Vào thuở xa xưa, ở thủ đô Saketa, hiện nay là
Ayodhya[14], thuộc miền Trung Ấn-độ, có giống dân Aryan. Theo kinh Phật Bản Hạnh (Abhinikramana-sutra), kinh Thập Nhị Du, kinh
Ambattha (Digha-nikaya 3) và kinh Mahavastu (do ngài Buddhaghosa chú giải vào thế kỷ thứ năm sau tây lịch), thì xưa kia nơi đây có vị vua tên là
Maha-Sammata (Ðại-Mao-Thảo) nhường ngôi cho em, xuất gia theo đại tiên Gotama
(Cồ-Ðàm)[15] tu trong rừng. Ðể người đời không nhận ra mình là
vua, ông lấy họ thầy là Gotama làm họ mình. Từ đó người ta gọi thầy ông là
Maha-Gotama (Ðại Cồ-Ðàm) và gọi ông là Culla-Gotama (Tiểu Cồ-Ðàm).
Hai thầy trò tu trong
rừng, ở trong một cái am bên cạnh một vườn mía (cam-giá, okkaka) lớn. Một hôm có 500 tên cướp đánh cướp tài sản của quan, trong
lúc chạy trốn băng qua vườn mía, đánh rơi những đồ cướp được trong vườn. Quan quân theo dấu tìm đến, cho Culla-Gotama (Tiểu Cồ-Ðàm) là giặc cướp, liền dùng tên bắn chết, máu chảy lênh láng xuống đất. Maha-Gotama
đang có việc đi xa, dùng thiên nhãn nhìn thấy, buồn bã rơi lệ. Ông liền bay về đến nơi, gom máu trộn lẫn với bùn trên mặt đất, vo thành hai
viên lớn bằng nắm tay, đặt lên bàn thờ giửa trời, rồi chú nguyện rằng:
- Cồ-Ðàm tôi thành
tâm cầu nguyện chư thiên biến hai hòn máu này thành người.
Qua 10 tháng, nhờ hấp thụ ánh sáng mặt trời, viên bên
trái hóa thành một bé trai, viên bên phải hóa thành một bé gái, đều lấy họ Gotama (Cồ-Ðàm). Các quan
đại thần trong triều nghe tin, rước về cung nuôi dưỡng. Bé trai được đặt tên là Sujata (Thiện Sanh)[16], còn gọi là Okkaka
(Cam Giá)[17] hay Suryavamsa (Nhật Chủng)[18]. Bé gái được đặt tên là
Subhadda (Thiện Hiền).
Về sau các đại thần lập Okkaka (Thiện Sanh) làm vua
hiệu là Ikshvaku (Ý-Ma vương), và Subhadda (Thiện Hiền) làm hoàng hậu, sanh được bốn người con trai tên
là Okkamukha, Karakanda, Hatthinika, Sinipura, và năm người con gái là
Piya, Suppiya, Ananda, Vijita và Vijitasena. Sau đó hoàng hậu Subhadda qua
đời, vua Ikshvaku cưới thêm một công chúa trẻ đẹp phong làm
hoàng hậu sanh được một người con trai tên là Jantu.
Vì muốn lập Jantu lên làm
vua nên vị hoàng hậu thứ nhì xui giục vua Ikshvaku đày bốn người con trai của hoàng hậu Subhadda ra
khỏi nước. Bốn hoàng tử này cùng với năm chị em gái đi về hướng đông bắc, đến gần chân núi Himalaya, gặp nhà hiền triết rất giỏi thiên văn địa lý tên Kapila
khuyên nên ở lại đây lập nghiệp. Nơi đây lần hồi trở nên phồn thịnh. Vua Ikshvaku được tin này, thốt lời khen rằng “Sakya vata bho raja-kumara “, có nghĩa là “Các vị hoàng tử này quả thật là những người có khả năng”. Từ đó bộ-tộc của các hoàng tử và vương quốc của họ sáng lập mang tên là
Sakya (Thích-Ca), có nghĩa là “người có khả năng” hay người anh hùng. Ðể nhớ ơn nhà hiền triết Kapila, các
hoàng tử Sakya đặt tên thủ đô xứ Sakya là Kapilavastu. Ít lâu sau, người chị cả là Piya mắc bệnh cùi, vào rừng ở. Trong khi đó
vua xứ Kasi ở Benares là Rama cũng mắc bệnh cùi, truyền ngôi cho con trai cả rồi vào sâu trong
rừng núi ở, thời may gặp thuốc hết bệnh. Hai người gặp nhau, vua Rama chỉ thuốc cho bà Piya được lành bệnh, hai người ăn ở với nhau, thành lập xứ Koliya, lên
làm vua[19].
Ở Kapilavastu, bốn hoàng tử con vua
Ikshvaku (Okkaka) không thể lập gia đình với người bản xứ vì không có ai thuộc giai cấp quý tộc (Ksatriya)
nên phải sống chung với bốn chị em gái còn lại như vợ chồng[20]. Trong số bốn hoàng tử này có ba người chết, hoàng tử còn lại là Okkamukha (Ni-Câu-La[21]) lên làm vua. Sau truyền ngôi cho con
là Câu-Lô[22] (?). Câu-Lô truyền ngôi cho con là Jayasena (Cù-Câu-Lô[23]). Jayasena truyền ngôi cho con
là Sihahanu (Sư-Tử-Giáp). Vua Sihahanu (Sư-Tử-Giáp) sinh được bốn người con trai là:
Suddhodana (Tịnh-Phạn), Dhotodana (Hộc-Phạn), Sukkodana (Bạch-Phạn) và Amitodana (Cam-Lộ-Phạn); và một người con gái là
Amita (Cam-Lộ vương phi) gả cho vua Suppabuddha (Thiện-Giác vương) xứ Koliya. Vua
Sihahanu truyền ngôi cho con là Suddhodana. Vua Suddhodana (Tịnh-Phạn vương) và hoàng hậu Maha-Maya sinh ra thái
tử Siddhattha (Sĩ-Ðạt-Ta) về sau thành Phật hiệu là Sakyamuni
(Thích-Ca Mâu-Ni).
Do đó đức Phật có cả thảy năm họ: Gotama (Cồ-Ðàm), Okkaka
(Cam-Giá), Sujata (Thiện Sanh), Suryavamsa (Nhật-Chủng) và Sakya (Thích-Ca). Nhưng người thời bấy giờ thường dùng tiếng Gotama để chỉ họ của đức Phật, tiếng Sakya để chỉ dòng-dõi, bộ tộc hay tên xứ, và tiếng Sakyamuni để chỉ Phật hiệu của ngài.
Phật hiệu Sakyamuni có
nghĩa là “năng nhơn tịch mặc “. Sakya là “năng nhơn “, là bậc anh hùng có
khả năng hơn người. Muni là “tịch mặc”, tịch tĩnh, vắng lặng, cũng có
nghĩa là nhơn-từ. Sakyamuni cũng có nghĩa là ” bậc anh-hùng hoàn-toàn “.
2- Lúc mới sanh (năm
-624)
Vua Suddhodana
GOTAMA và hoàng-hậu Maha-Maya là người giàu lòng nhân ái, kính trọng thánh hiền. Ðã gần bốn mươi tuổi mà chưa có con. Vua
và hoàng hậu thường lập đàn cúng vái, và mở hội bố thí cho người nghèo khổ để cầu sanh được một hoàng nam hầu sau này nối ngôi vua.
Năm 624[24] trước tây lịch, tại khu lâm-viên
xinh đẹp Lumbini[25] (Lâm-tỳ-ni, hiện nay thuộc lãnh thổ Nepal), thái-tử Siddhattha
GOTAMA, thuộc dòng-dõi bộ tộc Sakya, con vua Suddhodana GOTAMA, 42 tuổi, và hoàng-hậu Maha-Maya, 44
tuổi, sanh vào ngày trăng tròn tháng Vesak[26] (còn gọi là Visakha
hay Vaisakha, tương ứng với tháng tư hay tháng 5 dl).
Trước đó mười tháng, trong khi được vua cho phép giữ tám giới thanh tịnh, vào đêm trăng tròn tháng Asatha (tháng 6 hay tháng 7 dl), tại thành Kapilavastu[27] (Ca-tỳ-la-vệ), hoàng-hậu Maya nằm mộng thấy một con voi trắng sáu ngà[28], trong bụng có một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chun vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm khoái lạc, nhẹ nhàng, sáng chói như ánh trăng rằm. Sáng hôm sau, bà thuật lại giấc chiêm bao kỳ diệu ấy cho vua nghe. Nhà vua cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị nầy đoán là hoàng-hậu đã mang thai và thái-tử sắp được sanh ra sẽ là một đại đế hoặc một thánh nhân tiếng tăm lừng-lẫy. Từ lúc thọ thai thân tâm hoàng hậu luôn luôn được an lạc, thanh tịnh, trí huệ sáng suốt.
Theo phong tục, gần đến ngày sanh,
hoàng-hậu Maha-Maya đi từ thành Kapilavastu về nhà cha mẹ ruột là quốc vương Suppabuddha
và hoàng hậu Amita ở thành Devadaha còn gọi là Ramagama thuộc xứ Koliya (Câu-lợi, hiện nay thuộc lãnh thổ Nepal). Giữa đường phái đoàn tạm nghỉ chân trong khu
lâm viên Lumbini, cách Kapilavastu khoảng 30 km về hướng đông-nam,
đang mùa hoa cỏ xinh tươi. Hoàng-hậu đến một hồ nước tắm rửa, thay đổi y-phục, rồi đi ngắm cảnh đẹp xung quanh hồ. Thấy đóa hoa Vô-ưu[29] (asoka) vô cùng xinh đẹp trên cây, bà vói tay phải định hái thì chuyển bụng. Bà vội đứng vịn cành cây. Các
thế nữ vội chạy đến đứng chăng màn bốn phía. Bỗng cõi đất rung động, hào quang chiếu khắp nơi, rồi thái tử xuất hiện ra đời[30], thân
ngài thanh tịnh không bị nhơ nhớp, vẽ mặt an lành không khóc la. Chư thiên biết đấng cứu thế ra đời liền hiện đến tung hoa, tấu nhạc, ca hát chúc
mừng. Hoàng hậu và các cung nữ hân hoan chào đón thái-tử[31]. Khi mới sanh ra
thái-từ Siddhattha cũng được tắm rửa lần đầu tiên[32] tại hồ nước nói trên. Hồ nước Puskarini này
hiện nay được xây lại theo hình vuông mỗi cạnh 20m, nổi tiếng là
linh-thiêng, có khả năng trị bệnh cho người xuống tắm. Bên cạnh hồ hiện còn một cây bồ-đề to lớn, cành lá sum-sê, đã có từ hồi đức Phật còn tại thế. Bên cạnh hồ hiện nay có ngôi đền thờ nữ thần Maha-Maya,
trong đó có chỉ vị trí chính xác nơi đức Phật đản sanh, và có hai bức tranh nổi điêu khắc cảnh đức Phật đản sanh, một bức bằng đá và một bức bằng cẩm-thạch . Ðến năm 244 trước tây lịch, vua Asoka
có đến đây chiêm-bái theo sự hướng dẫn của đạo sư Moggaliputta-Tissa (Mục-Kiền-Liên-Tử Ðế-Tu). Vua Asoka
có cho dựng gần hồ một trụ đá kỷ niệm. Trên trụ đá có khắc năm hàng gồm 93 chữ bằng tiếng Brahmi như sau:
<<
Devanapiyena Piyadasina[33] lajina-visativasabhisitena Atana-agacha mahiyite.
Hida Budhe-jate Sakyamuniti Silavigadabhi cha kalapita silathabhe cha
usapapite. Hida Bhagavam jateti Lumbini-game ubalike kate. Atha-bhagiye
cha.>>
(Có nghĩa là: Vua
Piyadasina, được các vị thiên thần kính mến và ủng hộ, đích thân đến đảnh lễ chỗ này, sau khi lên ngôi được 20 năm. Ðây là nơi đức Phật Sakyamuni đản sanh. Vua hạ lệnh xây dựng một vách thành bằng đá bao quanh
nơi nầy và một trụ đá bên trong để đánh dấu chỗ đức Thế Tôn đản sanh. Vua cho phép dân làng Lumbini từ nay chỉ đóng một phần tám thuế mễ cốc.)
Trong ký sự của ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ bảy có nói ” Ðầu trụ đá có hình con
ngựa rất mỹ thuật và trơn láng”. Nhưng hiện nay chưa tìm được di tích tượng con ngựa đặc biệt ấy.
Kinh sách còn nói đến trong lúc đức Phật đản sanh thì đồng thời bảy nhân vật sau đây cũng chào đời: 1-Cây Ðại Bồ-đề, 2-Yasodhara (Da-Du-Ðà-La), 3-Kaludayin (Ca-Lưu-Ðà-Di), 4-Channa (Xa-nặc), 5-Kanthaka (ngựa Kiền-trắc), 6-Con voi báu, và 7-Bốn bình châu-báu[34].
3- Sau khi sanh
Qua ngày hôm sau,
tiên ông Asita Kaladevala (A-tư-đà) do thấy điềm lạ trên trời, biết có thánh nhơn vừa giáng sinh, liền cùng với đệ tử là cháu ruột gọi ông bằng cậu, tên Nalaka[35], từ sườn núi Himalaya đến xin phép vua
được xem tướng cho thái-tử[36]. Vua Suddhodana rất vui-vẻ cho bồng thái-tử ra đảnh lễ tiên ông. Nhưng, trước sự kinh-ngạc của mọi người, thái-tử bỗng nhiên quay về phía tiên ông
và đặt hai chân lên đầu tóc của ông. Ðang ngồi trên ghế, tiên ông Asita vội đứng dậy chắp tay xá chào thái-tử[37] và tiên
đoán thái-tử sẽ trở thành bậc vĩ-nhân cao quí nhất của nhân loại. Nhà vua cũng
làm theo, xá chào thái-tử. Trong khi xem tướng cho thái-tử, tiên ông
Asita tỏ vẻ rất vui mừng, nhưng khi xem xong thì ông oà lên khóc nức-nở. Nhà vua ngạc nhiên hỏi điềm lành dữ thế nào, tại sao ông hết vui mừng lại khóc. Tiên
ông Asita sục sùi đáp:
- Tâu Ðại Vương, thái-tử có 32 tướng tốt[38] và 80 vẻ đẹp[39], sau nầy sẽ là vị Chuyển Luân Thánh Vương cai trị bốn châu thiên hạ; nhưng chắc ngài sẽ xuất gia tu hành thành bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác,
là bậc thầy lỗi lạc của khắp các cõi trời và cõi người, giảng dạy pháp mầu để ban vui cứu khổ cho chúng sanh. Rất tiếc nay tôi đã quá già rồi, không còn sống đến lúc đó để được nghe lời ngài chỉ dạy, nên tôi tủi thân tôi khóc.
Lễ quán đảnh được tổ chức vào ngày thứ năm sau khi
thái-tử ra đời. Vua Suddhodana triệu-tập sáu vị hiền-triết Bà-la-môn để chọn tên và tiên
đoán tương-lai cho con. Tên được chọn là Siddhattha (Siddartha,
Sarvarthasiddha) có nghĩa là người thành-đạt nguyện-vọng. Sau khi bàn thảo về tương-lai của thái-tử, năm vị đưa lên hai ngón
tay, tuyên bố:
- Muôn tâu Ðại Vương, thái-tử sẽ trở thành bậc Chuyển-Luân-Thánh-Vương
(Cakravartin), vị hoàng-đế vĩ-đại nhất thế-gian nếu ngài muốn trị-vì thiên-hạ. Nếu xuất gia tu hành, ngài sẽ thành bậc Chánh-Ðẳng-Chánh-Giác
(Samma-sambuddha) cứu nhân-loại ra khỏi cảnh tối-tăm đau-khổ .
Nhưng vị trẻ tuổi nhất tên Kondanna
(Kiều-Trần-Như)[40] chỉ đưa lên một ngón tay và nói:
- Tâu Ðại Vương, sau nầy, sau khi nhìn thấy một người già, một người bệnh, một xác chết và một tu sĩ, thái-tử sẽ xuất gia đi tìm
chân-lý và sẽ trở thành một vị Phật, Vô-Thượng Chánh-đẳng Chánh-giác.
Sau khi sanh thái-tử được bảy ngày thì hoàng-hậu Maya từ trần[41], vãng sanh về cung trời Ðao-lợi[42] (Tavatimsa). Thái-tử được giao cho người dì ruột cũng là thứ-hậu trong triều là bà Pajapati Gotami[43] (Ba-Xà-Ba-Ðề Kiều-Ðàm-Di), chăm sóc. Do các lời tiên đoán của các nhà tiên tri nên vua Suddhodana tìm đủ mọi cách cho thái-tử Siddhattha hưởng đầy đủ lạc thú trong hoàng cung, không bao giờ nhìn thấy các cảnh khổ đau, bệnh hoạn, già chết ở đời. Khi thái tử được sáu tuổi, vua Suddhodana cho mời các vị thầy nổi tiếng vào triều dạy học, mong đào tạo thái-tử thành một vị vua tương lai có đầy-đủ khả-năng và đức-hạnh để kế nghiệp ngài.
Lúc bấy giờ những nhà tiên tri tiên đoán cho
đứa trẻ. Họ nói: “Tâu bệ hạ, những dấu hiệu lúc sinh của thái tử rất tốt. Khi
lớn lên thái tử sẽ có những đặc điểm hơn cả Ngài hiện nay”. Nghe lời tiên đoán
này khiến vua rất tự hào, ông nghĩ: “Nếu lời tiên đoán này đúng thì con trai
của ta, thái tử Tất Ðạt Ða, sẽ cai trị không những vương quốc nhỏ bé này, mà có
lẽ cả toàn thế giới. Ôi! Thật là vinh dự cho ta và gia đình ta quá”.
Những ngày đầu sau khi sinh thái tử, rất nhiều người đến cung điện thăm đứa bé.
Một trong những người viếng thăm này là ông già tên A Tư Ðà. A Tư Ðà là một nhà
ẩn sĩ sống trong rừng vắng và là một bậc danh sĩ tôn quý lúc bấy giờ. Vua và
hoàng hậu rất ngạc nhiên khi thấy A Tư Ðà rời khỏi khu rừng và xuất hiện trong
cung điện của họ. Vua nói: “Chúng tôi rất vinh dự được ông đến thăm chúng tôi,
xin ông hãy cho chúng tôi biết mục đích của ông và chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ
những gì mà chúng tôi có thể làm được”.
A Tư Ðà trả lời: “Xin cám ơn lòng tử tế hiếu
khách của bệ hạ. Tôi từ xa đến đây thăm bệ hạ là vì có dấu hiệu kỳ diệu mà tôi
mới thấy gần đây. Những dấu hiệu này cho biết cậu bé trai mới sinh của Ngài,
sau này sẽ đạt được sự giác ngộ tinh thần vĩ đại làm lợi ích cho tất cả mọi
người. Cái trí tuệ quý giá ấy là điều mà suốt đời tôi đang cố gắng để đạt được.
Cho nên tôi vội vã đích thân đến thăm cậu bé”.
Vua rất vui mừng và đi vào chỗ thái tử đang
nằm ngủ. Vua cẩn thận ẵm con lên và đem ra cho A Tư Ðà xem. Nhà tiên tri im
lặng ngắm nhìn cậu bé một lúc, rồi ông trở ra buồn rầu ngước lên ngắm nhìn bầu
trời rồi bật khóc.
Thấy A Tư Ðà khóc, vua và hoàng hậu rất lo sợ.
Họ e rằng vị tiên tri đã nhìn thấy một vài điềm không tốt nào đó của con mình
chăng? Trước những giọt nước mắt của A Tư Ðà, vua cảm thấy rụng rời tay chân và
thốt lên: “Ồ, thưa ông, ông đã nhìn thấy dấu hiệu gì mà ông phải khóc? Không
phải chính ông và những nhà thông thái khác cũng nói rằng con trai của tôi sau
này sẽ trở thành một vĩ nhân, đạt được trí tuệ tối cao sao? Nhưng tại sao bây
giờ khi nhìn đứa bé ông lại khóc? Ðiều đó nghĩa là thái tử sẽ chết yểu phải
không? Hay là sẽ có những tai họa khủng khiếp xảy ra cho nó? Nó là đứa con duy
nhất của tôi, tôi rất thương nó. Xin ông hãy nói nhanh đi những gì mà ông thấy,
tôi rất hồi hộp và lo sợ”.
Với một cái nhìn trìu mến, A Tư Ðà bình tĩnh
nói với họ không nên lo sợ. “Không phải tôi khóc vì đã nhìn thấy những dấu hiệu
xấu nơi thái tử. Thật ra tôi thấy con trai của bệ hạ có đầy đủ ba mươi hai
tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chắc chắn sau này lớn lên sẽ trở thành bậc vĩ nhân.
Ba
mươi hai tướng:
1.Dưới
lòng bàn chân bằng phẳng.
2.Dưới
bàn chân có hình bánh xe ngàn cọng.
3.Các
ngón tay búp măng dài đẹp.
4.Gót
chân no tròn.
5.Ngón
tay ngón chân có màng da liền lạc.
6.Tay
chân mềm mại.
7.Bắp
chân như chân nai chúa.
8.Xương
mắt cá chẳng lộ bày.
9.Đứng
thẳng tay dài quá đầu gối.
10.Ngọc
hành ẩn kín như mã vương.
11.Thân
hình đầy đặn như cây Ni-Câu-Loại.
12.Lông
trên mình mướt đẹp.
13.Mỗi
mỗi sợi lông đều xoay về phía mặt.
14.Thân
mình màu vàng rực.
15.Thân
thường có ánh sáng chiếu xa một tầm.
16.Da
thứa mịn màng, bụi đất không dính.
17.Bảy
chỗ hõm như: hai lòng bàn lòng tay, hai lòng bàn chân,
hai
vai, sau ót đều đầy đặn.
18.Phần
trên của thân như thân sư tử chúa.
19.Cánh
tay, khỉu tay, bả vai tròn trịa.
20.Các
khớp xương đầy đặn, bằng phẳng.
21.Thân
thể cân đối.
22.Bốn
mươi cái răng.
23.Răng
khít khao chẳng thưa hở.
24.Răng
sắc trắng tinh.
25.Cằm
vuông vức như cằm sư tử chúa.
26.Nước
miếng ngon ngọt.
27.Tướng
nhục kế trên đảnh đầu.
28.Lưỡi
dài và rộng, có thể che đến chân tóc.
29.Tiếng
nói trong trẻo thanh tao.
30.Mắt
sắc xanh biếc.
31.Mắt
tựa như mắt ngưu vương.
32.Tướng
lông trắng giữa chặn mày (bạch hào).
Tám
mươi vẻ đẹp:
1.Tướng
Vô kiến đảnh.
2.Mũi
cao nhưng chẳng lộ hai lỗ mũi.
3.Lông
mày đẹp như trăng đầu tháng.
4.Vành
tai dài rũ xuống.
5.Thân
vững chắc như Trời Na-La-Diên.
6.Các
đốt xương giao nhau như móc câu.
7.Trông
lại được phía sau.
8.Khi
đi chân cách đất 4 tấc mà vẫn hiện dấu.
9.Móng
tay, móng chân như sắc đồng đỏ.
10.Đầu
gối vững chắc tròn đẹp.
11.Thân
trong sạch.
12.Thân
dịu dàng mềm mại.
13.Thân
không cong vẹo.
14.Ngón
tay, ngón chân tròn có màng da liền lạc.
15.Lằn
chỉ trên ngón tay được che khuất.
16.Các
gân mạch ẩn sâu không hiện.
17.Mắt
cá không lộ bày.
18.Thân
thể tươi nhuận.
19.Thân
tự giữ ngang.
20.Thân
đầy đặn.
21.Uy
nghi toàn vẹn nghiêm túc.
22.Dáng
dấp đầy đặn.
23.Khi
đi đứng an ổn, không lay động.
24.Uy
đức lừng lẫy.
25.Chúng
sanh được gặp rất sanh ưa thích.
26.Gương
mặt không dài lớn.
27.Dung
mạo đoan chánh, sắc mặt chẳng nhăn.
28.Mặt
đầy đặn.
29.Môi
đỏ tươi, đẹp như trái tần bà.
30.Tiếng
nói sâu xa.
31.Rún
tròn đẹp và lún sâu vào.
32.Lông
trên mình xoay về phía phải.
33.Tay
chân đầy đặn.
34.Tay
chân như ý.
35.Lằn
chỉ trên tay sáng thẳng.
36.Lằn
chỉ tay dài.
37.Lằn
chỉ tay chẳng đứt quãng.
38.Những
người ác tâm được gặp đều vui mừng.
39.Mặt
vuông đẹp.
40.Mặt
trong sáng như trăng rằm.
41.Chiều
ý chúng sanh mà nói lời hoà vui.
42.Từ
lỗ chân lông phát ra mùi thơm.
43.Trong
miệng phát ra mùi thơm.
44.Dáng
dấp oai hùng như sư tử chúa.
45.Tới
lui như voi chúa.
46.Tướng
đi như Nga vương.
47.Đầu
tròn đẹp như quả Ma-Dà-Na.
48.Diễn
nói một thứ tiếng mà đầy đủ cho tất cả.
49.Bốn
cái răng cấm trắng và bén.
50.Lưỡi
sắc đỏ tươi.
51.Lưỡi
mỏng.
52.Lông
màu hồng.
53.Lông
mềm mại sạch sẽ.
54.Con
mắt dài rộng.
55.Hậu
môn có đủ tướng.
56.Tay
chân trắng đỏ như màu hoa sen.
57.Rún
chẳng lộ bày.
58.Bụng
thon thon.
59.Bụng
chẳng lộ.
60.Thân
vững vàng không nghiêng ngả.
61.Thân
giữ sức nặng.
62.Thân
lớn hơn người thường.
63.Thân
cao hơn người thường.
64.Tay
chân mềm mại, láng sạch.
65.Ánh
sáng nơi thân chiếu ra bốn bên cách khoảng một tầm.
66.Đi
có hào quang chiếu sáng.
67.Bình
đẳng xem khắp chúng sanh.
68.Không
khinh khi chúng sanh.
69.Tiếng
nói tùy tâm chúng sanh, không thêm không bớt.
70.Nói
pháp không vướng mắc.
71.Theo
lời lẽ của chúng sanh mà thuyết pháp.
72.Phát
âm đúng với các giọng, các tiếng.
73.Theo
thứ tự nói pháp cho người có nhân duyên.
74.Chúng
sanh xem tướng Phật không thể xiết.
75.Xem
tướng Phật không nhàm chán.
76.Tóc
dài đẹp đẽ.
77.Tóc
không rối.
78.Tóc
xoắn đẹp.
79.Tóc
màu như thanh châu.
80.Tay
chân biểu lộ tướng phước đức.
(Trích
Kinh Bồ Tát Thiện Giới)
Nếu con trai của bệ hạ theo con đường nối
nghiệp cha, thì thái tử sẽ trở thành một Chuyển luân thánh vương vĩ đại nhất
lịch sử. Thái tử sẽ cai trị cả một khu vực rộng lớn, đem lại an lạc và hạnh
phúc cho mọi người. Nhưng nếu thái tử quyết định không làm vua, thì tương lai
của thái tử sẽ rạng rỡ hơn nhiều. Thái tử sẽ trở thành một bậc đại giác, một vị
thầy cao quý, hướng dẫn chúng sinh sống theo đạo lý yêu thương và tỉnh thức.
Khi nhìn thấy những cảnh khổ của cuộc đời, thái tử sẽ lìa bỏ hoàng cung và đi
tìm con đường chấm dứt mọi khổ đau. Rồi thái tử sẽ đem những chân lý ấy để chỉ
dạy cho bất cứ ai muốn lắng nghe.
Không, thưa bệ hạ và hoàng hậu, tôi không khóc
cho đứa trẻ, mà chính là tôi đang khóc cho tôi. Như Ngài cũng đã biết, tôi đã
trải qua toàn bộ cuộc đời để tìm chân lý, mong tìm ra con đường chấm dứt mọi
khổ đau. Và hôm nay tôi đã gặp được thái tử, người mà sau này sẽ chỉ dạy những
điều mà tôi muốn học. Nhưng đến lúc thái tử đủ trình độ để dạy thì có lẽ tôi đã
chết rồi. Tôi không may mắn học được những lời thái tử dạy trên cuộc đời này.
Ðó là lý do tại sao tôi buồn. Ðối với bệ hạ và hoàng hậu không có gì đáng buồn
cả. Hãy sung sướng lên vì mình có được một người con vinh quang như thế”.
Nói xong A Tư Ðà ngắm
nhìn đứa bé lần cuối rồi từ từ rời khỏi hoàng cung. Vua tiễn ông ra về rồi trở
lại chỗ đứa con trai của mình. Vua rất sung sướng khi biết không có gì nguy
hiểm đến tính mạng của thái tử. Ngài nghĩ: “A Tư Ðà nói rằng Tất quý. Nếu thái
tử trở thành một vị vua vĩ đại như điều thứ nhất thì hay biết mấy. Thật là tự
hào làm sao khi có một người con trai lừng danh và uy quyền. Rồi khi con ta tới
tuổi già như A Tư Ðà, lúc đó nó xuất gia trở thành một vị thầy cao quý cũng
được”.
Vua Tịnh Phạn sung
sướng đứng ôm con trong lòng, để mặc cho những dòng suy nghĩ, những giấc mơ đẹp
về đứa con sau này sẽ trở thành vĩ nhân, cứ hiện về trong đầu óc của ông.
Năm thái tử Tất Ðạt Ða
9 tuổi, cậu được vua cha cho đi dự lễ cày ruộng đầu năm. Chính vua Tịnh Phạn là
người chủ tọa buổi lễ này. Các vị đạo sĩ và tu sĩ Bà La Môn được mời tới dự.
Buổi lễ được cử hành nơi thửa ruộng tốt nhất không xa hoàng thành. Không khí
hôm nay thật tưng bừng náo nhiệt. Các thầy Bà La Môn đang tụng kinh rất nghiêm
trang. Vua mặc hoàng bào và các vị quan cũng mặc triều phục đang đứng xoay mặt
về phía lễ đài. Tất Ðạt Ða cũng đứng tham dự lễ, nhưng vì các thầy xướng tụng
quá lâu, cậu cảm thấy nóng nực nên đi tìm chỗ mát dưới tàn cây Diêm phù bên
đường ngồi nghỉ.
Sau khi các thầy Bà La
Môn kết thúc việc đọc kinh, vua Tịnh Phạn bước xuống ruộng, nắm lấy cán cày với
sự phụ tá của hai vị quan võ, vua đã cày luống cày đầu tiên của mùa làm ruộng
mới. Dân chúng vỗ tay hoan hô vang rền. Các nông dân bắt đầu xuống ruộng làm
theo vua. Họ cày những luống cày đầu tiên trên thửa ruộng của họ.
Nghe tiếng reo hò, Tất
Ðạt Ða cũng chạy ra xem. Cậu nhìn thấy một con trâu đang nặng nhọc kéo cày,
theo sau là một bác nông dân lực lưỡng, tay trái cầm cán cày, tay phải cầm cây
roi quất mạnh vào lưng con trâu. Trời nắng gắt, mồ hôi ông ta chảy ra đẫm ướt cả
thân mình. Nơi lưỡi cày đi qua đất được lật ngửa rẽ ra thành luống hai bên
trông thật ngay hàng thẳng lối. Hàng ngàn con giun ở dưới đất chui lên, có
những con bị lưỡi cày cắt làm đôi đang quằn quại trên luống đất. Những con chim
bay sà xuống thấp đớp lấy những con giun đang vùng vẫy hoảng sợ. Rồi cậu lại
thấy một con chim lớn sà xuống rượt bắt những con chim nhỏ để ăn thịt.
Ðạt Ða sẽ trở thành
một vị vua vĩ đại, hoặc trở thành một vị thầy cao quý. Nếu thái tử trở thành
một vị vua vĩ đại như điều thứ nhất thì hay biết mấy. Thật là tự hào làm sao
khi có một người con trai lừng danh và uy quyền. Rồi khi con ta tới tuổi già
như A Tư Ðà, lúc đó nó xuất gia trở thành một vị thầy cao quý cũng được”.
Vua Tịnh Phạn sung
sướng đứng ôm con trong lòng, để mặc cho những dòng suy nghĩ, những giấc mơ đẹp
về đứa con sau này sẽ trở thành vĩ nhân, cứ hiện về trong đầu óc của ông.
Trời lúc này nắng gắt, thái tử vừa mệt vì
nắng, vừa chán nản vì thấy cảnh thú vật ăn thịt lẫn nhau, cậu bèn trở lại chỗ
cây Diêm phù. Những hình ảnh mà Tất Ðạt Ða vừa thấy thật là mới lạ, đã kích
thích cậu ngồi xếp bằng dưới gốc cây và nhắm mắt lại để chiêm nghiệm những gì
đã thấy. Cậu ngồi ngay thẳng với tư thế uy nghiêm và rất đẹp. Hình ảnh người
nông dân cày ruộng cực khổ đổ mồ hôi dưới ánh nắng nóng bức; hình ảnh con trâu
nặng nhọc kéo cày còn bị những nhát roi quất lên mình thành những vết thương
dài; hình ảnh những con giun bị luống cày cắt đứt làm đôi đang vùng vẫy đau
đớn; hình ảnh những con chim nhỏ sà xuống bắt những con giun; hình ảnh con chim
lớn rượt bắt những con chim nhỏ để ăn thịt; những cảnh tượng tàn sát lẫn nhau
để mà sống này cứ hiện lên trong đầu của thái tử. Cuộc sống quả là một cái vòng
đau khổ, tất cả chỉ vì miếng ăn mà phải cực khổ, đấu tranh, tàn sát lẫn nhau để
sống. Thái tử cảm thấy xót thương cho bác nông dân, con trâu, con giun, con
chim ... cậu ước mong sao tất cả người và vật không còn khổ đau nữa, không còn
phải vì sự sống mà ăn thịt lẫn nhau
Một lát sau khi vua và bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề
tới gốc cây Diêm phù để tìm con, thấy Tất Ðạt Ða vẫn còn ngồi đó. Bà cảm động
đến khóc khi thấy Tất Ðạt Ða ngồi đẹp như một pho tượng nhỏ dưới gốc cây. Nhưng
vua thì lại lo ngại vì thái tử mới có 9 tuổi mà đã biết ngồi trầm tư như thế
thì lời tiên đoán của Ðạo sĩ A Tư Ðà có thể trở thành sự thật.
Sau khi sinh thái tử được 7 ngày thì hoàng hậu
Ma Da từ trần. Trước khi qua đời, hoàng hậu đã dặn dò người em của mình là Ma
Ha Ba Xà Ba Ðề (Mahapajapati): “Chắc chị sẽ không còn sống lâu để chăm sóc con
được nữa. Sau khi chị mất, em hãy chăm sóc Tất Ðạt Ða giùm chị”. Người em nhận
lời. Bà hứa sẽ thương yêu thái tử và chăm sóc cháu như là con của mình.
Thái tử lớn lên trở thành một cậu trai thông
minh, xinh đẹp và nhân từ. Vua đã sắp xếp cho thái tử được học với những vị
thầy danh tiếng nhất vương quốc, và thái tử đã tỏ ra là một người thông minh
phi thường. Sau vài ngày đầu học tập, những vị thầy đã trình lên vua rằng:
“Muôn tâu bệ hạ! Thái tử rất thông minh, những bài học chúng tôi chỉ dạy qua
một lần là thái tử hiểu và nhớ rất kỹ. Thật ra có những điều mà thái tử thắc
mắc chúng tôi không thể giải đáp, hoặc thái tử có những hiểu biết mà chúng tôi
chưa hiểu biết”.
Nghe được điều này, niềm tự hào của vua về đứa
con trai của mình càng tăng thêm. Ông sung sướng nghĩ: “Với sự thông minh này,
thái tử con ta chắc chắn sẽ trở thành một vị vua thông minh và đầy uy quyền”.
Thế nhưng thái tử có một điều khác còn nổi bật
hơn cả sự thông minh của cậu: Ðó là lòng tử tế, sự lịch thiệp và tình yêu thiên
nhiên. Ðối với những đứa trẻ cùng trang lứa với thái tử, chúng thích đùa giỡn,
nghịch phá hoặc chia phe đánh nhau trong những lúc rảnh rỗi. Riêng thái tử thì
ngược lại thích ngồi yên lặng một mình. Cậu thương yêu các súc vật nhỏ sống ở
trong vườn của hoàng cung và trở thành người bạn thân thiện của chúng. Những
con vật biết thái tử không làm thương tổn chúng, cho nên chúng không bao giờ sợ
thái tử. Ngay cả những động vật hoang dại, chúng sẽ bỏ chạy khi thấy một người
nào đó đến gần, nhưng mỗi khi thái tử vào trong vườn, chúng lại mừng rỡ mon men
đến gần và ăn các thức ăn trên tay thái tử một cách tự nhiên, vì mỗi lần thái
tử vào trong vườn đều đem theo thức ăn cho chúng.
Một ngày nọ, thái tử đang ngồi trong vườn, có
một đàn thiên nga trắng xóa bay ngang trên đầu. Bất ngờ, một mũi tên bắn lên
không trung, trúng vào một con trong bầy. Nó lảo đảo rồi rơi xuống đất ngay
trước chân của thái tử, mũi tên vẫn còn ghim nơi cánh của nó.
“Ôi! Tội nghiệp con thiên nga quá”, thái tử
nhủ thầm và ôm con chim lên, “đừng có sợ nghe cưng, ta sẽ chăm sóc cho con, từ
từ rồi ta sẽ lấy mũi tên ra cho”. Thế rồi tay này thái tử nhẹ nhàng vuốt ve con
thiên nga để nó bớt sợ, tay kia thái tử rút mũi tên ra một cách thận trọng.
Xong thái tử lấy thuốc rửa chùi vết thương cho nó, vừa làm thái tử vừa thì thầm
an ủi khiến cho nó không còn sợ hãi nữa. Lau vết thương xong thái tử cởi áo
ngoài của mình ra, quấn quanh mình nó cho ấm.
Một lúc sau, có cậu thiếu niên chạy vào trong
vườn. Ðó là người em họ của thái tử tên là Ðề Bà Ðạt Ða (Devadatta). Cậu ta
mang theo cung tên và rất vui mừng nói: “Tất Ðạt Ða, Tất Ðạt Ða, em vừa mới bắn
được một con thiên nga. Anh thấy đấy, em chỉ bắn có một phát thôi là đã hạ được
một con chim rồi. Nó rơi xuống chung quanh đây, anh kiếm giúp giùm em đi”.
Ngay lúc ấy, Ðề Bà Ðạt Ða phát hiện một mũi
tên của mình dính máu nằm ở dưới đất gần bên chân của Tất Ðạt Ða. Nhìn kỹ, cậu
ta thấy thái tử đang cầm vật gì trong tay và rồi nhận ra đó là con thiên nga mà
cậu đang tìm. Cậu la lên: “Anh lấy con thiên nga của em đấy à? Ðưa lại cho em
đi. Em đã bắn hạ nó thì nó là của em”. Ðề Bà Ðạt Ða liền chụp lấy con chim,
nhưng thái tử ôm sát nó vào lòng mình, khiến Ðề Bà Ðạt Ða tức giận vô cùng.
Thái tử nói một cách kiên quyết rằng: “Anh đã
bắt gặp con chim nằm quằn quại đầy máu nơi mình. Anh không thể đưa nó cho bất
cứ ai khi nó đang bị thương”.
Ðề Bà Ðạt Ða la lên: “Nhưng nó là của em.
Chính em đã bắn nó, anh phỗng tay trên của em đâu có được. Hãy trả nó lại đây”.
Hai cậu thiếu niên đứng tranh cãi một hồi. Ðề
Bà Ðạt Ða càng lúc càng trở nên giận dữ, nhưng thái tử vẫn một mực không giao
con thiên nga cho cậu ta. Sau cùng thái tử nói: “Khi hai người tranh cãi một
vấn đề không xong thì nên giải quyết bằng pháp luật. Trước những người thông
thái có thẩm quyền, chúng ta cứ trình bày những sự việc xảy ra, để cho những vị
này quyết định ai đúng. Tôi nghĩ chúng ta nên giải quyết bằng cách này là tốt
nhất”.
Ðề Bà Ðạt Ða không thích ý kiến này lắm, song
chỉ còn có cách này mới hy vọng lấy lại được con thiên nga mà thôi, nên cậu
phải đồng ý. Rồi họ đi vào cung điện, thưa lại với vua và quần thần. Mọi người
đều bật cười với nhau khi nghe họ trình bày sự việc. Các quan nói: “Chỉ có mỗi
một con chim mà làm mất thời giờ của chúng tôi quá, thật không đáng tí nào”.
Nhưng vua lại nói: “Tất Ðạt Ða và Ðề Bà Ðạt Ða là những thái tử của hoàng tộc,
trẫm rất vui mừng vì chúng đã biết nhờ chúng ta giải quyết những việc bất bình
bằng xét xử. Trẫm nghĩ điều đó rất quan trọng, bởi vì chúng là những nhà lãnh
đạo tương lai, biết dùng cách giải quyết bằng pháp lý. Chúng ta hãy xét xử xem
sao”.
Sau đó mỗi cậu trình bày những sự việc đã xảy
ra. Các quan cố gắng lắng nghe để quyết định ai đúng, thì con thiên nga sẽ
thuộc về người đó. Người thì cho rằng Ðề Bà Ðạt Ða bắn con chim, đương nhiên nó
thuộc về cậu ta. Người khác lại cho rằng Tất Ðạt Ða bắt được con thiên nga thì
nó thuộc về thái tử. Các quan bàn luận với nhau mà chưa giải quyết dứt điểm.
Cuối cùng một ông lớn tuổi nhất nói: “Giá trị
của sự sống quý hơn tất cả mọi thứ trên thế gian này. Vì thế tôi nghĩ rằng con
thiên nga thuộc về ai đã cứu sống nó, không thuộc về người đã cướp mất đời sống
của nó. Vậy con thiên nga này là của Tất Ðạt Ða”.
Mọi người vỗ tay hoan hô ý kiến này. Thế là
thái tử Tất Ðạt Ða được mọi người biểu quyết thắng cuộc.
Thái tử ngày càng trưởng thành, lòng nhân ái
của cậu càng được mọi người thương yêu quý mến. Song cha của cậu thì lại lo
rầu. Ông nghĩ: “Tất Ðạt Ða quá nhân ái và nhiều cảm xúc. Ta muốn con trai của
ta trở thành một vị vua vĩ đại, có sức mạnh và đầy uy lực. Nhưng thái tử lại
thích trầm tư một mình ở trong vườn hơn là học cách thức cai trị một vương
quốc. Ta lo lắng con trai của ta chẳng bao lâu sẽ từ bỏ hoàng cung, sống đời ẩn
sĩ như lời đạo sĩ A Tư Ðà đã tiên đoán. Nếu thật sự như vậy thì thái tử sẽ
không bao giờ trở thành vị vua vĩ đại”.
Vua rất lo lắng về việc thái tử sẽ ra đi. Vua đem nỗi lo của mình trình bày cho các quan nghe. Có một người đề nghị: “Tâu bệ hạ, thái tử hay ngồi lặng yên và mơ mộng về những thế giới khác, bởi vì cậu ta chưa tiếp xúc với hiện thực của cuộc đời này. Xin bệ hạ hãy kiếm cho thái tử một người vợ, khi thái tử có vợ và có con rồi sẽ không còn mơ mộng nữa và sẽ quan tâm đến việc học tập, cách thức cai trị vương quốc”.
Vua cho rằng đây là một đề nghị rất tuyệt vời. Vua liền cho tổ chức một buổi nhạc hội lớn ở trong cung điện. Tất cả những thiếu nữ xinh đẹp từ các gia đình quý tộc được mời đến tham dự. Cuối buổi nhạc hội thái tử được mời tặng quàcho từng cô gái, trong lúc thái tử tặng quà các quan theo dõi xem chàng thích cô nào.
Những cô gái trẻ rất lúng túng khi xuất hiện trước thái tử. Thái tử trông đẹp trai và nổi bật hẳn giữa đống quà đắt tiền để trên bàn phía trước mặt. Từng cô gái rụt rè tiến đến chỗ thái tử, không dám nhìn lên. Các cô lặng lẽ nhận nhẫn, vòng xuyến xong vội vã trở về chỗ cũ.
Cuối cùng có một cô gái trẻ tên là Da Du Ðà La (Yasshodara), con gái của ông vua nước lân cận, không như những cô gái khác, cô tiến đến chỗ thái tử một cách tự nhiên. Ðây là lần đầu trong đêm, thái tử nhìn chăm chú vào cô gái này. Nàng rất xinh đẹp và thái tử dường như đã bị sắc đẹp của nàng thu hút.
Họ đứng bất động, bốn mắt nhìn nhau say đắm. Lúc ấy Da Du Ðà La dịu dàng lên tiếng: “Dạ thưa thái tử, quà của em đâu?”. Thái tử như người trong mơ vừa tỉnh, cậu nhìn xuống bàn nhưng quà tặng đã hết. Thái tử vội nói: “Ðây, hãy nhận món quà này”. Thái tử tháo chiếc nhẫn trong tay ra. “Ðây là món quà anh tặng em”. Da Du Ðà La lịch sự đón nhận chiếc nhẫn và từ từ đi về chỗ cũ.
Các quan đã thấy rõ mọi việc và vui mừng đến báo cho vua biết. Họ sung sướng tường thuật: “Tâu bệ hạ, chúng tôi đã tìm được một cô gái xứng đáng cho thái tử. Cô ta là công chúa Da Du Ðà La, con gái của vua Thiện Giác (Suprabuddha) ở nước láng giềng. Xin bệ hạ hãy đi qua gặp ông vua này và xin cưới con gái của ông cho thái tử”.
Vua Tịnh Phạn đồng ý và chuẩn bị lễ vật đi qua gặp cha của Da Du Ðà La. Vị vua này tiếp đón vua Tịnh Phạn rất thân mật và nói: “Tôi biết con trai của Ngài là một người rất tốt, song tôi không thể gả con gái của mình cho một người nào đó một cách đơn giản. Nhiều thái tử khác cũng xin cưới con gái tôi và họ đều là những chàng trai tuyệt vời. Họ rất điệu nghệ trong việc cưỡi ngựa, bắn cung và chơi các môn thể thao quý tộc khác. Thái tử sẽ phải thi tài với những người cầu hôn đó theo phong tục của chúng tôi”.
Sau đó một cuộc thi tài được tổ chức và Da Du Ðà La xinh đẹp là phần thưởng quý giá nhất. Vua Tịnh Phạn rất lo âu, ông nghĩ: “Con trai ta không quan tâm đến các môn chơi của chiến sĩ, liệu nó có thể chiến thắng cuộc thi tài này không?”. Thái tử hiểu được nỗi lo của cha nên thưa rằng: “Xin vua cha đừng quá lo lắng. Con sẽ làm hết khả năng của mình để chiến thắng và Da Du Ðà La sẽ là vợ của con”.
Cuộc thi đầu tiên là bắn cung. Những chàng trai đặt những tấm bia của họ ở khoảng cách xa mà họ có thể bắn trúng chấm giữa của bia. Khi tới lượt Ðề Bà Ðạt Ða – em họ của Tất Ðạt Ða – cậu ta không chỉ bắn trúng điểm giữa của bia, mà còn xuyên qua cả tấm bia. Mọi người hoan hô nồng nhiệt. Riêng Da Du Ðà La lại che giấu nỗi lo của mình. Cô nghĩ: “Làm sao Tất Ðạt Ða yêu quý của ta có thể bắn được như thế?”
Thái tử rất tự tin ở khả năng của mình. Ðến lượt chàng thi bắn, Tất Ðạt Ða đặt
tấm bia xa tít tầm mắt mọi người. Rồi chàng lấy một mũi tên từ trong bao ra nạp
vào cung. Tuy nhiên do thái tử quá mạnh tay nên khi kéo cây cung đã gãy đôi.
Thái tử nói: “Làm ơn tìm cho tôi một cây cung khác, chắc hơn cây cung này”.
Một ông quan nói: “Thưa thái tử, có một cây cung rất cổ ở trong cung. Cây cung này của một chiến sĩ mạnh nhất thời bấy giờ. Kể từ khi ông ta chết đến nay chưa có ai đủ sức kéo nổi dây cung này, huống hồ bắn nó được”.
“Tôi sẽ bắn cây cung ấy”, thái tử tuyên bố trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau khi họ đem cây cung đến, thái tử cầm cây cung lên, thử uốn cong và kéo dây một cách dễ dàng. Sau đó thái tử tra tên vào cung, kéo hết dây và nhắm mục đích. Choang! Phát tên bắn ra kêu to đến nỗi những người trong làng cách xa đó cũng nghe được. Mũi tên xé gió đi rất nhanh, khi nó trúng tấm bia – ngay trung tâm điểm – chẳng những nó không dừng lại đó mà còn xuyên qua tiếp tục và bay xa tít tầm mắt của mọi người.
Ðám đông hoan hô nồng nhiệt “Thái tử chiến thắng! Thái tử chiến thắng!”. Song bắn cung mới chỉ là cuộc thi tài đầu tiên trong ngày. Cuộc thi đấu kế tiếp là kiếm thuật.
Mỗi người chọn một cây kiếm và biểu lộ sức mạnh của mình bằng cách hạ thân cây gần đó với một nhát gươm của mình. Người thứ nhất hạ một thân cây dầy khoảng 15 cm. Người thứ hai 22 cm. Người thứ ba 30 cm.
Vua rất lo lắng về việc thái tử sẽ ra đi. Vua đem nỗi lo của mình trình bày cho các quan nghe. Có một người đề nghị: “Tâu bệ hạ, thái tử hay ngồi lặng yên và mơ mộng về những thế giới khác, bởi vì cậu ta chưa tiếp xúc với hiện thực của cuộc đời này. Xin bệ hạ hãy kiếm cho thái tử một người vợ, khi thái tử có vợ và có con rồi sẽ không còn mơ mộng nữa và sẽ quan tâm đến việc học tập, cách thức cai trị vương quốc”.
Vua cho rằng đây là một đề nghị rất tuyệt vời. Vua liền cho tổ chức một buổi nhạc hội lớn ở trong cung điện. Tất cả những thiếu nữ xinh đẹp từ các gia đình quý tộc được mời đến tham dự. Cuối buổi nhạc hội thái tử được mời tặng quàcho từng cô gái, trong lúc thái tử tặng quà các quan theo dõi xem chàng thích cô nào.
Những cô gái trẻ rất lúng túng khi xuất hiện trước thái tử. Thái tử trông đẹp trai và nổi bật hẳn giữa đống quà đắt tiền để trên bàn phía trước mặt. Từng cô gái rụt rè tiến đến chỗ thái tử, không dám nhìn lên. Các cô lặng lẽ nhận nhẫn, vòng xuyến xong vội vã trở về chỗ cũ.
Cuối cùng có một cô gái trẻ tên là Da Du Ðà La (Yasshodara), con gái của ông vua nước lân cận, không như những cô gái khác, cô tiến đến chỗ thái tử một cách tự nhiên. Ðây là lần đầu trong đêm, thái tử nhìn chăm chú vào cô gái này. Nàng rất xinh đẹp và thái tử dường như đã bị sắc đẹp của nàng thu hút.
Họ đứng bất động, bốn mắt nhìn nhau say đắm. Lúc ấy Da Du Ðà La dịu dàng lên tiếng: “Dạ thưa thái tử, quà của em đâu?”. Thái tử như người trong mơ vừa tỉnh, cậu nhìn xuống bàn nhưng quà tặng đã hết. Thái tử vội nói: “Ðây, hãy nhận món quà này”. Thái tử tháo chiếc nhẫn trong tay ra. “Ðây là món quà anh tặng em”. Da Du Ðà La lịch sự đón nhận chiếc nhẫn và từ từ đi về chỗ cũ.
Các quan đã thấy rõ mọi việc và vui mừng đến báo cho vua biết. Họ sung sướng tường thuật: “Tâu bệ hạ, chúng tôi đã tìm được một cô gái xứng đáng cho thái tử. Cô ta là công chúa Da Du Ðà La, con gái của vua Thiện Giác (Suprabuddha) ở nước láng giềng. Xin bệ hạ hãy đi qua gặp ông vua này và xin cưới con gái của ông cho thái tử”.
Vua Tịnh Phạn đồng ý và chuẩn bị lễ vật đi qua gặp cha của Da Du Ðà La. Vị vua này tiếp đón vua Tịnh Phạn rất thân mật và nói: “Tôi biết con trai của Ngài là một người rất tốt, song tôi không thể gả con gái của mình cho một người nào đó một cách đơn giản. Nhiều thái tử khác cũng xin cưới con gái tôi và họ đều là những chàng trai tuyệt vời. Họ rất điệu nghệ trong việc cưỡi ngựa, bắn cung và chơi các môn thể thao quý tộc khác. Thái tử sẽ phải thi tài với những người cầu hôn đó theo phong tục của chúng tôi”.
Sau đó một cuộc thi tài được tổ chức và Da Du Ðà La xinh đẹp là phần thưởng quý giá nhất. Vua Tịnh Phạn rất lo âu, ông nghĩ: “Con trai ta không quan tâm đến các môn chơi của chiến sĩ, liệu nó có thể chiến thắng cuộc thi tài này không?”. Thái tử hiểu được nỗi lo của cha nên thưa rằng: “Xin vua cha đừng quá lo lắng. Con sẽ làm hết khả năng của mình để chiến thắng và Da Du Ðà La sẽ là vợ của con”.
Cuộc thi đầu tiên là bắn cung. Những chàng trai đặt những tấm bia của họ ở khoảng cách xa mà họ có thể bắn trúng chấm giữa của bia. Khi tới lượt Ðề Bà Ðạt Ða – em họ của Tất Ðạt Ða – cậu ta không chỉ bắn trúng điểm giữa của bia, mà còn xuyên qua cả tấm bia. Mọi người hoan hô nồng nhiệt. Riêng Da Du Ðà La lại che giấu nỗi lo của mình. Cô nghĩ: “Làm sao Tất Ðạt Ða yêu quý của ta có thể bắn được như thế?”
Thái tử nói: “Làm ơn tìm cho tôi một cây cung khác, chắc hơn cây cung này”.
Một ông quan nói: “Thưa thái tử, có một cây cung rất cổ ở trong cung. Cây cung này của một chiến sĩ mạnh nhất thời bấy giờ. Kể từ khi ông ta chết đến nay chưa có ai đủ sức kéo nổi dây cung này, huống hồ bắn nó được”.
“Tôi sẽ bắn cây cung ấy”, thái tử tuyên bố trước sự ngạc nhiên của mọi người. Sau khi họ đem cây cung đến, thái tử cầm cây cung lên, thử uốn cong và kéo dây một cách dễ dàng. Sau đó thái tử tra tên vào cung, kéo hết dây và nhắm mục đích. Choang! Phát tên bắn ra kêu to đến nỗi những người trong làng cách xa đó cũng nghe được. Mũi tên xé gió đi rất nhanh, khi nó trúng tấm bia – ngay trung tâm điểm – chẳng những nó không dừng lại đó mà còn xuyên qua tiếp tục và bay xa tít tầm mắt của mọi người.
Ðám đông hoan hô nồng nhiệt “Thái tử chiến thắng! Thái tử chiến thắng!”. Song bắn cung mới chỉ là cuộc thi tài đầu tiên trong ngày. Cuộc thi đấu kế tiếp là kiếm thuật.
Mỗi người chọn một cây kiếm và biểu lộ sức mạnh của mình bằng cách hạ thân cây gần đó với một nhát gươm của mình. Người thứ nhất hạ một thân cây dầy khoảng 15 cm. Người thứ hai 22 cm. Người thứ ba 30 cm.
Ðến lượt thái tử, chàng chọn một cây mà hai
thân mọc sát nhau. Thái tử vung gươm chém một nhát thật nhanh, cắt ngang thân
cây trong chớp mắt, nhưng nó vẫn đứng sừng sững đó. Lưỡi gươm của thái tử quá
bén đến nỗi vết cắt không làm cho thân cây đổ ngã. Khi mọi người nhìn thấy cây
không đổ, cả đám đông, nhất là Da Du Ðà La than thở: “Thái tử đã thất bại. Nhát
gươm của chàng đã không cắt đứt được thân cây”.
Lúc ấy chợt một cơn gió mạnh thổi đến làm thân
cây lay động và từ từ lật đổ. Lời than của đám đông chuyển qua vui mừng và họ
lại reo lên: “Thái tử chiến thắng”.
Cuộc thi cuối cùng là môn cưỡi ngựa. Một con
ngựa hoang hung dữ, chưa có người nào cưỡi được nó, đang được những người đàn
ông khỏe mạnh dắt ra. Mỗi người cầu hôn gắng leo lên cưỡi nó. Nhưng con ngựa cứ
nhảy chồm lên và đá hậu rất dữ. Không một ai có thể leo lên lưng nó được. Cuối
cùng một chàng trai cũng đã điều phục được nó, ngồi trên lưng nó để cho những
người giữ ngựa dắt đi. Thế nhưng chỉ một lát nó đã nhảy bổ lên với sự giận dữ,
hất người ngồi trên lưng nó rơi xuống đất. Nếu không được sự cứu giúp kịp thời
của những người giữ ngựa lôi anh ta ra chỗ an toàn, thì có lẽ ngựa đã giẫm anh
chết rồi.
Khán giả bắt đầu la ó: “Hãy ngưng ngay cuộc
thi đấu này đi! Không nên để thái tử đến gần con ngựa đó. Nó rất nguy hiểm. Nó
sẽ giết chết thái tử”. Nhưng thái tử vẫn bình tĩnh. Chàng nghĩ: “Tính hiền dịu
có năng lực hơn cả sức mạnh vũ phu”. Thái tử từ từ tiến ra chỗ con ngựa. Chàng
vuốt ve những chòm lông trên đầu nó, nói thì thầm vào lỗ tai nó, nhẹ nhàng vuốt
lên đầu lên mình nó. Thái tử đã làm dịu đi cơn giận dữ và sợ hãi của nó.
Một lát sau con ngựa trở nên hiền lành. Nó bắt
đầu liếm tay của Tất Ðạt Ða. Thái tử vẫn thì thầm dịu ngọt với nó. Sau đó chàng
leo lên lưng nó một cách dễ dàng. Thái tử cưỡi ngựa diễu hành ngang qua mọi
người, trong những tiếng reo hò vui mừng của họ. Thái tử đã đón nhận phần thưởng
quý giá, đó là công chúa Da Du Ðà La xinh đẹp. Cuộc thi tài đã kết thúc. Thái
tử Tất Ðạt Ða đã chiến thắng. Cuộc thi tài đã chứng tỏ thái tử Tất Ðạt Ða không
chỉ có sức mạnh phi thường, mà còn có cả lòng từ bi vô hạn nữa.
Chẳng bao lâu thái tử Tất Ðạt Ða và công chúa
Da Du Ðà La tổ chức lễ cưới. Vua mong muốn con trai của mình sẽ không có ý lìa
bỏ vương quốc, nên ông đã ra lệnh cho xây ba cung điện tuyệt đẹp để cho đôi vợ
chồng mới cưới ở. Vua nói với những người thợ xây dựng: “Hãy làm chúng thật tuyệt
đẹp, ta muốn những ngôi nhà này thật nguy nga lộng lẫy, đến mức khi người ta
vào trong đó sẽ nghĩ rằng họ đang ở nơi thiên đường.
“Ta muốn xây một cung điện mùa Hè làm bằng cẩm
thạch mát rượi và bao quanh là những ao hồ, những suối nước mát. Cái thứ hai là
cung điện mùa Ðông, ấm áp và thoải mái. Cái thứ ba sẽ dùng cho mùa mưa. Vị trí
của các cung điện này sẽ ở giữa một công viên lớn, với cảnh đẹp nhìn từ mọi
mặt. Một bức tường cao lớn xây bao quanh công viên để những thứ phiền toái ở
bên ngoài không thể xâm nhập được. Mọi thứ đều tốt đẹp toàn hảo để thái tử Tất
Ðạt Ða không bị cảnh khổ cuộc đời xúi giục từ bỏ”.
Vua cố gắng làm hết sức mình để cho những ngôi
nhà này thật đẹp, thật hấp dẫn nhằm thu hút thái tử. Vua mời những dàn nhạc tài
nghệ trong nước đến biểu diễn suốt ngày đêm. Tất cả người phục vụ đều là những
cô gái trẻ đẹp giỏi khiêu vũ. Ðầu bếp phải nấu những món ăn ngon và thay đổi
liên tục. Không ai được phép vào trong cung điện làm xáo trộn tâm trí yên tĩnh
của thái tử, gợi cho thái tử ý niệm từ bỏ cung điện.
Ðã nhiều năm qua thái tử Tất Ðạt Ða sống trong
cảnh thiên đường này. Từ sáng tới tối thái tử được tiêu khiển bằng hàng ngàn
thứ khác nhau. Chàng không bao giờ nhìn thấy những thứ không tốt đẹp, không hề
nghe những âm thanh không được êm dịu ngọt ngào. Nếu có một người nữ hầu bị
bệnh, cô ta sẽ lập tức được đưa đi chỗ khác cho đến khi nào lành bệnh mới được
trở lại. Với biện pháp này thái tử sẽ không bao giờ thấy cảnh người bệnh hay
bất cứ cái gì gây ảnh hưởng không tốt đến suy nghĩ của thái tử. Vua còn ra lệnh
tất cả mọi người không được nói những chuyện buồn rầu chán nản với thái tử.
Ngay cả một cây hoa trong vườn bắt đầu héo rũ, người làm vườn phải nhổ bỏ đem
đi nơi khác. Làm như vậy thái tử sẽ không bao giờ thấy những bông hoa héo tàn.
Với những biện pháp này, vua muốn thái tử không thấy biết gì về những nỗi khổ
và những điều bất hạnh của cuộc sống hiện thực.
Thời gian êm đềm trôi qua như một giấc mơ. Da
Du Ðà La đã sinh một bé trai là La Hầu La (Rahula) và mọi việc dường như trôi
qua một cách tốt đẹp. Vua rất hài lòng vì biện pháp của mình đã làm cho thái tử
quan tâm đến đời sống hoàng gia hơn là việc từ bỏ cung điện. Thế nhưng điều đó
không có nghĩa là thái tử sung sướng nhất đời khi có được đứa con trai và sẽ
thỏa mãn đời sống trong sự huy hoàng nhàn hạ ấy. Một ngày nào đó khi nhân duyên
đầy đủ, thái tử cũng sẽ khám phá ra chân lý của cuộc đời.
Một buổi chiều sau khi dùng cơm xong, thái tử
Tất Ðạt Ða nằm nghỉ trên giường, đầu tựa vào lòng của Da Du Ðà La. Nhạc công
đang chơi những điệu nhạc nhẹ nhàng êm dịu. Những nàng hầu đang thì thầm và mỉm
cười vui vẻ với nhau. Kể từ khi chuyển vào cung điện như ý này, chiều nào thái
tử cũng được thưởng thức những cuộc vui như vầy. Nhưng đêm nay thái tử cảm thấy
bồn chồn khó ngủ. Thái tử đề nghị với một nhạc công ưa mến nhất: “Hãy ru ta ngủ
bằng một bài ca hay. Nhớ chọn một bài mà các bạn chưa từng hát trước đây”.
Người ca sĩ thanh lịch vâng lời và bắt đầu hát
những lời ca nhẹ nhàng êm ái, phát ra từ tâm hồn của mình và được nhạc công đệm
phụ họa theo một cách hài hòa. Bài hát ca ngợi vẻ đẹp của thế giới, những vùng
đất xa nơi mà cô ta đã đi qua khi còn thơ ấu; ca ngợi thành phố thịnh vượng nơi
mà dân chúng đang sống tràn đầy hạnh phúc an vui.
Bài ca đã làm say mê thái tử. Ca sĩ vừa hát
dứt lời, thái tử liền hỏi: “Hãy nói thật cho ta biết, có những nơi tuyệt đẹp
bên ngoài bức tường của khu vườn này không? Người ta đã sống như thế nào trong
thành phố ấy? Và những thứ mà thế giới bên ngoài đó có đáng yêu hơn những thứ
ta đã thấy trong cung điện lộng lẫy này không? Hãy nói cho ta biết sự thật về
tất cả những thứ ấy đi”.
Cô gái trả lời: “Thưa thái tử, chắc chắn cung
điện mà thái tử đang sống là tuyệt vời nhất rồi. Thế nhưng cũng còn có nhiều
thứ khác đẹp hơn ở thế giới bao la bên ngoài cung điện này. Những thành phố và
tỉnh lỵ với những dãy phố xinh đẹp; những núi đồi và thung lũng hùng vĩ nên
thơ; có những vùng đất xa xôi nơi ấy người ta nói các thứ ngôn ngữ khác nhau.
Có nhiều thứ mà tiện thiếp đã thấy và cũng còn rất nhiều thứ mà tiện thiếp chỉ
mới nghe đến. Cung điện và khu vườn của thái tử thật ra rất xinh đẹp, song vẫn
còn có rất nhiều thứ đáng được thưởng ngoạn ở bên ngoài của bức tường thành
này”.
Nghe xong thái tử rất mong muốn được ngắm nhìn
tận mắt những cảnh quan đẹp và lạ ấy. Ðã nhiều năm qua thái tử chỉ sống trong
những bức tường của khu vườn và cung điện như ý, hoàn toàn không để ý đến thế
giới bên ngoài. Bây giờ thái tử ao ước được du ngoạn bên ngoài cung điện và
chàng đã gởi lời thỉnh cầu đến vua cha cho phép chàng được dạo quanh thành phố.
Vua đã đồng ý lời thỉnh cầu của con trai. Ông
nghĩ: “Bây giờ con trai ta mong muốn được nhìn thấy vương quốc của ta. Ðây là
thời điểm thích hợp, bởi lẽ nó đã thỏa mãn trong cung điện như ý rồi, bây giờ
để cho nó được nhìn thấy thực tế vương quốc mà nó sẽ cai trị sau này”.
Vua không muốn con trai của mình trông thấy
những thứ phiền lòng khi đi du ngoạn. Bởi vì những thứ ấy có thể khiến cho thái
tử khởi lên ý nghĩ sẽ từ bỏ vương quốc đi theo đời sống ẩn sĩ. Cho nên trước
ngày thái tử đi thăm thành phố, vua đã chỉ thị cho các quan quân đi thông báo
cho dân chúng biết rằng: “Ngày mai thái tử Tất Ðạt Ða sẽ đi thăm thành phố Ca
Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Mọi người hãy trang hoàng nhà cửa và đường phố cho sạch
đẹp. Những người già yếu bệnh tật phải ở trong nhà suốt ngày mai. Mọi thứ trong
thành phố phải tươi tốt sạch đẹp”. Sau đó quân đội đã đưa tất cả những người ăn
xin trên đường phố đến nơi mà thái tử không đi ngang qua.
Sáng hôm sau, Xa Nặc (Channa) người chăn ngựa
đã chuẩn bị con ngựa Kiền Trắc (Kantaka) yêu quý của thái tử và đưa thái tử ra
khỏi hoàng cung. Trong suốt thời thơ ấu đây là lần đầu tiên thái tử được ngắm
nhìn quang cảnh thành Ca Tỳ La Vệ. Và đây cũng là lần đầu người dân của thành
phố được nhìn thấy thái tử của họ. Mọi người rất sung sướng đứng xếp thành hàng
trên những con đường mới trang hoàng để được ngắm nhìn chàng trai trẻ đẹp đi
ngang qua. Họ nói với nhau: “Trông thái tử tướng hảo quang minh và dễ thương
làm sao”. Người thì nói: “Cặp mắt của thái tử đẹp thật. Chúng ta rất diễm phúc
được thái tử sẽ là vua của chúng ta trong tương lai”.
Thái tử cũng rất sung sướng khi nhìn thấy mọi
thứ. Thành phố trang hoàng lộng lẫy và sạch đẹp. Nơi nào cũng thấy người ta vui
cười, hoan hô và ca múa. Trên đường nơi thái tử đi qua dân chúng vui mừng rải
hoa đầy lên người thái tử yêu quý của họ. Thái tử sung sướng nhớ lại: “Bài ca
thật là đúng. Ðây quả là một thành phố phồn vinh, xinh đẹp và tốt lành”.
Thế nhưng khi thái tử và người chăn ngựa đang
đi qua đám đông, họ bỗng phát hiện một người già khom lưng vẻ mặt buồn rầu
trong đám người vui vẻ. Lạ kỳ – bởi vì thái tử chưa thấy những người già như
vầy – nên thái tử quay qua hỏi: “Xa Nặc, người đó là ai vậy? Tại sao ông ta lại
cúi gập người và không ca múa như mọi người? Tại sao gương mặt của ông không
tươi láng như những người khác, mà lại tái nhợt và nhăn nheo? Tại sao ông ta
khác người như vậy?”
Xa Nặc chỉ người đàn ông đang lẩn khuất ở
trong đám đông và trả lời với thái tử rằng: “Thưa thái tử, đó chỉ là một ông
già”.
“Ông già!”, thái tử hỏi lại. “Người này luôn
luôn “già” như vậy từ trước đến nay hay nó chỉ mới xảy ra gần đây?”
Xa Nặc trả lời: “Không, thưa thái tử. Nhiều
năm trước ông già này cũng là một thanh niên khỏe mạnh như những người khác mà
Ngài đã nhìn thấy tại đây hôm nay. Nhưng dần dần sức khỏe của ông ta giảm sút,
thân thể khom dần, màu sắc của gương mặt héo tàn, răng rụng. Và bây giờ thân
thể ông ta tàn tạ như thế”.
Vừa ngạc nhiên vừa buồn bã thái tử hỏi lại:
“Người đàn ông đáng thương ấy chỉ có một mình ông ta đau khổ vì tuổi già sức
yếu? Hay những người khác cũng phải bị như vậy?”.
“Thưa thái tử, tất cả mọi người đều phải trải
qua tuổi già. Thái tử, tôi, vợ và con thái tử cùng mọi người trong cung điện,
chúng ta đang trở nên già từng giây từng phút. Một ngày nào đó chúng ta sẽ
giống ông già này”.
Những lời này làm cho thái tử buồn rầu trầm
ngâm giây lâu. Thái tử giống như người bị khủng hoảng bởi một tiếng sét đột
ngột. Một hồi lâu thái tử lấy lại bình tĩnh và nói: “Này Xa Nặc, những gì ta thấy
hôm nay ta không muốn thấy nữa. Trong giữa những người trẻ tuổi vui sướng này,
cảnh tượng của người già đã làm ta chán ngán. Hãy quay trở lại cung điện. Tất
cả những thú vui của cuộc đi dạo này đã trôi qua. Hãy trở về ngay, ta không
muốn thấy nữa”.
Xa Nặc vâng lệnh. Khi họ về tới nhà, thái tử
đi một mạch vào cung điện không nói với ai lời nào, vội vã lên lầu và vào phòng
riêng ngồi lặng yên một mình. Mọi người nhận ra sự lạ kỳ này và đã cố gắng làm
cho thái tử vui vẻ, nhưng không có kết quả. Tới giờ ăn thái tử không thiết ăn
một món gì, dù cho người đầu bếp đã sửa soạn một bữa ăn thật ngon. Thái tử
không quan tâm đến âm nhạc hay khiêu vũ, chỉ ngồi trầm ngâm một mình: “Tuổi
già, tuổi già, tuổi già ...”
Vua Tịnh Phạn nghe được tâm trạng không hài lòng của con trai mình và cho rằng có điều gì chưa vừa ý. Vua nghĩ: “Ta sẽ sắp xếp một cuộc đi dạo khác cho thái tử, nhưng lần này cảnh quan của thành phố phải tươi đẹp hơn”.
Vì thế Xa Nặc chuẩn bị con ngựa Kiền Trắc một lần nữa và họ đã rời khỏi cung điện đi vào thành phố Ca Tỳ La Vệ. Trên những con đường được trang hoàng xinh đẹp hơn trước, và người ta rất sung sướng đón chào thái tử. Nhưng lần này thái tử và người giữ ngựa lại nhìn thấy một người bệnh xuất hiện ở trong đám đông đang vui cười ấy.
Thái tử chợt thốt lên: “Nhìn kìa Xa Nặc. Người đàn ông kia làm sao mà ho dữ dội, run cả thân thể và rên rỉ thảm thương như thế?”
– Thưa thái tử đó là người bệnh.
– Tại sao ông ta bị bệnh?
– Người ta bị bệnh có rất nhiều lý do, thưa thái tử. Có lẽ ông ta ăn nhầm thức ăn xấu, hoặc là để cho thân thể nhiễm lạnh nên bị mất quân bình và ông ta bị cảm sốt.
– Tất cả những người vui vẻ trong đám đông đó cũng có thể bị bệnh như người này không?
– Thưa thái tử, có. Bất cứ người nào dù khỏe đến đâu cũng có ngày bị bệnh. Bệnh tật không chừa một ai cả.
Cuộc đi du ngoạn lần thứ hai này thái tử bị cú sốc nặng hơn. Thái tử nói: “Ta không sao hiểu nổi, làm thế nào mà người ta lại vô tư và vui sướng khi bệnh tật đang từng phút từng giây đe dọa họ. Thôi hãy quay trở về đi Xa Nặc, ta đã nhìn thấy sự thật về cuộc đời qua cuộc đi dạo ngày hôm nay rồi”.
Khi thái tử trở về cung điện, thái tử cảm thấy buồn hơn cuộc đi dạo lần trước. Không ai làm cho thái tử vui cười được và thái tử cũng không muốn nói chuyện với ai. Khi vua cha biết được con trai mình không được vui sau chuyến đi thứ hai này, ông rất lo âu và bối rối: “Ta đã làm hết sức mình để cho con trai ta vui vẻ, song cuối cùng trái tim của nó lại tràn đầy buồn rầu. Ta phải hỏi các quan xem có cách nào làm cho con trai của ta tươi vui hơn không”.
Các quan đề nghị với vua rằng, lần sau thái tử muốn đi dạo thì không nên để thái tử đi một mình. Tốt hơn nên cho các ca sĩ, vũ công và những người quý phái trong cung cùng đi với thái tử. Họ sẽ có kế hoạch đưa thái tử đi thăm một khu vườn đặc biệt đã được chuẩn bị sẵn, nơi đây thái tử sẽ được giải trí bởi tất cả các thứ vui chơi.
Khi thái tử Tất Ðạt Ða xin đi dạo thành phố một lần nữa, mọi thứ được chuẩn bị chu đáo và hết sức thoải mái. Thành phố được trang hoàng đẹp hơn lần trước. Tất cả những cảnh quan xấu được chuyển đi hết và khu vườn đặc biệt được chuẩn bị với tất cả thú vui trong ấy.
Tất Ðạt Ða và Xa Nặc lại rời khỏi cung điện bằng ngựa. Cùng đi có các quan hộ tống, những nhạc công và người hầu, giống như một buổi lễ diễu hành. Cũng như những lần trước, dân chúng đứng thành hàng trên đường phố và họ say mê ngắm nhìn đoàn diễu hành của hoàng gia.
Song lần đi dạo thứ ba này, thái tử và Xa Nặc lại nhìn thấy một cảnh tượng đau buồn. Ðó là một tốp người u sầu đang khiêng một chiếc quan tài người chết, xuất hiện từ trong căn nhà và đang chậm chạp đi ra đường.
– Xa Nặc, tại sao người đàn ông kia lại nằm im trong chiếc hộp? Ông ta ngủ hay sao? Tại sao những người đi theo lại khóc? Và họ khiêng ông ta đi đâu?
– Thưa Ngài, đó là người chết. Họ đang đưa ông ta đến bờ sông, nơi đó sẽ thiêu thân xác ông ta.
Thái tử ngạc nhiên hỏi: “Chết à? Chết nghĩa là gì? Và nếu họ thiêu đốt thể xác của ông ta, ông ta có bị đau đớn không? Xa Nặc hãy giải thích cho ta rõ vấn đề này”.
Xa Nặc đành phải giải thích cho thái tử biết về những sự thật mà cha của Ngài đã giấu kín từ nhiều năm qua. “Cuộc đời của người đàn ông đó cũng như thái tử và tôi bây giờ. Ông ta sinh ra, lớn lên, rồi trở thành một người đàn ông. Ông ta đã trải qua những sự vui buồn thăng trầm của cuộc sống, nào là xây dựng gia đình, làm việc để nuôi sống bản thân và vợ con. Trải qua thời gian vài chục năm, thân thể ông ta trở nên già yếu, bệnh tật và nằm liệt trên giường. Lúc ấy ông ta không còn nhận thức được gì nữa, ngay cả đến những người bạn thân thiết nhất. Rồi ông ta ngày một yếu dần và cuối cùng hơi thở lìa khỏi xác. Mạng sống đến đây chấm dứt, và ông ta đã chết. Chỉ còn lại cái xác lạnh lẽo không hồn, không còn cảm giác gì nữa cả. Một thân xác mà suốt đời ông ta chăm sóc nó nay trở thành vô nghĩa, chỉ còn lại một nắm tro tàn sau khi thiêu xong”.
– Ai cũng phải trải qua sự chết như vậy phải không Xa Nặc?
– Không, thưa thái tử. Thật ra một số người không có cơ hội sống đến già. Một số người rất ít khi bị bệnh. Song tất cả mọi người đều phải chết một ngày nào đó, không có ngoại lệ khác hơn.
Những lời trình bày của Xa Nặc gây ấn tượng sâu đậm trong tâm thái tử. Chàng nói: “Có nghĩa là một ngày nào đó, vợ ta, con ta, những bạn bè của ta và cả bản thân ta cũng sẽ phải chết? Và tất cả những người hiện diện nơi đây với áo quần đẹp đẽ và rất hãnh diện như thế này cũng sẽ chết ư? Ồ, thật là mù quáng thay, cả thế giới vẫn cứ mải mê ca múa, quay cuồng theo dục vọng trong khi cái chết đang đến gần họ! Tại sao họ lại cứ se sua lo chuyện chưng diện áo quần cho tốt mà không biết một ngày nào đó họ chỉ còn phủ lên mình một tấm vải trắng thô sơ? Phải chăng họ chỉ nhớ những thứ thiển cận mà quên đi sự chết? Hay trái tim của họ quá chai đá đến nỗi ý nghĩ về sự chết không làm họ lo sợ? Xa Nặc, hãy quay xe lại. Ta muốn trở về cung điện”.
Xa Nặc đánh xe ngựa trở về khu vườn xinh đẹp. Nơi đó những ca sĩ và vũ công đẹp nhất cung điện đang chờ đợi cùng với các nhạc công, các quan và một bàn tiệc thịnh soạn được chuẩn bị bởi các đầu bếp của hoàng gia. Họ đón chào thái tử một cách nồng nhiệt khi thái tử từ trên xe ngựa bước xuống. Thế nhưng thái tử không thiết gì cả. Tư tưởng của chàng hoàn toàn bị thu hút bởi những gì đã xảy ra mà chàng chứng kiến khi nãy.
Mọi người cố gắng hết sức để làm vui lòng thái tử. Những vũ công xinh đẹp vui đùa với thái tử, hy vọng làm cho gương mặt đẹp trai buồn rầu của chàng vui tươi trở lại, nhưng thái tử không hề quan tâm đến họ. Trong tâm trí của chàng lúc này là hình ảnh già, bệnh, chết đang chiếm ngự.
Một trong những vị quan thấy thái tử không vui bèn đến động viên chàng. Với lối nói vui đùa của một người bạn, ông nói: “Thật không phải tí nào khi thái tử lại lơ là với những vũ công đáng yêu này và từ chối cuộc vui với họ. Bạn ơi! Bạn còn trẻ đẹp và khỏe mạnh, cứ vui hưởng sự sống đi. Có việc gì đâu? Bộ những cô gái này không đáng yêu đối với bạn sao?”
Với giọng nói cương nghị thái tử trả lời: “Ngài đã hiểu lầm tôi rồi. Chẳng phải tôi không thích những người và những thứ đáng yêu mà tôi thấy nơi đây. Nhưng khi nghĩ đến sắc đẹp của họ sẽ phai tàn, mọi vật sẽ thay đổi nhanh chóng, khiến tôi không thể tìm thấy niềm vui chân thật trong những thứ ấy một tí nào cả.
Nếu không có già, bệnh và chết, khi ấy tôi mới có thể tìm thấy nguồn vui lớn đối với mọi vật. Thế nhưng, những thứ bất hạnh ấy đang chờ đợi chúng ta trong tương lai. Làm sao tôi có thể hài lòng với những thứ vui chóng tàn như thế?
Ngài ắt hẳn phải có một trái tim nồng nhiệt hơn tôi nên mới hài lòng một cách dễ dàng như vậy. Nhưng đối với tôi mọi thứ mà tôi thấy đang bốc cháy bởi khổ đau. Chừng nào tôi chưa tìm ra con đường thoát khỏi những nỗi khổ ấy, thì những thú vui của thế gian này không lôi cuốn được tôi”.
Vì không thể nào làm cho tâm trạng của thái tử vui tươi được, mọi người chán nản trở về hoàng cung. Khi các quan tâu lên đức vua về tình trạng thái tử không được vui vì bị những cảnh bên ngoài tác động, nhà vua quá rầu buồn, đến nỗi không thể ngủ được. Ngài nghĩ: “Ôi! Con trai yêu quý của ta, làm thế nào ta có thể giữ được con ở lại vương quốc? Ta phải làm gì để con hài lòng mà ở lại đây?”. Những ý nghĩ lo sợ đứa con trai yêu quý của mình sẽ từ bỏ hoàng cung, khiến nhà vua tuyệt vọng trằn trọc cả đêm.
Thái tử Tất Ðạt Ða ngày càng chìm sâu vào
những suy tư về cuộc đời. Chàng dường như không còn quan tâm đến một thứ gì.
Chàng cũng không thiết đến ăn uống, sức khỏe bắt đầu kém đi và nước da trở nên
xanh xao. Vua và mọi người rất lo ngại về những thay đổi không tốt này sẽ ảnh
hưởng đến tính mạng của thái tử.
Một hôm thái tử đến gặp vua và thưa: “Thưa
cha, gần đây tâm con không được an, xin phép cha cho con được đi dạo một lần
nữa. Hy vọng sự thay đổi cảnh quan lần này sẽ làm con an vui hơn”.
Vua đồng ý ngay lời thỉnh cầu của con trai
mình. Lần này ông sẽ làm mọi thứ để thái tử được hài lòng và vui tươi trở lại.
Vua ngầm sai các quan theo sát và để ý thái tử.
Thái tử cùng với Xa Nặc và các quan đồng ra
cửa thành phía Bắc du ngoạn. Trong lúc dạo cảnh, các quan đã cố gắng kể những
câu chuyện vui để cho thái tử quên hết những ưu tư, nhưng thái tử cũng chẳng
quan tâm gì đến những lời tán gẫu của họ. Một lúc sau, thái tử nhìn thấy một
người râu tóc cạo sạch, choàng trên mình chiếc áo vá nhiều mảnh, tay ôm bình
bát, mắt nhìn thẳng mà đi, hình dạng rất đoan chính, oai nghi đĩnh đạc khả
kính. Thái tử liền hỏi Xa Nặc:
– Người đó là ai mà tướng mạo và mặc áo khác
người như vậy?
Xa Nặc đáp: Thưa thái tử, vị này là người xuất
gia tu hành, đã thoát ly đời sống thế tục.
Nghe Xa Nặc nói, thái tử lấy làm lạ, xuống xe
đến chào vị tu sĩ và hỏi:
– Thưa ngài, vì sao ngài lại xuất gia tu
hành?
– Thưa thái tử, tôi đã giác ngộ được sự vô
thường giả tạm của cuộc sống, mạng người rất mong manh sớm còn tối mất, một hơi
thở ra không trở lại đã ra người thiên cổ. Tôi không muốn để cho những thứ tiền
tài, sắc đẹp, danh thơm, ăn ngon, ngủ kỹ làm cho mình phải đau khổ, sa đọa vào
vòng tội lỗi. Tôi muốn thoát ra khỏi những ràng buộc của tình ái trầm luân, của
những dục vọng thấp hèn, của đời sống gia đình ràng buộc, để được tự do như
cánh chim bay liệng trên bầu trời bao la vô tận. Vì muốn thoát khỏi nỗi khổ
già, bệnh, chết trong vòng luân hồi sinh tử miên viễn; vì muốn hy sinh thân
mình để tìm chân lý cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô minh đau khổ, nên tôi phát
nguyện xuất gia tìm đạo. Mục đích duy nhất của tôi hiện nay là tìm cho ra hạnh
phúc hoàn hảo nhất và cao thượng nhất. Cho nên xuất gia phải là bậc đại nhân,
đại trí, đại hùng, đại lực, đại từ bi mới có thể thực hiện được.
Thái tử nghe xong rất vui mừng vì đã gặp được
người mở con đường sáng cho mình đi. Những lời lẽ của vị Sa môn nói rất đúng.
Thái tử nghĩ: “Cuối cùng ta cũng đã tìm ra ý nghĩa thật của cuộc đời. Ta cũng
sẽ từ bỏ gia đình, bắt đầu cuộc hành trình tìm hạnh phúc chân thật để chấm dứt
tất cả khổ đau cho mình và cho người”.
Với ý chí kiên cường và trái tim tràn đầy tình
thương, thái tử bảo Xa Nặc quay xe trở về hoàng cung.
Về tới cung điện, thái tử liền đi ngay vào
phòng của vua. Chàng nắm chặt hai bàn tay lại – theo phong tục tập quán khi
thỉnh cầu một việc quan trọng – và thưa: “Thưa cha, con muốn trở nên người lang
thang vô gia cư để tìm ra con đường chấm dứt khổ đau. Xin cha cho phép con được
rời khỏi cung điện này”.
Từ khi thái tử còn là đứa trẻ, vua đã lo sợ
một ngày nào đó mình sẽ phải nghe những lời thỉnh cầu đáng ghét này. Song,
những lo sợ ghê gớm ấy đã thành sự thật. Vua nghẹn ngào rơi lệ trả lời: “Con
trai yêu quý của cha, hãy quên tư tưởng này đi. Con hãy còn quá trẻ, không đủ
sức để sống đơn độc như những đạo sĩ. Ðợi đến khi tuổi già hãy đi cũng không
muộn. Lúc này con phải ở lại Ca Tỳ La Vệ để cai trị vương quốc thay cha”.
“Dạ thưa cha, con sẽ ở lại nếu cha hứa với con
bốn điều sau đây: Làm sao cho con trẻ mãi không già; làm sao cho con khỏe mãi
không bệnh; làm sao cho con sống mãi không chết và làm sao cho con hết khổ đau.
Nếu như cha không hứa giúp được con những điều này thì con phải ra đi tìm câu
giải đáp”.
Vua bị lúng túng bởi những câu hỏi quái lạ này
và ngài bắt đầu gay gắt với thái tử: “Hãy bỏ ngay những ý nghĩ ngu xuẩn này đi,
Tất Ðạt Ða”.
Nhưng thái tử vẫn kiên quyết: “Thưa cha, nếu
cha không thể cứu con thoát khỏi những nỗi lo già, bệnh, chết và khổ đau, thì
xin cha cho con đi để con tìm đường tự cứu lấy mình. Không nên giữ con như một
tù nhân ở đây”.
Vua không thèm nghe nữa. “Không để cho thái tử
rời khỏi nơi đây. Hãy canh gác cung điện cẩn thận!”. Vua ra lệnh cho các quan
xong, buồn rầu bỏ ra khỏi phòng.
Tất Ðạt Ða rời khỏi phòng vua cha và trở về
cung điện của mình. Chàng đi ngang qua những căn phòng trang hoàng lộng lẫy,
những hành lang tráng lệ, những dòng suối lấp lánh rồi về đến phòng của mình.
Chàng đi giữa những nhạc công tài ba và những nàng hầu xinh đẹp đang biểu diễn,
nhưng những thú vui này không còn thu hút thái tử. Lúc này chàng chỉ có một ý
nghĩ trong đầu là rời khỏi cung điện đi tìm chân lý.
Ðêm đó, sau bữa ăn tối, các nhạc công, vũ nữ
và lính canh đều mệt mỏi say ngủ. Ngay cả Da Du Ðà La cùng người con trai La
Hầu La cũng say sưa trong giấc nồng. Thái tử nhìn vợ con và nghĩ: Ta muốn ôm
đứa con trai vào lòng một lần cuối trước khi rời khỏi cung điện, nhưng e rằng
sẽ đánh thức Da Du Ðà La và sẽ rất khó cho việc ra đi của ta. Thôi ta phải rời
khỏi nơi đây gấp và thật im lặng trước khi mọi người thức giấc.
Thái tử bước nhẹ nhàng cẩn thận qua những
người đang nằm ngủ, đi đến cửa sổ và trèo ra bên ngoài. Chàng đi tới chỗ Xa
Nặc, người giữ ngựa đang nằm ngủ và khẽ đánh thức anh ta dậy: “Hãy sửa soạn
ngựa cho ta nhanh đi Xa Nặc. Ta muốn đi ngay đêm nay”.
Xa Nặc rất ngạc nhiên không biết thái tử đi
đâu vào lúc giữa đêm như thế này, nhưng không dám hỏi. Xa Nặc liền sửa soạn con
ngựa Kiền Trắc và dắt nó đến chỗ thái tử. Tất Ðạt Ða vuốt ve con ngựa và thì
thầm với nó: “Kiền Trắc, người bạn thân yêu của ta, chúng ta phải rất yên lặng.
Ta không muốn đánh thức những người canh gác. Ðêm nay là một đêm rất đặc biệt”.
Thái tử và Xa Nặc rời khỏi cung điện. Họ lặng
yên phóng ngựa đi trong đêm tối. Ðến ranh giới của thành phố, thái tử nhìn lại
và phát nguyện: “Nếu ta không chinh phục được tất cả khổ đau, ta sẽ không trở
lại thành phố Ca Tỳ La Vệ xinh đẹp này”.
Họ cưỡi ngựa suốt đêm. Khi mặt trời vừa mọc,
họ đã tới cánh rừng yên tĩnh, nơi có rất nhiều đạo sĩ ẩn tu. Thái tử rất sung
sướng và nghĩ: “Bây giờ cuộc tìm đạo của ta bắt đầu”. Rồi chàng quay qua Xa Nặc
nói: “Xa Nặc, ta rất cám ơn sự giúp đỡ của bạn. Ta đã tới nơi mà ta mong muốn.
Bây giờ là lúc bạn và con ngựa trở về cung điện được rồi”.
Xa Nặc không thể tin là thái tử sẽ không trở
về cung điện với mình. Anh ta đứng lưỡng lự nơi đó, nước mắt bắt đầu chảy ra
hai khóe mắt. Thái tử hiểu được nỗi buồn của Xa Nặc và an ủi anh ta: “Xa Nặc
yêu quý của ta, đừng khóc nữa. Trước sau gì chúng ta cũng phải chia tay nhau.
Hãy cầm những báu vật này mà ta đang đeo, ta không cần đến chúng nữa. Hãy trở
lại hoàng cung và nói với cha ta rằng, ta ra đi không phải vì buồn giận, cũng
không phải là ta không yêu thương gia đình. Thực ra vì ta thương yêu họ rất
nhiều nên ta mới phải từ bỏ họ để ra đi như vầy. Nếu ta khám phá ra được con
đường chấm dứt tất cả khổ đau, ta sẽ trở lại giúp họ. Nếu ta thất bại thì chẳng
khác gì ta từ biệt luôn. Sớm hay muộn gì cái chết cũng sẽ đến với chúng ta bằng
mọi cách. Hãy để ta bắt đầu cuộc hành trình tìm chân lý”.
15. Cuộc tìm đạo bắt đầu
Khi Tất Ðạt Ða đứng một mình trong cánh rừng bắt đầu cuộc tìm đạo vĩ đại, chàng nghĩ: “Kể từ hôm nay ta không còn là thái tử nữa. Vì thế ta không thể trang phục như người thế tục ...”. Sau đó, chàng gặp một người thợ săn nghèo và nói với ông ta rằng: “Thưa ông, tôi không cần những đồ tơ lụa quý giá này. Nếu tôi sống trong rừng, tôi sẽ mặc những thứ vải thô giống như ông. Vậy chúng ta hãy trao đổi lẫn nhau”. Người thợ săn rất ngạc nhiên và rất vui sướng được trao đổi những y phục đắt tiền như thế và nhanh chóng chấp nhận lời đề nghị của Tất Ðạt Ða.
Bây giờ chàng đã hoàn toàn ăn mặc như người đạo sĩ bần hàn thật sự. Tất Ðạt Ða bắt đầu tìm thầy chỉ dạy cho chàng con đường chấm dứt mọi khổ đau.
Chàng đi vào rừng sâu và thưa hỏi tất cả các đạo sĩ mà chàng gặp. Nơi chàng đi qua đều được mọi người tiếp đón kính trọng. Cho dù bây giờ chàng mặc đồ rách rưới và chỉ ăn chút ít thức ăn xin được, nhưng tướng mạo của chàng trông vẫn rất đẹp trai và nổi bật. Khi những người ở trong rừng thấy chàng đến, họ đều nói với nhau: “Trông ông ta rất đặc biệt. Trên gương mặt ông biểu hiện nghị lực kiên cường. Nếu ông ta đi tìm chân lý, chắc chắn sẽ đạt được ý nguyện”.
Một hôm, chàng đang đi bộ ngang qua thành Vương Xá (Rajagriha), thủ đô của Ma Kiệt Ðà, chàng đến gần cổng của cung điện. Một trong những vị quan của nhà vua nhìn thấy chàng và vội về báo tin cho vua biết.
Ông ta nói một cách vui mừng: “Tâu bệ hạ, hạ thần vừa nhìn thấy một người đàn ông rất tuyệt vời trong thành phố. Ông ta mặc đồ rách rưới và xin thức ăn từ nhà này đến nhà khác, nhưng hạ thần tin chắc ông ta là một người đặc biệt. Gương mặt ông ta đầy nghị lực và dáng đi rất oai nghiêm. Dường như có một thứ ánh sáng kỳ diệu tỏa ra từ thân thể ông ta”.
Vua nghe xong rất vui mừng và cho mời Tất Ðạt Ða vào cung điện. Họ nói chuyện với nhau một lúc và vua rất khâm phục trí thông minh, tính khiêm tốn và lòng tử tế của chàng. Vua nói: “Tôi chưa gặp một người nào mà tôi cảm thấy mến mộ tin yêu như Ngài. Xin Ngài ở lại Vương Xá và giúp tôi cai trị vương quốc này”.
Tất Ðạt Ða trả lời một cách lịch sự: “Tâu bệ hạ, tôi đã có cơ hội để cai trị một vương quốc rồi, nhưng tôi đã từ bỏ. Tôi không quan tâm đến sự giàu sang và quyền lực, chỉ muốn tìm chân lý. Xin cám ơn ân huệ của ngài, tôi đến đây chỉ để tìm thầy học đạo”.
Khi ấy vua cúi chào người đàn ông rách rưới và nói: “Xin chúc may mắn trên con đường tìm đạo của Ngài. Nếu sau này Ngài tìm ra chân lý, xin hãy trở lại chỉ dạy cho tôi. Nhưng nếu Ngài thất bại tôi vẫn sẵn sàng đón nhận Ngài về vương quốc của tôi”.
Tất Ðạt Ða cám ơn lòng tốt của vua và rời khỏi cung điện tiếp tục con đường tầm sư học đạo của mình.
16. Sáu năm chiến đấu
Cuối cùng Tất Ðạt Ða đã đến khu rừng nơi mà các đạo sĩ thông thái đang sống. Ðầu tiên Ngài học với Arada và Udraka. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài quán triệt những gì mà họ đã dạy, nhưng Ngài vẫn không hài lòng, Ngài tự nhủ: “Những vị thầy của ta là bậc cao quý, song những lời mà họ dạy ta không đem lại sự chấm dứt tất cả khổ đau. Ta phải tự mình tiếp tục tìm kiếm”.
Ngài tiếp tục cuộc hành trình của mình và đi đến con sông Nairangang, gần đất thánh Gaya. Ngài vượt qua con sông và vào khu rừng của bờ bên kia. Tại đây, Ngài gặp một nhóm năm người. Ðời sống của họ hết sức đơn giản. Họ ăn rất ít, sống ở ngoài trời và ngồi im lặng nhiều giờ mỗi ngày.
Tất Ðạt Ða hỏi họ: “Tại sao các vị lại hành hạ xác thân như thế?”
Họ trả lời: “Ða phần người ta sống trên cuộc đời này đều dung dưỡng xác thân, song vẫn phải chịu nhiều khổ đau, chúng tôi nghĩ rằng, nếu mình có thể chịu đựng được sự đau khổ của thân xác, thì sẽ tìm ra được phương pháp làm chủ tất cả khổ đau”.
Tất Ðạt Ða tự nghĩ: “Ðã nhiều năm qua ta sống trong cung điện hưởng mọi thứ sung sướng. Ta được đối xử rất tử tế, nhưng trong tâm vẫn không được an lạc. Có lẽ những người này nói đúng. Ta sẽ nhập môn với họ để thực hành khổ hạnh xem có thể đưa đến sự chấm dứt khổ đau không”.
Từ đó, Ngài bắt đầu thực hành khổ hạnh như những vị này. Ngài ngồi từ giờ này đến giờ khác cùng một chỗ, cho dù hai chân và lưng đau đớn vô cùng, Ngài cũng không động đậy. Ngài chịu đựng cái nắng nóng cháy của mùa Hè; rồi đến những cơn gió lạnh buốt của mùa Ðông. Ngài chỉ ăn một ít thức ăn đủ để cầm hơi tu tập. Ngài tự nghĩ: “Ta phải tiếp tục khổ hạnh và quyết tâm khám phá con đường thoát khỏi tất cả khổ đau”.
Năm đạo sĩ rất kinh ngạc về cách tu của Tất Ðạt Ða. Họ nói với nhau: “Chúng ta chưa thấy một người nào có sự quyết tâm như ông này. Ông ta kiềm chế thân mình không một chút lơ là. Nếu một người nào đó thành công trong sự thực hành phương pháp khổ hạnh này thì người đó chính là Tất Ðạt Ða. Chúng ta hãy ở gần bên ông ta để khi ông ta khám phá ra chân lý chúng ta sẽ được học hỏi với ông”.
Tất Ðạt Ða hành xác ngày càng khắc nghiệt hơn. Từ lúc bắt đầu khổ hạnh, Ngài chỉ ngủ vài giờ mỗi đêm, rồi cuối cùng Ngài thức suốt không ngủ. Ngài cũng không ăn một bữa ăn nào mà chỉ dùng một vài thứ hạt hoặc trái cây do gió bay vào vạt áo của Ngài.
Thân hình Ngài ngày một gầy ốm tiều tụy. Thân thể mất đi sự tươi nhuận và bao phủ đầy bụi bẩn. Lúc này Ngài trông giống như một bộ xương người còn sống. Nhưng Ngài vẫn kiên trì không từ bỏ thực hành khổ hạnh.
Sáu năm trời trôi qua. Tất Ðạt Ða rời khỏi cung điện và từ bỏ những lạc thú lúc 29 tuổi. Bây giờ Ngài đã 35 tuổi, trải qua 6 năm khổ hạnh, ăn, mặc, ngủ đều thiếu kém. Một hôm Ngài nghĩ: “Bây giờ ta đã đến gần mục đích hơn sáu năm về trước chưa? Hay là ta vẫn vô minh như trước? Khi còn là thái tử ta đã sống trong sự xa hoa và tận hưởng mọi lạc thú của cuộc đời. Ta đã lãng phí nhiều năm trong ngục tù dục lạc.
Khi ta từ bỏ hoàng cung bắt đầu tầm đạo, ta đã sống trong rừng, hang động và không có một thứ gì khác ngoài những bữa ăn đơn sơ và khổ hạnh thân thể. Thế nhưng cho đến nay ta vẫn chưa tìm ra con đường chấm dứt khổ đau. Bây giờ ta mới hiểu ra rằng, thật sai lầm khi hành hạ thân xác như thế này. Nó cũng giống như sự sai lầm lãng phí nhiều năm trong dục lạc nơi cung điện trước đây. Muốn tìm ra chân lý ta phải đi theo con đường trung đạo, không nên hưởng thụ quá và cũng không nên khổ hạnh ép xác quá”.
Ngài nhớ lại nhiều năm về trước. Sau khi nhìn thấy người chết, Ngài đã thiền định ở dưới cây Gioi. Ngài nghĩ: “Sau lúc thiền định ấy, tâm trí ta rất thanh tịnh. Ta có thể nhận định sự vật một cách rõ ràng. Bây giờ ta cố gắng tập trung ý chí như vậy một lần nữa xem sao”.
Ngài cố gượng dậy và đi đến bên bờ sông để tắm. Tuy thế Ngài quá yếu đến nỗi té xuống sông và có nguy cơ bị chết đuối. Ngài cố gắng hết sức mình bám lấy bờ đất lần mò lên bờ. Lên được tới bờ, Ngài ngồi nghỉ và thở một lát.
17. Cúng dường
Trong một ngôi làng nhỏ ở bìa rừng có một gia đình chăn nuôi và có người vợ tên là Sujata. Cô mới sinh được đứa con đầu lòng nên rất sung sướng. Cô vắt sữa tốt nhất từ những con bò của chồng mình và chuẩn bị cho một bữa ăn ngon từ nguồn sữa này. Bấy giờ cô đang đem thức ăn này vào trong rừng để dâng cúng cho thần linh mà cô tin tưởng đang ngự trị ở đó. Cô thường cầu nguyện những vị thần linh này và tỏ lòng biết ơn các vị thần đã giúp cô sinh được một người con trai mạnh khỏe.
Tất Ðạt Ða từ từ mở mắt ra và thấy tô sữa ở trước mặt mình. Ngài mỉm cười tỏ lòng biết ơn đối với Sujata và nhấc tô sữa lên miệng uống. Ngài uống tới đâu cảm thấy thân mình tươi nhuận đến đó. Uống xong, Ngài đặt tô xuống và cám ơn nàng: “Có lẽ cô nghĩ tôi là một vị thần linh, nhưng tôi chỉ là một người đi tìm chân lý mà thôi. Phẩm vật cúng dường của cô đã giúp cho thân thể của tôi khỏe mạnh trở lại. Bây giờ tôi tin chắc rằng tôi sẽ tìm ra chân lý. Cầu chúc cho cô gặt hái được nhiều quả tốt về việc cúng dường hôm nay. Xin cám ơn cô”.
Năm người sống trong khu rừng với Tất Ðạt Ða thấy Ngài nhận phẩm vật cúng dường của Sujata, họ rất thất vọng và nói với nhau: “Tất Ðạt Ða đã từ bỏ sự tầm đạo. Ông ta không đi theo con đường của bậc Thánh nữa. Ông ta đã tắm rửa và dùng thức ăn ngon trở lại. Làm sao chúng ta có thể ở lại đây với ông ta được nữa? Chúng ta hãy rời khỏi khu rừng này và đi đến Ba La Nại (Banares). Chúng ta sẽ tiếp tục thực hành khổ hạnh trong khu vườn Lộc Uyển gần đấy”.
Họ từ bỏ ra đi và nghĩ rằng Tất Ðạt Ða đã không còn chú ý đến việc khám phá chân lý nữa. Thế nhưng sau khi dùng sữa, thân thể khỏe mạnh trở lại, Tất Ðạt Ða chuẩn bị thiền định và quyết tìm ra chân lý mà Ngài đã dầy công mấy năm qua. Ngài đứng dậy, lội qua con sông và hướng về phía trước.
18. Cuộc chiến đấu vĩ đại
Giây phút mà thế giới mong đợi bây giờ đã đến. Tất Ðạt Ða, người đã từ bỏ vương quốc để tìm chân lý, đang tiến tới một gốc cây. Trên đường đi, Ngài đi ngang qua một người đang mang mớ cỏ tươi mới cắt và Ngài đã xin ông một mớ. Ngài sẽ dùng mớ cỏ này để ngồi thiền.
Khi Ngài đến gần cây bồ đề thì bầu không khí lúc này trở nên yên tĩnh hơn. Và cả thế giới dường như đang nín thở hồi hộp chờ đợi những điều sắp xảy ra. Những cành cây lay động như chào đón Ngài. Ngài từ từ ngồi xuống dưới tàn cây.
Tất Ðạt Ða cẩn thận xếp mớ cỏ thành tấm nệm nhỏ và ngồi xuống, mặt quay về hướng Ðông. Ngài xếp tréo chân theo tư thế thiền định vững chắc và đặt hai bàn tay trên lòng hai bàn chân. Rồi Ngài cương quyết phát nguyện: “Nếu ta không đạt được đạo quả, cho dù phải bỏ mạng tại đây, ta cũng sẽ không rời khỏi nơi này”. Lúc ấy, chư thiên trên hư không rất vui mừng khi nghe lời nguyện lớn của Tất Ðạt Ða. Ðó là ngày trăng tròn tháng tư lúc mặt trời sắp lặn.
Thế nhưng truyền thuyết cho rằng, không phải ai cũng hoan hỷ lúc nghe Ngài phát nguyện lớn. Có một thế lực gọi là Mara thì lại hoảng sợ và giận dữ. Mara là tên gọi mà người Ấn Ðộ cổ cho là sức mạnh của tội lỗi, nó quấy phá tâm trí của chúng ta. Mara là tính tham lam, giận hờn, ngu si, ganh tỵ, nghi ngờ của chúng ta và bao gồm cả những độc tố khác đem đến cho người ta sự bất hạnh và đau khổ.
Và thế là Mara đem tất cả sức mạnh tội lỗi của hắn cố gắng tìm mọi cách để quấy phá Tất Ðạt Ða. Chúng gây ra một trận bão khủng khiếp và phóng những tia sấm sét xuống quanh Ngài. Chúng tạo ra cơn gió mạnh đến nỗi mọi thứ chung quanh Ngài hư hại nặng nề. Thế nhưng bên dưới những nhánh cây, mọi thứ vẫn yên lặng, nó được che chở bởi năng lực thiền định của Tất Ðạt Ða.
Mara nghĩ: “Nếu những vũ khí này và bóng ma sợ hãi không làm rối loạn thiền định ông ta thì sắc đẹp có thể quấy nhiễu được tâm trí ông ta”. Lúc đó tất cả lũ yêu ma biến thành những cô gái đẹp nhất và rất quyến rũ. Những cô gái hấp dẫn này khiêu vũ phía trước Ngài, nhưng cũng không ảnh hưởng gì đến sự thiền định của Ngài. Chúng gợi lại những cung điện như ý, cảnh vợ con, thiên nhạc, thức ăn ngon mà Ngài đã hưởng trước đây. Nhưng không một thứ nào có thể phá hoại sự tập trung thiền định của người đi tìm chân lý.
Mara cảm thấy thất bại. Hắn cố gắng xuất một chiêu cuối cùng. Sau khi giải tán bộ hạ của mình, hắn xuất hiện một mình trước Tất Ðạt Ða. Hắn nói với Ngài bằng một giọng chế giễu: “Ông là thái tử Tất Ðạt Ða vĩ đại à? Ông nghĩ ông là người tu thiền vĩ đại ư? Rất nhiều vĩ nhân đã thất bại khi đi tìm chân lý, nhưng ông lại nghĩ rằng mình sẽ thành công ư?
Thật là ngu xuẩn làm sao! Ông không biết rằng cần phải có một sự chuẩn bị cho việc tìm kiếm chân lý sao? Ông đã làm được gì để xứng đáng cho việc thành công? Trước hết ông đã lãng phí mất 29 năm nuông chiều bản thân. Rồi lại lãng phí 6 năm đói khát hành hạ xác thân. Bây giờ ông ngồi đây, nghĩ rằng trí huệ sẽ đến với ông. Thật ngu xuẩn làm sao! Hãy từ bỏ việc thiền định này đi, hoặc ít nhất ông cũng chỉ cho tôi biết ai là nhân chứng cho lời thề của ông sẽ được thành công, trong khi tất cả mọi người đều thất bại”.
Những lời khinh bỉ này không đủ tác dụng làm phiền Tất Ðạt Ða. Ngài im lặng nhấc tay phải khỏi lòng bàn chân, đưa ra phía trước và đụng xuống đất. Vâng, chính mặt đất này là nhân chứng của Tất Ðạt Ða. Ðã vô số kiếp Ngài xuất hiện trên mặt đất này với nhiều hình dạng khác nhau. Ngài đã thực tập lòng khoan dung và tính kiên nhẫn. Ngài đã thực hành yêu thương và tránh làm hại kẻ khác. Ngài đã tập trung cho việc tìm chân lý. Ngài đã làm tất cả những việc này. Khi thì là người nam, khi thì là người nữ, khi là người giàu, khi là kẻ nghèo – đã nhiều kiếp qua, Ngài làm những việc này chỉ vì mục đích khám phá ra con đường chấm dứt tất cả khổ đau và chính trái đất này là nhân chứng của Ngài.
Mara thật sự biết mình thất bại và biến mất như một cơn ác mộng. Tất Ðạt Ða hoàn toàn thảnh thơi một mình. Những đám mây đen tách ra và mặt trăng chiếu sáng trên bầu trời. Không khí tỏa mùi thơm dìu dịu và ánh sáng lấp lánh trên đầu ngọn cỏ. Mọi thứ đã sẵn sàng!
19. Thành Đạo
Tâm trí của Tất Ðạt Ða yên lặng và êm dịu. Sự tập trung của Ngài càng sâu thêm và tâm trí càng sáng hơn. Nhờ trí tuệ bừng sáng, Ngài đã nhìn thấy những kiếp quá khứ. Ngài thấy rằng khi một đời sống này chấm dứt thì đời sống khác bắt đầu. Chết chỉ là một sự chấm dứt của thể xác, đời sống lại tiếp tục tìm kiếm một thân xác mới và cứ tiếp diễn mãi như vậy.
Ngài thấy rằng khi một người làm điều tội lỗi trong một đời – như làm hại người khác – người đó sẽ chịu đựng những đau khổ trong tương lai. Nhưng khi một người làm những điều thiện với tâm từ thì hạnh phúc và niềm vui cũng theo liền với họ. Những hành động mà người ta tạo ra không bị mất, nó sẽ theo họ từ đời này tới đời khác, tùy theo hành động tốt hay xấu, mà họ có được hạnh phúc hay phải chịu đau khổ.
Khi Ngài khám phá ra tất cả đời sống liên kết nhân quả mật thiết với nhau như vậy, chân lý đã xuất hiện trong tâm trí của Ngài. Mặt trời, những hành tinh, tất cả các ngôi sao và những thiên hà của vũ trụ, tất cả xuất hiện trong thiền định của Ngài. Ngài thấy rằng mọi thứ, từ hạt bụi nhỏ nhất đến ngôi sao lớn nhất đều liên kết với nhau. Mọi vật thì luôn luôn thay đổi: Thành, hoại và thành, cứ tiếp tục như thế. Không một việc gì xảy ra mà không có nguyên nhân.
Rồi Ngài thấy rõ tất cả những khổ đau của cuộc đời. Ngài thấy rằng – từ sinh vật nhỏ nhất đến ông vua vĩ đại nhất – chạy theo lạc thú chỉ kết thúc với những bất hạnh. Và Ngài cũng khám phá ra nguyên nhân của tất cả những bất hạnh ấy. Ngài thấy rằng người ta không thật sự hiểu rõ mọi sự vật luôn luôn thay đổi. Do sự mù quáng này mà họ đấu tranh, cướp bóc và giết hại để thỏa mãn những dục vọng của mình, nhưng những ham muốn này không bao giờ đem lại hạnh phúc lâu dài cho họ. Họ cứ mãi quanh quẩn trong vòng được mất, rồi lại tìm kiếm.
Ngài thấy rằng người ta chiến đấu chống lại những thứ mà họ không thích. Cuộc đời của họ tràn đầy những thù hận và phiền não. Và mỗi lần họ làm hại người khác, họ sẽ đau khổ vì hành động đó không sớm thì muộn. Họ trải qua đời này tới đời khác tạo ra nhiều bất hạnh hơn cho chính họ. Họ đang đi tìm an lạc, nhưng ngược lại, lại đi tìm đau khổ.
Trong đêm thứ 49, vào khoảng 10 giờ lúc canh hai, Ngài chứng
“Túc mệnh minh”, thấy rõ tất cả các đời qúa khứ một đời, hai đời, ba đời, mười
đời, trăm đời, nghìn đời; sinh chỗ này, tên là gì, cuộc sống ra sao, chết sinh
vào đâu v.v…, tất cả đều biết hết. Tiếp tục thiền định, tới khoảng nửa đêm lúc
canh ba, Ngài chứng “Thiên nhãn minh”, thấy được tất cả bản thể vũ trụ, biết
cấu tạo thế giới vũ trụ thành trụ hoại diệt (thành lập, sống còn, tiêu hủy,
chết mất) như thế nào, đều biết hết thảy. Vẫn kiên cố hành thiền tam muội
(thiền định), đến khoảng 2 giờ sáng lúc canh tư, Ngài chứng “Lậu tận minh”, vô
lậu, sạch hết trần cấu (sạch hết ô nhiễm). Biết rõ Khổ, nguồn gốc của đau khổ,
cách trừ đau khổ, và con đường đạo qủa viên mãn. Ngài tự biết: “Ta đã giải
thoát, không còn tái sinh nữa, tu hành viên mãn, việc làm đã xong, không còn
trở lại trạng thái khi xưa nữa”.
Ngài từ từ mở mắt to ra chợt thấy sao Mai lấp lánh,
hốt nhiên “Toàn Ngộ”, thấu triệt cùng khắp chân lý vũ trụ,
thần thông quảng đại, Ngài đạt Đạo Vô Thượng, thành bậc “Chính Đẳng Chính Giác”
nên được gọi là bậc Toàn Giác, Như Lai, hiệu Phật Thích Ca Mâu Ni.
Khi Tất Ðạt Ða thấu suốt mọi lẽ, bóng tối vô minh tan mất trong tâm của Ngài. Thân hình tỏa ánh sáng rực rỡ. Ngài không còn là một người thường nữa. Ngài đã giác ngộ chân lý. Bây giờ Ngài là Phật. Ngài đã đạt được mục đích giải thoát.
Với nụ cười an lạc, Ngài nhẹ nhàng xả thiền. Lúc ấy trời đã sáng, mặt trời vừa mới mọc ở phương Ðông.
20. Dạy đạo cho ai?
Toàn thể vũ trụ vui mừng về một buổi sáng huy hoàng ấy. Những bông hoa tươi thắm
bừng nở khắp mọi nơi và tỏa hương thơm ngào ngạt trong không khí. Những con
chim hót líu lo vui mừng và sinh vật khắp nơi quên đi tất cả sợ hãi. Những cầu
vồng và những đám mây mầu sắc tuyệt đẹp xuất hiện trên nền trời và mọi người
rất ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh quan kỳ diệu này.
Ðức Phật tràn đầy hạnh phúc. Tâm của Ngài không còn vô minh và đau khổ nữa, mà chỉ có một niềm an lạc vô hạn. Trải qua những ngày và những tuần Ngài ở bên cạnh cây Bồ đề chứng nghiệm những hạnh phúc mà Ngài đã đạt được.
Rồi Ngài nghĩ: Thật là rất khó khi ta đạt đến chỗ chấm dứt khổ đau và trở thành người giác ngộ. Ta phải nỗ lực tinh tấn cả một thời gian dài. Trong khi mọi người đang bị vô minh che lấp chân tính, không biết ai sẽ là người có thể hiểu được chân lý mà ta khám phá? Và ta sẽ chỉ dạy họ bằng cách nào? Có lẽ tốt hơn hết ta cứ sống an lạc một mình trong những cánh rừng và thưởng thức hạnh phúc của một người đã giác ngộ.
Lúc ấy, Ngài nghe âm thanh trong thâm tâm của mình rằng: Xin đừng quên chúng tôi. Chúng tôi đã đau khổ quá lâu rồi. Chúng tôi đã chờ đợi giờ phút quan trọng này từ khi Ngài mới sinh và có thể lâu hơn nữa. Chúng tôi hy vọng và cầu nguyện Ngài sẽ từ bỏ đời sống thái tử và khám phá con đường chấm dứt mọi khổ đau.
Nhưng rồi một ý nghĩ khác lại khởi lên trong tâm Ðức Phật: Ai sẽ là người có thể theo được lời dạy của ta truyền trao? Ai sẽ là người đủ nghị lực và dũng cảm? Ai sẽ là người đủ tinh tấn và kiên nhẫn?
Rồi những âm thanh trong thâm tâm lại phát ra: Sự thật thì tâm trí chúng tôi đang bị đám mây vô minh che phủ, thưa Ngài. Nhưng những người bị vô minh như vầy cũng không đến nỗi dầy đặc lắm. Vì thế xin Ngài hãy chỉ dạy cho chúng tôi chân lý mà Ngài đã chứng ngộ.
Rồi Ðức Phật mỉm cười và nói: Ồ, dĩ nhiên ta sẽ chỉ dạy. Lý do duy nhất mà ta từ bỏ đời sống thái tử là đi tìm chân lý để giúp mọi người. Bây giờ ta đã thấu rõ chân lý. Ta sẽ làm hết sức mình để truyền bá con đường chấm dứt khổ đau.
Song ngay cả một vị Phật cũng không thể xóa bỏ khổ đau của người khác nếu họ không cố gắng tự cứu lấy mình. Mình phải tự cứu mình trước khi nhờ đến bác sĩ cứu chữa. Cũng vậy, họ phải muốn lắng nghe những lời dạy về sự thật trước khi người ta cứu giúp họ. Bất cứ ai đến với ta bằng tâm hồn rộng mở muốn tìm hiểu, ta sẵn sàng chỉ dạy họ bằng mọi cách.
Rồi Ngài nghĩ: Ai trong số tất cả những người trên thế gian này ta sẽ chỉ dạy đầu tiên? Ai là người sẵn sàng tiếp thu được? Ngài nhớ đến Arada và Udraka, hai vị thầy mà Ngài đã gặp cách đây 6 năm. Họ sẽ là người tốt nhất để truyền pháp, nhưng hiện nay họ đã chết.
Rồi Ngài nghĩ đến năm người đã tu khổ hạnh với Ngài một thời gian dài trong rừng. Ngài nghĩ: Họ sẵn sàng hiểu được chân lý. Ta sẽ đến dạy họ đầu tiên.
Ngài quan sát thấy rằng năm người này đang ở vườn Nai gần Ba La Nại, thành phố linh thiêng của Ấn Ðộ cổ. Ðức Phật tuyên bố: Ta sẽ đến đó và bắt đầu chuyển pháp luân.
Ðức Phật tràn đầy hạnh phúc. Tâm của Ngài không còn vô minh và đau khổ nữa, mà chỉ có một niềm an lạc vô hạn. Trải qua những ngày và những tuần Ngài ở bên cạnh cây Bồ đề chứng nghiệm những hạnh phúc mà Ngài đã đạt được.
Rồi Ngài nghĩ: Thật là rất khó khi ta đạt đến chỗ chấm dứt khổ đau và trở thành người giác ngộ. Ta phải nỗ lực tinh tấn cả một thời gian dài. Trong khi mọi người đang bị vô minh che lấp chân tính, không biết ai sẽ là người có thể hiểu được chân lý mà ta khám phá? Và ta sẽ chỉ dạy họ bằng cách nào? Có lẽ tốt hơn hết ta cứ sống an lạc một mình trong những cánh rừng và thưởng thức hạnh phúc của một người đã giác ngộ.
Lúc ấy, Ngài nghe âm thanh trong thâm tâm của mình rằng: Xin đừng quên chúng tôi. Chúng tôi đã đau khổ quá lâu rồi. Chúng tôi đã chờ đợi giờ phút quan trọng này từ khi Ngài mới sinh và có thể lâu hơn nữa. Chúng tôi hy vọng và cầu nguyện Ngài sẽ từ bỏ đời sống thái tử và khám phá con đường chấm dứt mọi khổ đau.
Nhưng rồi một ý nghĩ khác lại khởi lên trong tâm Ðức Phật: Ai sẽ là người có thể theo được lời dạy của ta truyền trao? Ai sẽ là người đủ nghị lực và dũng cảm? Ai sẽ là người đủ tinh tấn và kiên nhẫn?
Rồi những âm thanh trong thâm tâm lại phát ra: Sự thật thì tâm trí chúng tôi đang bị đám mây vô minh che phủ, thưa Ngài. Nhưng những người bị vô minh như vầy cũng không đến nỗi dầy đặc lắm. Vì thế xin Ngài hãy chỉ dạy cho chúng tôi chân lý mà Ngài đã chứng ngộ.
Rồi Ðức Phật mỉm cười và nói: Ồ, dĩ nhiên ta sẽ chỉ dạy. Lý do duy nhất mà ta từ bỏ đời sống thái tử là đi tìm chân lý để giúp mọi người. Bây giờ ta đã thấu rõ chân lý. Ta sẽ làm hết sức mình để truyền bá con đường chấm dứt khổ đau.
Song ngay cả một vị Phật cũng không thể xóa bỏ khổ đau của người khác nếu họ không cố gắng tự cứu lấy mình. Mình phải tự cứu mình trước khi nhờ đến bác sĩ cứu chữa. Cũng vậy, họ phải muốn lắng nghe những lời dạy về sự thật trước khi người ta cứu giúp họ. Bất cứ ai đến với ta bằng tâm hồn rộng mở muốn tìm hiểu, ta sẵn sàng chỉ dạy họ bằng mọi cách.
Rồi Ngài nghĩ: Ai trong số tất cả những người trên thế gian này ta sẽ chỉ dạy đầu tiên? Ai là người sẵn sàng tiếp thu được? Ngài nhớ đến Arada và Udraka, hai vị thầy mà Ngài đã gặp cách đây 6 năm. Họ sẽ là người tốt nhất để truyền pháp, nhưng hiện nay họ đã chết.
Rồi Ngài nghĩ đến năm người đã tu khổ hạnh với Ngài một thời gian dài trong rừng. Ngài nghĩ: Họ sẵn sàng hiểu được chân lý. Ta sẽ đến dạy họ đầu tiên.
Ngài quan sát thấy rằng năm người này đang ở vườn Nai gần Ba La Nại, thành phố linh thiêng của Ấn Ðộ cổ. Ðức Phật tuyên bố: Ta sẽ đến đó và bắt đầu chuyển pháp luân.
21. Lời dạy đầu tiên
Con đường đến Ba La Nại khá xa, Ðức Phật đi bộ thong thả xuyên qua những ngôi làng và nông trại. Ai trông thấy Ngài cũng đều bị thu hút cả. Ngài có tướng mạo cao lớn và đẹp đẽ, dáng đi rất trang nghiêm và uyển chuyển. Chỉ nhìn thấy Ngài thôi, người ta cũng cảm thấy sự thanh tịnh và an lạc trong tâm hồn của mình. Ngài nói chuyện rất lịch sự và nhã nhặn với mọi người khi tiếp xúc. Dù họ là người giàu hay kẻ nghèo, bình thường hay thông minh, quý tộc hay hạ tiện, Ðức Phật đều đối xử bình đẳng với một tình thương bao la và trân trọng.
Ngài đã đến vườn Nai. Từ xa năm đạo sĩ nhìn thấy Ngài đi đến, họ bèn nói nhỏ với nhau: “Ðó là Tất Ðạt Ða vô tích sự. Chúng ta không nên tiếp đón một người đã từ bỏ lối tu khổ hạnh như thế. Hãy phớt lờ đi nếu ông ta đến gần chúng ta”. Thế nhưng khi Ðức Phật đi đến, họ cảm thấy có một cái gì rất đặc biệt toát ra từ thân tướng oai nghiêm của Ngài. Họ quên cả kế hoạch phớt lờ mà trái lại còn tự động đứng lên hết khi Ngài đến gần. Với lòng thành kính vô hạn, họ vội vã chuẩn bị chỗ ngồi, dâng khăn lấy nước cho Ngài và nói: “Hoan nghênh Tất Ðạt Ða đã đến vườn Nai. Chúng tôi rất vinh dự khi bạn tiếp tục tu học với chúng tôi”.
Ðức Phật trả lời: “Tôi rất cám ơn lòng tử tế tiếp đón của các thầy. Song, xin quý thầy hiểu cho, tôi hiện nay không còn là Tất Ðạt Ða như trước và cũng không nên gọi bằng danh xưng đó nữa”.
Họ bèn hỏi lại: “Vậy chúng tôi sẽ gọi Ngài bằng danh xưng gì?”.
Ðức Phật trả lời: “Toàn thể thế giới đang say ngủ trong vô minh. Khi một người nào đó khám phá ra chân lý, thì họ không còn bị ngủ mê nữa. Nay tôi đã thức tỉnh, đã khám phá ra chân lý. Bất cứ ai tỉnh thức như vậy đều được tôn xưng là Phật”.
Lúc đó, năm đạo sĩ với lòng kính trọng vô hạn nói: “Thưa Ðức Phật, xin Ngài chỉ dạy cho chúng tôi những gì Ngài đã thực hành để chúng tôi có thể được thức tỉnh như Ngài”.
Thứ hai là Tập đế (nguyên nhân gây ra đau khổ). Khi tâm trí chúng ta đầy những tham lam và dục vọng, sẽ dẫn đến tất cả những khổ đau. Thí dụ, nếu một người giàu có tham đắm gia sản của mình, thì tính keo kiệt của anh ta sẽ đem đến cho anh ta nhiều nỗi khổ.
Thứ ba là Diệt đế (sự chấm dứt khổ đau). Khi chúng ta tẩy trừ tất cả những tham lam và dục vọng ra khỏi tâm trí của chúng ta thì những khổ đau sẽ chấm dứt. Chúng ta sẽ tận hưởng sự an lạc và hạnh phúc mà không ngôn từ nào có thể tả được.
Thứ tư là Ðạo đế. Con đường dẫn đến chấm dứt tất cả khổ đau. Nếu chúng ta tránh làm hại sự sống của kẻ khác, nếu chúng ta tập trung được ý chí của mình và nếu chúng ta đạt được trí tuệ, thì mỗi người chúng ta đều có thể tận hưởng hạnh phúc trọn vẹn, chấm dứt được tất cả khổ đau.
Khi họ nghe Ðức Phật giảng dạy về Pháp Tứ diệu đế này, năm đạo sĩ cảm thấy hạnh phúc như người tìm thấy kho báu vàng bạc. Họ nói: “Thưa Ðức Phật, Ngài quả thật đã tìm ra chân lý. Xin Ngài hãy dạy chúng tôi con đường đạt được trí tuệ và hạnh phúc chân thật, chúng tôi xin nguyện sẽ làm đệ tử của Ngài”.
Lúc Ðức Phật thuyết bài pháp đầu tiên này, rất nhiều chư thiên đến nghe và bay đến cuối địa cầu ca ngợi: “Ðức Phật bắt đầu thuyết pháp độ sinh. Cả thế giới đều đón mừng”.
22. Nỗi buồn của người mẹ
Ðức Phật thuyết pháp rất nhiều cách. Ðối với người bình thường hay những đứa trẻ, Ngài giảng dạy bằng những câu chuyện dễ hiểu. Ðối với những người có kiến thức cao, Ngài giảng dạy phân tích tỉ mỉ về các phương pháp tu tập. Ðối với một số người Ngài giảng dạy bằng cách im lặng. Nhưng có lẽ lời dạy có năng lực nhất của Ngài chính là sự gương mẫu được thể hiện qua bản thân bằng cuộc sống của Ngài. Ngài luôn luôn hành động với sự tử tế và lòng bao dung. Ngài kiên nhẫn đối với mọi người, ngay cả đối với những người ngu dốt nhất.
Không bao lâu Ðức Phật được mọi người kính trọng và họ trở thành đệ tử của Ngài. Nếu một người nào đó có vấn đề gì, họ sẽ tìm đến Ðức Phật để nhờ Ngài giúp đỡ. Có một người đàn bà tên là Gotami, con trai của bà vừa mới chết, bà đi khắp mọi nơi tìm người cứu sống con bà. Bạn bè của bà thấy vậy động lòng thương chỉ dẫn cho bà: “Gotami, chị hãy đi đến gặp Ðức Phật. Có lẽ Ngài sẽ giúp được chị việc này”.
Bà tìm đến chỗ Ðức Phật với đứa con ẵm trên tay. Bà khóc than: “Kính thưa Ðức Phật, xin Ngài làm ơn cứu sống đứa con tôi”. Ðức Phật trả lời một cách từ mẫn: “Tôi có thể cứu sống được con bà, bà Gotami ạ. Nhưng trước tiên bà phải đem cho tôi một thứ này. Hiện tại tôi cần hạt giống của cây Mù tạc để làm thuốc. Tuy nhiên nó phải được lấy từ một nhà chưa từng có người chết”.
Gotami nghe xong liền cáo từ Ðức Phật đi tìm hạt giống cây Mù tạc. Bà đến một nhà nọ và hỏi người chủ nhà ở đó, cô ta trả lời: “Dĩ nhiên bà có thể có được hạt giống cây Mù tạc. Bà có thể có bất cứ thứ gì bà muốn ... Song bà nên biết rằng chồng tôi đã chết năm ngoái”.
Gotami thốt lên: “Ô, thế là không được! Ta phải đi tìm nơi khác”. Và bà đi vội qua nhà bên cạnh.
Thế nhưng, nơi nào bà đến họ cũng trả lời tương tự. Ai cũng muốn giúp bà ta cả, song gia đình nào bà ta đến cũng có người chết. Một người nói với bà: “Tôi đã mất đứa con gái cách đây 3 năm”. Người khác thì nói: “Anh trai tôi mới chết ngày hôm qua tại đây”.
Chiều ngày hôm đó bà trở lại chỗ Ðức Phật. Ngài hỏi: “Bà đã kiếm được hạt giống cây Mù tạc chưa? Ðứa con trai của bà đâu, sao không đem nó theo?”
Bà trả lời: “Kính thưa Ðức Phật, hôm nay tôi đã khám phá ra rằng không chỉ có một mình tôi mất người con yêu quý, mà nơi nào tôi đến, gia đình họ cũng có người chết cả. Tôi thật là ngu dại khi nghĩ đến việc cứu sống con trai của mình. Tôi đã chấp nhận cái chết của nó và tôi đã hỏa thiêu nó trưa nay rồi. Bây giờ tôi đến đây xin được nghe những lời chỉ dạy của Ngài. Tôi rất mong được lắng nghe”.
Lúc đó, Ðức Phật nói: “Gotami, hôm nay bà đã học được rất nhiều. Chết sẽ phải đến với tất cả mọi người dù sớm hay muộn. Song nếu bà học và hiểu được sự thật này bà sẽ sống và chết trong an lạc”. Rồi Ðức Phật giảng dạy thêm cho bà. Sau khi nghe và thực hành lời Phật dạy, bà đã tìm được sự an lạc và hạnh phúc thật sự. Một thứ hạnh phúc mà trước đây chưa khi nào bà có được.
23. Người đàn ông thô lỗ
Ðức Phật vẫn thản nhiên trước những lời nhục mạ của gã đàn ông này. Ngài từ tốn hỏi lại ông ta: “Nếu ông đem tặng một món quà cho người khác, người ta không nhận thì món quà đó thuộc về ai?”.
Người đàn ông rất ngạc nhiên khi phải trả lời một câu hỏi kỳ lạ. Ông nói: “Tất nhiên nó sẽ thuộc về tôi. Vì đó là món quà của tôi”.
Ðức Phật mỉm cười và nói: “Rất đúng đấy, ông bạn ạ. Nó cũng giống như việc giận dữ của ông khi nãy. Nếu ông sân hận nhục mạ tôi, tôi không nhận thì những lời nhục mạ ấy thuộc về ông. Khi ấy, chính ông là người bất hạnh chứ không phải tôi. Tất cả những hành động xấu mà ông gây ra sẽ trở lại làm tổn hại lấy bản thân mình.
Nếu ông muốn chấm dứt những bất hạnh nơi thân, ông phải từ bỏ sự sân hận và trải rộng tình thương đối với mọi người. Khi ông thù ghét người khác, chính bản thân ông trở thành bất hạnh. Nhưng khi ông thương yêu mọi người thì hạnh phúc sẽ đến cả đôi bên”.
Người đàn ông trẻ tuổi lắng nghe cặn kẽ những lời dạy quý báu của Ðức Phật, ông nói: “Bây giờ con đã hiểu. Xin Ngài hãy dạy con cách thức thực hiện tình thương. Con xin được trở thành đệ tử của Ngài”.
Ðức Phật trả lời: “Rất tốt. Ta sẽ chỉ dạy cho bất cứ ai thật sự muốn nghe”.
24. Những lời khen
Chẳng bao lâu sau khi thành đạo, Ðức Phật đã có một số lượng lớn đệ tử đi theo Ngài từ nơi này đến nơi khác. Một hôm, có một đệ tử đến chỗ Ðức Phật và thưa: “Bạch Ðức Thế Tôn, Ngài thật sự là một bậc thầy vĩ đại nhất từ trước đến giờ”.
Ðức Phật không thích được tôn vinh bằng những lời khen ngợi ấy. Ngài hỏi: “Ông đã gặp tất cả những vị thầy vĩ đại nhất xuất hiện nơi thế gian này chưa?”.
– Bạch Ðức Thế Tôn, chưa.
– Và ông có biết tất cả những vị thầy đang sống và sẽ sinh ra trong tương lai không?
– Bạch Ðức Thế Tôn, không.
– Thật là dại khờ khi nói rằng ta là vị thầy vĩ đại nhất trong tất cả các vị thầy, trong khi ông không biết điều đó chính xác hay không.
Người đệ tử trả lời: “Nhưng con chỉ muốn ca ngợi Ngài, bởi vì những lời Ngài chỉ dạy rất đúng và đem lại lợi ích an lạc cho mọi người”.
– Nếu ông nhận thấy những lời dạy của ta có ích, điều tốt nhất là ông nên thực hành chúng. Ðừng nên phí sức khen ngợi ta. Lý do duy nhất mà ta xuất hiện nơi cuộc đời này là hướng dẫn mọi người con đường thoát khổ. Nếu ông muốn ta hài lòng thì hãy thực hành theo những lời dạy của ta tốt hơn là ca ngợi ta.
Vào một lần khác, Ðức Phật hỏi một người đệ tử: “Nếu ông mua một số vàng quý giá, có khi nào ông trả tiền liền mà không chịu thử trước không?”.
– “Thưa Ðức Thế Tôn, dĩ nhiên là không. Có thể nó là đồ giả và lúc đó con sẽ mất tiêu số tiền đã mua nó”.
Ðức Phật nói: “Rất đúng. Việc đó cũng giống như phương pháp mà ta đã chỉ dạy. Ông sẽ không bao giờ chấp nhận những gì mà ta nói về chân lý một cách đơn giản, bởi vì nó là lời dạy của ta. Tốt hơn hết, ông nên thử thực hành những lời dạy bằng chính bản thân mình xem chúng là đúng hay sai. Nếu ông thấy là đúng và có ích thì nên thực hành theo. Không nên chỉ vì kính trọng mà tin theo lời dạy của ta.
Cũng thế, đừng nên phê phán những lời dạy của người khác và nói họ là người không tốt. Có rất nhiều vị thầy cao cả khác ở trên thế gian này và họ có phương pháp riêng của họ để chỉ dạy mọi người. Ðừng nên xúc phạm đến phẩm giá của họ. Ðây không phải là nhiệm vụ của ông. Nhiệm vụ của ông là tìm cho ra hạnh phúc và giúp cho người khác có được hạnh phúc như mình”.
Rồi Ðức Phật chỉ dạy thêm cho các đệ tử hãy cố gắng làm trong sạch ý nghĩ của mình, có lòng từ đối với kẻ khác và kính trọng mọi người.
25. Yêu thương loài vật
Một hôm, theo thường lệ tại Ấn Ðộ, người ta giết súc vật để làm vật hy sinh hay hiến cúng đến những vị thần của họ. Họ cho rằng dâng cúng như vậy để cho các vị thần vui lòng, rồi những vị thần ấy sẽ ban cho họ những thứ mà họ cầu xin, như giàu có và mùa màng tươi tốt.
Nơi nào Ðức Phật đi qua, Ngài cũng nói với người ta rằng, việc giết hại súc vật để tế lễ như vậy là sai. Một số người nghe Ngài nói bèn tức giận trả lời: “Sách Thánh của chúng tôi dạy phải giết súc vật để hiến cúng các vị thần. Tại sao Ngài lại dám nói ngược lại?”.
Ðức Phật ôn tồn đáp: “Thật là không đúng khi mình làm cho kẻ khác bất hạnh để mình được hạnh phúc. Ai cũng ham muốn được sống như các ông. Vì thế, nếu các ông giết súc vật để tế lễ, các ông chỉ là người ích kỷ mà thôi. Và tôi cũng đã lặp đi lặp lại nhiều lần rằng người ích kỷ khó có thể tìm thấy hạnh phúc nơi cuộc đời này.
Cũng thế, bất cứ vị thần nào đòi hỏi được hiến máu súc vật trước rồi mới đến giúp đỡ mọi người thì không phải là những vị thần tốt. Những vị thần như thế không xứng đáng để được mọi người lễ bái. Song, nếu các ông hành động bằng tình thương và sự tử tế đối với mọi người, xem súc vật và loài người bình đẳng thì chính những vị thần ấy sẽ lễ bái các ông”.
Mọi người nghe được những lời dạy đầy trí tuệ của Ðức Phật và nhận thấy rất đúng. Họ liền bỏ tục lệ giết súc vật để tế lễ. Nhờ vậy mà những con vật sắp sửa bị hy sinh làm vật tế lễ được thoát chết.
26. Sức mạnh của tình thương
Ðức Phật không quên lời hứa với vua Tần Bà Sa La là sẽ trở lại thuyết pháp cho ông. Khi nhân duyên đã đủ, Ngài hành đạo đến Vương Xá. Bên ngoài thành phố huy hoàng này có một ngọn đồi gọi là Vulture, Ðức Phật và các đệ tử của Ngài đã đến và ở trong những hang động tại đây.
Vua Tần Bà Sa La thường đi đến mỏm Vulture để nghe Ðức Phật thuyết pháp. Những người ở thành phố cũng đến nghe pháp. Chẳng bao lâu, số người xin quy y Phật ngày càng đông. Một thời gian sau, vua và một số người giàu khác đã dâng cúng cho Ðức Phật và những đệ tử của Ngài những khu vườn, để mọi người có thể đến đó lắng nghe Ðức Phật thuyết pháp một cách thoải mái.
Người em họ của Phật là Ðề Bà Ðạt Ða trở nên ghen tị với Phật. Ông ta nghĩ: “Phật được rất nhiều người theo làm đệ tử và mọi người đều biểu lộ lòng kính trọng đến Ngài. Ta với Phật cũng cao quý như nhau, nhưng họ lại phớt lờ với ta. Ta phải tìm cách phá Ngài”.
Ông ta nghĩ cần phải nhờ sự giúp đỡ của người khác để giết Phật mới được. Vì thế, ông đã tìm đến con trai của vua Tần Bà Sa La: “Bộ thái tử không muốn làm vua à? Thái tử không thấy cha của thái tử có tất cả của cải và quyền lực đấy sao? Nếu thái tử giúp tôi giết Ðức Phật thì tôi sẽ giúp thái tử giết vua cha. Lúc đó, thái tử sẽ trở thành một ông vua trong hoàng cung này, tha hồ mà hưởng sung sướng”.
Thái tử đã nghe theo những lời xúi giục độc ác của Ðề Bà Ðạt Ða. Hai người đã tìm mọi cách để ám sát đức Phật. Một hôm, Ðức Phật đang ngồi thiền gần mỏm Vulture, họ lăn một tảng đá lớn từ trên đồi xuống chỗ Ngài. Nhưng may thay, tảng đá lăn xuống bị vỡ làm đôi văng ra hai bên, nhờ vậy Ðức Phật không bị tổn hại.
Một lần khác, Ðức Phật đang đi ngang qua thành phố với các đệ tử của Ngài. Hai người biết Phật sẽ đi qua và đã chuẩn bị kế hoạch. Họ mua một con voi và cho nó uống rượu thật say. Khi nó đã uống say rồi, họ dùng cây đánh nó cho đến lúc nó giận điên lên. Họ thả nó ra ngay khi Ðức Phật đi ngang qua, hy vọng con voi say sẽ giẫm chết Ðức Phật.
Khi các đệ tử thấy con voi điên tấn công, họ sợ quá bỏ chạy tứ tung, chỉ còn có A Nan (Ananda), người hầu cận Ðức Phật, ở lại bên cạnh thầy, ông sợ quá nắm y Ðức Phật.
Ðức Phật nhìn thấy con voi đang chạy đến, thay vì hoảng sợ, Ngài lại rải lòng từ đến con vật đáng thương. Dù con voi đang say và điên cuồng, nó cũng cảm nhận được sức mạnh tình thương của Ðức Phật. Nó ngưng hung hăng tấn công và đi đến chỗ Ðức Phật một cách hiền từ, cúi đầu xuống chân của Ðức Phật.
Ðức Phật vuốt nhẹ lên đầu con voi và quay qua nói với A Nan: “Phương pháp hay nhất để phá tan hận thù là tình thương. Hận thù không thể tiêu diệt được hận thù. Ðây là một bài học rất quan trọng cần phải nhớ”.
Một hôm, Ðức Phật nói với các đệ tử của Ngài rằng: “Ðã đến lúc ta phải trở về Ca Tỳ La Vệ, thăm lại thành phố và người thân của ta”. Sau đó, Ðức Phật và các đệ tử đã đi bộ về thăm quê hương của Ngài. Tin Ðức Phật sắp trở về lan truyền khắp thành phố. Mọi người rất nôn nóng và sung sướng chờ đợi. Họ reo lên khi nghe tin này: “Ôi! Lâu lắm rồi, thái tử yêu quý của chúng ta mới trở về. Bây giờ Ngài đã là một vị thầy cao quý với hàng ngàn đệ tử tùy tùng. Thật là sung sướng làm sao khi gặp lại Ngài”.
Vua Tịnh Phạn rất vui mừng khi nghe tin con trai của mình sắp trở về. Vua được biết Ðức Phật có rất nhiều đệ tử và lấy làm tự hào: “Con trai của ta đã trở thành bậc thầy hướng đạo cao quý của tất cả. Phật đã đem lại vinh dự lớn cho dòng họ ta”.
Vua nôn nóng muốn biết tin Ðức Phật, bèn sai một người hầu cưỡi ngựa đi dò la trước, xem con trai của ông sau nhiều năm xa cách nay như thế nào. Sáng hôm sau, người hầu đã tìm đến nơi Ðức Phật và các đệ tử của Ngài đang ở. Lúc ấy, Ðức Phật và các đệ tử mỗi người ôm một bình bát. Họ đi từ nhà này đến nhà khác trong làng để xin thức ăn. Sau đó, họ trở về nơi ở và cùng nhau dùng bữa ăn đơn giản trong sự im lặng.
Người hầu trở về Ca Tỳ La Vệ và tường thuật lại tất cả những gì mình thấy cho vua nghe. Nghe xong, vua rất giận. Ông la lên: “Ôi, con trai của ta, một hoàng tử cao quý lại trở thành một kẻ ăn xin. Thật là nhục nhã làm sao! Ta phải chặn đứng việc này ngay tức khắc”.
Vua liền cưỡi ngựa ra khỏi hoàng cung và đi
thẳng đến nơi con trai mình đang ở. Khi vua nhìn thấy Tất Ðạt Ða, bây giờ là
một vị Phật rạng rỡ với rất nhiều đệ tử vây quanh, ông rất cảm động. Sau khi
hỏi thăm sức khỏe, vua liền hỏi Phật: “Cha nghe nói con đi xin thức ăn vào mỗi
buổi sáng, điều đó có đúng không?”.
Ðức Phật trả lời: “Dạ thưa cha, đúng. Ðó là tục lệ của chúng con”.
Vua nghe nói càng trở nên tức giận hơn trước. Ông quát: “Tục lệ của chúng ta à! Con sinh ra trong dòng họ vua chúa, có bao giờ phải đi xin một thứ gì để sống đâu. Tục lệ của chúng ta là ăn bằng chén vàng, chén bạc chứ không phải ăn bằng bát gỗ, bát sành. Con hãy nói cho cha biết tục lệ của chúng ta là gì?”.
Ðức Phật lễ phép trả lời: “Dạ thưa cha, cha thuộc dòng dõi vua chúa. Ðây là sự thật. Thế nhưng, hiện nay con thuộc dòng dõi đạo sư, dòng dõi của những vị Phật trong quá khứ. Những bậc thầy này luôn luôn tự hạ thấp mình. Họ nhận thức ăn của mọi người. Cho nên con nói tục lệ xin ăn của chúng con có nghĩa là tục lệ của các Ðức Phật”.
Rồi Ðức Phật nắm tay cha thân mật, vừa đi vừa tâm sự với cha. Phật giảng cho vua nghe về những chân lý cao quý và con đường dẫn đến chấm dứt tất cả khổ đau. Sau khi nghe Phật nói pháp, vua rất hoan hỷ và khen ngợi: “Quả thật con đã tiến xa hơn trước nhiều. Khi con còn bé, đạo sĩ A Tư Ðà đã tiên đoán rằng sau này con sẽ trở thành một vị thầy cao quý. Cha đã phải cúi đầu trước con, ồ quên, Ðức Phật. Bây giờ Phật hãy nhận cha là đệ tử”.
Ðức Phật trả lời: “Dạ thưa cha, đúng. Ðó là tục lệ của chúng con”.
Vua nghe nói càng trở nên tức giận hơn trước. Ông quát: “Tục lệ của chúng ta à! Con sinh ra trong dòng họ vua chúa, có bao giờ phải đi xin một thứ gì để sống đâu. Tục lệ của chúng ta là ăn bằng chén vàng, chén bạc chứ không phải ăn bằng bát gỗ, bát sành. Con hãy nói cho cha biết tục lệ của chúng ta là gì?”.
Ðức Phật lễ phép trả lời: “Dạ thưa cha, cha thuộc dòng dõi vua chúa. Ðây là sự thật. Thế nhưng, hiện nay con thuộc dòng dõi đạo sư, dòng dõi của những vị Phật trong quá khứ. Những bậc thầy này luôn luôn tự hạ thấp mình. Họ nhận thức ăn của mọi người. Cho nên con nói tục lệ xin ăn của chúng con có nghĩa là tục lệ của các Ðức Phật”.
Rồi Ðức Phật nắm tay cha thân mật, vừa đi vừa tâm sự với cha. Phật giảng cho vua nghe về những chân lý cao quý và con đường dẫn đến chấm dứt tất cả khổ đau. Sau khi nghe Phật nói pháp, vua rất hoan hỷ và khen ngợi: “Quả thật con đã tiến xa hơn trước nhiều. Khi con còn bé, đạo sĩ A Tư Ðà đã tiên đoán rằng sau này con sẽ trở thành một vị thầy cao quý. Cha đã phải cúi đầu trước con, ồ quên, Ðức Phật. Bây giờ Phật hãy nhận cha là đệ tử”.
Chẳng bao lâu, Da Du Ðà La,
vợ của Ngài, La Hầu La, con trai của Ngài, cùng họ hàng và những người trong
hoàng cung cũng xin làm đệ tử của Ngài. Họ nói với Ðức Phật: “Chúng tôi rất bất
hạnh khi Ngài từ bỏ chúng tôi đi tìm đạo mấy năm qua. Nhưng bây giờ Ngài đã trở
về, mang đến cho chúng tôi rất nhiều hạnh phúc và an lạc của tâm hồn bằng những
lời dạy cao quý về chân lý. Sự ra đi của Ngài thật xứng đáng và vinh quang cho
ngày trở lại, đó chính là sự giác ngộ, là một vị Phật”.
28. Vua và thần cây
Từ năm 35 tuổi, Ðức Phật đã thuyết pháp cho mọi người nghe. Gần 45 năm, Ngài đã đi khắp nước Ấn Ðộ hoằng pháp, đem lại niềm an lạc hạnh phúc cho rất nhiều người. Khi Ngài giảng dạy cho người nào đó về lòng từ bi, Ngài kể cho họ những mẩu chuyện dễ gây ấn tượng cho họ. Ðây là một trong những mẩu chuyện mà Ngài đã kể:
Thuở xưa, có một ông vua rất kiêu hãnh. Ông muốn xây một cung điện thật lớn cho mình. Một hôm, ông gọi các quan lại và nói: “Hãy đi vào những khu rừng và tìm cho ta một cây cao lớn nhất. Cây đó, ta sẽ dùng vào việc xây dựng cung điện của ta”.
Các quan vâng lệnh, đi sâu vào trong rừng và đã tìm thấy một cây theo như ý của vua. Nó to lớn và đứng sừng sững giữa những đám cây. Ðêm đó, họ trở về và tường thuật lại cho vua nghe: “Tâu bệ hạ, chúng tôi đã tìm ra được một thân cây cao lớn theo như ý ngài muốn. Ngày mai, chúng tôi sẽ trở lại khu rừng đó và đốn hạ nó”.
Vua nghe xong, lấy làm hài lòng và đi ngủ. Ðêm hôm đó, vua mơ thấy một giấc mơ lạ. Vua mơ thấy một vị thần sống trong thân cây cao lớn đó. Vị thần ấy xuất hiện trước vua và nói: “Tâu bệ hạ, xin ngài đừng chặt đứt nơi ở của tôi. Nếu ngài hạ thân cây, thì mỗi vết cắt sẽ làm tôi đau đớn và tôi sẽ chết mất”.
Nhưng vua trả lời: “Ông là cây tốt nhất trong số tất cả các cây. Tôi cần phải dùng nó để xây cất cung điện của tôi”.
Vị thần cố thuyết phục, nhưng vua thì rất ngoan cố và nhất định sẽ chặt thân cây ấy. Cuối cùng, vị thần cây nói với vua rằng: “Thôi được, ngài cứ việc chặt nó. Thế nhưng ngài hãy chặt như sau: Xin ngài đừng chặt sát gốc như người ta vẫn thường làm. Ngài hãy sai người leo lên ngọn của cây và cắt từng khúc một. Cắt cho đến khi nào hết thân cây thì thôi”.
Vua rất lấy làm ngạc nhiên và nói: “Nếu tôi sai người làm như lời ông nói và cắt thân cây nhiều lần như vậy, nó sẽ làm cho ông đau đớn nhiều hơn là cắt chỉ một lần ở dưới gốc cây”.
Vị thần đáp: “Vâng, bệ hạ nói rất đúng. Song nếu ngài làm theo lời đề nghị của tôi thì sẽ tốt hơn cho các sinh vật khác trong rừng. Ngài biết đấy, cây của tôi thì rất cao lớn. Nếu nó đổ xuống sẽ chiếm một khoảng rộng, những cây nhỏ hơn sẽ bị đè bẹp và sẽ giết chết những súc vật nhỏ. Những con chim và thú sẽ mất chỗ ở của chúng và nhiều cây nhỏ sẽ bị tàn phá. Nhưng nếu ngài cắt từng đoạn một, nó sẽ không làm tổn hại nhiều loài vật khác”.
Ngay lúc ấy, vua giật mình tỉnh giấc. Vua nghĩ: “Vị thần này sẵn sàng chịu đau đớn cắt làm nhiều khúc để cho những súc vật bé nhỏ trong rừng không bị khổ đau. Ôi, thật là dũng cảm và tử tế làm sao! Và thật là ích kỷ làm sao, khi ta lại muốn hạ thân cây ấy để thỏa mãn dục vọng và sự kiêu hãnh của ta! Thay vì cắt hạ nó, bây giờ ta sẽ tôn vinh nó. Giấc mơ này đã dạy ta phải biết thương yêu và tử tế đối với mọi người”.
Ngày hôm sau, vua đi vào trong rừng và trang hoàng cho cây ấy. Từ đó về sau, vua trở thành một vị vua nhân từ được nhân dân hết sức thương yêu.
Từ năm 35 tuổi, Ðức Phật đã thuyết pháp cho mọi người nghe. Gần 45 năm, Ngài đã đi khắp nước Ấn Ðộ hoằng pháp, đem lại niềm an lạc hạnh phúc cho rất nhiều người. Khi Ngài giảng dạy cho người nào đó về lòng từ bi, Ngài kể cho họ những mẩu chuyện dễ gây ấn tượng cho họ. Ðây là một trong những mẩu chuyện mà Ngài đã kể:
Thuở xưa, có một ông vua rất kiêu hãnh. Ông muốn xây một cung điện thật lớn cho mình. Một hôm, ông gọi các quan lại và nói: “Hãy đi vào những khu rừng và tìm cho ta một cây cao lớn nhất. Cây đó, ta sẽ dùng vào việc xây dựng cung điện của ta”.
Các quan vâng lệnh, đi sâu vào trong rừng và đã tìm thấy một cây theo như ý của vua. Nó to lớn và đứng sừng sững giữa những đám cây. Ðêm đó, họ trở về và tường thuật lại cho vua nghe: “Tâu bệ hạ, chúng tôi đã tìm ra được một thân cây cao lớn theo như ý ngài muốn. Ngày mai, chúng tôi sẽ trở lại khu rừng đó và đốn hạ nó”.
Vua nghe xong, lấy làm hài lòng và đi ngủ. Ðêm hôm đó, vua mơ thấy một giấc mơ lạ. Vua mơ thấy một vị thần sống trong thân cây cao lớn đó. Vị thần ấy xuất hiện trước vua và nói: “Tâu bệ hạ, xin ngài đừng chặt đứt nơi ở của tôi. Nếu ngài hạ thân cây, thì mỗi vết cắt sẽ làm tôi đau đớn và tôi sẽ chết mất”.
Nhưng vua trả lời: “Ông là cây tốt nhất trong số tất cả các cây. Tôi cần phải dùng nó để xây cất cung điện của tôi”.
Vị thần cố thuyết phục, nhưng vua thì rất ngoan cố và nhất định sẽ chặt thân cây ấy. Cuối cùng, vị thần cây nói với vua rằng: “Thôi được, ngài cứ việc chặt nó. Thế nhưng ngài hãy chặt như sau: Xin ngài đừng chặt sát gốc như người ta vẫn thường làm. Ngài hãy sai người leo lên ngọn của cây và cắt từng khúc một. Cắt cho đến khi nào hết thân cây thì thôi”.
Vua rất lấy làm ngạc nhiên và nói: “Nếu tôi sai người làm như lời ông nói và cắt thân cây nhiều lần như vậy, nó sẽ làm cho ông đau đớn nhiều hơn là cắt chỉ một lần ở dưới gốc cây”.
Vị thần đáp: “Vâng, bệ hạ nói rất đúng. Song nếu ngài làm theo lời đề nghị của tôi thì sẽ tốt hơn cho các sinh vật khác trong rừng. Ngài biết đấy, cây của tôi thì rất cao lớn. Nếu nó đổ xuống sẽ chiếm một khoảng rộng, những cây nhỏ hơn sẽ bị đè bẹp và sẽ giết chết những súc vật nhỏ. Những con chim và thú sẽ mất chỗ ở của chúng và nhiều cây nhỏ sẽ bị tàn phá. Nhưng nếu ngài cắt từng đoạn một, nó sẽ không làm tổn hại nhiều loài vật khác”.
Ngay lúc ấy, vua giật mình tỉnh giấc. Vua nghĩ: “Vị thần này sẵn sàng chịu đau đớn cắt làm nhiều khúc để cho những súc vật bé nhỏ trong rừng không bị khổ đau. Ôi, thật là dũng cảm và tử tế làm sao! Và thật là ích kỷ làm sao, khi ta lại muốn hạ thân cây ấy để thỏa mãn dục vọng và sự kiêu hãnh của ta! Thay vì cắt hạ nó, bây giờ ta sẽ tôn vinh nó. Giấc mơ này đã dạy ta phải biết thương yêu và tử tế đối với mọi người”.
Ngày hôm sau, vua đi vào trong rừng và trang hoàng cho cây ấy. Từ đó về sau, vua trở thành một vị vua nhân từ được nhân dân hết sức thương yêu.
29. Tình thương không ranh giới
Một hôm, Ðề Bà Ðạt Ða lâm bệnh. Nhiều thầy thuốc đã đến chữa trị nhưng không khỏi. Lúc đó anh họ của ông – Ðức Phật – đã đến thăm ông.
Một trong những đệ tử của Phật hỏi: “Bạch Ðức Thế Tôn, tại sao Ngài lại cứu giúp Ðề Bà Ðạt Ða? Chính ông ta đã nhiều lần mưu hại Ngài. Ông ta thật tâm muốn giết Ngài mà”.
Ðức Phật trả lời: “Không có lý do gì để thân thiện với người này và thù địch với kẻ khác. Tất cả mọi người đều bình đẳng như nhau, vì ai cũng đều muốn hưởng hạnh phúc an lạc và không ai thích bệnh tật khổ đau. Do đó chúng ta phải đối xử với mọi người bằng tình thương không phân biệt”.
Rồi Ðức Phật đi đến bên giường của Ðề Bà Ðạt Ða và nói: “Nếu thật sự ta yêu thương Ðề Bà Ðạt Ða, người đã luôn cố gắng hãm hại ta, như là thương yêu La Hầu La, con trai độc nhất của ta, thì cho Ðề Bà Ðạt Ða được mau lành bệnh”. Ngay lúc ấy, Ðề Bà Ðạt Ða cảm thấy sức khỏe bình phục trở lại.
Ðức Phật quay qua các đệ tử và nói: “Hãy nhớ rằng, tình thương của một vị Phật luôn bình đẳng đối với tất cả chúng sinh”.
Ẩn sĩ Uruvela kassapa (Ma-ha Ca-Diếp) xin vào Tăng đoàn.
Hai người em của ông Ca-Diếp mang tất cả đồ đệ của mình là 1,250 vị xin quy y theo Phật, cắt tất cả râu tóc thả trôi theo dòng sông.
Nhớ lại lời hẹn xưa với vua Tần-bà-xa-la, Ngài đến xứ Ma-kiệt-đà vào thành Vương-xá để độ cho vua. Vua Tần-bà-xa-la gặp lại Ngài, vui mừng khôn xiết, truyền xây cất tịnh xá Trúc lâm, để thỉnh Phật và chư Tăng ở lại thuyết Pháp độ sanh.
Trong lúc Phật ở tịnh xá Trúc lâm, thì vua Tịnh-Phạn nghe tin Ngài đã thành Phật, truyền sứ-giả đi thỉnh Ngài về thành Ca-tỳ-la-vệ.
Nhưng 9 lần 9 sứ giả đi đều biệt tăm, không trở lại. Thì ra những người này khi đến Trúc lâm tịnh xá nghe Phật thuyết pháp, đã say mê quên sứ mạng của mình và xin thọ giới xuất gia. Lần thứ 10, Tịnh Phạn vương sai một cận thần thân tín là Ưu-Ðà-Di, mới thỉnh được Phật về.
Trên đường từ thành Vương-xá trở về Ca-tỳ-la-vệ, Ðức Phật đã thuyết pháp độ cho không biết bao nhiêu người. Về thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài ở lại 7 ngày. Mặc dù chỉ trong thời gian ngắn ngủi ấy, Ðức Phật đã cảm hóa tất cả dòng họ Thích và tất cả những người trong dòng họ này đều xin quy y và một số lớn xin xuất gia theo Phật, như các ông: Nan-Ðà, A-Nan-Ðà, A-Nậu-Lâu-Ðà, La-Hầu-La…
Công chúa Da Du Đà la chỉ tay bảo La Hầu La hãy chạy xuống và xin gia tài của cha con.
Đức Phật cho La Hầu La gia tài của mình không phải là tài sản thế gian mà là tài sản xuất thế gian. Ngài thu nhận La Hầu La vào Tăng đoàn.
Vua Tịnh-Phạn quá buồn khổ, sau đó Vua yêu cầu Đức Phật không cho phép giới tử xuất gia khi cha mẹ chưa đồng ý (trong trường hợp dưới 18 tuổi) . Đức Phật nhận lời.
Sau khi trở về thăm gia đình và quê hương, Ðức Phật cùng các đệ tử lại tiếp tục đi truyền Ðạo. Ngài đi đến thành Xá-Vệ là kinh đô nước Kiều-tát-la, thuộc quyền thống trị của vua Ba-tư-Nặc. Ở thành này có một vị đại thần tên là Tu-Ðạt-Ða, giàu lòng bố thí cho những kẻ bần cùng côi cút, nên có danh hiệu là Trưởng giả Cấp Cô Độc (chu cấp và bảo vệ những kẻ cô độc). Ông rất ngưỡng mộ Ðức Phật nên đã dùng rất nhiều vàng trong kho ra mua khu vườn rộng lớn của Thái tử Kỳ-Ðà để làm tịnh xá cho Phật và đệ tử của Ngài ở, thuyết pháp độ sanh.
Đức Phật giải quyết tranh chấp “nước trên cùng một giòng sông khi mùa khô cạn đến”, giữa một bên là tộc nội một bên là tộc ngoại.
Ngài Mục-Kiền-Liên dùng thần thông bay lên lấy cái bát bằng gỗ quý theo lời thách đố của một người. ”Nếu trên đời ai là A-la-hán thì hãy bay lên mà lấy cái bát và nó sẽ thuộc về người đó“. Chuyện đến tai Đức Phật, từ đó Đức Phật không cho phép lạm dụng thần thông!
Ông Bà-la-môn thấy Đức Phật có 32 tướng của bậc đại nhân nên quyết tâm gả con gái cho Ngài. Con gái của ông từ trước tới nay có rất nhiều người tới hỏi nhưng ông không đồng ý.
Nhưng Đức Phật từ chối.
Bị từ chối con gái ông Bà-la-môn ôm hận trong lòng và thề sẽ trả thù. Sau này cô ta làm vợ vua. Nhằm lúc Đức Phật và Ngài A Nan tới gần hoàng cung hoằng pháp, bà ta cho người tới chửi vả.
Ngoại đạo chôn xác gần tịnh xá vu khống cho Đức Phật và Tăng đoàn.
Nàng Chin-cha làm bụng giả vu khống Đức Phật.
Tướng cướp Vô Não cố ý giết mẹ để làm đủ bộ sưu tập ngón tay người, nhưng khi thấy Phật ông đổi ý muốn giết Ngài và ra lệnh Ngài đứng lại.
Ngài nói: ”Ta đã dừng lại từ lâu rồi còn ngươi thì chưa” – nghĩa là Ngài đã dừng sự sát sanh, dừng sanh tử luân hồi còn hắn thì chưa. Tên tướng cướp thức tỉnh xin xuất gia sau đó đắc quả A-la-hán.
Người đàn bà này tới xin Đức Phật làm cho con bà sống lại.Ngài nói hãy tới xin hạt cải của nhà nào không có người chết ta sẽ làm cho con bà sống lại, bà đã tỉnh ngộ và xin quy y Tam Bảo.
Ngài A Nan xin nước của cô thôn nữ thuộc giai cấp Thủ-đà-la (giai cấp thấp nhất thời Ấn Độ bấy giờ).
“Không bao lâu thân nàySẽ nằm dài trên đấtBị vất bỏ vô thứcNhư khúc cây vô dụng”.
Câu pháp cú Ngài đọc khi tới chăm sóc một Tỳ kheo già sắp qua đời. Khi Ngài đọc dứt câu kệ trên, vị Tỳ kheo già khai triển tuệ minh sát, đắc A-la-Hán Thánh quả và Nhập diệt sau đó.
Ngài Mục Kiền liên tới độ ông trưởng giả keo kiệt.
Cây Đại Bồ đề A-Nan
Vào những năm đói kém dân chúng mất mùa, việc khất thực gặp nhiều khó khăn. Mỗi vị sư và Đức Phật được cúng một nắm cám từ ông chủ ngựa có 500 con ngựa khi ông đi ngang qua đây.
Tăng đoàn bị chia rẽ vì vài sự tranh chấp nhỏ. Đức Phật một mình đi vào rừng và được chăm sóc bởi voi và thú rừng…
Devadatta (Đề-bà Đạt-đa) mưu toan làm hại Đức Phật bằng cách cho con voi Nalagiri uống rượu mạnh đến say rồi xua nó chạy ngay vào Đức Phật. Khi voi Nalagiri trở nên rất dữ tợn chạy vồ đến gần, thì Đại Đức A-nan-da, chạy ra đứng chặn trước, định hy sinh cho voi đạp mình để cứu nguy Đức Phật. Nhưng Đức Thế Tôn ngay lập tức đã dùng tâm “Từ ” (Metta) cảm hóa voi say.
Sau đó Devadatta âm mưu với Thái Tử Ajatasattu (A-Xà-Thế) toan sát hại Đức Phật. Ông khuyên Ajatasattu nên giết cha đoạt ngai vàng. Phần ông sẽ giết Đức Phật để nắm quyền chưởng quản Giáo Hội Tăng Già.
Kẻ bất hiếu, Ajatasattu, thành công mưu sát người cha có tâm đạo nhiệt thành. Còn Devadatta thì thuê những tay thiện xạ đi giết Đức Thế Tôn. Nhưng trái với điều ông mong muốn, tất cả những người được thuê ấy, lúc đến gần Đức Phật đều xin quy y Tam Bảo và theo Ngài. Mưu đồ bất thành, Devadatta quyết tâm chính ông ta sẽ ra tay sát hại Đức Phật.
Trong lúc Đức Phật đi bên sườn núi Gijjhakuta (Linh-Thứu), ông trèo lên đỉnh cao, xô một tảng đá to lăn xuống ngay Đức Phật. May thay, đá va nhằm một tảng đá khác, bể ra làm nhiều mảnh và chỉ có một mảnh vụn rơi nhẹ vào chân Đức Phật làm máu chảy. Vị lương y Jivaka liền đến săn sóc vết thương cho Ngài.
Vua Tỳ-Lưu-Ly đem quân chinh phạt dòng họ Thích Ca. Cả ba lần Vua đem quân đến, Đức Phật đều ngồi đó tĩnh tọa. Cả ba lần Vua đều hiểu ý đem quân trở về. Lần thứ tư vua cho quân đi ban đêm Đức Phật biết không thể cản được nghiệp mà dòng họ Thích đã tạo nên không xuất hiện nữa!
30. Những ngày cuối
cùng
Đức Phật sắp nhập Niết Bàn dưới hai cây Sala.
Đức Phật sắp nhập Niết Bàn dưới hai cây Sala.
Sau khi đức Phật độ cho Bà-la-môn Tỳ-sa
đà-La gần Trúc-Lâm, Ngài dặn Tôn-giả A-nan-Đà là Thị-giả của Ngài rằng: “Sau khi Ta diệt độ nhập
Niết-Bàn, hãy tự thắp đuốc lên mà đi; thắp lên với chính pháp, đừng thắp lên
với pháp nào khác; hãy nương tựa với chính mình, đừng nương tựa với một pháp
nào khác”.
Đức Thế-Tôn nói với Tôn-giả A-nan-Đà:
- Ta nay đã già rồi, tuổi đã tám mươi, ví như
chiếc xe cũ, nhờ phương tiện sửa chữa mà đi đến nơi đến chốn; nay thân Ta cũng
thế, nhờ nhập định vô-tưởng không còn nghĩ đến một điều gì, nên thân Ta được
yên ổn không đau nhức.
Khi đức Phật đi đến ngôi tháp Già-ba-La,
Ngài bảo Tôn-giả trải tọa-cụ dưới gốc cây để Ngài nghỉ tại đấy, khi Tôn-giả
trải tọa-cụ xong, đức Phật an tọa rồi bảo:
- Này A-Nan, người nào thường xuyên tu tập bốn
món thần-túc, có thể tùy ý muốn sống đến một kiếp hay hơn một kiếp cũng được.
Này A-Nan, Như-Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần-túc này, chuyên chú nhớ mãi
không quên. Bởi vậy cho nên Như-Lai tùy ý muốn sống một kiếp hay hơn một kiếp
cũng được để diệt trừ sự tăm tối cho đời, đem lại lợi ích cho Người và Trời.
Lúc đó Tôn-giả A-nan-Đà nghe rồi làm
thinh không thưa hỏi nói năng chi cả, Đức Phật lại nói lần thứ hai, Tôn-giả vẫn
làm thinh; Đức Phật lại nói y như thế lần thứ ba, Tôn-giả cũng vẫn làm thinh,
vì lúc đó bị ma si ám, mê man không hiểu để thưa thỉnh, rồi đức Phật bảo:
- Này A-Nan nên biết, nay đã phải thời (đến
giờ).
Tôn-giả A-nan-Đà vâng ý chỉ, đứng dậy
đảnh lễ rồi lui ra, đến một gốc cây không xa ngồi thiền; chỉ trong chốc lát Ma
Ba-Tuần đến thưa với Phật:
- Sao Ngài chưa sớm vào Niết-Bàn?, nay đã đúng
thời rồi, xin Ngài mau diệt độ.
- Thôi, thôi Ba-Tuần, ngươi đừng nói nữa, Ta
đã tự biết thời. Như-Lai giờ đây chưa vội vào Niết-Bàn, vì Ta cần đợi các
Tỳ-kheo về đông đủ; trong số đó có những đệ tử đã khéo chế ngự được thân tâm,
mạnh dạn không khiếp sợ, họ thường sống trong an ổn. Họ không những việc lợi
mình đã làm xong, mà còn làm thầy để dẫn dắt kẻ khác, hiện đang truyền bá chính
pháp, giảng giải nghĩa lý; nếu họ gặp chủ thuyết ngoại đạo, họ đủ sức đem chính
pháp và sự tự chứng ngộ cùng thần biến của mình ra để hàng phục chúng, nhưng mà
những đệ-tử ấy chưa về. Lại có những Tỳ-kheo (Tăng), Tỳ-kheo Ni (Ni), Ưu-Bà Tắc
(Cư-sĩ Nam), Ưu-Bà Di (Cư-sĩ Nữ) cũng chưa quy tụ; vả lại Ta muốn truyền phạm
hạnh một cách sâu rộng, và phổ biến giáo lý giác ngộ cho hàng Trời-Người đều
biết và thấy thần biến.
Ma Ba-Tuần thưa:
- Khi xưa, Ngài ở bên bờ sông Ni-Liên-Thuyền
thuộc xứ Uất-Tỳ-La, và lúc ở dưới gốc cây A-du-Ba-Ni-câu-Luật khi Ngài mới
thành đạo Chính-Giác, những lúc ấy tôi đã đến thỉnh Ngài nên vào Niết-Bàn; nay
đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài hãy mau mau diệt độ.
Đức Phật lại trả lời:
- Thôi, thôi, Ba-Tuần, Ta tự biết thời,
Như-Lai chưa vội vào Niết-Bàn, mà cần đợi các đệ-tử trở về, và cho đến hàng
Trời-Người đều biết và thấy được thần biến, Ta mới nhập diệt.
Ma Ba-Tuần lại thưa lần thứ ba:
- Thưa Ngài, nay các đệ-tử của Ngài đã nhóm
họp, và cho đến hàng Trời - Người đã thấy thần biến, nay đã đúng lúc rồi, sao
Ngài chưa diệt độ?
Đức Phật bảo:
- Thôi, thôi, Ba-Tuần, Ta tự biết thời, còn
không bao lâu nữa, sau ba tháng này, Ta sẽ ở nơi sinh quán đời trước của Ta, giữa
cây Long-Thọ, trong rừng Ta-La thuộc xứ Câu-thi-La mà nhập Niết-Bàn.
Lúc ấy Ma Ba-Tuần nghĩ: “Phật không bao giờ đổi ý, không bao giờ nói dối, và chắc
chắn là Ngài sẽ diệt độ”, nên vui mừng nhảy nhót rồi biến mất.
Sau khi Ma Ba-Tuần biến đi không lâu,
đức Phật nhập định Ý-tam-Muội mà xả bỏ tuổi thọ; ngay lúc đó cõi đất rung động
mạnh, nhân dân cả nước đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược. Đức Phật phóng hào
quang chiếu khắp các nơi, khi ấy Tôn-giả A-nan-Đà thấy mặt đất rung động và có
ánh sáng tỏa chiếu nên kinh hãi, vội vàng đi đến chỗ Phật đảnh lễ rồi thưa:
- Thưa đức Thế-Tôn, lạ thay! Không hiểu lý do
gì mà mặt đất rung độmg mạnh như thế, lại có ánh sáng rực lên nữa? Xin Ngài
giải thích cho con hiểu.
Đức Phật giảng: Phàm mặt đất rung động
có tám nguyên nhân:
Thứ nhất: Đất lẫn với đá,
kim loại, nằm trên chất lỏng và nương với nước, nước nương với gió, gió nương
với hư không mà tồn tại; nếu gió nổi lên nước chao động, nước chao động làm đất
và chất lỏng chuyển dịch, nước chao động quá mạnh nên đất rung rinh chuyển động.
Thứ hai: Tỳ-kheo khi đắc
đạo, hoặc vị Thiên-thần tu quán về tính nước nhiều, tính đất ít, hoặc do họ thử
sức thần-thông nên làm cho cõi đất rung động.
Thứ ba: Khi có vị Bồ-Tát
từ cung trời Đâu-Xuất dáng thần vào thai mẹ mặt đất rung động.
Thứ tư: Khi vị Bồ-Tát
đản-sinh mặt đất rung động.
Thứ năm: Khi Bồ-Tát thành
Vô-Thượng Chính-Đẳng Chính-Giác, mặt đất rung động.
Thứ sáu: Khi Phật chuyển
pháp luân lần đầu tiên mặt đất rung động.
Thứ bảy: Khi Phật xả tuổi
thọ mặt đất rung động.
Thứ tám: Khi Phật nhập
diệt mặt đất rung động.
LỜI BÀN VỀ ĐỘNG ĐẤT:
Ngày nay hầu như chỉ có động đất là do
điểm thứ nhất, vì điểm 3,4,5,6,7,8 ngày nay không có Bồ-Tát thành Phật. Còn
điểm 2 thì qúa hiếm.
Quyển Thiên Văn Học và Không Gian
(Astronomy & Space) của Lisa Miles và Alastair Smith trang 22 ghi cấu tạo
trong trái đất có 4 lớp như sau: Vỏ ngoài cứng giòn (crust) gồm đá, đất...dầy
khoảng 50km. Bên trong là lớp vỏ bao bọc (mantle) gồm chất đặc lẫn chất lỏng,
lớp này dày chiếm tới 67% của trái đất. Lớp trong nữa là vỏ ngoài của lõi
(outer core), là chất lỏng (liquid), luôn luôn di chuyển; trong cùng (inner
core) là lõi cứng (solid) phần lớn là chất sắt; vỏ đất đá cứng giòn làm thành
những mảnh, gọi là lớp, tầng, di chuyển đối nghịch nhau; những mảnh lớp này
luôn di động, đôi khi gây ra động đất ở chỗ chúng đụng nhau. Khoa học không
giải thích tại sao chất lỏng của lõi ngoài luôn luôn di chuyển, thì Đức Phật đã
nói là do gió và nước gây ra.
a)-Phật báo 3 tháng
trước khi nhập Niết-Bàn.
Sáng hôm sau, đức Phật bảo Tôn-giả
A-nan-Đà đến Hương-Pháp nhóm họp hết thảy các Tỳ- kheo chung quanh vùng đến
giảng đường Hương-Pháp. Tại đấy, đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
- Ta do những Pháp sau đây mà tự chứng ngộ
thành bậc Chính-Đẳng Chính-Giác, đó là: “Bốn Niệm-Xứ, Bốn Ý-Đoạn, Bốn Thần-Túc, Bốn Thiền, Năm
Căn, Năm Lực, Bẩy Giác-Chi, và Tám Chính-Đạo”. Vậy các thầy hãy ở
trong giáo-pháp ấy siêng năng tu học, cùng nhau hưng say (hưng thịnh say sưa)
phát triển. Các thầy hãy khéo thụ trì tùy theo trường hợp mà tu hành, tại sao
vậy?, vì không bao lâu nữa, Như-Lai, sau ba tháng sẽ nhập Niết-Bàn.
Các Tỳ-kheo nghe Phật nói như thế, hết
sức sửng sốt kinh hoàng, hoang mang tột độ, gieo mình xuống đất, giậm chân đập
tay, cất tiếng kêu than: “Tại sao đức Thế-Tôn
diệt độ qúa sớm? Tại sao con mắt thế-gian diệt mất quá mau? Tại sao đức Thế-Tôn
bỏ chúng con bơ vơ? Chúng con sẽ không còn nhìn thấy đức Thế-Tôn nữa. Chúng con
sẽ mất đức Thế-Tôn mãi mãi v.v.”
Có Tỳ-kheo thương cảm lăn lóc, cũng như
rắn bị chém đứt làm hai, quằn quại, run rẩy, ngẩn ngơ, không còn biết gì cả.
Một lúc trôi qua như thế, đức Phật bảo:
- Các thầy hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng
sầu muộn, vì từ Trời, Đất cho đến chư Thiên, Người, Vật, không một cái gì là
không thành trụ hoại diệt (sinh ra, phát triển, biến dạng, diệt mất), không một
sinh vật nào sinh ra mà không chết đi. Nếu các thầy muốn cho các pháp hữu vi
không biến dịch thì không được. Hơn nữa trước đây Ta đã từng giảng rằng: “Ân ái là vô thường, nếu có xum họp ắt phải có chia lià,
nhất là thân này không phải của ta, mạng sống không tồn tại mãi mãi được”.
Rồi Ngài nói tiếp:
- Ta sở dĩ khuyên bảo như thế vì tối hôm qua
Thiên-Ma Ba-Tuần đã đến thỉnh Ta nhập Niết-Bàn ba lần, tới lần thứ ba Ta đã
chấp thuận lời thỉnh cầu ấy, và sau đó Ta đã xả bỏ tuổi thọ rồi.
Bấy giờ Tôn-giả A-nan-Đà đứng dậy, quỳ
gối phải, chắp tay thưa:
- Cầu mong đức Thế-Tôn thương xót chúng-sanh,
hãy sống thêm một kiếp, không nên diệt độ sớm, để làm lợi ích cho Trời và Người.
Khi ấy đức Phật im lặng không đáp,
Tôn-giả A-nan-Đà thưa thỉnh lần thứ hai, đức Phật cũng vẫn im lặng, Tôn-giả
thưa thỉnh lần thứ ba, lúc ấy đức Phật mới nói:
- Này A-Nan, thầy ba lần làm phiền Ta, Thầy đã
đích thân nghe từ Như-Lai nói là người nào tu tập bốn pháp như-ý-túc một cách
chuyên chú không quên, nên tuỳ ý muốn kéo dài mạng sống trong một kiếp hay hơn
một kiếp cũng được. Như-Lai đã tu tập bốn pháp như-ý-túc một cách chuyên chú
không quên, có thể tùy ý kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hay hơn một kiếp, Thầy
đã được Ta nhắc đi nhắc lại tới ba lần như thế; tại sao lúc ấy thầy không thỉnh
cầu Như-Lai sống một kiếp hay hơn một kiếp? Nay thầy mới nói há không trễ muộn
hay sao? Ta ba lần hiện tướng, thầy ba lần làm thinh. Sau đó không lâu,
Thiên-Ma tới, thỉnh cầu Ta nhập Niết-Bàn ba lần, Ta đã hứa với Thiên-Ma, và Ta
đã xả bỏ tuổi thọ tối hôm qua; một khi đã xả bỏ, nhổ bỏ, mà muốn cho Như-Lai
hành động trái với lời nói của mình sẽ không bao giờ có sự kiện ấy.
Bấy giờ đức Phật và Tăng chúng đi đến
một khu rừng núi gần thôn Am-ba-La, tại đây Ngài dạy cho đại chúng về Giới,
Định, Huệ; do tu Giới mà được Định, do Định mà có trí-tuệ tức là được Huệ. Do
tâm và trí đồng thời cùng tu tập, tu tập nhiều, nên được thanh tịnh và giải
thoát.
Tại thôn Am-ba-La, đức Phật nhận thấy cơ
duyên hóa độ đã xong, Ngài tiếp tục di chuyển tới thôn Chiêm-Bà, thôn Kiển-Trà,
thôn Bà-lệ-Bà, rồi đến vườn Xà-Đầu thuộc thành Ba-Bà. Tại nơi đây có người thợ
rèn tên là Châu-Na nghe tin Phật đến, liền thay quần áo chỉnh tề đến chỗ Phật
ngự, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi qua một bên. Lúc đó đức Phật giảng dạy cho ông
những điều lợi ích, nghe xong lòng tin tràn đầy vui vẻ, ông liền thỉnh đức Phật
và đại chúng Tỳ-kheo đến nhà thụ trai cúng dàng vào ngày hôm sau, Đức Phật
im lặng nhận lời mời, Châu-Na biết đức Phật chấp nhận lời mời, liền đứng dậy
đảnh lễ, ra về.
Nội trong đêm đó Châu-Na và người nhà
ông lo sửa soạn thức ăn đầy đủ. Sáng hôm sau, ông đến đảnh lễ trước Phật và nói:
- Thưa đức Thế-Tôn, đã đến giờ thụ trai, kính
tin Ngài rõ.
Bấy giờ đức Phật cùng đại-chúng đi đến
nhà ông Châu-Na, và mọi người tiến vào chỗ ngồi, Ông Châu-Na bày biện thức ăn
cúng dàng đức Phật và chư Tăng. Ông lại nấu một thứ nấm chiên-đàn là thức ăn
qúy lạ nhất trên đời đem dâng riêng cho đức Phật. Ngay lúc đó, đức Phật
bảo Châu-Na:
- Chớ đem thứ nấm này dâng cúng cho chư Tăng.
Lúc đó, ông vâng lời Phật, không dám
hành động trái ngược, nhưng có một vị lão Tăng mới xuất gia, thấy tô nước nấm
còn dư để gần chỗ ngồi của mình, lại bưng uống hết!
Sau khi thụ trai, đức Phật giảng pháp
cho ông Châu-Na nghe xong, Ngài và đại-chúng lại tiếp tục đi, trên đường đi đức
Phật hỏi Tôn-giả A-nan-Đà:
- Ông Châu-Na có ý gì hối hận không?
Tôn-giả A-nan-Đà đáp:
- Thưa Thế-Tôn, ông Châu-Na cúng dàng đức Phật
như thếkhông được lợi phúc gì cả, vì sau khi Như-Lai thụ trai tại nhà ông thì
Ngài nhập diệt.
Đức Phật dạy:
- Chớ nói như vậy, chớ nói như vậy. Hiện nay
Châu-Na được lợi ích lớn là: “Được sức khoẻ tốt,
được tiếng tốt, được sống lâu, có nhiều của cải tiền bạc, đến khi qua đời được
sinh lên cõi Trời muốn chi có nấy”, tại sao vậy? Vì: người cúng dàng
Như-Lai lúc thành đạo cũng như người cúng dàng Như-Lai lúc sắp nhập Niết-Bàn,
công-đức của hai người này không hơn không kém. Vậy thầy hãy đến báo cho
Châu-Na biết.
Tôn-giả A-nan-Đà vâng lời dạy của đức
Phật, liền trở lại báo tin mừng cho ông Châu-Na biết; Đức Phật đi được một đoạn
đường nữa thì bệnh tình phát khởi trầm trọng, nên Ngài phải dừng lại nghỉ dưới
một gốc cây.
Bấy giờ có một đệ-tử của một vị A-la-Hán
tên là Phúc-Quý, từ thành Câu-thi na-Kiệt đi đến thành Ba-Bà, đang đi bỗng
trông thấy đức Phật ngồi dưới gốc cây với dung mạo đoan chính, các căn đều tịch
tĩnh, tâm ý vắng lặng bậc nhất cũng như hồ nước trong suốt không gợn sóng. Thấy
xong, ông liền sinh thiện tâm, bèn vui mừng đi đến chỗ Phật ngồi, cúi đầu đảnh
lễ, rồi ngồi sang một bên và nói:
- Thưa Ngài, người xuất gia ưa thích sự nhàn
tịnh, khi ở chỗ thanh vắng chuyên tu thì thật kỳ lạ ! Dù có đoàn xe năm trăm chiếc
chạy ngang qua bên họ, họ vẫn không hay biết. Thầy tôi đã có lần im lặng ngồi
dưới gốc cây bên đường, lúc đó có đoàn xe năm trăm chiếc đi ngang qua, tiếng xe
chạy ầm ầm, Ngài vẫn thức tỉnh nhưng mà không nghe. Vì sau đó có người đến hỏi
thầy tôi rằng: “Nãy giờ ông có thấy đoàn xe chạy
ngang qua đây không?”
Thầy tôi trả lời: “Không thấy”.
Người ấy lại hỏi: “Hồi
nãy ông có nghe tiếng xe chạy ầm ầm không?”
Thầy tôi đáp: “Không
nghe”.
Người ấy thắc mắc hỏi: “Từ nãy đến giờ ông thức hay ngủ?”
Thầy tôi trả lời: “Thức”.
Người ấy im lặng cho là hy hữu và nói
với thầy tôi: “Vừa rồi không lâu, có năm trăm
chiếc xe chạy qua đường này, tiếng xe vang động như thế mà Ngài không nghe
không thấy, có đâu lại nghe chuyện khác?”
Nói xong người ấy đảnh lễ thầy tôi với
tâm niệm vui vẻ, rồi ra đi, Đức Phật bảo Phúc-Quý:
- Nay Ta hỏi ông, hãy tuỳ ý mà đáp. Đoàn xe
chạy vang động như thế, tỉnh thức mà không nghe; có tiếng sấm sét vang động cả
trời-đất, tỉnh thức mà không nghe; trong hai trường hợp đó, cái nào khó hơn?
Phúc-Quý thưa:
- Tiếng ầm ầm của hàng nghìn, hàng vạn chiếc
xe chạy sao bằng tiếng sấm sét. Không nghe tiếng ầm ầm của xe chạy chưa hẳn là
khó; sấm sét vang động đất-trời, thức tỉnh không nghe mới là khó.
Đức Phật bảo Phúc-Quý:
- Ta có lần ở thảo-lư thuộc thôn A-Việt, lúc
đó có một vầng mây lạ xuất hiện, tiếp theo là sấm sét vang động làm chết bốn
con bò và hai anh em người đi cầy, do đó mọi người tụ tập lại đông đảo; lúc ấy
Ta ra khỏi thảo-lư để đi kinh hành một cách chậm rãi. Trong đám đông ấy có một
người đến chỗ Ta cúi đầu đảnh lễ, rồi đi theo Ta kinh hành. Dù biết nhưng Ta
vẫn hỏi người ấy: “Họ tụ tập làm gì thế?”
Người ấy hỏi lại Ta: “Nãy giờ Ngài ở đâu? Ngài đã ngủ hay thức?”
Ta đáp: “Ta
ở trong thảo-lư và không ngủ”.
Người ấy nói: “Thưa
Ngài, người ta tụ tập đông đảo để bàn tán với nhau về việc sấm sét đánh chết
hai anh em người đi cầy và bốn con bò; với tiếng sấm sét vang động cả trời-đất
như thế, Ngài thức tỉnh mà không nghe thật là hy hữu, chưa từng có, và chưa
từng thấy ai được định tĩnh như Ngài”.
Lúc ấy Phúc-Quý có đem theo hai xấp vải
màu vàng rất giá trị, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối chắp tay thưa:
- Nay con xin dâng cúng dàng hai xấp vải này,
xin Ngài xót thương mà nhận cho.
Đức Phật bảo:
- Ông hãy dâng cho Ta một xấp, còn một xấp đem
dâng cho Tỳ-kheo A-Nan hiện đang ngồi ở gốc cây đằng kia kià.
Vừa nói, Ngài vừa chỉ tay về phiá
Tôn-giả A-nan-Đà, Phúc-Quý vâng lời Phật, dâng lên Ngài một xấp, còn xấp thứ
hai mang đến cúng dàng Tôn-giả A-nan-Đà. Sau đó trở lại chỗ Phật nghe đức Phật
giảng pháp, nghe xong, Phúc-Quý xin được quy-y Phật-Pháp-Tăng, và nguyện tôn
trọng năm giới (không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và
không uống rượu); khi Phúc-Quý đảnh lễ ra về rồi, Tôn-gia A-nan-Đà đem xấp vải
ấy cúng dường đức Phật.
Khi Tôn-giả A-nan-Đà mặc áo Cà-Sa cho
Phật lấy làm ngạc nhiên, vì thấy rằng nước da của đức Phật chiếu sáng lạ
thường, nên Tôn-giả nói:
- Thưa đức Thế-Tôn, tại sao có chuyện lạ
thường, rất là kỳ diệu. Màu da của đức Thế-Tôn trở nên sáng ngời, rực rỡ một
cách lạ thường chưa từng có. Khi con đắp chiếc áo màu vàng lóng lánh lên mình
Ngài, thì màu sắc của áo bị lu mờ đi mất.
Đức Phật bảo:
- Có hai trường hợp màu da của Như-Lai trở nên
sáng lạng, rực rỡ lạ thường, đó là ngay khi thành Đạo Bồ-Đề và trước khi
nhập-diệt.
b)- Đức Phật nhập
Niết-Bàn.
Đức Phật tiếp tục đi, lần hồi đến rừng
Long-thọ thuộc thành Câu-Thi, nơi sinh quán đời trước, thuộc Bộ-tộc Mạt-La, và
Ngài bảo Tôn-giả A-nan-Đà:
- Thầy hãy sửa soạn chỗ cho Ta nằm giữa hai
cây Long-thọ, đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Tây.
Tôn-giả A-nan-Đà y theo lời Phật dạy,
sửa soạn xong, đức Phật nằm xuống nghỉ, và tự lấy áo Tăng-già-Lê xếp thành bốn
lớp đắp lên mình. Ngài nằm nghiêng về phiá bên tay phải, hai chân xếp chồng lên
nhau, trông như sư-tử chúa.
Lúc ấy giữa đám rừng cây Long-thọ, có
các Quỷ-Thần hết lòng cung kính tin Phật, lấy các thứ hoa trái mùa rải khắp mặt
đất. Thấy thế, đức Phật bảo Tôn-giả A-nan-Đà :
- Các Thần Long-thọ này: dùng hoa trái mùa
dâng cúng cho Ta như thế, chẳng phải là cúng dàng Như-Lai.
Tôn-giả A-nan-Đà thưa
- Thế nào mới gọi là cúng dàng Như-Lai?
Đức Phật bảo:
- Người nào biết lĩnh thọ, và thực hành chính
Pháp mới gọi là cúng dàng Như-Lai.
Khi ấy Tỳ-kheo Phạm-ma-Na đang cầm quạt
đứng hầu, đức Phật bảo:
- Này Phạm-ma-Na: thầy chớ đứng trước Ta, hãy
đi chỗ khác.
Nghe đức Phật nói vậy, Tôn-giả A-nan-Đà
thưa:
- Thầy Phạm-ma-Na thường: hầu hạ bên cạnh đức
Thế-Tôn, cung cấp những điều cần thiết cho đức Thế-Tôn, cung kính Ngài không
bao giờ biết chán nản mỏi mệt, hôm nay là ngày cuối cùng, nên để cho thầy Phạm-ma-Na
hầu hạ, sao đức Thế-Tôn lại đuổi đi là vì lý do gì con không hiểu?
Đức Phật bảo:
- Này A-Nan, chung quanh thành Câu-Thi này,
cách xa mười hai do tuần (12 x 15 =180 kilomet = 120 miles) đều có các vị
Thiên-Thần chật ních cả. Các vị đại Thiên-Thần đều trách Tỳ-kheo Phạm-ma-Na
rằng: “Sao lại đứng trước đức Thế-Tôn như thế,
trong giờ phút Thế-Tôn sắp nhập Niết-Bàn? Chúng ta đến muốn chiêm- bái một lần
cuối, nhưng vị Tỳ-kheo này với oai đức lớn lao, ánh sáng chói lòa che lấp tất
cả, khiến chúng ta không thấy, không đến gần đức Như-Lai được để lễ-bái cúng
dàng”. Này A-Nan, vì thế mà Ta bảo thầy ấy đi chỗ khác.
Bấy giờ Tôn-giả A-nan vội quỳ chắp tay
thưa:
- Xin đức Thế-Tôn chớ diệt độ nơi vùng đất
hoang vu này, vì hiện nay có các thành nước lớn như Chiêm-Bà, Tỳ-xá-Ly, thành
Vương-Xá, nước Bạt-Kỳ, nước Xá-Vệ, nước Ca-duy-la-Vệ, thành Ba-la-Nại. Tại
những nơi đó dân cư đông đúc, nhiều người ngưỡng mộ Phật-Pháp-Tăng. Nếu đức
Thế-Tôn nhập diệt ở những nơi ấy chắc chắn nhiều người sẽ đến cung kính cúng
dàng Xá-lợi Phật
Đức Phật dạy:
- Thôi, thôi, A-Nan chớ nghĩ như thế, Ta đã
mất ba tháng để đi tới đây, chớ cho đây là vùng hẻo lánh chật hẹp. Vì từ xa
xưa, tại quốc độ này có một vị Vua tên là Đại Thiện-Kiến, thành này lúc đó tên
là Câu-xá-bà-Đề, kinh đô của nhà Vua rất nguy nga đồ sộ, dân cư đông đúc, và
đời sống rất phồn thịnh. Vua có đủ bảy báu, đó là: “Xe
báu, Ngựa-xanh báu, Voi-trắng báu, Cư-sĩ báu, Thần-châu báu, Chủ-binh báu
và Ngọc-nữ báu”, Vua dùng chính pháp trị dân. Về sau Vua Đại Thiện-Kiến tự
nghĩ: “Ta đã tu hành điều gì mà có được qủa báo
tốt đẹp này (?), nay Ta đã hưởng phúc nhân-gian, vậy ta hãy tu về phúc báo cõi
Trời”. Nghĩ xong, Vua liền bảo Ngọc-nữ báu rằng: “Ta
đã hưởng phúc báo nhân-gian, vậy nay ta cần tu thêm về phúc báo cõi Trời, muốn
như thế ta phải tự hạn chế, tránh chỗ ồn ào, đồng thời ở nơi thanh vắng để tu
luyện”.
Lúc đó Vua bảo Ngọc-nữ báu ra lệnh cho
tất cả mọi người trong ngoài từ nay về sau miễn sự chầu chực Vua, Vua bèn lên
Pháp-điện, vào Lầu-vàng, ngồi trên Long-sàng (giường của vua) bằng bạc mà
tư-duy quán tưởng; trải qua một thời gian, nhà Vua đạt được ý niệm thanh-tịnh,
và chứng được lần lượt từ thiền thứ nhất đến thiền thứ tư, rồi Vua tu tập về
tâm Từ.
Bấy giờ Ngọc-nữ báu tự nghĩ: “Đã lâu ta không được d iện kiến đức Vua, vậy nay đã đến
lúc ta nên ra mắt Ngài một lần”. Nghĩ xong, ngọc-nữ báu Thiện-Hiền liền ra
lệnh cho tất cả Mỹ-nữ trong cung Vua: “Các em hãy
tắm gội sạch sẽ, xoa dầu thơm, trang sức áo quần đẹp đẽ; vì đã lâu ta không
diện kiến đức Vua , vậy nay ta phải ra mắt Ngài một lần”.
Khi mọi người chuẩn bị xong, Ngọc-nữ báu
hướng dẫn đoàn người (đẹp như Tiên-nữ) đến vườn Đa-Lân, tiếng ồn ào (tiếng cười
nói như tiếng chim hót liú lo) của đoàn người đến tai Vua. Ngài bèn đi đến
bên cửa sổ nhìn xem, thấy Ngọc-nữ báu đang tiến lên bên dưới cửa sổ, Vua liền
bảo: “Ngọc-nữ báu, hãy đứng đó, đừng tiến lên, vì ta
sắp ra”.
Vua Đại Thiện-Kiến đi ra khỏi điện
Chính-Pháp, tiến đến chỗ ngồi tại vườn Đa-Lân, Ngọc-nữ báu đến trước mặt Vua mà
thưa: “Tâu Đại-Vương, nay nhan sắc Ngài trở nên
tươi đẹp hơn lúc bình thường, chắc không phải điềm gì khác hơn là Ngài xả bỏ
tuổi thọ chăng?”
Ngọc-nữ báu nói tiếp: “Vậy nay đây,
Trong tám vạn
bốn nghìn cỗ Xe, Xe-báu giá trị nhất;
Trong tám vạn
bốn nghìn loại Ngựa, Ngựa-xanh báu là chạy nhanh hơn cả;
Trong tám vạn
bốn nghìn loại Voi, Voi-trắng báu là can đảm nhất;
Trong tám vạn
bốn nghìn Bảo vật, Thần-châu báu là quý nhất hạng;
Trong tám vạn
bốn nghìn Cư-sĩ, Cư-sĩ báu là giỏi hơn cả;
Trong tám vạn
bốn nghìn Sát-đế-Lỵ, Chủ-binh báu là anh dũng số một;
Trong tám vạn
bốn nghìn Mỹ-nữ, Ngọc-nữ báu là đẹp đẽ đảm đang hơn hết các Mỹ-nữ;
Trong tám vạn
bốn nghìn thành-trì, thành Câu-xá-bà-Đề này lớn nhất với cung-điện Chính-Pháp,
lâu-đài Đại-Chính đều là hơn hết thảy; tất cả các thứ báu ấy đều là của
Đại-Vương đấy, xin Ngài một chút lưu tâm để cùng hưởng vui thú, chớ vội qua đời
bỏ muôn dân phải cô quạnh thương nhớ”.
Vua Đại Thiện-Kiến trả lời Ngọc-nữ báu
rằng: “Từ xưa tới nay nàng đã cung phụng ta một
cách từ-ái, chưa bao giờ có những lời nói sơ sót, sao nay lại có những lời nói
ấy; tất cả các thứ báu ấy đều là vô thường, không gìn giữ lâu dài được, mà nàng
khuyên ta phải giữ lấy là thuận sao?”
Ngọc-nữ báu thưa: “Chẳng hay Đại-Vương bảo phải nói như thế nào mới đúng?”
Nhà Vua ôn tồn bảo Ngọc-nữ báu: {{Nếu
như nàng nói rằng: “Các thứ báu ấy đều là vô
thường không gìn giữ lâu được, xin Ngài không nên lưu luyến làm chi cho nhọc tâm
tổn sức”, tại sao vậy? “Vì mạng sống của
Đại-Vương, không còn kéo dài được bao lâu nữa, sẽ chấm dứt, để qua đời khác;
trên đời này hễ có sinh ắt có tử, có hợp thì có tan, và không sống đời mãi mãi
được. Vậy Ngài hãy cắt đứt ái ân mà giữ ý đạo”; đây chính là lời nói
kính thuận vậy}}.
Đức Phật kể tiếp:
- Này A-Nan, khi ấy Ngọc-nữ báu nghe đức Vua
dạy xong, nức nở khóc, buồn rầu rũ rượi, ngậm ngùi nhắc lại các lời Vua vừa dạy
bảo; trong khi Ngọc-nữ báu nước mắt giàn giụa, nói lời vỗ về ấy thì Vua Đại
Thiện-Kiến bỗng nhiên băng-hà (qua đời) mau chóng, nhẹ nhàng và đơn giản.
Sau khi Vua Đại Thiện-Kiến băng-hà, lần
lượt Ngọc-nữ báu, Chủ-binh báu, Cư-sĩ báu, Voi-Trắng báu, và Ngựa-xanh báu chết
dần dần hết; xe báu, và Thần-châu báu đều biến mất, còn thành-trì, cung-điện,
và lâu-đài cũng dần dần đổ nát hết mà biến vào đất.
Này A-Nan, Ta còn nhớ thời xa xưa ấy, đã
sáu lần làm Chuyển-Luân Thánh-Vương, và đã có lần Ta bỏ xác tại nơi đây. Nay Ta
đã thành Vô-Thượng Chính-Giác, lại cũng muốn bỏ xác tại đây; từ nay về sau Ta
dứt hẳn sinh tử, không còn chỗ nào là chỗ bỏ xác Ta nữa, đây là lần cuối cùng.
Bấy giờ đức Phật bảo Tôn-giả A-nan-Đà
vào thành Câu-Thi báo cho dân chúng biết, khi Tôn-giả đến nơi gặp một nhóm
người đông đảo vì một nhân duyên đang tụ họp, Tôn-giả nói:
- Này quý vị, tôi vì lợi ích của quý vị mà đến
báo tin là đức Như-Lai định vào lúc nửa đêm hôm nay, Ngài sẽ vào Niết-Bàn. Quý
vị nên đến nơi hai cây đại Long-thọ thuộc rừng Ta-La là chỗ Như-Lai đang ngự để
kịp thời hỏi những điều hoài nghi, và trực tiếp nghe Ngài chỉ dậy, để sau khỏi
hối tiếc.
Khi nghe những lời ấy, họ đều kinh ngạc,
kêu than, rồi họ bảo nhau về nhà đem quyến thuộc cùng đi đến rừng Ta-La chỗ có
các cây Long-thọ; Tôn-giả A-nan-Đà dẫn số người này đến trước đức Phật đảnh lễ
và thăm hỏi xong, đức Phật vì họ mà dạy về lý vô thường, và chỉ dẫn những điều
lợi ích vui mừng. Khi nghe Pháp xong, các người Mạt-Na đem năm trăm thước (mỗi
thước bằng hai gang tay) vải trắng đã mang theo dâng lên cúng dàng đức Phật, và
đảnh lễ lui về.
Lúc đó trong thành Câu-Thi có một
Phạm-chí tên là Tu-Bạt, đã một trăm hai mươi tuổi, nhưng còn khoẻ mạnh, là bậc
kỳ cựu, trí thức; nhân nghe Sa-môn Cù-Đàm đêm nay sẽ diệt độ vào lúc nửa đêm,
ông tự nghĩ: “Ta đối với giáo pháp còn có điều
nghi ngờ, chỉ có đức Cù-Đàm Như-Lai mới hiểu ý ta, ta nên đến để kịp hỏi Ngài”. Ngay
lúc đó ông cố gắng đi đến rừng Ta-La chỗ các cây Long-thọ, khi tới nơi, ông gặp
tôn-giả A-nan-Đà và xin được bái yết đức Như-Lai vì có điều còn nghi ngờ muốn
hỏi. Tôn-giả từ chối vì cho rằng đức Thế-Tôn mệt nhọc chịu không nổi, ông
Tu-Bạt cố nài xin đến ba lần, nhưng vẫn bị Tôn-giả A-nan-Đà từ chối như thế,
khi đó đức Phật nghe được và Ngài bảo Tôn-giả:
- Này A-Nan, thầy không nên ngăn cản, hãy để
cho ông ấy đến gặp Ta, vì ông ấy muốn giải quyết điều nghi ngờ, không có gì
phiền phức cả; vả lại ông ấy nghe pháp Ta chắc chắn sẽ được giải thoát.
Vâng lời đức Phật, Tôn-giả A-nan-Đà để
cho ông Tu-Bạt đến chào hỏi đức Phật xong ông thưa:
- Tôi có điều nghi về giáo-pháp, Ngài có khoẻ
để giải quyết cho một lần chăng?
Đức Phật đáp:
- Ông cứ tuỳ ý hỏi.
Ông Tu-Bạt liền nói:
- Tại sao có những người tự xưng là bậc thầy
như các ông Phật-lan-Ca-na-Diếp, ông Mạt-già-Lê-Kiều-Xa-Lê, ông Ba-phù-ca-Chiên
v.v. những người này đều có giáo-pháp riêng, đức Sa-môn Cù-Đàm có biết hết hay
không?
- Thôi, thôi, khỏi nói nữa, những giáo-lý của
các ông ấy Ta đã biết tất cả; nay Ta vì ông mà nói đến giáo-pháp thâm diệu, ông
hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ về giáo-pháp này.
- Vâng.
- Nếu trong giáo-pháp nào không có Tám
Thánh-đạo, nghĩa là không có:
“Chính Kiến, Chính Tư-duy, Chính Ngữ, Chính
Mệnh, Chính Nghiệp, Chính Tinh-tấn, Chính Niệm, và Chính Định”, thì trong
giáo-pháp đó không có bốn quả Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba, và thứ tư. Này
ông Tu-Bạt, trong giáo-pháp của Ta có bát Thánh-đạo, nên có bốn qủa Sa-môn;
trái lại trong giáo-pháp ngoại đạo không có bát Thánh-đạo, nên không có bốn qủa
vị Sa-môn; nếu các Tỳ-kheo kìm hãm tâm lại để tu hành thì thế-gian này sẽ không
bao giờ mất hẳn qủa vị A-la-Hán.
- Tôi nay có được ở trong giáo-pháp của Ngài
mà xuất gia thọ cụ-túc giới không?
- Này ông Tu-Bạt, nếu có người Phạm-chí tu
theo pháp khác, nay muốn dự vào pháp của Ta để tu hành phải trải qua bốn tháng
thử thách, hầu xem xét hành vi họ, chí nguyện họ, tính nết họ. Nếu thấy đầy đủ
tư cách, không gì thiếu sót mới cho họ ở trong giáo-pháp của Ta thọ cụ-túc
giới; nhưng ông nên biết, tuy vậy còn tuỳ theo hành vi của mỗi người mà xét.
Ông Tu-Bạt thưa:
- Như thế thì hàng ngoại đạo học theo
giáo-pháp khác phải tập sự thử thách, trải qua bốn tháng để xem xét hành động
họ thế nào, nếu thấy đầy đủ tư cách, không thiếu oai nghi, mới được thọ cụ-túc
giới; nay tôi xin ở trong chính-pháp của Ngài phục-dịch bốn năm, một khi không
còn sơ suất, mới xin được thọ cụ-túc giới.
Ngay trong đêm ấy, ông Tu-Bạt xuất gia
thụ giới, tu hạnh thanh-tịnh, tinh tấn hành trì theo lời Phật giảng dạy, và tự
mình chứng ngộ ngay trong hiện tại. Khi gần nửa đêm, ông chứng qủa A-la-Hán, và
ông xin được diệt độ trước đức Phật. Ông là đệ-tử cuối cùng, và lúc ấy ông là
đệ-tử nhiều tuổi nhất của đức Phật.
Bấy giờ, Tôn-giả A-nan-Đà không ngăn nổi
cơn bi lụy, ngậm ngùi than khóc vì đức Phật sắp nhập diệt trong khi Tôn-giả chỉ
mới lên được bực có học (hữu học) mà đạo qủa chưa thành. Đức Phật biết thế, nên
Ngài nói với Tôn-giả:
- Này A-Nan, thôi đi, chớ có nức nở khóc than,
từ trước tới giờ Thầy hầu hạ Ta với cử chỉ hiền hòa khiêm tốn, lời nói lễ độ
đúng pháp, ấy là Thầy đã cúng dường Ta, công-đức rất lớn; nếu có sự cúng dàng
nào từ Trời, Ma, Sa-môn, Bà-la-Môn, cũng không sao sánh được, Thầy hãy cố gắng
lên, ngày thành đạo không còn bao lâu nữa.
Rồi đức Phật khen ngợi nhiều công-đức
khác của Tôn-giả A-nan-Đà, Tôn-giả cảm thấy phấn khởi khi được đức Phật ngợi
khen, nên nguôi quên đi sự bi lụy, Tôn-giả vội qùy gối trước Phật mà nói:
- Thưa đức Thế-Tôn, sau khi Ngài diệt độ rồi,
các hàng đệ-tử làm thế nào để tưởng nhớ đức Phật?
- Này A-Nan, chớ lo, các hàng đệ-tử sẽ có bốn
chỗ để tưởng nhớ Phật là:
1- Thứ nhất là chỗ
Phật Giáng-sinh có những công-đức như thế.
2- Thứ hai là nơi Phật
Thành-đạo có
những thần-lực như thế.
3- Thứ ba là nơi Phật
chuyển Pháp-luân lần đầu có những sự hóa-độ như thế.
4- Thứ tư là chỗ
Phật vào Niết-Bàn có những lời di-chúc như thế.
Các hàng đệ-tử có bốn chỗ ấy để tưởng
nhớ, vui mừng muốn thấy, ghi nhớ không quên, và sinh lòng luyến mộ; rồi mỗi
người nên đi đến bốn nơi đó, sau khi kính lễ, xây Chùa dựng Tháp, thì sau khi
qua đời đều được sinh lên cõi Trời.
Tôn-giả A-nan-Đà hỏi tiếp:
- Thưa đức Thế-Tôn, sau khi Phật nhập diệt, có
những đệ-tử ngỗ nghịch, tự chuyên ương ngạnh, không tuân theo giáo-luật của
Phật, phải đối xử với người này như thế nào?
- Này A-Nan, sau khi Ta diệt độ, nếu có những
hạng người như thế, các thầy hãy đem họ mà xử trị theo pháp Phạm-đàn là thông
báo cho các đệ-tử khác, không ai được nói chuyện với họ, hoặc tiếp xúc, tới
lui, dạy dỗ, cộng tác với họ.
- Này A-Nan, thầy cho rằng các
Tỳ-kheo không có nơi nương tựa, không có ai che chở sau khi Ta nhập diệt ư?
Đừng nghĩ như vậy, những Kinh, Luật mà Ta đã giảng dạy từ khi thành Phật đến
nay là chỗ nương tựa che chở cho các thầy đó, từ nay trở đi, Ta cho phép các
thầy được tùy nghi bỏ bớt các giới nhỏ nhặt; các thầy hãy lễ độ, trên dưới hòa
thuận với nhau, đó là pháp kính thuận của người xuất gia mà các Thầy cần để ý.
- Này các Tỳ-kheo, các thầy đối với
Phật, Pháp, chúng Tăng và Chính-Đạo còn có điều gì nghi ngờ không?, ai nghi
ngờ, không hiểu bất cứ điều gì thì hỏi ngay đi cho kịp thời, để sau này khỏi
hối tiếc, vì giờ này Ta vẫn còn đây và giải quyết cho.
Khi ấy các thầy Tỳ-kheo đều yên lặng
không người nào có thắc mắc, Đức Phật hỏi như thế lần thứ hai, rồi Ngài hỏi lần
thứ ba, các thầy Tỳ-kheo cũng vẫn im lặng, đức Phật lại nói:
- Nếu các thầy e ngại không dám hỏi thì nhờ
người khác hỏi giùm cho kịp, để sau này khỏi hối tiếc.
Lúc ấy vẫn không có thầy Tỳ-kheo nào nêu
thắc mắc, Tôn-giả A-nan-Đà đứng lên, quỳ xuống, chắp tay nói:
- Thưa đức Thế-Tôn, con tin trong đại chúng
này, ai nấy đều có lòng tin thanh-tịnh, không còn hoài nghi về Phật, Pháp, Tăng
nữa.
Đức Phật dạy:
- Này A-Nan, Ta biết trong đại chúng này, dù
một Tỳ-kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác, chỉ
còn bẩy lần sinh lại cõi dục này là diệt hết khổ.
Bấy giờ đức Phật thọ ký cho một nghìn
hai trăm năm mươi Tỳ-kheo đệ-tử chứng được đạo qủa, xong Ngài để lộ cánh tay
sắc vàng và bảo các đệ-tử:
- Các Thầy nên nhớ rằng Như-Lai xuất hiện ở
đời cũng như hoa Ưu-đàm bát-La xuất hiện vậy, và Ngài diễn tả lại bằng bốn câu
Kệ:
Cánh tay phải sắc vàng,
Phật hiện như
linh-thụy,
Đến đi đều vô thường,
Hiện diệt không buông
lung.
Các thầy không nên: buông lung phóng dật
(lười biếng) trong việc tu hành, Ta nhờ không buông lung mà thành Chính-Giác,
và vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được.
Ngừng lại một vài giây, đức Phật nói
tiếp:
- Các thầy nên biết: “Tất cả vạn vật đều vô thường, vì không có cái gì bền
vững mãi mãi, đó là lời dạy cuối cùng của Như-Lai mà các Thầy phải ghi nhớ”
Dạy các đệ-tử xong, đức Phật để tay trái
xuôi trên hông bên trái, chân trái vẫn chồng trên chân phải, từ từ khép hai mắt
lại. Khởi đầu, Ngài vào định Sơ-thiền, rồi từ định Sơ-thiền ra để vào định
Nhị-thiền; từ định Nhị-thiền ra để vào định Tam-thiền; từ định Tam-thiền ra để
vào định Tứ-thiền; từ định Tứ-thiền ra để vào định Không-xứ (Không Vô Biên
Xứ); từ định Không-xứ ra để vào định Thức-xứ (Thức Vô biên xứ); từ định Thức-Xứ
ra để vào định Bất-dụng (Vô sở Hữu xứ); từ định Vô-dụng ra để vào định
Hữu-tưởng; từ định Hữu-tưởng ra để và định Vô-tưởng; từ định Vô-tưởng ra để vào
định Diệt-tưởng (Phi Tưởng Phi Phi Tưởng).
Lúc đó Tôn-giả A-nan-Đà hỏi Tôn-giả
Trưởng-lão A-na-Luật:
- Thưa Trưởng-lão, đức Thế-Tôn đã nhập
Niết-Bàn rồi sao?
- Chưa, đức Thế-Tôn hiện đang ở trong định
Diệt-tưởng, tôi lúc trước ở gần đức Thế-Tôn được nghe rằng khi từ định
Tứ-thiền ra lần thứ hai, thì đức Thế-Tôn mới nhập Niết-Bàn.
Khi ấy đức Phật từ định Diệt-tưởng ra để
vào định Vô-tưởng (bắt đầu ngược lại), rồi từ định Vô-tưởng ra để vào định
Hữu-tưởng, định Bất-dụng, định Thức-xứ, định Không-xứ, định Tứ-thiền, định
Tam-thiền, định Nhị-thiền ra để vào định Sơ-thiền. Rồi Ngài lại từ định
Sơ-thiền ra để vào định Nhị-thiền, từ định Nhị-thiền ra để vào định Tam-thiền,
từ định Tam-thiền ra để vào đinh Tứ-thiền, từ định Tứ-thiền ra, đức Phật nhập
Niết-Bàn.
Ngay lúc ấy, mặt đất rung động mạnh,
Trời, Người, muôn vật đều khủng khiếp kinh hoàng; những chúng-sanh ở những chỗ
tối tăm, nơi kín đáo, hang hốc, không có mặt Trời hay mặt Trăng chiếu đến đều
được soi sáng, trông thấy lẫn nhau. Trên trời: Chư vị Trời Đao-Lợi ở giữa hư
không rải hoa như tuyết rơi để cúng dàng đức Như-Lai, hoa phủ cả một vùng rộng
lớn.
C)- Tán thán và cúng dàng thân Phật.
Bấy giờ Phạm Thiên-Vương, Đế-Thích,
Thần-Kim Tỳ-La, Phật-Mẫu (Mẹ của Phật), Thần Long-Thọ, Thần rừng Ta-La, Trời
tứ-Thiên-Vương, Trời Đao-Lợi, Trời Diệm-Ma, Trời Đâu-Xuất, Trời Hóa-Tự-Tại,
Trời Tha-Hóa Tự-Tại, Vua Tỳ-Sa-Môn, Tôn-giả A-na-Luật, Tôn-giả Phạm-ma-Na,
Tôn-giả A-nan-Đà, Lực-sĩ Mật-Tích (Thần hộ vệ của đức Phật), và các Tỳ kheo lần
lượt nói Kệ tán thán đức Phật.
Sau khi các vị nêu trên tán thán đức độ
siêu Phàm vượt Thánh của đức Phật xong, các Tỳ-kheo cảm thấy cô độc vì đã mất
đi cả một bầu trời sáng lạng. Các thầy buồn rầu, khóc than, lăn lóc kêu rên vì
không kìm hãm nổi nỗi xúc động, và kể lể:
- Đức Thế-Tôn diệt độ quá sớm! Đại-Pháp chìm
quá sớm, mắt thế-gian đã diệt mất, cũng ví như cây lớn đã tróc gốc rễ thì cành
lá phải bị gẫy đổ, v.v…
Bấy giờ Tôn-giả A-na-Luật bảo:
- Thôi đi, thôi đi, các thầy chớ có khóc lóc,
than vãn như thế nữa, kẻo vô số các vị Trời trên hư không nhìn xuống, họ sẽ chê
trách chúng ta.
Các thầy Tỳ-kheo hỏi Tôn-giả A-na-Luật:
- Trên hư không có bao nhiêu vị Trời ?
- Các vị Trời đầy cả hư không, đâu có đếm tính
mà biết hết được; họ cũng buồn bã, than van, nhưng không ồn ào như chúng ta.
Sáng hôm sau, vâng lời Trưởng-lão
A-na-Luật, Tôn-giả A-nan-Đà vào thành Câu-Thi báo cho dân chúng biết, khi gặp
một đám đông người nhân có một chút duyên sự nhóm họp tại một nơi, Tôn-giả
A-nan-Đà bảo họ:
- Nay tôi vì muốn sự lợi ích cho qúy vị, nên
đến đây báo cho qúy vị biết, đó là đức Phật đã diệt độ trong đêm qua tại rừng
Ta-La giữa hai cây đại Long-thọ, nếu như qúy vị muốn cúng dàng thân Phật thì
hãy đến cho kịp.
Dân chúng Mạt-La nghe lời ấy xong, thảy
đều xúc động than tiếc, và bảo nhau:
- Chúng ta hãy về nhà báo cho bà con, anh em,
bạn bè, xóm giềng biết, cùng sửa soạn hương hoa, kỹ nhạc đến rừng Ta-La chỗ
những cây đại Long-thọ để cúng dàng thân Phật.
Những thân-hào nhân-sĩ Mạt-La dự trù: “Dân chúng sẽ đến cúng dàng thân Phật trong một ngày tại
rừng Long-thọ, rồi sau đó để thân Phật trên một cái kiệu lớn, đồng thời cho các
Đồng-tử Mạt-La khiêng kiệu, có phướn, lọng, bảo cái, xông hương, rải hoa, và kỹ
nhạc đi khắp bốn hướng thành để mọi người trong thành chiêm bái. Sau nữa là
rước thân Phật đến một ngọn đồi cao ở phiá Bắc thành Câu-Thi để làm lễ
trà-tỳ”(hỏa thiêu).
Một ngày cúng dàng trôi qua, các người
Mạt-La thỉnh thân Phật đặt trong kiệu, rồi những thanh niên trai tráng xúm
quanh lại khiêng kiệu, nhưng họ nhấc kiệu lên không được, dù có tăng thêm nhiều
người cũng vậy. Tôn-giả A-na-Luật liền bảo:
- Này các vị, hãy thôi đi, chỉ nhọc công các
trai tráng một cách vô ích, vì chư vị Trời chưa muốn đưa rước thân Phật vào
trong thành; họ muốn lưu thân Phật tại nơi đây bảy ngày để cho tất cả Chư-Thiên
ở các tầng Trời đến kính lễ cúng dàng. Sau đó mới thỉnh kiệu vào cửa Đông qua
cửa Tây, xuống cửa Nam, lên cửa Bắc để cho dân chúng được chiêm bái; từ cửa Bắc
qua sông Ni-liên-Thiền, đến Chùa Thiên-Quan mà làm lễ trà-tỳ, đó là ý chư vị
Trời, khiến không nâng kiệu lên được.
Người Mạt-La nói:
- Hay lắm, xin tuỳ ý chư Thiên,
Lúc ấy, người Mạt-La bảo nhau cử một số
người ở lại để dâng hương, hoa, đèn, và hòa tấu kỹ nhạc cúng dàng thân Phật;
những người không có nhiệm vụ ở lại, về thành cổ động anh em bà con dân chúng,
quét dọn cổng ngõ, đường sá và chuẩn bị các việc trong thành; họ còn phân chia
nhau để luôn luôn có người phụ trách việc dâng hương hoa đèn, và hòa tấu nhạc
cúng dàng thân Phật suốt trong cả bảy ngày lẫn đêm.
Đúng hết hạn bảy ngày, các thanh niên
Mạt-La thỉnh kiệu lên vai, có treo bảo cái, cầm phướn, lọng, xông hương, rải
hoa, và trỗi nhạc; đoàn người đi theo kiệu đủ cả tăng tục, nam phụ lão ấu, thứ
lớp thong thả, đi chật cả một đoạn đường dài.
Khi đoàn rước thân Phật bắt đầu đi, thì
các vị trời Đao-Lợi rải năm loại hoa Trời xuống như tuyết rơi, như bướm bay,
rợp cả một vùng trời. Nhạc Trời trỗi lên âm vang cả một vùng rộng lớn có các
Qủy-Thần xướng ca tiễn đưa, làm lấn át tiếng nhạc của cõi Người! Người Mạt-La
thấy thế nên bảo nhau:
- Hãy dừng nhạc của chúng ta, thỉnh nhạc của
chư Thiên hay hơn, đặc biệt hơn.
Khi đoàn rước thân Phật đã đi hết bốn
cửa thành, dân chúng Mạt-La của thành Câu-Thi tán thán cúng dàng chiêm bái
xong, họ rước thân Phật ra cửa thành phiá Bắc, qua sông Ni-liên-Thiền, rồi đến
Chùa Thiên-Quan. Tại đây, các vị Bô-Lão Mạt-La hỏi Tôn-giả A-nan-Đà:
- Chúng tôi giờ đây nên hỏa táng thân Phật
bằng cách nào? Xin Tôn-giả cho biết.
Tôn-giả A-nan-Đà đáp:
- Tôi đích thân nghe đức Phật dạy là muốn táng
thân Phật hãy theo cách táng một vị Chuyển-Luân Thánh-Vương mà làm. Trước hết
lấy nước thơm tắm rửa, lau khô thân Ngài, và dùng năm trăm thước vải trắng cuốn
quanh nhiều lần; rồi đặt thân Ngài vào trong Kim-quan (Quan-tài), lấy dầu vừng
(dầu mè) tưới vào, và đậy nắp Kim-quan lại. Sau nữa đặt Kim-quan vào trong một
cái Quách bằng sắt (Kim-Tĩnh), rồi đặt cái Quách bằng sắt này vào trong một cái
Quách bằng gỗ thơm chiên-đàn (ba lớp cả thảy). Sau chót là đặt cái Quách gỗ
chiên-đàn trên một giàn củi gỗ, rồi chất lên trên và chung quanh củi gỗ và
hương liệu nổi tiếng mà trà-tỳ (thiêu táng). Trà-tỳ xong, thu nhặt Xá-Lợi, xây
Tháp ở các ngã tư đường lớn, đặt Xá-Lợi trong Tháp, đồng thời treo bảo cái,
phướn lọng để mọi người trông thấy dễ dàng.
Đức Phật bảo: “Nếu
muốn táng Ta cũng làm như thế, để mọi người tưởng nhớ và kính mộ công-đức của
Như-Lai. Nhờ đó khi còn sống họ được phúc lợi, khi chết họ được sinh đến cõi
lành, ngoài ra đối với người tu được dễ dàng thấy đạo”.
Nghe rồi, dân Mạt-La chia nhau đi lo
chuẩn bị các thứ cần thiết, khi có đầy đủ các thứ, họ trở lại và làm đúng như
lời tôn-giả A-nan-Đà đã nói; khi mọi việc tẩm liệm xong xuôi, có vị Đại-thần
dòng Mạt-La tên là Lệ-Di, tay cầm bó đuốc lớn cúi đầu xá lạy, rồi châm lửa từ
bó đuốc vào giàn hỏa thiêu kim-thân đức Phật, nhưng châm mồi một lúc lâu vẫn
không cháy? Kế đó có vị Trưởng-lão Mạt-La cầm đuốc khác đốt theo, nhưng giàn
hỏa thiêu cũng vẫn không cháy; rồi nhiều bó đuốc khác cùng châm mồi đốt một
lượt, nhưng lạ thay giàn hỏa thiêu vẫn không cháy lên được?! Thấy vậy, Tôn-giả
Trưởng-lão A-na-Luật bảo:
- Thôi đi qúy vị, các ông không đốt cháy được
đâu. Giàn hỏa không cháy được là do ý các vị Trời, vì chư Thiên muốn đợi vị đại
đệ-tử của Phật là Tôn-giả Đại Ca-Diếp dẫn năm trăm Tỳ-kheo từ nước Ba-Bà đến
đây, hiện nay họ đang đi nửa đường về đây cho kịp thấy thân Phật trước khi
trà-tỳ.
Lúc đó Tôn-giả Đại Ca-Diếp đang dẫn các
đệ-tử Phật trên đường vội vã đến để chiêm bái thân Phật, gặp một thanh niên
trong tay cầm một đóa hoa trời Văn-đà-La, Tôn-giả hỏi:
- Anh bạn trẻ từ đâu lại đây có biết Thầy tôi
không?
- Tôi từ thành Câu-Thi lại đây, Thầy ông nếu
là Sa-môn Cù-Đàm đã diệt độ cách nay bảy ngày rồi, tôi từ đó đến, nên tôi nhận
được đoá hoa Trời này.
Tôn-giả Đại Ca-Diếp nghe xong buồn bã
không vui, các Tỳ-kheo khác khóc lóc kêu than, Tôn-giả bảo các Tỳ-kheo nên đi
mau đến rừng Ta-La để kịp được thấy kim-thân Phật. Khi đoàn Tỳ-kheo đi đến bờ
sông Ni-liên-Thiền, được tin thân Phật đang quàn tại Chùa Thiên-Quan, họ lập
tức đến Chùa Thiên-Quan. Vừa tới nơi, Tôn-giả Đại Ca-Diếp trông thấy Tôn-giả
A-nan-Đà, liền hỏi:
- Chúng tôi muốn được thấy kim-thân đức Phật
trước khi hỏa táng có được không?
Tôn-giả A-nan-Đà đáp:
- Tuy chưa trà-tỳ, nhưng mà khó thấy được, vì
thân đức Phật được cuốn bằng năm trăm thước vải trắng đặt trong một Kim-quan,
rồi tưới tẩm dầu vừng. Đồng thời Kim-quan ấy đặt trong một cái Quách bằng sắt,
cái Quách bằng sắt này lại được đặt trong một cái Quách khác bằng gỗ chiên-đàn,
do đó thân Phật khó thấy được.
Tôn-giả Đại Ca-Diếp hỏi xin lần thư hai,
rồi hỏi lần thứ ba, nhưng Tôn-giả A-nan-Đà vẫn trả lời y như thế. Chẳng biết
làm thế nào, Tôn-giả Đại Ca-Diếp hướng về phiá giàn hỏa mà đảnh lễ, ngay chính
lúc đó bỗng nhiên thấy chân Phật thò ra ngoài. Tôn-giả nhìn thấy chân
Phật có màu sắc lạ, bèn hỏi Tôn-giả A-nan-Đà:
- Thân Phật vốn màu sắc vàng, sao chân Ngài có
màu sắc lạ như thế?
Tôn-giả A-nan-Đà đáp:
- Trước đây có một bà già vì tiếc thương Phật,
sờ chân Phật và có lẽ làm rơi nước mắt trên chân Phật nên có màu sắc khác lạ
như thế.
Thế rồi Tôn-giả Đại Ca-Diếp hướng vào
Kim-thân Phật đảnh lễ, bốn chúng cùng các vị Trời trên hư không cùng đồng loạt
đảnh lễ, lúc đó bỗng nhiên không còn trông thấy chân Phật thò ra ngoài nữa!?
Tôn-giả Đại Ca-Diếp đi chung quanh kim
thân Phật ba vòng, vừa đi vừa nói kệ tán thán công đức vô biên của Phật.
Tôn-giả Đại Ca-Diếp có đại oai đức, có oai thần lớn lao, vì Tôn-giả vừa nói kệ
vừa đi hết ba vòng xong, giàn hỏa thiêu tự nhiên bừng cháy mà không cần đốt
lửa!?
d)- Bảy nước cầu thỉnh
Xá-Lợi Phật.
Khi hỏa thiêu thân Phật xong: người
Mạt-La chuẩn bị thâu thập Xá-Lợi trong khi đợi cho Quách sắt nguội, và tính
việc xây tháp để thờ Xá-Lợi Phật.
Phân chia Xá-lợi Phật.
Kết tập tam tạng lần thứ nhất.
Lúc ấy, các vua và dân chúng bảy nước
gồm:
1- Vua nước Ba-Bà,
2- Dân chúng dòng Bạt-Ly thuộc nước La-Phả,
3- Dân chúng dòng Bà-la-Môn nước Tỳ-lưu-Đồ,
4- Dân chúng dòng Câu-Lợi thuộc nước La-ma-Già,
5- Dân chúng dòng Thích-ca nước Ca-duy-La-Vệ,
6- Dân chúng dòng Ly-Xa thuộc nước Tỳ-xá-Ly,
7- Và vua A-xà-Thế của nước Ma-kiệt-Đà.
Các vua và các dân-tộc bảy nước nghe tin
đức Phật diệt độ tại rừng Ta-La, nước Câu-Thi, thì họ đều tự nghĩ: “Ta nên đến đó cầu xin lấy một phần Xá-Lợi đem về xây
tháp thờ, để mọi người dân trong nước được phụng kính chiêm bái Xá-Lợi Phật”.
Vua A-xà-Thế và Vua nước Ba-Bà đều huy
động bốn thứ binh quân và cử sứ-giả đến thưa hỏi, Vua A-xà-Thế cử ông
Hương-Tánh và dặn dò các điều cần nói. Bấy giờ ông Hương-Tánh đến thành Câu-Thi
thưa với Vua nước Câu-Thi rằng:
- Vua nước Ma-kiệt-Đà là A-xà-Thế hỏi thăm
Đại-Vương. Vua nước Ma-kiệt-Đà với Ngài hết lòng tương kính nhau, nay nhân
nghe đức Như-Lai diệt độ tại qúy quốc. Đối với đức Thế-Tôn, Vua nước chúng
tôi hết lòng cung kính, cho nên từ phương xa tới đây cầu xin một phần Xá-Lợi của
Phật để đem về dựng tháp cúng dàng; Vua chúng tôi sẽ biếu quốc-bảo cho Ngài.
Lúc đó các quần-thần nước Câu-Thi không
chịu và tâu với Vua rằng:
- Đức Thế-Tôn đã giáng lâm và diệt độ ở đây,
nhân-dân nước Câu-Thi tự lo liệu cúng dàng, việc chia cấp Xá-Lợi Phật không
chấp thuận được.
Vua nước Câu-Thi nghe lời các quần-thần,
nên bác bỏ lời thỉnh cầu của ông Hương-Tánh; các Quốc-Vương và các quần-thần
các nước bèn họp nhau thảo luận và chung quyết như sau: “Chúng ta từ xa đến cúi đầu khiêm tốn xin được chia phần
Xá-Lợi Phật đem về xây tháp cúng dàng, nếu không được chấp thuận, chúng ta phải
dùng binh lực”.
Khi ấy Vua nước Câu-Thi cũng triệu tập
tất cả quần-thần bàn luận, xong trả lời rằng: “Chúng
ta không chia Xá-Lợi cho các nước khác, nếu các nước muốn dùng binh lực, chúng
ta đây sẵn sàng chống trả đến cùng”.
Thấy vậy, Bà-la-môn Hương-Tánh đứng ra
hiểu dụ mọi người của hai bên như sau:
“Thưa chư
Tôn-Hiền, qúy vị đã nhận lãnh lời dạy của đức Phật, miệng tụng lời Phật dạy là
tâm hiền hòa, ý nhân từ, và thường mong cho tất cả chúng-sanh đều được an lành
lợi lạc, nay chẳng lẽ vì việc dành giật Xá-Lợi Phật mà trở lại tàn hại lẫn nhau
sao? Hơn nữa, nếu muốn có lợi ích sâu xa rộng lớn, thì Xá-Lợi Phật nên chia
thành nhiều phần bằng nhau. Mỗi nước lãnh một phần mang về nước mình, xây dựng
tháp để mọi người dân trong nước được chiêm-bái cúng dàng, như thế mới là bình
đẳng và đem lại phúc báu, an vui cho mọi người trong mọi nước”.
Mọi người của hai bên nghe nói như thế,
đều cho là phải lẽ, hợp lý, hợp tình, và đề nghị ông Hương-Tánh đảm nhận việc
phân chia; bấy giờ các Quốc-Vương bảo ông Hương-Tánh:
- Ông hãy chia Xá-Lợi Phật làm tám phần đồng đều
cho tám nước.
Bà-la-môn Hương-Tánh vâng lời, đến chỗ
giàn hỏa thiêu, cúi đầu đảnh lễ xong, ông mở Quách sắt, bới tro nhặt tất cả
Xá-Lợi Phật bỏ vào trong một cái bình lớn; sau đó, ông chia Xá-Lợi Phật làm tám
phần đựng trong tám cái bát đá bằng nhau, mỗi nước lấy một phần. Chia xong, ông
xin mọi người cái bình để đem về dựng tháp thờ tại nhà riêng, người trong thôn
Tất-Bát gần đó đến xin tro hài cốt (Bone-ash) còn lại để dựng tháp cúng dàng,
mọi người đều chấp thuận vui vẻ cả.
Người của tám nước đều vui mừng phấn
khởi trỗi nhạc, cầm phướn, lọng, bảo cái, cùng nhau rước Xá-Lợi Phật về nước
mình; rồi mỗi nước tự chọn chỗ thích hợp nhất, xây dựng tháp, để mọi người dân
trong cả nước của họ được chiêm bái cúng dàng Xá-Lợi-Phật.
Khắc kinh Phật truyền hậu thế
Tóm lại, khởi đầu Xá-Lợi Phật được thờ
trong tám tháp tại tám nước, tháp thứ chín thờ cái bình, tháp thứ mười thờ tro
hài cốt, và tháp thứ mười một thờ tóc Phật khi Ngài còn tại thế-gian. Đặc
biệt, Phật đản sinh, xuất gia, thành đạo, nhập Niết-Bàn đều vào ngày tám tháng hai.
(Cần phải coi lại, vì các chùa làm lễ Đản-sinh và Thành đạo khác ngày?) .,.
HẾT