
đồng đạo, tự nhiên không hẹn mà chắp tay xá nhau thi lễ.
Chúng tôi trao đổi nhau danh tự, vị sư bảo:
- Tôi pháp hiệu Viên Quang, hôm nay chúng ta có duyên hội ngộ,
chi bằng cùng đến núi Cửu Tiên dạo chơi được chứ!
Do đi cùng hướng, tôi đồng ý ngay. Thế là vừa đi vừa trò chuyện,
suốt câu chuyện dường như vị sư ấy thấu rõ rất nhiều chuyện quá khứ thầm kín
của tôi, nói rất nhiều chuyện nhân quả, cũng y như chuyện thần thoại, câu
chuyện dẫn hết trong đời này qua đến nguyên nhân tạo tác của đời trước, rồi đời
trước nữa, rằng kiếp ấy tôi sanh ở đâu? Ở những nơi nào? Lúc nào? Làm những
việc gì, nghe say mê quá, đến nay từng câu từng chữ một, tôi vẫn còn nhớ vanh
vách. (Sau này tra cứu lại niên đại ấy, người tên họ ấy, cả nghề nghiệp ấy,
phần mộ ấy, nhóm con cái ấy đều đúng cả).
Chân bước theo câu chuyện, bất giác, tới chân núi Cửu Tiên không
hay, đỉnh núi này có một động lớn, thờ tượng Di Lạc nên gọi là động Di Lạc là
nơi chúng tôi nhắm đến; tôi nghe rất quen thuộc và rành đường lối đến động này.
Nhưng mà khi lên đến nửa đường núi, hiện ra trước mắt tôi những cảnh tượng thật
khác lạ, con đường đang đi đã này không phải là con đường núi Cửu Tiên trước
đây, đằng nầy, đường lối được xây bằng những tảng đá lớn, lấp lánh ánh hào
quang, thật lạ, đi đến cuối nhìn lại, đã không còn là động Di Lạc nữa, mà là
một vùng trời đất khác rồi. Trước mắt tôi hiện ra ngôi chùa lớn trước nay chưa
từng thấy, vô cùng tráng lệ, so với cung điện ở Bắc Kinh, còn hùng vĩ hơn nhiều.
Hai bên ngôi chùa có 2 tòa bảo tháp, đi một lúc chúng tôi đã đến
cổng lớn, cổng xây bằng toàn là đá trắng, cửa cổng có tấm hoành phi to, trên ấy
có viết mấy chữ, tôi nhìn không biết nghĩa. Trước cổng có bốn vị Hòa Thượng,
mình mặc aó tràng đỏ, lưng deo đai vàng óng, tươ”ng trang nghiêm, thấy hai
chúng tôi đến, cùng quỳ xuống đảnh lễ nghêng tiếp, tôi vội vàng đáp lễ lại, tôi
lấy làm lạ, cách phục sức của Hòa Thượng nơi đây tôi chưa từng thấy. Có hơi
giống các vị Lạc Ma tăng, các vị ấy cũng mỉm cười lên tiếng, “Thế là đến rồi,
hoan nghêng, hoan nghêng” rồi mời hai tôi vào trong.
Vào cổng, qua mấy cung điện, lạ thật, nhà cửa ở đây đều ánh ra
tia sáng, đẹp quá, hùng vĩ quá. Bên trong có một dãy hành lang, hai bên trồng
đủ loại kỳ hoa dị thảo, màu sắc khác nhau, đi một lúc đến một tòa đại điện,
trên điện có bốn chữ vàng lớn, lấp lánh tia sáng, không phải hoa văn, cũng
không phải Anh Văn, tôi nhìn không hiểu mới hỏi Sư Viên Quang về nghĩa bốn chữ
ấy, Sư bảo là “Trung Thiên La Hán” tôi thầm nghĩ, đã gọi là Hán, đây chắc phải
là cảnh giới đạt được của những vị La Hán. Bước đến nơi đây tôi rờn rợn cảm
giác rằng vùng đất này hẳn không còn là thế giới ta bà chúng ta rồi. Đến nay
tôi còn nhớ được một chữ còn 3 chữa kia không nhớ ra.
Lúc tôi gặp Sư Viên Quang là 3 giờ khuya, nay đã hừng sáng rồi,
bên trong và ngoài điện có vô số người ra vào, với các loại màu da vàng, trắng,
đỏ, đen, đều có đó, da vàng chiếm đa số, già, trẻ, trai gái đều có. Quan áo rất
lạ, thảy đều có phát hào quang tụ năm tụ ba, có nhóm tập võ nghệ, có nhóm ca
sang múa vũ, có nhóm đánh cờ, có nhóm ngồi thiền dưỡng thân, tất cả dù bận việc
gì cũng ánh lên nét vui mừng; thấy chúng tôi đến, đều lộ vẻ thắm thiết, mĩm
cười gật đầu, nhưng vẫn không nói lời nào.
Vào trong Đại Điện, tôi lại thấy 4 chữ lớn khác, Sư Viên Quan
cho biết: đó là 4 chữ ĐẠI HÙNG BỬU ĐIỆN, từ trong có hai vị Hòa Thượng già ra
đón chúng tôi. Tôi thấy một vị có râu trắng rất dài, một vị khác cũng già nhưng
không có râu, vừa gặp Sư Viên Quang, vội quỳ xuống lạy, hành đại lễ, La Hán ở
trung thiên đối với Sư Viên Quang mà kính trọng đến bậc ấy, thiết nghĩ, Ngài
chắc là bậc phi phàm lắm vậy.
Lúc họ tiến dẫn chúng tôi vào phòng khách, tôi để ý bốn bên
điện, chỉ thấy khói hương lan tỏa, mùi thơm ngào ngạt, mặt đất đều trải bằng
những phiến đá trắng bóng loáng. Đặt biệt hơn, trong điện thờ không có một
tượng Phật nào, mà phẩm vật cúng dường thì rất nhiều, hoa tươi từng đóa lớn như
quả banh, đều tròn ung ủng, các kiểu các dạng đèn treo, màu sắc sặc sỡ, lóng
lánh hào quang, vào đến phòng khách cụ Hòa Thượng chuyển hai ly nước từ tay
tiểu đồng để mời chúng tôi, người tiểu đồng ấy đầu thắt 2 bím, thân mang áo
lục, lưng thắt đai vàng óng, trang phục như đạo đồng, rất dễ thương. Nước trong
ly trắng trong mát dịu, tôi uống nửa ly. Sư Viên Quang cũng nâng cốc, uống rồi
tinh thần phấn phát, khỏe hẳn người ra, mất hết cái mệt nhọc trong ngày.
Sư Viên Quang nói nhỏ bên tai cự Hòa Thượng cái gì đó, cụ bèn
dặn tiểu đồng dẫn tôi đi tắm, tôi thấy một bồn nước bằng đồng trắng đựng đầy
nước trong sửa soạn từ lúc nào, tôi rửa mặt và tắm gội, rồi lại được trao cho
bộ áo Hòa Thượng màu lam xám, thanh khiết mới toanh. Tắm xong tinh thần thư
thái hẳn lên, toi thầm nghĩ: hôm nay tôi nhất định đã vào cảnh Thánh rồi, lòng
mừng khẩp khởi khó mà thí dụ cho được.
Về lại phòng khách, tôi vội đến trước Hòa Thượng quỳ lạy 3 lạy,
xin được chỉ dạy, tôi hỏi về tương lai của Phật Giáo Trung Quốc ra sao? Vị Hoà
Thượng này không nói một tiếng, chỉ thấy nhắc cây bút chấm mực viết trên giấy 8
chữ: PHẬT TỰ TÂM TÁC, GIÁO DO MA CHỦ.
Hòa Thượng trao giấy cho tôi, hai tay tôi tiếp nhận, nhưng chẳng hiểu gì về ngụ
ý của 8 chữ này, vị Hòa Thượng khác giải thích cho tôi biết, với 8 chữa này để
ngang, đứng, đứng ngang, trái phải, phải trái, trên dưới, dưới trên, chữ cuối
lại tách ra, đọc thành 36 câu, sẽ hiểu được tình hình Phật Giáo từ nay đến trăm
năm sau, nếu mà lại đem 36 câu ấy diễn dịch thành 840 câu, có thể thấu được
tiến trình Phật Giáo thế giới từ nay cho đến khi Phật Giáo diệt độ mới thôi. Sư
Viên Quang cho biết 840 câu nầy, cần thời cơ chín mùi đã mới công bố được, nay
chỉ nên tuyên bố ngầm như vậy, 8 chữ nầy hóa ra 840 câu, mỗi câu đều khác, giải
thích tình huống Phật Giáo Trung Quốc sau nầy.
Tôi loay hoay sắp:
- Phật tự tâm tác, giáo do ma chủ
- Phật giáo tự chủ, ma tâm do tác
- Tác tâm tự Phật, chủ do ma giáo v.v…
Nhiều lắm nhưng tôi vẫn không hiểu và chưa chắc chắn cách sắp
này là đúng, thiện trí thức nào biết, cứ sắp thử, sắp một hồi, vị Hòa Thượng
bảo tôi nên vô phòng nghỉ ít lâu, tiểu đồng dẫn tôi vào phòng, chẳng thấy
giường đệm đâu cả, chỉ có hai cái ghế dựa trên trải nhiễu… rồi tôi ngồi lên ghế
tĩnh tọa, thoáng cái, cả người tôi bỗng thấy thoải mái, thư thái vô cùng, tôi
không còn biết tôi đang ở đâu nữa. Thế rồi nghe tiếng Sư Viên Quang gọi tôi,
tôi vội vã đi xuống, chạy ra khỏi phòng.
Sư Viên Quang nói với tôi:
- Bây giờ tôi đưa ông đến Trời Đâu Xuất, đảnh lễ Bồ Tát Di Lặc,
và Sư Phụ của ông là Hư Vân Lão Hòa Thượng nhá!
Tôi mừng quýnh:
- A Di Đà Phật hay quá, cám ơn Ngài.
Rời đại điện tôi định giã từ hai vị Hòa Thượng nơi đây, nhưng Sư
Viên Quang ngăn lại:
- Không cần, không cần, thì giờ không có bao nhiêu.
Thế là lần nầy tôi đến cung trời Đâu Xuất.
Trên đường đi, tôi gặp rất nhiều điện vàng, bảo tháp, nguy nga
tráng lệ, tất cả đều phát sáng, khiến tôi nhìn không chớp mắt nhưng Sư Viên
Quang thôi thúc nói thời giờ eo hẹp, đi cho nhanh lên (mãi sau này tôi mới
biết, thời gian trên Thượng giới khác với thời gian chúng ta sống, không nên để
luống qua, nếu không về tới ta bà đây chắc cũng lướt qua vài trăm năm, có khi
cả ngàn năm không chừng). Hầu hết những con đường đều xây bằng đá tảng lớn
trắng, và ẩn hiện ánh hào quang, trên núi hoa thơm cỏ lạ muôn vàn, nương gió
hắt lại những mùi thơm ngát trời. Quanh quanh mấy cái eo triền núi, đến một cái
vực rất sâu cả mấy chục ngàn thước ẩn hiện phía trước một cây cầu để bước qua
bên kia vực, nhưng không thấy đầu cầu và cuối cầu, mây từng cụm là là che phủ,
chỉ thấy một đoạn vòng lên cao ở giữa cầu. Tôi thầm nhủ:
- Cái cầu như vậy làm sao qua được đây? Ngay lúc ấy Sư Viên
Quang hỏi tôi:
- Hằng ngày ông thường trì chú gì? Kinh gì?
Tôi trả lời:
- Tôi hay trì chú Lăng Nghiêm, kinh Pháp Hoa. Sư bảo tốt, thế
giờ ông trì chú đi!
Tôi bắt đầu trì chú. Chú Lăng Nghiêm có hơn 3,000 chữ, mới trì có hai ba trăm chữ, cảnh đằng trước tôi hóa ra khác rồi, cây cầu lúc ấy hiện rõ hai đầu cầu nối lại với lại bờ đất, cầu tỏa sắc óng ánh vàng, lóng lánh chói lọi, cả cầu được dựng bằng 7 báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ v.v… trông như cầu vồng treo giữa lưng trời vậy, đẹp mắt vô cùng, thành cầu có nhiều cột đèn, đèn bằng hạt châu sáng và thật to, đầu cầu có dựng cổng trên có khắc 5 chữ lớn như 4 chữ ở đại điện đã thấy, nên tôi đoán 5 chữ ấy là “TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU”, qua khỏi cầu, nghỉ lại đôi chút tôi vội hỏi Sư Viên Quang:
Tôi bắt đầu trì chú. Chú Lăng Nghiêm có hơn 3,000 chữ, mới trì có hai ba trăm chữ, cảnh đằng trước tôi hóa ra khác rồi, cây cầu lúc ấy hiện rõ hai đầu cầu nối lại với lại bờ đất, cầu tỏa sắc óng ánh vàng, lóng lánh chói lọi, cả cầu được dựng bằng 7 báu vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xà cừ v.v… trông như cầu vồng treo giữa lưng trời vậy, đẹp mắt vô cùng, thành cầu có nhiều cột đèn, đèn bằng hạt châu sáng và thật to, đầu cầu có dựng cổng trên có khắc 5 chữ lớn như 4 chữ ở đại điện đã thấy, nên tôi đoán 5 chữ ấy là “TRUNG THIÊN LA HÁN KIỀU”, qua khỏi cầu, nghỉ lại đôi chút tôi vội hỏi Sư Viên Quang:
- Bạch Sư, tại sao khi chưa niệm chú tôi chẳng thấy hai đầu cầu,
niệm rồi lại rõ ra như vậy? Sư rằng:
- Khi chưa niệm chú, bản tánh của ông tức Bản Lai Diện Mục của
ông bị nghiệp chướng của tự thân trùng trùng vây chặt, siêu thắt mình lại, áng
cả tầm nhìn, không thể thấy tánh cảnh được đâu, sau khi niệm chú do oai lực của
chú, nghiệp chướng tức thì tiêu tan nên chẳng bị che khuất, tự tánh thanh tịnh,
hiện ra cảnh giới thật của nó, từ mê chuyển tỉnh, nên nói muôn dặm không thấy
muôn dặm trời là vậy đó.
Chúng tôi lại bắt đầu đi, vừa đi vừa trì chú, tự nhiên phía
trước bước chân hiện ra những hoa sen to, từng cánh sen chiếu ánh sáng xanh
lóng lánh như thủy tinh vậy, bước lên hoa sen nâng lốc tôi lên lưng trời giống
như cỡi mây lướt gió vậy, chỉ nghe tiếng rít bên tai mà không cảm thấy gió to
gì cả, tốc độ bay sánh với máy bay siêu tốc, chỉ thấy cảnh vật chung quanh cứ
vùng vụt mà ném lại đằng sau.
Không bao lâu thân tôi nóng dần lên, lúc ấy tôi thấy có một cái
cổng to, nếu sánh với Thiên An Môn ở Bắc Kinh thì cổng này hùng vĩ hơn nhiều,
những cột to có dáng rồng phượng lóng lánh hào quang, trên chóp mái dạng như
cung vua vậy, nhưng toàn một màu bạc óng, toàn cảnh như một cổng thành bằng bạc
khối chiếu sáng vô cùng hùng tráng.
Bảng cổng có ghi bằng 5 loại văn tự, về Hán văn thì đọc được là
NAM THIÊN MÔN, Nam Thiên Môn là trụ xứ của Tứ Đại Thiên Vương. Trong Nam Thiên
Môn có rất nhiều người trời đứng thành hai hàng, văn võ hai bên, nhóm văn võ
đều mặc trang phục như tướng trong cung vua vậy, nhưng đều tỏa chiếu hào quang,
vô cùng oai võ, tất cả đều chắp tay mỉm cười làm lễ nghêng tiếp hai chúng tôi,
nhưng chẳng nói một lời. Vào trong thấy một tấm gương lớn, nghe đâu gương này
soi thấy nguyên thần, biết được giả thật.
Suốt đường vào trong, thấy rất nhiều cảnh lạ, như ráng trời, cụm
mây, bông hoa sấm chớp, cứ vùn vụt lướt qua lại, lăng xăng liên tục, bên ngoài
các từng mây, thấp thoáng những đình đài, lầu các mũi tháp chập chùng, Sư Viên
Quang bảo tôi:
- Đây là từng trên của trụ xứ Tứ Đại Thiên Vương, từng thứ hai
của trời Dục Giới, gọi là trời Đao Lợi, là nơi ngự của Ngọc Hoàng Đại Đế, cai
quản 32 dung trời bốn phương. Tôi không được nhìn ngắm lâu, cứ thế lướt qua mấy
từng trời.
Sư Viên Quang nói tiếp:
- Đây rồi, nơi nầy là trời Đâu Xuất, từng thứ tư trời Dục Giới.
Thoáng chốc, đã đến trước một cửa cổng điện các lớn. Ra đón
chúng tôi có hơn 20 người trong đó có một người không xa lạ gì, đó là ân sư
truyền giới cho tôi, Hư Vân Lão Hòa Thượng là một trong ba cao tăng Trung Quốc
thời cận đại. Còn hai người nữa, mà tôi biết được là Hòa Thượng Diệu Liên và
Đại Sư Phước Vinh, họ đều khoác y đỏ, rất hoa lê..
Gặp ân sư tôi vội quỳ xuống đảnh lễ, suýt chút nữa là tôi bật
tiếng khóc vì xúc động. Ân Sư hỏi tôi:
- Lúc này con làm sao, trong lòng thanh tịnh không, có còn gì
buồn vui xúc động không?
Con có biết vị đưa con đến đây là ai không?
Tôi trả lời:
- Bạch Thầy vị ấy là Sư Viên Quan Lão Pháp Sư.
Lúc ấy ân sư thổ lộ cho tôi biết : Vị ấy là vị mà hằng ngày con
vẫn niệm Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT. Nghe qua tôi hết
hồn, vội quỳ xuống đãnh lễ Sư Viên Quan (Hóa thân của mẹ Quan Âm) thật là có
mắt mà chẳng thấy núi Thái Sơn.
Trước Bồ Tát Quan Âm, trong khoảnh khắc ấy, không biết nói làm
sao cho phải. Người ở trời Đâu Xuất chẳng giống người ở ta bà mình, thân cao
hơn ta những 5 hoặc 6 lần, nhưng mà Bồ Tát Quan Âm đành rằng đã đưa tôi đến đây
khiến cho tôi hóa ra lớn bằng tầm cỡ trên này. Ân Sư dặn dò tôi:
- Ở thế gian phải cần khổ công tu luyện, nghiệp chướng cần thông
qua thử thách mới có thể lần hồi giải trừ được… giải trừ được.
Ân sư còn dặn tôi phải xây chùa chiền v.v…
Ở trên này tôi có gặp một số người nữa, trai gái trẻ già đều có,
trang phục của họ hao hao giống triều đại nhà Minh.
Sau đó chúng tôi cùng tiến vào nội điện của cung trời Đâu Xuất
để đảnh lễ Bồ Tát DI LẠC. Cái đẹp, cái hùng tráng của Điện Di Lạc thật là không
bút mực nào hình dung ra được, nơi đâu cũng lấp lánh óng ánh vàng. Cửa điện có
gắn 3 chữ lớn tỏa ánh vàng kim viết bằng hán văn “ĐÂU XUẤT THIÊN”. Tại đây,
chính mắt tôi thấy Bồ Tát Di Lạc.
Dáng dấp của Ngài không giống như ông Phật cười ngất với cái
bụng to, tròn ung ủng như tượng Phật Di Lạc ở thế gian. Bồ Tát Di Lạc hiện
tướng trang nghiêm với đủ 32 tướng tốt và 80 oai nghi, dáng Ngài rất là đẹp.
Hai bên đại điện có rất nhiều Bồ Tát. Những Bồ Tát ấy mặc các
loại áo đạo khác nhau đang đứng hoặc ngồi, nhưng những Ngài mặc áo cà sa đỏ có
ánh hào quang tỏa ra từ áo là chiếm đa số, mỗi vị đều ngự trên một tòa sen. Tôi
bèn tiến lên đảnh lễ Bồ Tát Di Lạc và xin Ngài chỉ dạy. Bồ Tát Di Lạc nói với
tôi một số pháp âm:
- Ta sẽ giáng sanh vào thế giới ta bà khi mở Hội Long Hoa lần
thứ ba (cách chừng 60 vạn ức năm sau). Lúc ấy cả địa cầu không đâu có núi cao
hay biển sâu, hang ổ vực thẳm, cả cõi đất bằng phẳng như bàn tay. Thế giới ta
bà sẽ biến thành tịnh độ nhân gian. Để dọn đường, các ông dưới ấy cần thương
yêu lẫn nhau, giữa đạo này với đạo khác. Không nên chê dèm pha, phỉ báng nhau.
Trong cùng một đạo, giữa tông này với tông khác cũng phải phấn đấu, khuyến
khích nhau tinh tấn tu trì, cần phải sửa đổi cái sai, phò trì cái đúng…
Ngài còn nói nhiều nữa nhưng tôi nhớ không hết, cuối cùng tôi
đảnh lễ Ngài rồi ra ngoài.
Ân Sư tôi Hư Vân Lão Hòa Thượng dẫn tôi đến một tòa lầu các lớn.
Trước tòa ấy có một vị ăn mặc giống như quần áo của võ tướng nhà Minh, xem ra
không phải là Bồ Tát Vi Đà. Vị này dẫn tôi vào bên trong, còn dọn ra đãi chúng
tôi bánh mật hoa mà các tiên nữ ở đây hái và luyện thành. Tôi ăn thử một miếng
sao mà ngon, dịu ngọt và hấp dẫn như thế.
Phước Vinh Đại Sư nói với tôi là trên trời mọi người đều dùng
bánh chế luyện bằng mật hoa, không những được bệnh tật, kéo dài tuổi thọ mà còn
làm trẻ lại và khỏe ra nữa, cứ ăn nhiều lên đi có lợi lắm đó. Sau này đúng là
thể dạng tôi phục hồi tuổi xuân, tôi cảm thấy trẻ ra và thân thể cũng cảm thấy
nhẹ nhàng nhiều, và mãi đến hôm nay tôi chưa dùng đến một viên thuốc nào cả.
Tiếp đến Đại Sư Phước Vinh lại nói:
- Người ở Thượng giới ham vui chẳng chịu tu hành, cũng y như
người giàu có ở thế gian vậy. Không chịu xuất gia chỉ ở hưởng cái phước trước
mắt mà chẳng hề biết là chưa ra khỏi tam giới, chưa thoát khỏi sinh tử luân
hồi. Chúng tôi ở đây nghe Bồ Tát Di Lạc thuyết pháp sau này giáng thế độ chúng
sanh, mới là thực sự hành Bồ Tát Đạo, liễu thoát sinh tử…
Lúc ấy Ân Sư tôi cũng dạy tôi thêm:
- Thời kỳ mạt pháp này cần phải tu hành phổ độ chúng sanh trong
hoàn cảnh ác liệt nhất, trong tình huống xấu xa nhất cũng phải thể hiện tâm đại
từ bi, đừng tham cầu tiện nghi trong thuận cảnh mới độ sanh, mới từ bi hỉ xã,
đừng né tránh nghịch cảnh, cần phải độ cho người ác biết giác ngộ, biết quay
đầu hành thiện, làm lành. Con người có làm lành cuộc sống mới tốt lành. Để
thanh tịnh mà tu, ở ngay trong hoàn cảnh xấu ác nhất mà kiên quyết giữ được Huệ
mạng Phật Bồ Tát, đó mới là thực hành chánh Bồ Tát Đạo. Ta dặn con, khi trở lại
thế gian cần nói cùng đồng đạo, nhất là các bạn cùng tu, cần lấy giới làm Thầy,
theo cũ mà hành trì, đừng cải cách duy tân, sửa đổi tăng chế. Ta rất đau lòng
thấy có người cho chú Lăng Nhiêm là giả, có kẻ còn không tin nhân quả lại bịa
ra trứng là chay lạt, lại không chịu khó tu trì để cảm hóa chúng sanh, còn dùng
những pháp tà mị để giải kinh Phật tới loạn cuồng lên, mong hưởng của cúng
dường. Những thứ ấy đều do ma giáo vào cõi phàm để triệt tiêu huệ căn của Như
Lai, khiến quần ma có thể xuất đầu lộ diện, nhiễu hại chúng sanh, con hiểu
chưa? Còn cái này nữa, con cầu hết sức nương ý chí ta, mới là trò ta. Ta cho
con biết , sau này con sẽ đi các nước Âu Á để thuyết pháp độ sanh. Nhưng muốn
chuyển hóa trấn động được lòng người ở hoàn cảnh xấu ác nhất con cần phải sửa sang
lại, phục hưng lại các chùa chiền của ta khai sáng trước đây. Bởi đó, ta đặt
tên con là Phục Hưng lúc mới truyền pháp cho con đó, con có biết không?
Ngưng một lúc, Ân Sư tôi đột nhiên lớn tiếng ngâm rõ từng câu một, câu kệ “Thâm tùng sương tuyết du kiên uyển, hải thiên nhất sắc biến tam thiêm” (trong hoàn cảnh sương tuyết dầy đặc ấy, cây thông vẫn kiên trì giữ lẽ sống của mình, màu biến nếu lắng tợ màu trời, có thể lan tỏa mãi thế giới tam thiên).
Ngưng một lúc, Ân Sư tôi đột nhiên lớn tiếng ngâm rõ từng câu một, câu kệ “Thâm tùng sương tuyết du kiên uyển, hải thiên nhất sắc biến tam thiêm” (trong hoàn cảnh sương tuyết dầy đặc ấy, cây thông vẫn kiên trì giữ lẽ sống của mình, màu biến nếu lắng tợ màu trời, có thể lan tỏa mãi thế giới tam thiên).
Nghỉ ngơi một hồi Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi ra khỏi đại điện đi
tham quan thắng cảnh. Cả một bầu trời chói lọi ánh sáng trong lành, những chim
chóc tuyệt đẹp đua nhau ca hót véo von, âm sắc du dương chợt xa chợt gần. Các
tiên nữ, tiên đồng mặc đủ loại áo tiên thướt tha tuyệt vời, xếp thành từng
hàng, đội ngũ chỉnh tề, tự tại dạo chơi. Bông hoa khắp nơi nở mọi hình sắc lộng
lẫy huy hoàng, ẩn hiện xa gần. Những đình đài lầu các, bảo tháp bảo đàn, đều
phát ra những ánh sáng lung linh huyền diệu, thật là cảnh ở trên trời so với
thế gian sáng như muôn với một vậy. Tôi vừa thưởng ngoạn vừa không ngớt miệng
khen, Bồ Tát Quan Âm thấy vậy đưa tay chỉ cho tôi thấy ở xa xa ấy có một ngọn
núi to hơn quả núi côn lôn, phóng ra muôn vạn hào quang đủ mọi màu sắc, Ngài
nói với tôi rằng:
- Đấy là xứ của Thái Thượng Lão Quân (Lão Tử), gọi là Luyện Ðan
Ðại Tháp.
Phóng tầm nhìn ta thấy tòa tháp luyện đan ấy vô cùng tráng lệ ẩn
hiện trong lớp lớp từng mây, cũng chẳng biết bao nhiêu từng, ôm lấy quanh quả
núi chói chang hào quang ấy. Chúng tôi chỉ nhìn mà không ghé vào quả núi ấy, Bồ
Tát Quan Âm nói thêm:
- Tháp ấy là nơi cư trú của chư vị Thượng Tiên, Ðại Tiên, chung
quanh các phía có dãy đầu những cây Lung Linh nguyên (cây Linh nguyên là nguyên
hình của người tu theo đạo tiên) cùng hoa quả bốn mùa . Nghe nói cách tu của
đạo tiên ở thế gian, từ khi phát nguyện tu là trên trời mọc 1 cây linh nguyên.
Tu khá thì cây ấy tốt đẹp, bằng không cây ấy èo uột và có khi chết, nếu ở thế
gian vị ấy phạm quá nhiều lầm lạc…
Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm thúc hối tôi:
- Thì giờ eo hẹp lắm đi cho nhanh, tôi dắt ông đến thế giới Cực
Lạc Phương Tây, so với cảnh này còn đẹp và thích thú hơn nhiều.
Ra khỏi trời Đâu Xuất, tôi lại trì chú Lăng Nghiêm, chân tôi lại
thấy hiện tòa sen nâng bốc tôi lên, chỉ nghe tiếng gió ào ào cảnh tiên lướt qua
và dạt về phía dưới rất nhanh, đến một nơi dưới đất óng ánh sắc vàng kim, và
trải đầy cát vàng sáng chói. Ước chừng khoảng 15 phút sau, thấy bên dưới tòa
sen, đường lối thênh thang trải đầy cát vàng, lóng lánh chói rạng và từng hàng,
từng dẫy những cây cổ thụ to cao cả chục trượng, cành vàng, lá ngọc. Lá cây cổ
thụ có hình 3 góc, 5 góc…7 góc, đều phát ra tia sáng, hoa nở đủ màu, có cả rất
nhiều những loại chim đậu đầy nhánh cây dương. Các thứ chim có cánh đủ màu sắc
tuyệt đẹp, thân thì có hào quang. Chim có con có 2 đầu, có con có nhiều đầu,
chúng cùng hót một loại giọng thanh thót và ca ngâm Thánh hiệu Phật A Di Đà, và
nhảy nhót tưng bừng. Bốn chung quanh đều có hàng rào, lan can 7 màu, Bồ Tát
Quan Âm nói:
- Cảnh giới mà kinh Phật nói; Thất Trùng La Võng Thất Trùng Hàng
Thọ là chỗ này đây.
Bên tai tôi nghe rất nhiều tiếng nói chuyện, nhưng mà nghe chẳng
hiểu gì cả. Bồ Tát Quan Âm nói: “Những tiếng ấy Phật A Di Đà nghe hiểu. Trên
đường đi tới còn gặp rất nhiều tháp cao đều do thất bảo kết thành, phát từng
luồng ánh sáng. Không bao lâu đến trước một ngọn núi bằng vàng, chói lọi … vàng
sáng hắt ra, so với núi Nga Mi bên Trung Quốc không biết ngọn núi này còn cao
hơn gấp mấy chục ngàn lần. Bồ Tát Quan Âm nói với tôi:
- Đến rồi đó, chúng ta đã đến trung tâm điểm của thế giới Tây
Phương Cực Lạc rồi đó! Ông có thấy không? Đức Phật A Di Đà ở trước mặt ông đó.
Tôi ngạc nhiên:
- Thưa Bồ Tát, con không thấy; ở đây là vách núi vàng ròng kia
mà, nó đã che hết tầm nhìn rồi cho nên con không thấy Đức Phật ở đâu?
Không ngờ Bồ Tát nói làm tôi hết sức chưng hửng:
- Không có vách núi gì đâu, ông đang ở trước ngón chân cái của
Đức Phật A Di Đà đấy.
Tôi nói:
- A Di Đà Phật, ôi thôi, Ngài cao lớn dường ấy làm sao con có
thể nhìn thấy được.
Tôi cứ như là con kiến ngước nhìn nhà chọc trời trên gần 200
tầng lầu của Mỹ vậy ccó, không có cách chi nhìn cho trọn vẹn toàn cảnh của cao
ốc ấy. Bồ Tát Quan Âm dặn tôi quỳ xuống nhanh lên và khẩn cầu Phật A Di Đà gia
bị cho, để tiếp dẫn tôi được thấy thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tôi vội quỳ
xuống nguyện cầu A Di Đà Phật gia bị. Nguyện cầu được một lúc, tôi cảm thấy
thân tôi rần rần chuyển động không ngừng cao lớn lên, cao riết đến khoảng rốn
của Ngài. Lúc ấy tôi thấy rõ Đức Phật A Di Đà ở trước mắt tôi, đứng trên đếm
không hết những tầng hoa sen rực ánh hào quang ấy. Từng cánh hoa sen lại hiện
lộ thắng cảnh bảo tháp phóng ra muôn ngàn tia sáng, trong những tia sáng lại có
vô vàn những vị Phật, ngồi ngay ngắn trong rừng tia sáng chói chan ấy. Cũng
cùng một lúc tôi còn thấy đại điện với nhữgn vách vàng óng ả, chói lọi, nhìn
sâu vào mãi tôi thấy cả toàn cảnh của thế giới Tây Phương Cực Lạc.
Lúc ấy Sư Viên Quan hiện lại thân thật của Bồ Tát Quan Thế Âm với toàn
thân trong suốt sắc óng vàng, trang phục phát ra muôn tia sáng khác nhau. Nhận
không rõ là nam hay nữ, giờ đây Bồ Tát Quan Âm với thân hình cao lớn hơn tôi
ước độ bằng vai của Đức Phật A Di Đà. Tôi đứng ở nơi ấy được thấy cảnh giới vô
cùng đẹp đẽ này, tôi ngắm tới ngất ngây người. Trong nhất thời không thốt ra
được một tiếng nói nào cả, đến bây giờ bảo tôi thuật rõ từng cảm nghĩ về cái
thấy, cái biết của cảnh giới thù thắng ấy chắc là tôi phải nói trọn cả 7 ngày 7
đêm, chỉ đơn cử nói về nét tướng của Đức Phật A Di Đà thôi, chắc tôi phải kể
suốt cả nữa ngày trời. Thí dụ như nói về mắt Ngài có thể so sánh với cả một mặt
biển lớn, nói ra có thể không ai tin, chứ thực tế mắt Ngài có thể sánh với cả
một đại dương vậy.
Đất nước Cực Lạc của thế giới Tây Phương, nếu theo như lời kinh
nói cách đây tới những 10 vạn ức đất Phật; nếu đi bằng tốc độ ánh sáng thì phải
hết 150 ức năm ánh sáng mới đến nơi. Với tuổi thọ của con người thì không thể
nào đến được, còn nói về vật chất, nếu đi bằng xác thân xương thịt này, dẫu có
khởi từ mới lập trái đất, đi hết vòng quanh trái đất đến trái đất hư diệt, tạo
lập lại rồi diệt, cũng khó lòng mà đến được. Thế mà chỉ với nguyện lực sẵn có
và một lòng vững dạ, cộng với sự khẩn cầu Đức Phật A Di Đà gia bị, thế thì chỉ
cần một sát na, lẹ như duỗi tay, đã đến được tận nơi.
Tôi kính cẩn đãnh lễ Đức Phật A Di Đà xin Ngài gia bị, ban cho
tôi phước huệ được liễu sanh thoát tử. Ngài bảo tôi:
- Bồ Tát Quan Thế Âm tiếp dẫn
con đến đây tham quan các nơi, con cứ đi tham quan đi, rồi sau đó con còn phải
trở về gian nữa.
Lúc ấy tôi đã say mê cảnh giới tốt đẹp của Tây Phương Cực Lạc
rồi, cho nên tôi cảm thấy thế gian đầy dẫy những nhớp nhúa đau khổ, không muốn
trở về nữa, tôi mới năn nỉ:
- Cực Lạc Quốc Độ quá là tốt đẹp, con không muốn về thế gian
nữa, nguyện cầu Đức Phật A Di Đà phát đại từ bi tâm mà giữ con lại đây. Ngài
dạy:
- Không được, không phải ta không chịu giữ con ở lại thế giới
Cực Lạc, mà chỉ vì 2 kiếp về trước con đã vãng sanh đến đây nhưng rồi chính con
đòi trở về thế gian cứu đời, độ người, cho nên giờ đây con cần quay về, làm cho
xong tâm nguyện của con. Đem tình hình được thấy ở đây truyền đạt cho thế gian
biết, lấy đó mà giáo hóa thế nhân.
Đức Phật lại ngâm kệ trùng tuyên lại lời ấy, Ngài vừa dứt ngâm
kệ, tôi rúng động toàn thân và nhớ lại tất cả cảnh cũ của hai kiếp trước, lồng
lộng trước mắt.
Đức Phật A Di Đà bảo với Quan Âm Bồ Tát hướng dẫn tôi đi tham
quan các nơi. Tôi đảnh lễ Ngài 3 lạy rồi cùng với Quan Âm Bồ Tát bước ra khỏi
cửa Đài Thuyết Pháp. Lúc này tôi quan sát thấy hành lang, bờ ao, lan can, núi
đất đều kết lại bằng 7 báu vật, đều phát ra tia sáng giống như ánh đèn màu vậy.
Đặc biệt nhất là tất cả những dạng hữu hình như trên đều trong suốt không
chướng ngại, có thể xuyên thấu qua được. Trên cửa Đài có 4 chữ vàng, hai bên
cũng có đôi liễu đối, tôi nhìn không hiểu … chỉ nhớ được 1 chữ còn 3 chữ kia
không nhớ rõ. Bồ Tát Quan Âm giải thích “Nếu đọc bằng hoa văn thì đó là Đại
Hùng Bửu Điện, cũng có thể đọc là Vô Lượng Thọ Phật”. Cái tòa Đại Điện lung
linh áng vàng ấy hùng vĩ vô cùng, có tới mấy vạn người ở trong, đồng thời tôi
thấy rất đông chư vị Bồ Tát, ngồi hoặc đứng, có vị ngoài điện, toàn thân đều
hiện sắc vàng óng trong suốt nhưng cao độ ánh sáng của Bồ Tát thấp hơn Đức Phật
chút ít. Trong số chư vị Bồ Tát tôi gặp có cả Đại Thế Chí Bồ Tát, Thường Tinh
Tấn Bồ Tát v.v… Quan Âm Bồ Tát bảo:
- Thôi để tôi dẫn ông đi, chúng ta sẽ đến hạ phẩm hạ sanh trước,
thăm lần đến thượng sanh thượng phẩm nha!
Trên đường lướt đi ấy, thân hình Bồ Tát và tôi lần lần thu nhỏ
lại và thấp xuống. Tôi thấy lạ, bèn hỏi:
- Bồ Tát Quan Âm tại sao lạ vậy, thưa Bồ Tát? Thân người tại sao
lại có tình trạng thu nhỏ như vậy?
Ngài trả lời:
- Chúng sanh từng phẩm, vì cảnh giới không giống nhau nên hình
thể và độ cao cũng có lớn nhỏ khác nhau; chúng ta đang ở thượng phẩm nơi trụ xứ
đức Phật A Di Đà, mà đi về hướng hạ phẩm, nên biết là trong 9 phẩm sen vàng ấy,
chúng sanh trong thượng phẩm cao lớn hơn chúng sanh trong trung phẩm; ở trung
phẩm lại có độ cao lớn hơn hạ phẩm, cho nên ta đi từ thượng phẩm thì cố nhiên
thân hình cần thu nhỏ lại, thấp xuống để ta không khác thường với chúng sanh
nới ấy, đó gọi là thích hợp cảnh giới là vậy.
1. Hạ Phẩm Hạ Sanh – Đem theo vong nghiệp mà vãng sanh
Chưa nói được mấy câu đã đến ao sen hạ phẩm rồi. Thoáng
nhìn qua, đã thấy bãi đất bằng như bàn tay đều do cát vàng trãi phủ kín, óng
ánh vàng rực. Trên bãi đất rộng mênh mông ấy, có vô số các bé gái chừng
13, 14 tuổi. Các bé ấy mặc cùng một loại áo màu lá mạ, váy màu hồng đào,
đeo đai vàng óng. Mà lạ! Tất cả các đứa bé cùng cỡ tuổi, cùng chung
một dáng dấp mặt mũi y như nhau. A! Thế ra Tây Phương Cực Lạc thế
giới cũng có con gái nữa.
Tôi bèn hỏi Bồ Tát Quan Thế Âm:
- Thưa Bồ Tát nghe kinh Phật nói ở thế giới Cực Lạc không
có sự phân biệt nam nữ, cớ sao ở đây lại có con gái nữa?
Ngài trả lời:
- Đúng vậy, ở nơi đây không hề có sự phân biệt tướng nam
tướng nữ. Ông nhìn lại thân hình ông thì biết!
Tôi nhìn lại mới hết hồn, thì ra tôi cũng có dáng dấp của bé gái
13, 14 tuổi và cách ăn mặt cũng giống y hệt những đứa bé gái kia, còn mặt mũi
thì thế nào chưa biết chứ tóc tay và quần áo chẳng khác các nữ chúng ở đây tí
nào. Tôi ngạc nhiên hỏi Bồ Tát:
- Thưa Bồ Tát tại sao như thế này được? Ngài bảo:
- Ở đây có một vị Bồ Tát chủ trì, nếu vị ấy biến nam
thì toàn bộ là nam, khi biến nữ thì toàn bộ đều là nữ. Thực ra dẫu có
biến nam hay nữ thì tất cả đều từng ấy tuổi, và dẫu có biến nam hay nữ thì tất
cả đều như nhau đâu có sự phân biệt khác phái được, hơn nữa từ hoa sen hóa sanh
ra là không có máu thịt chỉ một thể dạng trong suốt, chỉ có thay đổi dáng dấp
bề ngoài thôi. Ông nhìn lại xem có phải vậy không?
Tôi nhìn lại thân thể mình đúng là trong vắt như pha lê chiếu
sáng, không có xương thịt máu móng tay chân. Những người được vãng sanh
đến ao hạ sanh hạ phẩm này đều là đối nghiệp vãng sanh, không luận là trai hay
gái, trẻ hay già, sau khi từ hoa sen hóa sanh ra, nhất loạt biến thành bé 13-14
tuổi cùng một cách ngây thơ xinh đẹp như vậy.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao người vãng sanh đến đây lại biến
thành cùng một dáng dấp, lại cùng một độ tuổi vậy?
Ngài trả lời rằng:
- Tại vì Phật tánh bình đẳng. Phật lực A Di Đà tiếp
dẫn họ đến hóa sanh bằng hoa sen, tất cả đều được tiếp độ, tất cả đều được liên
hoa hóa sanh, cho nên tất cả đều được đãi ngộ như nhau cho dù là ông cụ bà cụ
hay là trai tráng, sau khi từ hoa sen nở ra, đồng loại trở thành những đứa bé
mười mấy tuổi, tướng mạo y như nhau, kháu khỉnh dễ thương y như nhau.
Sau khi được hóa sanh ra trong ao hạ sanh phẩm, mỗi ngày trong 6
thời, có một thời là hội giảng kinh do một vị Bồ Tát chủ trì. Khi đến giờ
chuông pháp reo vang, người trong ao sen lầu các, nhất loại biến thành nam hoặc
nữ có hình tướng nhất định, trang phục đều như nhau, toàn do Phật lực
hoặc do Bồ Tát điều khiển. Những người trong hạ sanh hạ phẩm này ban ngày
rời khỏi hoa sen ra ngoài chơi giỡn hoặc ca hát, hoặc là nhảy múa, hoặc là lễ
bái hay niệm Phật tụng kinh và tất cả đồng theo ý thích của mình. Đến giờ
nghỉ ngơi buổi chiều tốt thì mỗi người đều trở về hoa sen của mình, hay nói
cách khác ban ngày sen nở ban đêm sen úp. Khi đã trở vào hoa sen rồi sẽ
không được hoạt động lăn xăn bên ngoài, chỉ có thể niệm Phật hoặc là có thể
trầm tư suy tưởng những vọng ảnh. Vì hạ phẩm hạ sanh nay là đới nghiệp
vãng sanh, nên khó tránh được những phân ảnh của vọng nghiệp được đem đến từ
đời quá khứ.
Bồ tát Quan Âm dẫn tôi đến một quảng trường. Thoạt đầu tôi
chỉ thấy chừng một hai chục bé gái, rồi vài chục, rồi vài trăm, vài ngàn, vài
vạn bé. Trong chốc lát cả cái sân rộng mênh mông của quảng trường đã đầy
ấp các bé gái có dáng dấp y như nhau, quần áo và độ tuổi cũng như nhau, tập
trung lại xếp thành hàng ngũ chỉnh tề, việc ấy như là một chuyện rất dễ dàng
nhẹ nhàng vậy. Chẳng giống như ở thế gian mình đây, muốn tập trung xếp
thành một lúc hàng vạn người hay nói dễ hơn chừng ít ngàn người thôi cũng tốn
hao nhiều công sức và thời gian để chỉnh đốn hàng lối rồi.
Tôi lại được dẫn đến bên ao sen. Lạ quá, nước trong ao
lềnh bềnh như mặt thoáng hơi nước, như là mây, như là không khí vậy, chớ không
giống nước ở thế gian này.
Bồ Tát bảo:
- Ông xuống tắm thử đi.
Tôi lo lắng:
- Rồi ướt hết áo sao? Thưa Bồ Tát.
Ngài bảo:
- Không ướt đâu, không giống như ao ở thế gian làm
ướt áo lúc tắm.
Tôi vâng lời mạnh dạn xuống tắm. Đúng như vậy, quần áo tôi
không hề ướt. Tôi vốn sợ ao hồ vì không biết bơi, nhưng ở đây lại có thể
theo ý nghĩ của mình, muốn lên, muốn xuống, qua trái, qua phải, toàn theo ý
điều khiển. Tôi thích thú lượn trong ao sen tắm và giỡn nước, vì hiếu kỳ
tôi thử hớp một ngụm nước. Ôi ngọt quá. Thế là tôi há to miệng hớp
lấy hớp để, càng uống tinh thần càng khỏe khoắn toàn thân nhẹ thênh
thênh. Lúc ấy tôi bay tới giữa ao thấy rất nhiều đóa sen vô cùng đẹp đẽ
nở sáng lạng, có người ngồi trên hoa sen niệm Phật. Nhưng cũng có một số
hoa sen đang héo úa, hoặc gẫy gấp, thậm chí có đóa tàn lụn.
(Nước ao sen này chính là loại nước mà kinh A Di Đà ghi là Bát
Công Đức Thủy) .
2. Cách Phản Ảnh Vọng Nghiệp
Chúng sanh của hạ phẩm hạ sanh là những chúng sanh được đới
nghiệp vãng sanh do nhất tâm niệm Phật cầu sanh tịnh độ… Thế nào gọi là
đới nghiệp vãng sanh? Ngày trước ở trong thế gian ta bà, những
chúng sanh này, từng tạo qua vô số nghiệp ác, như sát sanh, trộm cướp, phỉ
báng, dối gạt, hãm hại, tà dâm, nói thêu dệt v.v… nói về hành vi những người
này lẽ ra không thể vãng sanh được nhưng ở ngày sắp chết ấy, gặp được thiện trí
thức dạy bảo niệm Phật cầu vãng sanh tịnh độ… Do bất tâm nhất loạn niệm
Phật liên t ục trong phút cuối, lại được nguyện lực Đức Phật A Di Đà gia bị cho
nên được tiếp dẫn đến Tây Phương Cực Lạc, hóa sanh trong ao sen của hạ phẩm hạ
sanh. Nhưng mà trong 9 phẩm hoa sen ấy, nếu muốn tu tiến từ phẩm thấp
nhất là hạ phẩm hạ sanh đến phẩm cao nhất là thượng phẩm thượng sanh phải cần
thời gian là 12 kiếp trên ấy (một kiếp tên ấy bằng 16,798,000 năm dưới trần
gian, muốn vượt thêm để thành Phật cần 21,576,000 năm dài). Nếu như ta
nhất quyết chịu khó tu trì ở ta bà này, thì chúng ta chỉ cần vài ba năm hay năm
bảy năm đã có thể ở trung phẩm hay thượng phẩm rồi, còn nếu ráng tu hết kiếp có
thể thành Phật đạo . Do đó chúng ta cần biết quý cái thân người, thân
người khó đặng nay đã đặng thì phải ra khổ công mà tu hành, thì sẽ có nhiều
triển vọng thành Phật hơn ở bất kỳ cảnh giới nào. Chúng ta phải ráng tu
hành như gương Ngài Ấn Quang Pháp Sư hay Hoằng Nhất Pháp Sư chẳng hạn, các Ngài
đang ở Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Nhưng mà, nói qua cũng cần nói lại, chúng sanh ở thế giới ta bà
ngày lại có rất nhiều loại khổ tâm khó mà tránh nổi, khổ tâm về cuộc sống, về
sự già nua, bệnh, chết chóc, về oán ghét mà cứ gặp, về yêu thích mà cứ xa, về
ngũ ấm dấy loạn, về ướt mơ mà không đạt thành; còn ở Thế Giới Cực Lạc dẫu ở bậc
thấp thấp nhất là hạ phẩm hạ sanh thì cũng có an lạc mà không có khổ tâm.
Những người ở hạ phẩm hạ sanh tuy cần 12 kiếp để đạt thành chánh
quả, nhưng tuần tự từng bước, có chỉ bảo rõ rệt để họ không bị thoái chuyển mà
rớt xuống tam ác đạo (là địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ), suốt quá trình tu tập
vững như bàn thạch trong cảnh cực lạc mà trôi qua .
Hoa sen ở hạ sanh hạ phẩm, không giống hoa sen ở thế gian chúng
ta, nó lớn cỡ 3 dặm đến 4 dặm, nó cao 3 đến 4 tầng lầu. Hoa sen nào cũng
phát hào quang, nếu mà chúng sanh trong hoa sen ấy khởi vọng tưởng thì ánh sắc
của hoa sẽ u trầm ảm đạm, nếu nội tâm thanh tịnh thì hoa sen sẽ rừng rực chiếu
sáng.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Chúng sanh từ nhiều đời nay, tạo vô lượng những nghiệp
không giống nhau, cho nên sau khi đới nghiệp vãng sanh, c’ach phản ánh vọng
nghiệp cũng khác nhau. Người trong hạ phẩm hạ sanh nghiệp chướng tương
đối nhiều vì có sự khác biệt về nặng nhẹ, ít nhiều của nghiệp mang theo nên
trong các hoa sen ở hạ phẩm cũng chia làm thượng trung hạ ba bậc, phần nhiều là
những loại hình ân tình luyến ái khó quên như cha mẹ, anh em, chị em bạn bè v.v…
và cả mơ ước về vật mỗi thứ đều phản ảnh ra cũng như ở thế gian chiêm bao vậy
. Giờ đây tôi đưa ông đi xem tình hình thực tế của một phản ảnh vọng
nghiệp ở nơi đây nha!
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi qua mấy ngã quẹo, đến 1 đóa sen tương đối
ảm đạm tối. Lúc đến gần thì tôi thấy một tòa lâu đài, phòng ốc đẹp lớn
hơn cung vua, vườn hoa vô cùng tráng lệ, trong nhà bày biện những vật cổ quý
giá, tất cả đều bố trí trang nhã không khác gì nhà của một tể tướng sang quý
nhất vậy. Trong ấy trai gái già trẻ mười người, quần áo giống ở thế gian
ta, có người ra ra vô vô ra rất là nhộn nhịp như đang sửa soạn đãi đằng gì đó.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Thưa Bồ Tát tại sao trong thế giới Cực Lạc lại có cả cách
sống như ở trần gian vậy?
Ngài trả lời:
- Cảnh này là của một người lúc lâm chung tâm của bà ta rất
là thanh tịnh, nhưng khi đến đây những tánh thói của nghiệp vọng nhiều đời
nhiều kiếp dầy đặc, chưa dứt hết hồng trần, nên mỗi khi về nghĩ ở hoa sen hay
đánh giấc mơ về dĩ vãng, thương nhớ cha mẹ, vợ con, người yêu, bà con, anh em
quyến thuộc v.v… mà hễ vọng niệm khởi thì hiển hiện ra ngay. Ở đây chỉ có
an lạc mà không có khổ đẫu là khổ “cầu bất đắc”. Cho nên khi vọng niệm
nhớ đến cha mẹ, cha mẹ hiện đến, nhớ nhà lầu cung son thì nhà lầu cung son hiện
ra, muốn ăn món sơn hào hải vị gì thì tất cả đều hiện đến ngay. Nhưng khi
tỉnh lại, tất chẳng có món nào cả, đấy là phản ảnh giống như người ở thế gian
chiêm bao mà thôi. Những thứ đó đều là một thứ sắc giả hiện và ngay khi
ấy những người đang sống ở thế gian cũng không hề hay biết gì.
Những lời Bồ Tát dạy khiến ta thức tỉnh, kỳ thực cuộc sống ở thế
gian này há chẳng giống như một giấc mơ lớn hay sao? Đua chen đã đời khi
xuôi tay tạ thế thì chẳng có cái gì đem theo được cho dù có dành dụm được vô
vàn của báu nhưng đến lúc lâm chung cũng đành ra đi với hai bàn tay trắng.
Bồ Tát Quan Âm còn cho biết:
- Đúng ra người đời nghiệp vãnh sanh đến đây thì vọng tưởng
còn nhiều hơn người thế gian, bởi vì ở thế gian là dạng vật chất cách ngăn rất
nhiều, khi vọng tưởng này được dựng lên thì che lấp vọng tưởng trước, nên cái
này sinh làm cái trước diệt, sinh diệt liên tục làm luôn luôn không bỏ.
Không thỏa các ước mơ to lớn, nên hay có cái than vãng cầu bất đắc khổ, nhưng ở
Chực Lạc Thế Giới thì khác, chỉ cần tưởng cái gì thì cái đó trình diễn ra ngay,
cho hưởng dụng tối đa, vì nơi này có tính chất thuộc hư không và trải đầy pháp
giới. Ở cõi trời thì lại là thần chất, tuy vật chất do thân lực ngũ
thông hiển hiện nhưng cũng có lúc cầu mà không được. Còn ở thế gian
thuộc vật chất là ngàn trùng xa cách, nếu có cầu mong gì thì khó mà hiện thực
được.
Tôi lại hỏi Bồ Tát:
- Vọng cảnh (tức mộng) với thực cảnh thanh tịnh của Như Lai
khác nhau ở chỗ nào?
Ngài dạy rằng:
- Thực cảnh là còn mãi không mất, vĩnh viễn phóng ra muôn
đạo ánh sáng, còn vọng cảnh thuộc về vô thường không thể phóng ra bất kỳ ánh
sáng nào cả, mà cũng không có gì bền chắc, đến khi thức tỉnh rồi thì không thấy
có gì tồn tại. Chúng sanh trong thế giới ta bà không biết hối tiếc tinh
lực của cuộc đời phung phí trong việc tranh danh đoạt lợi tạm bợ, đấu đá cho
đến chín sống mười chết, rốt cuộc lại buông hơi tắt thở chẳng vác được theo cái
gì mà mình mất công trăm cay ngàn đắng để dành lấy, thần thức lại bị đoạ lạc
vào luân hồi lục đạo, trôi theo sinh tử, nương nghiệp báo mà nếm đủ chua cay
đắng chát, bởi vậy muốn thoát khỏi biển khổ, cần sớm thức tỉnh dừng chân ác
nghiệp.
Bồ Tát bảo căn nhà này là của một người Phổ Điển tỉnh Phước
Kiến, đồng hương với tôi được đới nghiệp vãng sanh, Bồ Tát bảo tôi vào nhà xem
thử. Tôi gõ cửa vào nhà, ở trong nhà đang bày tiệc, có chừng 6-7 chục
người đang say mê chè chén, trên bàn đầy dẫy những món trân châu quý giá.
Tôi thấy có một ông già ra đón tôi chừng 70 chục tuổi, đáng hào phóng, có thể
là chủ nhà.
Ông ta hỏi:
- Mời ông vào tiệc. Ông ở đâu đến đây?
Tôi trả lời:
- Tôi là người đồng hương với ông. Tôi đến từ phổ
điền, tỉnh Phước Kiến.
Ông ta nghe nói đến đồng hương là hớn hở ra mặt:
- Ồ! Thế thì hay quá, quý quá, mời vô.
Tôi hỏi:
- Ông đang ăn mừng việc gì vậy?
Ông cười cười hỏi lại:
- Ông làm sao mà đến được đây vậy?Tôi đưa tay chỉ ra ngoài
cửa và nói:
- Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến đây tham quan các chỗ rồi về.
Tôi vừa nói xong câu ấy, tất cả các cảnh vật ở đây đột ngột biến
mất, ông già ấy vừa nghe thánh hiệu Quan Âm liền rùng mình một cái lộ vẻ bẽn
lẽn sám hối. Trước mắt tôi khi nãy là một cảnh ồn ào chè chén của 6-7
chục người trong một căn nhà bày biện lộng lẫy đã tan biến đi đâu mất hết mà
bây giờ tôi chỉ thấy một đóa hoa sen, trên ấy có cô bé 13-14 tuổi trong hào
quang niệm Phật, thật là đẹp vô cùng.
Sau đó ông ta kể:
- Tôi người thôn Da Đầu, Hàm Giang, thuộc Phổ Điền của tỉnh
Phước Kiến, tên là Lâm Đạo Nhất. Nhà giàu có thuộc gia đình danh vọng
trong thôn, ngày lâm chung được thiện trí thức chỉ dẫn, 10 niệm vãng
sanh. Cái mà tôi xấu hổ nhất là nghiệp chướng vọng tưởng quá nhiều không
thể trừ hết, ân tình khó dứt, nên ưa nghĩ bâỵ bạ, hiện ra đủ thứ vọng
cảnh. Bồ Tát Quan Âm từng gọi tôi lên hai lần dạy dỗ, bảo tôi sửa sai,
thế mà tật cũ tôi cứ vướng phải, sửa chữa không được. Tôi có đứa cháu tên
là A Vượng đang ở Tân Gia Ba, ông nói dùm con tôi là tôi vãng sanh Tịnh Độ Tây
Phương rồi.
Bồ Tát Quan Âm thường khuyên nhủ những người đới nghiệp vãng
sanh này, nên thường đến tắm trong nước Bát Công Đức thủy để rửa đi vọng tưởng
trong lòng, cho mình trở về được thanh tịnh như lúc ban đầu, hiện ra bản lai
diện mục của mình.
Tôi lại được dẫn đến một thung lũng hẹp giữa hai bờ vách cao,
tôi được mục kích một hiện tượng lạ, một cô bé chừng 20 tuổi ngồi khóc rống thê
thảm. Tôi ngơ ngác nghĩ: “Thế giới Cực Lạc không hề có sự khổ
tâm mà sao lại có cô gái khóc lóc thảm thương vậy nhỉ.”
Bồ Tát như hiểu ý tôi, bảo tôi tới đó xem sao.
Tôi bèn đến bên cô gái, chắp tay hỏi nguyên cớ đâu lại khóc sướt
mướt vậy? Cô bé ngước nhìn thấy tôi, không những không khóc nữa mà cười
xòa nói với tôi:
- Dạ thưa không có chi, chỉ vì tâm linh vọng nhớ bậy bạ
thôi.
Nói rồi cô chuyển mình thành bé gái 13-14 tuổi thân hình trong
vắt ngồi ngay ngắn chắp tay lên đóa hoa sen tỏa chiếu ánh hào quang, còn cảnh
thung lũng với vách núi cao khi nảy biến mất. Cô bé mỉm cười nói với tôi:
- Cháu người Thuận Xương tỉnh Phước Kiến, năm 1960 cháu 21
tuổi, gia đình ép gả chồng, cháu cương quyết xuất gia học Phật. Gia đình
không cho bức bách quá cháu nhảy xuống vực như nãy ông thấy đó để tự sát, việc
này vốn trong thập ác tử, không được siêu sanh, nhưng Bồ Tát Quan Âm vì thương
cảm cháu một lòng một dạ vững quy y đầu Phật cho nên tiếp dẫn cháu đến chốn
nầy, vì cháu mới đến không lâu nên vọng nghiệp chưa dứt trừ, do đó thỉnh thoảng
không kềm chế được nổi kinh hoàng khi té chết cho nên dễ bị phản ảnh ra ngoài,
hiện tượng này giống như thế gian gặp ác mộng, thường hiện ra cảnh giới hãi
hùng, dù được Bồ Tát Quan Âm thuyết pháp dạy bảo nhưng vẫn chưa gội sạch được.
Tôi nhắc khéo cô bé:
- Cô coi, đứng bên tôi không phải là Bồ Tát Quan Âm sao?
Cô nhìn lại vội vã quỳ xuống đãnh lễ Bồ Tát. Bồ Tát chỉ
dạy cô ta, và dặn cô bé hãy xuống ao tắm nước Bát Công Đức sẽ lần hồi tiêu trừ
nghiệp chướng này.
Trong ao sen này tôi lại thấy một số sen cũng tỏa sáng, một số
sên lại úa héo ảm đạm và lụn tàn, tôi thấy lạ bèn hỏi Bồ Tát, Ngài trả lời:
- Một đóa sen tàn héo, là bởi có người thoạt đầu tin Phật,
niệm Phật tinh tấn lắm, nên đã gieo vào ao sen mầm nẩn hoa cũng đẹp sáng hào
quang, nhưng siêng năng ít lâu đã uể oải, giải đãi tâm ban đầu, không những
không niệm Phật mà còn gây tạo nghiệp thập ác, do đó thiện căn tuy nó thành hoa
sen nhưng cũng úa héo gãy tàn đi. Ông xem đây, hoa sen kia là của một ông
người Giang Tây, lúc đầu quy y niệm Phật, sau đó được ra làm quan, chẳng niệm
Phật nữa mà còn mở sòng chứa làm chuyện thập ác bị chính phủ phán xử tử hình,
cho nên hoa sen bị héo gẫy luôn. Còn một đóa này nữa, người này quy
y niệm Phật được 3 năm, hoa nọ coi khá khá rồi gặp dịp làm ăn lớn, cật lực hốt
của phi nghĩa, cuối cùng bị phá sản, hết đường tính kế, tự sát chết, phạm thập
ác là không được vãng sanh, mới khiến hoa sen của ông ấy tàn lụn vậy đó.
Tôi lại hỏi Bồ Tát:
Thưa Bồ Tát, thường thường Lương Pháp Sư tại tiền có nói với con
là niệm 1 câu Phật diệt hằng sa tội, người ấy niệm Phật những 3 năm mà sao
chẳng có công quả gì vậy?
Ngài bảo:
- Câu ấy là chỉ cho kẻ nương đời tạo ác, sau khi nghe thiện
trí thức khuyên mới hồi tâm hướng thiện, sám hối lỗi xưa, thề không phạm nữa,
thật lòng bỏ ác làm lành, niệm Phật 1 câu các tội tiêu sạch, nếu còn tiếp tục
không ngừng niệm Phật khi chết vãng sanh lạc quốc, dẫu đới nghiệp vãng sanh
cũng quyết không thoái chuyển, sau rốt thành Phật.
Bồ Tát ngưng một hồi nói tiếp.
- Nhưng cũng có người trên môi niệm Phật lòng như rết rắn,
âm thầm hại người, tác ác gian phi, ấy vẫn hành vi thập ác không vãng sanh
được, chỉ có gieo được một chút ít căn lành thế nhưng nếu người ấy một mai thức
tỉnh, sửa sai làm lành, niệm sám hối hoa sen ấy lại vươn lên sáng đẹp như
thường.
Đang nói, tôi đột nhiên gặp ni cô chừng 30 ngoài tuổi tiến về
tôi reo mừng. Tôi nhìn kỹ thì ra Ni Sư Pháp Bổn trụ trì Am ở trên núi Vân
Cư tỉnh Giang Tây.
- A, Khoan Tịnh Sư Huynh đã đến rồi, hoan nghênh, hoan
nghênh…
Tôi hỏi cô:
- Cô vãng sanh lúc nào? Sao tôi không biết?
Cô ấy bảo:
- Năm 1971 tại vì không chịu hoàn tục, bị ép quá nhảy sông
tự sát, lẽ ra phạm nghiệp (thập ác) là không vãng sanh, nhưng đức Phật mở lượng
từ bi thương cho thân nữ chưa nhiễm hồng trần, nhất tâm niệm Phật, nên tiếp dẫn
cho vãng sanh đến đây, cũng chưa được bao lâu.
Tôi lại hỏi:
- Vãng sanh hạ phẩm tất cả cùng một dáng dấp 13-14 tuổi,
sao cô lại vẫn có tướng ni cô ngoài 30 tuổi vậy?
Cô trả lời:
- Nghe Sư Huynh đến, muốn dễ dàng cho Sư Huynh nhận mặt mới
dám phản ảnh theo vọng nghiệp chút đỉnh, Sư Huynh về rồi nhắn dùm Sư Huynh Khoan
Trung hãy yên tâm mà tinh tấn tu hành, muội đã vãnh sanh tịnh độ rồi.
3. VIẾNG THÁP TỊNH QUÁN VÀ NGÔN NGỮ ĐÀ-LA-NI
Đột nhiên chuông reo, Bồ Tát Quan Âm nói, đến giờ thuyết pháp
rồi, tôi thấy tất cả bé gái lúc nãy chuyển mình thành bé trai cả, cũng 13-14
tuổi thôi, nhưng dáng trai trẻ, mặc áo đỏ đai vàng óng, tóc để hai kết phía sau
đầu, thân tay chân đều trong trắng và thấu suốt. Cả hàng ngàn hàng vạn
trẻ nhẩy ra khỏi đài sen, cùng nhau xá lễ, nhạc trời ở đâu trổi dậy du dương,
chim chóc các loại hóa lên niệm Phật, tiếp đó xuất hiện một vị Bồ Tát toàn thân
phóng ra ngàn muôn tia sáng đủ màu, toàn cảnh ấy đẹp đẽ vô cùng. Bồ Tát
Quan Âm nói:
- Vị này là Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát, hôm nay đến phiên Bồ
Tát ấy trực tiếp thuyết pháp.
Trước hết Ngài hướng dẫn chúng sanh ở đây đi đãnh lễ mười phương
chư Phật Thánh. Lúc ấy rợp cả bầu trời trải xuống từng chùm, từng chùm
các loại hoa đủ màu tươi thắm, các bé trai ấy hàng ngũ rất chỉnh tề đưng dậy
dùng vạt áo của mình hứng đầy những hoa tuyệt diệu ấy, đi cúng dường 10 phương
chư Phật. Thoáng chốc như những tia sáng xẹt tủa ra rồi xẹt trở lại ngay
ngắn hàng lối để vào nghe giảng, vô cùng nhanh nhẹn và đẹp mắt.
Ở trong Hạ Phẩm Hạ Sanh, có một nơi gọi là phòng thuyết pháp
“Ngôn ngữ Đà-La-Ni”, Nhôn Ngữ Đà-La-Ni có nghĩa là Bồ Tát thuyết pháp câu gì
chẳng biết, nhưng đến tai của người nào, đều đã chuyển ngữ thành tiếng bản xứ
của người đó, bất cứ người Quảng Đông, Phước Kiến, Bắc Kinh, Giang Tây, Hải
Nam, Triều Châu, Nhật Bản, Triều Tiên, Pháp, Mỹ, Việt Nam, Liên Xô, Phi Châu
v.v… cứ như là Bồ Tát đang thuyết pháp bằng tiếng nước mình vậy chẳng cần thông
dịch viên cũng trực tiếp nghe được, đó là cái ảo diệu, nhiệm mầu của Ngôn Ngữ
Đà-La-Ni .
Ở Hạ Phẩm Hạ Sanh, lại có một tòa tháp rất cao, gọi là Định Quán
Tháp, chúng sanh ở nơi này, nếu muốn lên đến tầng cao nhất của tháp hoặc từ đó
xuống dưới chỉ cần khởi tâm niệm là lên xuống tự nhiên, chẳng cần thang máy như
vẫn thấy ở thế gian này. Thân thể của họ như đã nói đều trong suốt, không
gì trở ngại, không những lên xuống mà ngay cả đi lại hay vượt vách tường v.v…
cũng cứ bước là qua, không hề vướng mắc thâm. chí cả ngàn cả vạn người tụ vào
một gian phòng, cũng không hề đụng độ va chạm, đến vướng chân nhau, bởi lẽ thân
thể họ vốn không máu xương vật chất mà là một thể thấu suốt vô ngại .
Tịnh Quán Tháp vô cùng to lớn, ở trong ấy, cái gì cũng có thể
thấy được, có thể ảnh hiện ra cả những cảnh giới của mười phương thế giới, nó
như ngay tại chỗ ấy.
Chẳng hạn muốn thấy trái đất của cõi ta bà dây, đưa mắt dõi theo
chỉ chừng một hạt cát, nhìn mặt trời cũng vậy chỉ lớn hơn tí ít, nhưng nếu muốn
nhìn rõ tình cảnh của một vùng nào đó như Châu Á chẳng hạn, thì cảnh ấy sẽ hiện
lớn ra, muốn thấy vạn lý trường thành của Trung Quốc chẳng hạn hay thậm chí
muốn nhìn kũ trong nhà nào ở đâu, sinh hoạt hiện giờ ra sao, đều hiện rõ vanh
vách ra trước mắt, hay nói cách khác, chỉ cần nghĩ tới đâu, trong Tịnh Quán
Tháp sẽ hiện rõ nơi ấy, việc ấy, cứ như là đài thiên văn vũ trụ tinh vi nhất
vậy.
Vãng sanh đến Hạ Phẩm Trung Sanh là những người ở ta bà hàng
ngày làm việc thiện, tích lũy phước đức, hoặc niệm Phật hồi hướng vãng sanh
Tịnh Độ với sự gia bị của PHật A Di Đà, liền được cảnh giới này.
Vãng sanh đến hạ phẩm Thượng Sanh là những người ta bà tiến bộ
hơn một bậc nữa, hằng giữ gìn ngũ giới, bát quan trai giới, tích cực hành
thiện, bố thí, tu trì tương đối nghiêm cấm, mới vãnh sanh đến nơi này.
Tham quan sơ qua những nơi này, Bồ Tát đẫn tôi lên cao hơn một
từng nữa, đến trung phẩm để viếng thăm.
1. NƠI PHÀM THÁNH ĐỒNG CƯ
Ra khỏi ao sen hạ phẩm, tôi lại trì chú, thân như ngồi máy bay
lướt gió mà bay lên, đột nhiên tôi có cảm giác thân mình đang từ từ lớn và cao
lên. Hoa sen ở Trung Phẩm quả là to lớn, một đóa sen lớn cở 8, 9 trăm
dặm, bằng như 1 tỉnh ở Trung Quốc, bán kính hoa sen có thể lớn bằng từ Tân Gia
Ba đến nửa nước Thái Lan, toàn hoa sen có thể lớn vậy nên người ngồi trên đó
phải lớn tương đương, ta đã biết cao tớ bậc nào chẳng cần phải nói, chư vị cũng
biết là phòng xá cung điện ở đây phải lớn đến cỡ nào để tương ứng với hàng vạn
chúng sanh vào trong nghe giảng pháp.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Ở Trung Phẩm đa số là Phàm Thánh Đồng Cư tứ chúng đều có
(tứ chúng là tăng ni, thiện nam, tín nữ) người vãng sanh đến đây, những người
đến đây hơn người Hạ Phẩm một bậc, lúc sanh tiền họ đều có ý niệm ra khỏi Tam
Giới. Ở thế giới ta bà chịu khổ tu luyện ngoài việc tự tu, còn tích cực
trong công việc Phật sự, hoặc đóng góp xây dựng chùa tháp, hoặc in ấn kinh
sách, hoặc là trùng tuyên Phật pháp, dùng phương tiện khéo để khuyên hóa người
khác tin Phật, tin pháp tin tăng, giảng giải chỗ nghi ngờ khó hiểu trong
kinh Phật để người người tinh tấn tu hành, còn cố gắng bố thí, pháp thí, vô úy
thí, nghiêm trì giới luật, biết phát lòng từ bi, hỉ xả, lâm chung nương Tây
Phương tam thành tiếp dẫn, vãng sanh đến ao sen Trung Phẩm, nhưng mà cách tu
trì như cách tu trì như trên vẫn có bậc sâu cạn, nên ở đây cũng chia làm ba bậc
Thượng Sanh, Trung Sanh, Hạ Sanh.
Câu chuyện vừa dứt chúng tôi đã đứng trước một đại điện, tôi
đảnh lễ chư vị Bồ Tát nơi đây, Bồ Tát Quan Âm liền dẫn tôi đi tham quan các nơi.
Ôi! Ao sen Trung Phẩm mới đẹp làm sao, so với Hạ Phẩm, sao
sen Trung Phẩm không biết vượt trội hơn chục lần, bốn bên đều được xây bằng bảy
báu, hoa sen trong ao phóng ra những tia sắc sáng lung linh cùng nhau ánh lên
màu sáng chói lọi hấp dẫn vô cùng. Lạ hơn nữa là hoa này rất nhiều thần
cánh sen, bên trong mỗi tầng đều hiện đình đài lầu các, bảo tháp, phóng mười
mấy thứ ánh sắc, cảnh trí đẹp không sao tả xiết, người ngồi trên toà sen toàn
thân hiện sắc óng ánh vàng hồng trong suốt, cũng phóng muôn đạo hào
quang. Tất cả những người ở đây y phục cùng loạt giống như nhau,
tuổi thì cở trên dưới hai mươi không thấy một đứa trẻ nào hay là một người già
nào, bất giác tôi nhìn lại mình thì cũng giống như họ, riêng chỉ có Bồ Tát Quan
Âm là giữ nguyên dáng Bồ Tát thôi.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Tại sao cái gì ở đây cũng có hào quang, màu sắc gì thì phát ra
màu ấy, còn thân con người ở đây đều phát ra hào quang giống như nhau vậy?
Ngài trả lời:
- Ở đây tất cả mọi cái đều dưới sự tác động của Phật lực
Đức Phật A Di Đà. Đức Phật A Di Đà phóng ra vô lượng quang minh phản ánh
đến đây khiến tất cả đều phát lồ phóng quang chuyển biến, trong thân ông cũng
như vậy. Trong mỗi cảnh giới của ao sen cách trang sức và dáng dấp đều
giống nhau và cũng một màu, trừ phi chính mình có năng lực thần thông biến hóa
ra các dạng khác, bằng không toàn thể đều thống nhất như nhau.
Bồ Tát còn cho biết tuy là Trung Phẩm, ở đây cũng có những đóa
sen, những lầu các u trầm, ảm đạm, không phát ra hào quang, nhưng đây không
phải là cảnh thực của Cực Lạc mà là cảnh giới vô thường mộng ảo của vọng tưởng
dĩ vãng từng cúng sanh.
Bồ Tát chỉ cho tôi xem cái tòa lầu các ảm đạm gần đấy, bốn phía
của lầu các là vườn hoa rất rộng, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, chim chóc trên
cành nhảy nhót hót vang cảnh trí như nhà trưởng giả hào phú. Gia đình này
lớn bé già trẻ chừng hai mươi người, tòa đại sảnh có trang thiết thờ tam bảo,
cha mẹ con anh chị em thân quyến tựu lại niệm Phật tụng kinh vô cùng thuần
thành và tinh tấn. Lúc ấy Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Cái gia đình này hay bố thí, làm lành từ bi hỷ xả, một số
đã vãng sanh Trung Phẩm liên hoa, nhưng vẫn cứ vọng nhớ tình cảm xa xưa cho nên
thành vọng cảnh luôn như vậy . Bồ Tát còn nói:
- Trong 9 phẩm hoa sen, mỗi phẩm đều từ dưới lên trên, khi
tu được rồi thì hoa sen sẽ được dời lên ao phẩm trên. Cũng giống như tham
thiền vậy, sơ thiền tu rồi lên nhị thiền, nhị thiền rồi lên tam thiền, rồi mới
tới tứ thiền, lý ấy là như vậy.
Đột nhiên tiếng chuông reo vang, lầu các nầy thoáng cái đã biến
mất, tất cả trở lại thân thanh niên khoảng 20 tuổi, hiện sắc óng vàng hồng
trong suốt, bề ngoài trang sức đều đồng loạt giống nhau, và số người càng ngày
càng đông, không thể kể hết, hình thành một hội trường to lớn.
Bồ Tát Quan Âm nói:
- Hôm nay ở đây do Bồ Tát Đại Thế Chí và Thường Tinh Tấn Bồ
Tát giảnh về kinh Pháp Hoa, ông đi nghe chứ!
Tôi trả lời:
- A Di Đà Phật, con rất thích kinh Diệu Pháp Liên hoa thưa
Bồ Tát.
Nói rồi tôi cùng Bồ Tát Quan Âm bước lên hội trường của Đài
giảng, bốn bên đài giảng đều là hàng rào như gắn những hạt châu phóng ra trăm
ngàn tia sáng chiếu rọi lung linh, hai bên có bảy hàng cây báu cao thấy mây
xanh, trên cây cũng có đình đài lầu cát và đông đảo các Bồ Tát tập trung trên
ấy để nghe giảng kinh, giảng đài này được xây bằng thất bảo lưu ly cao không
biết bao nhiêu trượng, vô cùng trang nghiêm.
Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi lên đài, tôi đảnh lễ hai vị Bồ Tát giảng
sư rồi hai vị chủ tôi ngồi kế bên. Đại Thế Chí Bồ Tát lên bục giảng, lúc
ấy không biết từ đâu khói hương xông lên, thơm ngát lan tỏa. Đâu đây du
dương tiếng nhã nhạc lưng trời, những con chim muôn màu muôn vẻ nhiều vô số
đang bay lượn và hót lên thánh hiệu niệm Phật. Khi tất cả lễ bái xong, Bồ
Tát Đại Thế Chí đứng dậy tuyên bố nội dung buổi giảng:
- Diệu Pháp Liên Hoa kinh là căn nguyên của chư Phật Thế
Giới Hoa Tạng, là căn bản để thành Phật, hễ muốn thành Phật đạo, cần phải tu
kinh học kinh điển này . Lần giảng trước là giảng tiết thứ nhứt, thế nào
là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là vô lượng bảo, hôm nay sẽ
nói đến tiết thứ hai về tác dụng của Diệu Pháp Liên Hoa kinh…
Ðại khái nói khoảng một tiếng đồng hồ.
Tôi nghe xong trong lòng có cái thắc mắc, kinh Diệu Pháp Liên
Hoa ở thế gian lưu truyền về văn tự, và câu kinh không đồng nhau, tôi bèn hỏi
Bồ Tát Quan Âm. Ngài cho biết:
- Kinh văn của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa ở thế gian tương đối
cạn dễ hiểu, ở đây lời lẽ huyền bí hơn, diệu mầu hơn, tuy dù có huyền bí hay
diệu mầu hơn nhưng ý nghĩa chính cũng cùng một thứ thôi, có thể nói như thế
này, người trời không hiểu cảnh giới Bồ Tát, La Hán không hiểu cảnh giới Bồ
Tát, Bồ Tát không hiểu cảnh giới của Phật, ông nghe Bồ Tát giảng kinh chỉ phát
ngôn bằng một tiếng nói, trăm ngàn tiếng nói cả nước đều được chuyển đến người
nghe bằng độc nhất âm điệu của nước mình, đó là ngôn ngữ Đà La Ni tam muội.
Bồ Tát Thường Tinh Tấn giảng xong đất trời hiện ra cảnh tượng,
không phải nói là một bức tranh, một bức tranh vô cùng đẹp mắt không thể nói
hay nghĩ bàn được, rồi từ lưng trời rải xuống là là những đóa hoa tươi thắm đủ
màu sắc, và từ hoa chiếu ra muôn đạo hào quang tỏa ra khắp nơi lung linh tuyệt
vời. Trong đài giảng tất cả thanh niên đồng thời đứng dậy lấy vạt áo đựng
đầy hoa, lúc ấy nhạc trời đồng trổi lên du dương, diệu vợi, âm thanh không biết
từ đâu vọng ra vô cùng hùng tráng, đột nhiên cả ngàn, cả vạn thanh niên áo đỏ
ấy đồng loạt lay mình biến thành thanh nữ mặc váy hồng đào, áo màu cốm, lưng
đeo đai vàng óng lần lượt vươn lên múa hát vui thật là vui. Không bao lâu
tất cả lại biến thành những đóa hoa sen hiện ra từng sắc màu khác nhau, ánh
sáng củ hoa sen tủa ra thật là đẹp, sen trắng ánh sáng trắng, sen vàng ánh sáng
vàng, mỗi hoa phát ra tia sáng của bản chất cánh sen ấy. Bây giờ không
còn thấy bóng người nào nữa, thế rồi trên hoa sen lại hiện hình Bồ Tát ngồi
ngay ngắn, rồi tiếp đến lại biến hoa sen thành tháp vàng tháp bạc rọi muôn ngàn
hào quang, cảnh sắc nơi đây biến hiện vô cùng tráng lệ và hấp dẫn.
Tôi đang ngắm nhìn một cách xuất thần, tự nhiên trên hư không cả
ngàn cả vạn thanh nữ mặc áo màu cốm đi vào, họ đi xuyên tường xuyên vách, tà áo
họ lất phất bay từ trên cao cùng nhau bước xuống. Tôi lấy làm lạ bèn hỏi
Bồ Tát Quan Âm về việc đi xuyên qua vách. Bồ Tát Quan Âm cho biết:
- Thế giới Cực Lạc do nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà
hình thành, thánh chất ấy không phải là vật chất, cho nên bất kỳ đình đài, lầu
các điện hay bảo tháp núi sông hoa cỏ, cây cối đều trong suốt trong vật chất do
đó không có chướng ngại, có thể đi xuyên qua một cách tự nhiên, ông không tin
cứ thử một lần xem.
Tôi y lời chạy qua vách đại điện để thử, rồi đến cột lớn, lan
can v.v… thân tôi đều đi xuyên qua được. Khi tôi tiếp giáp với vật đó
thấy vật đó nhưng nó không cản trở hay vướng vấp thân thể tôi, cũng như ở thế
gian chúng ta biết khối nước do mặt thoáng hồ nước nhưng đưa tay vào nước rất
tự nhiên không bị cản lạị Tiếp đó, Bồ Tát Quan Âm dẫn tôi đến hai chỗ kỳ
quan nữa là Bát Đại Cảnh Sơn và Hoa Tạng Thế Giới để tham quang.
2. BÁT ĐẠI CẢNH SƠN
Vãnh sanh đến trung phẩm hạ sanh một số đã rất ít vọng tưởng
vọng niệm, hoặc giả không còn vọng niệm, dáng dấp bên ngoài của họ đều biến
thành cỡ tuổi mười sáu đến hai mươi, y phục không phân biệt nam nữ, hành động
của họ cũng là tập thể, mỗi ngày cúng dường thập phương chư Phật. Hoa sen
chỗ này rất nhiều tầng cánh, những cánh sen màu s¡c đều tuôn ra muôn thứ hào
quang thật tuyệt đẹp, so với hạ sanh thì khác xa nhau lắm.
Bát Đại Cảnh Sơn là tám núi cảnh lớn, tám núi này tượng trưng
cho tám thức của con người: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức,
thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại đa thức, hợp xưng bát thức tâm
điền. Phật A Di Đà thiết lập cảnh này là mong những người trước khi bước
vào đất Tịnh Độ này cần khiến cho tám thức của mình tu thành chữ “KHÔNG”.
Núi thứ nhất là Quang Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho nhãn thức,
trong núi ấy hình ảnh của thế giới mười phương, tất cả và tất cả đều có thể
nhìn tường tận được. Thí dụ như cần xem một chúng sanh nào ở thế giới ta
bà đang sống thế nào, đời quá khứ thế nào, kiếp tới nữa thế nào, chẳng hạn như
kiếp trước là heo, là nô tì … kiếp trước nữa là gia đình trưởng giả, dế vương,
tướng quốc v.v… thậm chí tình hình đất Phật khác đều có thể thấy rõ mồn một.
Núi thứ hai gọi là Thanh Vân Sơn tượng trưng cho nhỉ thức.
Vừa đến núi này là lỗ tai ta có thể nghe được tất cả âm thanh của mười phương
thế giới, không phải nghe cùng một lúc đâu, ta nghĩ muốn nghe ở đâu hay nghe
tiếng gì thì âm thanh vang vọng nhận biết rõ ra, còn biết Đức Phật nào đang
giảng kinh điển nào.
Núi thứ ba gọi là Vị Phương Cảnh Sơn tượng trưng cho chỉ tỉ
thức. Trên núi này ta có thể ngửi được mùi vị của bất cứ địa phương nào,
còn có thể biết cả nội dung của cả mùi ấy nữa, chẳng hạn như mùi hóa chất ấy
gồm những hợp chất gì, vàng, đồng, bạc thau sắt v.v…
Núi thứ tư gọi là Âm Thanh Cảnh Sơn tượng trưng cho thiệt thức,
nhận biết tiếng từ miệng lưỡi người nào nói ra và ý nghĩa tiếng ấy ra sao, từ
cảnh giới Phật Bồ Tát Thinh Văn Duyên Giác, Trời, Người, A Tu La … thậm chí
tiếng ngạ quỹ, súc sanh, địa ngục đều nghe hiểu.
Núi thứ năm gọi là Kim Thân Cảnh Sơn tượng trưng cho thần
thức. Trong núi này có thể bằng xúc giác nhận hiện ra tất cả sự vật, có
thể thấy tất cả rất nhiều kim thân của thế giới ta bà, 32 tướng v.v… đều rất là
rõ.
Núi thứ sáu gọi là Ý Thức Cảnh Sơn tượng trưng cho ý thức.
Núi này có thể gặp vô số chư Phật từng kiếp một tu hành như thế nào, và cả
chính mình hàng trăm kiếp, hàng ngàn kiếp trước là gì, thân thế ra sao, tu hành
ra sao mọi thứ đều hiện ra .
Núi thứ bảy gọi là Tế Minh Cảnh Sơn tượng trưng cho Mạt na
thức. Đây là cảnh giới vô cùng đặc biệt gồm cả sáu khả năng ở sáu núi
đồng loạt thể hiện, có thể nói ở núi này ta muốn thấy hay biết bất kỳ cái gì
cũng hiện ra rõ rệt.
Núi thứ tám gọi là Vô Biên Cảnh tượng trưng cho thức thứ tám A
Lại Đa Thức. Cảnh giới này ta có thể ý niệm và nghe thấy được đầy ¡p cả
hư không giới tất cả mọi sự việc, quá khứ xa gần, hiện tại và cả vị lai xa gần,
nếu chúng ta muốn biết chỉ khơi niệm là biết ngày không khó khăn tí nào.
3. HOA TẠNG THẾ GIỚI TRIỂN LÃM QUÁN
Phòng triển lãm về Hoa Tạng Thế Giới
Người vãng sanh đến Trung Phẩm Trung Sanh là người trước đây ở
thế giới ta bà đối với các việc nhận thức về Phật pháp và cách tu trì tương đối
sâu hơn, đồng thời về mặt hành thiện và bố thí có thể nói là không chê được, có
thành quả khá lớn. Do đó thành tựu được căn lành lớn.
Trung Phẩm Trung Sanh có rất nhiều phòng ốc và tháp lớn.
Khung trời nơi đây mỗi ngày đều mưa hoa, thường cứ hừng sáng chúng sanh nơi đây
đều ra hứng đầy hoa tươi đẹp và thơm ngát bằng vạt áo mình để đi cúng dường chư
Phật mười phương, đồng thời từ lưng trời vang vọng tiếng nhạc du dương trầm
hùng câu thánh hiệu Phật A Di Đà, khó mà diễn tả hết cái tuyệt vời của cảnh
này. Đúng là như kinh điển nói, muôn ngàn âm nhạc của vua chúa ở thế gian
không bằn gphần trăm ngàn âm nhạc của Chuyển Luận Thánh Vương. Muôn ngàn
âm nhạc của cõi Chuyển Luận Thánh Vương không bằng âm nhạc của Trời Đao Lợi.
Muôn ngày âm nhạc của Trời Đao Lợi không bằng một âm nhạc của hàng cây báu trên
A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ.
Chúng sanh của Trung Phẩm Trung Sanh toàn thân đều phóng ra muôn
đạo hào quang, sắc óng vàng hồng, hiện thân trong suốt không bị chướng ngại, do
đó trong phút chốc họ có thể đi đến nước chư Phật khác cúng dường mười phương
Phật, và cũng trong chốc lát lại trở về chỗ cũ, nếu khi sanh tiền không tạo
nhiều công đức khó mà vào được phẩm này.
Chúng sanh đến được quả vị Trung Phẩm Trung Sanh họ đã rất ít
vọng tưởng, thậm chí rất đông đã dứt tuyệt vọng tưởng, còn về sự ao ước được ăn
uống hầu như ít thấy lắm, chứ không giống ở Trung Phẩm Hạ Sanh họ còn thèm các
loại bánh và mật hoa. Khi tu đến trình độ càng cao thì sự thèm khát bớt
đi rất nhiều.
Trung Phẩm Trung Sanh có một nơi gọi là cái quán triển lãm hay
là phòng triển lãm về Thế Giới Hoa Tạng. Trong phòng triển lãm này có thể
thấy các dạng và các cách tu luyện của chư Phật và Bồ Tát của nhiều đời nhiều
kiếp. Trong phòng triển lãm ấy có rất nhiều tầng, mỗi tầng triển lãm bày
ra quá trình tu trì của một vị Phật hay một vị Bồ Tát nào đó. Thí dụ như muốn
xem Phật A Di Đà trước đây là ai (Pháp Tạng Tỳ Kheo) cha là vị nào (Thế Tự Tại
Vương Như Lai), Ngài tu pháp nào, pháp nguyện gì, kiếp trước nữa là ai, 100
kiếp nữa ra sao…v.v… rồi đến tầng khác chẳng hạn có thể thấy Đức Phật Thích Ca,
Đức Phật Dược Sư, Bồ Tát Quan Âm v.v… từng đời, từng kiếp sống ra sao, ở những
nơi nào, nói câu gì, gặp những ai, quá trình tu hành và cuộc sống trong từng
đời… lần lượt cho thấy không sót một phần nào. Chúng ta có thể tìm thấy ở
đây lịch sử chi tiết của từng vị Phật và Bồ Tát của cả Thế Giới Hoa Tạng.
1.
HOA NỞ GẶP PHẬT
Rời khỏi Trung Phẩm Trung Sanh, Trung Phẩm Thượng Sanh, tôi được
tiếp dẫn đến ao sen Thượng Phẩm. Khi trì chú lướt đi, tôi lần lần cao lớn lên
như dáng dấp lúc đến đảnh lễ Đức Phật A Di Đà.
Bồ Tát Quan Âm bảo tôi:
- Chúng sanh vãng sanh đến Thượng Phẩm là khi ở ta bà tinh tấn
tu hành, giữ gìn giới thanh tịnh, siêng năng nghiên cứu điển tích chư Phật,
dũng mãnh đoạn trừ 10 nghiệp ác, hành 10 việc lành, nương theo pháp môn mình tu
mỗi mỗi đều thực hành thấu đáo, cật lực dấn thân, mười năm như buổi đầu không
hề lui bước đến lúc thịt rả xương tan, bỏ thân này mới thôi, ngoài ra còn tạo
thêm những công đức lớn bên ngoài nữa, hành bố thí lớn, trong phút cuối cùng
liền được đón về Thượng Phẩm. Những chúng sanh này cơ hồ không còn vọng tưởng
nữa, sáu căn đều thanh tịnh cũng có thể nói đều đạt cảnh giới Bồ Tát, có thể tự
do biến hóa, du hí thần thông. Thí dụ như một nhóm chúng sanh Thượng Phẩm tu
một chỗ, nếu họ muốn biến thành những đóa hoa thì họ liền thành đóa hoa, muốn thành
tảng đá liền thành tảng đá, muốn thành bảo tháp liền thành bảo tháp, muốn thành
cây cổ thụ liền thành cổ thụ.
Hoa sen trên Thượng Phẩm này nhỏ nhất cũng cỡ ba tỉnh, nói cách
khác lớn bằng ba lần Mã Lai Á. Tôi được dẫn đến ao sen Thượng Phẩm, ao ở đây đích
thực trội hơn ao ở Hạ Sanh và Trung Phẩm nhiều, chung quanh ao tráng lệ hùng vĩ
hơn. Từng tầng từng tầng lan can vây lại phát ra muôn đạo hào quang, ngoài ra
từ hoa sen tỏa ra muôn ngàn hương thơm. Trong ao có nhiều tháp lớn, hình dáng
như núi cao vậy, tháp có nhiều góc cạnh phóng ra muôn ánh sáng đủ màu sắc uyển
chuyển tuôn ra. Trong ao còn có nhiều cầu màu sắc đen vô cùng. Ao lớn chưa từng
thấy, tầm nhìn không thấy tới bờ bên kia. Trong ao có rất nhiều sen, không có
sen nào úa héo cả, tất cả hoa sen đều phát ra ánh sáng lung linh rực rỡ và tỏa
hương thơm ngát. Nơi đây còn có những bảo cát bằng cả ngàn cả vạn hạt châu lấp
lánh đủ kiểu, hoa thì đếm không hết số. Mỗi tầng lại đầy dẫy những bảo tháp,
đình đài, lầu các, thật là hấp dẫn vô cùng, người ngồi ở trên hoa sen ấy toàn
thân tỏa sáng ánh hào quang vàng óng, y phục rất hoa lệ cũng phát ra tia sáng
màu rất đẹp.
Bất chợt Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ðây có một vị tên là Ấn Quang Pháp Sư, Ngài là một trong ba vị
cao tăng Trung Quốc thời cận đại ông có quen không?
Tôi vội trả lời:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát ông ta ở đâu? Tôi đã nghe qua danh
và rất quý trọng Ngài nhưng chưa được dịp gặp.
Tôi đang nói chuyện thì một thanh niên chừng ba mươi tuổi ngoài
bước ra khỏi hoa sen và hiện nguyên hình tướng Ấn Quang Đại Sư. Chúng tôi gặp
mặt nhau mừng lắm, cùng đảnh lễ rồi Ấn Quang Đại Sư nói thao thao bất tuyệt.
Ông nói nhiều lắm, tôi quên mất một số, chỉ nhớ lại là ông ta nhắn đi nhắn lại
tôi phải truyền đạt tới đồng đạo ở ta bà là phải lấy giới làm chuẩn, nghiêm trì
giới luật, nhất tâm niệm Phật, tin hạnh nguyện, tất vãng sanh Tây Phương không
sai. Ngoài ra ông còn nhắc nhở những người tu hành đừng tự cho là mình thông
minh sửa đổi luật nhà Phật, quy chế chư Tổ, nhất là chớ nên hô hào cải cách duy
tân, tái phải oai nghi giới luật.
Chúng tôi cùng bước xuống đài sen đưa đến lầu các lớn, trên
đường đi các chim chóc đậu trên cành vàng lá ngọc líu lo ca hát, hòa với âm
nhạc trời du dương, thêm vào là âm thanh thướt tha của tiếng niệm Phật khắp
nơi. Hoa nở rộ muôn màu muôn vẻ, hương thơm xông ngát, từng đóa hoa cánh hoa
chiến ánh sáng lung linh, ngoài ra lại còn rất nhiều loại đèn châu báu, đèn mã
não, đèn lưu ly từng hàng từng hàng ngay ngắn, các loại đèn lấp lánh ánh sáng
màu sắc đẹp thôi nói không hết ý. Vào trong lầu các cái gì cũng lấp lánh ánh
sáng màu sắc lung linh khiến tôi ngây người ra ngắm nghía. Ấn Quang Đại Sư đi
với chúng tôi lên lầu, trên lầu có các loại kính bằng thủy tinh, ở giữa có một
cái kính lớn nhất gọi là chiếu thân kính. Bồ Tát Quan Âm giới thiệu:
Kính này có thể soi thấy nguyên hình của từng người, xem bản
tánh đã thanh tịnh hay chưa? Có còn vọng tưởng vọng niệm nữa không? Soi một cái
là thấy ngay.
Trên lầu có ghế ngồi ngăn thành hai hàng lối, các nghế ngồi đều
làm bằng bảy báu sáng lấp lánh. Trên bàn gần đó bày vật gì đó lạ lắm tôi không
nhìn ra là gì.
Bồ Tát Quan Âm hỏi tôi:
- Ông thấy đói rồi hả?
Tôi thấy đúng là có cồn cào đói. Tôi nói:
- A Di Đà Phật. Thưa Bồ Tát, ở đây có gì ăn không ạ.
Ngài bảo:
- Về thức ăn thì cũng như ở Hạ Phẩm vậy, ở đây ông muốn ăn gì sẽ
có dọn ra.
Tôi nói:
- Vậy thì hay quá, tôi chỉ ước được ăn cơm trắng với canh rau
cải trắng thế thôi.
Tôi vừa nói dứt cơm trắng và tô canh còn nóng hổi được bày ra ở
bàn, đũa muỗng cũng đầy đủ. Tôi hỏi:
- A Di Đà Phật. Thưa chư vị không ăn bây giờ sao?
Bồ Tát trả lời:
- Ðây không có ai ăn đâu, ông cứ tự nhiên ăn đi.
Tôi nghĩ mà mắc cỡ quá, nhưng cũng ngồi vào ăn. Tôi ăn no nê rồi
để gọn bát đũa lại, tự nhiên bát đũa muỗng đều biến đi đâu mất.
Tôi thắc mắc hỏi Bồ Tát, Ngài nói rằng:
- Tại ông vọng tưởng bụng đói, và khao khát muốn ăn cũng giống
như ở thế gian chiêm bao vậy. Trong chiêm bao cái gì cũng có khi thức tỉnh ra
rồi chẳng có cái gì cả. Ông vọng tưởng ăn, thức ăn liền đến, ăn no rồi vọng
tưởng về ăn không còn, những gì thuộc về vọng tưởng cũng vì vậy mà biến mất.
Tôi gật đầu hiểu ra. Ngài nói thêm:
- Tự tánh thanh tịnh thì không thèm ăn, không thèm khát, không
thèm muốn cái gì ở trong hư không, thật ra trong hư không vốn là không có cái
gì. Vọng tưởng dấy lên cũng giống như sương mờ được un lên vậy, cái ý ấy ông từ
từ nghiệm ra, nếu mà lãnh hội được thì sẽ hiểu ra tam muội của việc ấy.
Người vãnh sanh về sen Thượng Phẩm vọng niệm ít nhất, hầu hết
đều là Phật tánh chơn như, đều chứng quả vị Bất Thoái Chuyển Bồ Tát, trong chốc
có thể nương nguyện lực Phật A Di Đà biểu hiện ra vô số hoa tươi đẹp, trái cây
và phẩm vật cúng dường v.v… để đi cúng dường chư Phật mười phương. Còn đến giờ
thuyết pháp nghe kinh thì cả ngày vạn ức Bồ Tát đều ngồi ngay ngắn trên hoa
sen, hoặc trên lầu, trên bảo tháp, trên bảy hàng cây báu, trực tiếp nghe lời
giảng của Đức Phật A Di Đà.
Tôi hỏi Bồ Tát Quan Âm:
- Người ở trái đất vãng sanh về thế giới Cực Lạc này rất đông,
tại sao thân quyến của họ đều không nhìn thấy vậy? Ngài bảo:
- Người địa cầu phần nhiều còn vọng nghiệp che lấp, rất nhiều
cái gần hơn còn chưa nhìn thấy, nếu họ chịu nhất tâm niệm Phật không dấy vọng
tưởng, tâm như hư không, thì người địa cầu cũng có thể nhìn thấy thế giới Tây
Phương Cực Lạc được.
Tôi thừa cơ hỏi hỏi Bồ Tát:
- Cầu Ngài chỉ dạy: Thưa Bồ Tát “Cần phải niệm Phật ra sao mới
là tốt nhất?” Mới có thể tu nhanh nhất?
Ngài bảo:
- Cần thiền định song tu, nhất tâm niệm Phật, niệm Phật tham
thiền gọi là tịnh độ thiền.
Tôi hỏi:
- Thưa Bồ Tát xin Bồ Tát chỉ cho biết tu tịnh độ thiền bằng cách
nào?
Ngài gật đầu chỉ dạy như sau:
- Số người có thể chia thành hai nhóm như cách tu của chúng sanh
Thượng Phẩm Tây Phương Cực Lạc đây, nhóm trước niệm hai câu A Di Ðà Phật, nhóm
sau mặc niệm lắng nghe, sau đó nhóm sau niệm hai câu, nhóm trước mặc niệm lắng
nghe, tu trì như vậy đã không mệt nhọc, lại không ngừng niệm, tâm và khẩu như
nhau. Phật tánh tự nhiên lộ, tính tất sanh định, định tất sanh huệ.
2. VIẾNG THÁP LIÊN HOA
Bồ Tát Quan Âm hối thúc: “Thôi lẹ đi, thời giờ eo hẹp lắm. Tôi
dẫn ông đi thăm viếng Tháp Liên Hoa, là tháp lớn của Phật A Di Ðà”.
Lại lướt qua thêm my tòa lầu các đến vạn tầng. Những tháp này có
bao nhiêu góc cạnh cũng không đếm hết được. Tất cả các tháp đều phóng ra muôn
đạo hào quang, sắc màu uyển chuyển ánh lung linh, đẹp vô ngần. Trong tháp vang
vọng ra tiếng niệm Nam Mô A Di Ðà Phật, liên tục hai câu đầu nghe rất trong
vút. Câu đầu tiên nghe rất cảm động và tha thiết như con réo mẹ cứu giúp vậy,
còn câu thứ hai nghe trầm hùng rất quyết tâm và thân thiết.
Tòa tháp này dành riêng cho chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh
đến dạo chơi. Tháp lớn lắm, khó mà hình dung ra được. Có thể lớn cở my ngàn my
vạn độ lớn của trái đất chúng ta ở, còn độ cao thì không thể tính được. Trong
tháp có rất nhiều cung điện, các loại màu sắc đều có thể phát hào quang trong
suốt. Các chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh đến đây đều có thể xuyên tường tự
do ra vào, không bị ngăn trở. Muốn lên muốn xuống đều tùy tâm tưởng thì sẽ đến
ngay vị trí. Trong tháp có thể nói muốn gì có nấy, trong y có thể thấy tất cả
cảnh tượng của một chúng sanh của Hoa Tạng thế giới, có thể thấy được đất Tịnh
Ðộ của hằng trăm, hàng vạn đức Phật khắp nơi. Cảnh vật nơi đây thật là tuyệt
vời khó mà dùng bút mực tả cho hết được.
Chúng sanh Thượng Phẩm Trung Sanh nếu muốn đến những nơi Tịnh Ðộ
của vị Phật nào cũng đến trong nháy mắt rất dễ dàng. Chúng tôi vào trong tháp
Liên Hoa, thân như ngồi thang máy vậy, xuyên thấy từng tầng, không vướng chi
cả, hoàn toàn trong suốt hết. Trong các tầng của tháp có từng nhiều người đang
niệm Phật, tất cả là những thanh niên khoảng 30 tuổi. Mỗi một tầng cách ăn mặc
đều khác, đại khái chừng 20 loại màu sắc. Tất cả những người ở đây đều là nam,
không thấy một người con gái nào. Tất cả những người thanh niên ấy ngồi ngay
ngắn nơi đài sen của mình niệm Phật Bồ Tát Quan Âm. Ở đây tu hành tinh tấn lắm
trong ngày sáu thời: hai thời dành niệm Phật, hai thời chỉ tịnh, hai thời nghỉ
ngơi, bây giờ thì họ đang niệm Phật.
Chúng tôi tiến vào tầng giữa, chỉ thấy từng hàng người ngồi ngay
ngắn trên bồ đoàn của mình tham thiền niệm Phật, rất đẹp mắt, có vị ngồi ngay
giữa phòng là vị đại Bồ Tát đang ở đây dẫn chúng niệm Phật. Người nào niệm giỏi
thì trên đầu phát ra những tia sáng, trong tia sáng có vô số những vị hóa Phật,
như Ðức Phật A-Di-Ðà vậy, trong mỗi tia sáng số hóa Phật vô số ức vị, vị Ðại Bồ
Tát ngồi giữa dân chúng ấy cũng có nhiều hóa Phật nương tia sáng hiện các loại
chim bay bay lại ở tên chóp tháp, hoặc ở đại sảnh bay đến cũng cùng nhau niệm
Phật; bay như vậy mà không mảy may hỗn loạn. Trong tháp có rất nhiều đèn trân
châu, đèn lưu ly đều phát ra sức sáng tối đa, có loại đèn tròn to, tự động
chuyển biến các dạng màu sắc.
Tóm lại cảnh trí nơi đây nói không hết cái lung linh uyển chuyển
đẹp. Ði cúng dường mười phương chư Phật cũng tập trung ở đây mà đi. Tại nơi đây
có thể thấy được bất cứ thế giới nào mà toàn thế giới Hoa Tạng cũng hiện ở đây.
Tất cả chúng sanh, tất cả Phật Thánh đều hiện rõ ở đây cả.
Thăm xong chín phẩm hoa sen rồi, tôi lại được đưa trở về trước
Ðức Phật A-Di-Ðà. Tôi quỳ trước Ngài chí thành đảnh lễ, cầu Phật gia bị và chỉ
dạy, từ chính kim khẩu Ðức Phật A-Di-Ðà từng câu từng câu một vô cùng thận
trọng mà nhắc nhở tôi:
- Phật Tánh của chúng
sanh vốn là bình đẳng, tùy nghiệp mình làm đảo điên ý thức, lấy giả làm thực
tạo nhân chịu báo, trôi lặn trong sáu nẻo luân hồi không dứt, chịu khổ vô vàn.
Bốn mươi tám nguyện ta thề hằng độ chúng sanh, trai gái già trẻ, lấy tín nguyện
hạnh nhất tâm bất loạn, tịnh độ thiền, chỉ cần mười niệm quyết được vãnh sanh.
Tôi quỳ lễ bái nữa, Ngài dạy tiếp:
- Con có nhân duyên với thế giới ta bà, con muốn độ cha mẹ
nhiều đời, anh em chị em, thân bằng quyến thuộc, con cần dặn họ giữ giới làm
lành, lấy giới làm thầy, dạy học tịnh độ thiền, thiền định song tu. Con cần dặn
kỹ các loại đạo giáo Thích, Ðạo Nho, Ðạo Gia Tô, Hồi Giáo v.v… các giáo cần
cùng nhau giúp đỡ, cùng nhau khích lệ, đừng nói dèm pha nhau, đừng phỉ báng
nhau, đừng nói những lời tà chánh. Người tà, ta đạo, người ma, ta cao, người
thấp, ta quý, đừng soi tìm cái dấu vết sai sót nhỏ của nhau mà phỉ báng không
ngừng, đây chỉ là hành vi diệt căn lành; bào mòn thì giờ quý báu vào chuyện
không đâu, thực chẳng đáng.
- Cửa Phật quảng đại, tám vạn bốn ngàn pháp môn, Ðạo nào
cũng thực, có thể tu trì tà biến được ra chánh, ma biến được ra đạo, nhỏ có thể
đi về lớn, cùng nhau đùm bọc nương nhau tinh tấn tu hành pháp môn của mình, sửa
sai của mình, hành cái lành của mình mới đúng là chánh tông huệ mạng của chư
Phật.
Ngưng một lúc Ngài bảo:
- Thôi con về là vừa rồi.
Tôi bái lễ tạ, lễ ba lần và lui gót.
Trên đường về tôi vẫn cứ bay bay không thấy Nam Thiên Môn, đi
bằng trì chú và nương hoa sen đi thật nhanh, đến ngay Trung Thiên La Hán tôi
ngừng niệm chú thì hoa sen biến mất, lại thấy vị đồng tử hôm trước đưa nước
trong cho uống. Thầy tri khách bảo tôi vào phòng nghỉ tí đã, tôi vào phòng
nghỉ, thoáng cái đã say say trong giấc ngon lành.
VỀ ÐẾN THẾ GIAN
Lúc tôi tỉnh lại loay hoay không biết mình đang ở đâu, không
thấy người trời, không thấy Bồ Tát, không thấy tòa đại diện cũng không thấy nơi
nào phát ra hào quang nữa … Tôi nhớ lại mới ba giờ khuya hôm qua tôi đi dạo cả
ngày và giờ lại tối khuya nữa rồi chắc chừng hai mươi tiếng đồng hồ đi tham
quan thích thú quá đi. Ở đây sao mà tối thui như mực, đưa tay không thấy ngón,
tôi cảm thấy như đang ở trên một tảng đá lớn của động núi cõi nào, lần mò hồi
lâu mới có tia sáng hừng đông, tinh thần phục hồi ngay như thường, tôi thấy ra
đã ở thế giới ta bà.
Ở trong động không thấy lối ra, tôi gọi, tôi nhẩy, tôi khát,
không ai trả lời. Cuối cùng tôi cũng tìm được lối ra ven theo đường núi xuống
dưới đi bộ 20 cây số đến đường Xích Thủy gặp người đi đường tôi bèn hỏi ra, hú
vía kinh hồn, thì ra bây giờ là ngày 8 tháng 4 năm 1973 rồi. Tôi bấm đốt ngón
tay đếm, té ra tôi rời khỏi nhân gian hơn sáu năm năm tháng…
Tôi lầm bầm niệm trong lòng, Nam Mô A-Di-Ðà Phật, kẻ giác thành
Bồ Tát, người mê ấy chúng sanh, Phật pháp có túc thân, lúc gặp duyên thì độ,
tôi phải thừa kế ý chí của ân Sư Hư Vân lão Hòa Thượng, thực hành chỉ thị của
Ðức Phật A-Di-Ðà và Bồ Tát Quan Thế Âm, hoằng pháp độ chúng sanh hữu thiện
duyên.
Nam Mô A-Di-Ðà Phật
Quan Âm Tu Viện
Liên Thanh Sưu Tập
“BỘ TRANH PHẬT THUYẾT A DI ĐÀ KINH”
****
Phật nói Kinh A Di Đà kinh khen ngợi công đức chẳng thể nghĩ bàn và được tất cả các đức Phật hộ niệm.
001
1. Tôi nghe như vầy. Một thuở nọ, Phật ở nước Xá Vệ, nơi vườn của ông Cấp Cô Độc và cây của ông Kỳ Đà, cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ Kheo tụ hội, đều là bậc đại A La Hán mà mọi người biết đến
- – -
002
2. Ðó là Trưởng lão Xá-lợi-phất, Ma ha Mục-kiền-liên, Ma-ha-Ca-Diếp, Ma-ha-Ca-chiên-diên, Ma-ha-Câu-hy-la, Ly-bà-đa, Châu-lợi-bàn-đà-dà, Nan-đà, A Nan-đà, La-hầu-la, Kiều-phạm-ba-đề, Tân-đầu-lô phả-la-đọa, Ca-lưu-đà-ni, Ma-ha Kiếp-tân-na, Bạc-câu-la, A-nậu-lâu-đà và các vị đệ tử lớn như vậy nhiều nữa; cùng các vị Bồ-tát Ma-ha-tát như Văn-thù-sư-lợi Pháp vương tử, A-dật-đa Bồ-tát, Càn-đà-ha-đề Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát và các vị Bồ-tát lớn nhiều như thế nữa; cùng với Thích Ðề Hoàn Nhơn v.v… vô lượng chư thiên đại chúng đồng câu hội.
- – -
003
3. Bấy giờ, Phật bảo Trưởng lão Xá Lợi Phất: “Từ đây tới phương Tây, trải qua mười vạn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Trong cõi đó, có đức Phật hiệu A Di Đà, hiện đang nói pháp.” “Xá Lợi Phất, vì sao cõi đó tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh trong cõi nước đó không có những sự khổ, chỉ thọ hưởng các điều vui, nên cõi đó tên là Cực Lạc.
- – -
004
4. Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có bảy lớp lan thuẫn, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều bằng bốn thứ báu vây quanh giáp vòng, cho nên nước ấy tên là Cực Lạc.
- – -
005
5. Lại này Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực Lạc có ao bảy báu, nước tám công đức tràn đầy trong đó. Ðáy ao toàn trải cát bằng vàng. Thềm đường bốn phía do các thứ vàng, bạc, lưu ly, pha lê hợp thành. Bên trên có lầu có các, cũng dùng đủ loại vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não để trang sức.
Hoa sen trong ao lớn như bánh xe, màu xanh có ánh sáng xanh, màu vàng có ánh sáng vàng, màu đỏ có ánh sáng đỏ, màu trắng có ánh sáng trắng, thơm ngát vi diệu.
- – -
006
6. Nầy Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, thành tựu công đức, trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, thường trỗi nhạc trời, vàng ròng làm đất, ngày đêm sáu thời, mưa hoa Mạn-đà-la cõi trời. Chúng sanh ở cõi ấy, cứ mỗi sáng sớm, thường dùng đãi y, đựng các hoa đẹp, đem cúng dường mười vạn ức Phật ở phương khác, vừa đến giờ ăn, trở về nước mình, ăn cơm, kinh hành.
- – -
007
7. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này nữa Xá-lợi-phất, cõi nước kia thường có các loài chim màu sắc kỳ diệu, như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng Mạng. Những thứ chim này, ngày đêm sáu thời, hót lên tiếng hòa nhã, tiếng ấy diễn xướng Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề Phần, Tám Thánh Ðạo Phần. Tiếng ấy diễn xướng, diễn là biểu diễn, xướng là ca hát bất cứ người nào nghe đến đều rất vui thích. Pháp âm mà bọn chim diễn xướng biểu hiện Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề Phần, Tám Thánh Ðạo Phần.
- – -
008
8. Các pháp như thế ấy, chúng sanh ở nước kia nghe âm thanh này rồi, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, ông chớ cho chim này thiệt là do tội báo sanh ra. Tại sao thế? Vì cõi nước của Phật kia không có ba ác đạo. Này Xá-lợi-phất, cõi nước của Phật kia còn không có tên của ác đạo, huống chi là có thật. Các thứ chim ấy đều là do Phật A Di Ðà muốn cho tiếng Pháp âm truyền khắp mà biến hóa ra như thế.
- – -
009
9. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia, gió nhẹ lay động các hàng cây báu và các lưới báu, phát ra âm thanh vi diệu, giống như trăm nghìn thứ âm nhạc đồng trỗi một lượt. Ai nghe tiếng này rồi, tự nhiên đều sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế.
Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao Ðức Phật kia có tên là A Di Ðà? Này Xá-lợi-phất, Ðức Phật kia có ánh sáng vô lượng, chiếu suốt mười phương cõi nước không bị chướng ngại, cho nên có tên là A Di Ðà. Lại này Xá-lợi-phất, mạng sống của Phật kia và nhân dân của Ngài, vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cho nên có tên là A Di Ðà.
- – -
010
10. Này Xá-lợi-phất, Phật A Di Ðà thành Phật đến nay đã mười kiếp. Lại này Xá-lợi-phất, Ðức Phật kia có vô lượng vô biên chúng đệ tử Thanh văn đều là bậc đại A-la-hán, không thể tính đếm mà biết được; các chúng Bồ-tát cũng nhiều như thế.
- – -
011
11. Này Xá-lợi-phất, cõi nước Phật kia thành tựu công đức trang nghiêm như thế! Lại này Xá-lợi-phất, cõi nước Cực Lạc, chúng sanh sanh về đều là bậc A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều vị Nhất sanh bổ xứ. Số đó nhiều đến nỗi không thể tính đếm mà biết được, chỉ có dùng số vô lượng vô biên A-tăng-kỳ để nói.
- – -
012
12. Này Xá-lợi-phất, chúng sanh nghe được điều này, phải nên phát nguyện, nguyện sanh về nước kia. Tại sao thế? Vì được cùng ở một chỗ với các bậc thượng thiện nhơn. Này Xá-lợi-phất, không nên cho rằng có chút ít nhơn duyên phước đức căn lành mà được sanh về nước kia đâu.
- – -
013
13. Này Xá-lợi-phất, nếu có hàng thiện nam thiện nữ nào nghe nói về Phật A Di Ðà rồi chấp trì danh hiệu Ngài, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, bảy ngày, nhất tâm bất loạn. Người ấy khi lâm chung thấy Phật A Di Ðà cùng các Thánh chúng hiện ra trước mặt. Khi chết người ấy tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc của Phật A Di Ðà. Này Xá-lợi-phất, ta thấy những điều lợi ấy nên mới nói như vậy. Nếu có chúng sanh nào nghe ta nói đây, phải nên phát nguyện sanh về nước kia.
- – -
014
14. Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay ngợi khen lợi ích về công đức không thể nghĩ bàn của Phật A Di Ðà. Ở phương Ðông cũng có Phật A Súc Bệ, Phật Tu Di Tướng, Phật Ðại Tu Di, Phật Tu Di Quang, Phật Diệu Âm. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải nên tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm” này.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Nam có Phật Nhật Nguyệt Ðăng, Phật Danh Văn Quang, Phật Ðại Diệm Kiên, Phật Tu Di Ðăng, Phật Vô Lượng Tinh Tấn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn, và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này”.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Tây có Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Tướng, Phật Ðại Quang, Phật Ðại Minh, Phật Bảo Tướng, Phật Tịnh Quang. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này”.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương Bắc có Phật Diệm Kiên, Phật Tối Thắng Âm, Phật Nan Trở, Phật Nhật Sanh, Phật Võng Minh. Giống như vậy hằng hà sao số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật đều hộ niệm này”.
Này Xá-lợi-phất, thế giới phương dưới có Phật Sư Tử, Phật Danh Văn, Phật Danh Quang, Phật Ðạt Ma, Phật Pháp Tràng, Phật Trì Pháp. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này”.
Này Xá-lợi-phất, ở thế giới phương trên có Phật Phạm Âm, Phật Tú Vương, Phật Hương Thượng, Phật Hương Quang, Phật Ðại Diệm Kiên, Phật Tạp Sắc Bảo Hoa Nghiêm Thân, Phật Ta La Thọ Vương, Phật Bảo Hoa Ðức, Phật Kiến Nhất Thiết Nghĩa, Phật Như Tu Di Sơn. Giống như vậy hằng hà sa số chư Phật, mỗi vị đều ở cõi nước của mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, nói lời thành thật như vầy: “Chúng sanh các ngươi phải tin vào công đức khen ngợi không thể nghĩ bàn và Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm này”.
- – -
015
15. Xá Lợi Phất, ý ông nghĩ sao? Vì sao gọi là “Kinh tất cả các đức Phật hộ niệm”? Xá Lợi Phất, nếu có người con trai lành, người con gái lành nào nghe được kinh nầy mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của các đức Phật, thì những người con trai lành, những người con gái lành đó đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được chẳng thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Cho nên, Xá Lợi Phất, các người đều phải tin nhận lời của ta và các đức Phật nói.
- – -
016
16. Này Xá-lợi-phất, ý ông nghĩ sao? Tại sao gọi là “Kinh được tất cả chư Phật hộ niệm”? Này Xá-lợi-phất, nếu có kẻ thiện nam người thiện nữ nào nghe Kinh này mà thọ trì, và nghe được danh hiệu của chư Phật, thì những thiện nam thiện nữ ấy đều được tất cả chư Phật hộ niệm cho và đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên này Xá-lợi-phất, các ông hãy nên tin nhận lời ta và lời chư Phật nói.
Này Xá-lợi-phất, nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về nước của Phật A Di Ðà thì những người đó đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ở nước Phật kia, những người này hoặc đã sanh, hoặc đang sanh, hoặc sẽ sanh. Cho nên này Xá-lợi-phất, các thiện nam tử, thiện nữ nhơn, nếu ai có lòng tin hãy nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.
- – -
017
17. Này Xá-lợi-phất, như ta hôm nay khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của chư Phật, các Ðức Phật kia cũng khen ngợi công đức không thể nghĩ bàn của ta và nói như thế này: “Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni đã làm được những việc khó làm và ít có; ở trong cõi nước Ta-bà, trong đời ác năm trược: Kiếp trược, Kiến trược, Phiền não trược, Chúng sanh trược, Mạng trược được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ngài giảng cho các chúng sanh nghe pháp tất cả thế gian khó tin này”.
- – -
018
18. Này Xá-lợi-phất, nên biết ta ở đời ác năm trược làm việc khó làm này, được quả A-nậu-đa-la tam-miệu Tam-bồ-đề, nói cho tất cả thế gian pháp khó tin này, thật là rất khó.
Phật nói Kinh này rồi, ngài Xá-lợi-phất và các Tỳ-kheo, tất cả người, trời, A-tu-la… ở thế gian nghe Phật nói rồi đều hoan hỷ tin nhận, lễ Phật mà lui ra.