Thứ Ba, 16 tháng 12, 2014

- KINH SÁM HỐI QUYỂN 1



KINH SÁM HỐI 
Đê đầu lạy Thiên ân đại xá,
Đấng Chí Tôn cao cả quyền năng .
Phi vân hạo khí tọa đăng ,
Thượng Đài Huỳnh Đạo chuẩn thằng chúng sanh .
Lời sám hối thành tâm khấn nguyện ,
Ánh Minh Châu soi chuyển tứ linh .
Sân si con quyết sửa mình ,
Tham lam là chỗ tội tình phân tranh .
Điều tà mị tạo thành dục hỏa ,
Bao chúng sanh tha hóa bản thân .
Tiền tài vật chất bụi trần ,
Tương tàn huynh đệ tứ thân chia lìa .
Bao nước mắt đầm đìa tuôn chảy ,
Ngôn từ kia tranh cãi thấp cao .
Hiểu ra chân lý nhiệm mầu ,
Lời Thầy huấn dạy đê đầu ghi tâm .
Nguyện báo hiếu tứ thân phụ mẫu ,
Ơn sinh thành hiểu thấu hôm nay .
Núi cao biển rộng sông dài,
Công ơn dưỡng dục đêm ngày chăm lo .
Trung với Đạo con đò hiệp nhất ,
Nguyện khép mình quy luật Thiên Khai .
Chí tâm đảnh lễ Mẹ Thầy .
Chứng lời minh thệ sửa sai thân phàm .
Xin đức độ kỳ Tam đại xá ,
Phật Pháp Tăng cao cả chứng minh .
Chư Thần chư Thánh huyền linh ,
Lôi âm phong vũ chuyển hình Thiên Long .
Nương ánh sáng Huyền Thông Huỳnh Đạo ,
Trước Thiên Đài nguyện tạo Phật duyên .
Cúi đầu bái lạy cơ Thiên ,
Mười điều Thầy dạy giữ nguyên tâm thiền .
Xin Tam Giáo pháp truyền Thánh đức ,
Cứu nhân sinh hiểu luật Mâu ni .
Nam mô Tam giáo Ngũ chi ,
Thiên Khai Huỳnh Đạo từ bi cứu đời .
( 3 lạy ) .
TÂM NIỆM :
- NAM MÔ TAM GIÁO CẢM ỨNG CHỨNG MINH .
PHẦN GIỚI THIỆU:

            Thế gian là nơi uế trược và chứa nhiều tội lỗi.
Theo Phật, cõi thế gian nằm trong Sa Bà Thế giới, hay cõi Tam Thiên Đại Thiên Thế giới, thuộc phạm vi hóa độ của Đức Thích Ca Mâu Ni Văn Phật. Sa Bà quốc độ được dịch là Kham Nhẫn, hàm ý: Chúng sanh trong cõi ấy cam lòng chịu đựng những nỗi khổ sở do ngũ trược gây ra, chẳng biết sợ sệt và nhàm chán. Mặc dù có hiểu chư pháp vẫn ít có kẻ chịu tu hành để thoát ly khổ cảnh, cam lòng đắm chìm mãi trong vòng trói buộc, nên gọi là Kham Nhẫn. Sa Bà còn được Phật cho là ngũ trược ác thế, do vì có năm thứ trược trong cõi ấy, đó là kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược.
            Ngoài ra, thế giới ấy còn là một nơi chứa nhiều tội lỗi, vì bởi con người bị vô minh che mờ chân tánh, bị thất tình lục dục sai khiến làm những hành vi hung ác mà gây ra nhiều tội lỗi.
            Chính vì vậy, con người được sinh ra ở cõi thế gian này có mấy ai không bị nhiễm trần và tránh khỏi tội lỗi, song khi đã biết lỗi lầm thì phải biết sám hối ăn năn, như lời dạy trong bài kinh Sám Hối:
                              Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
                              Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
            Hoặc:
                              Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
                               Biết lạc lầm sám hối tội căn.

            Thánh giáo Đức Chí Tôn cũng có dạy: “Nơi trần khổ này, dầu cho bậc Chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng, nhưng sự ăn năn tự hối là quí báu vô giá. Các Tiên, Phật xưa cũng nhiều bậc đứng đặng địa vị cao thượng, thiêng liêng là nhờ có sự cải quá mà nên chánh quả”.
            Do vậy, khi mở nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Đức Chí Tôn dạy phải độ những người có tội lỗi, là hạng người nhiều nhứt trong thế gian, và nhứt là thời kỳ hạ ngươn mạt pháp này. Ngài dạy: “Thầy lại nói, buổi lập Thánh Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy. Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.
            Độ người có tội không có nghĩa là ơn Trên tha thứ hết các lỗi lầm đã gây thành nghiệp báo trong hiện kiếp, mà chính do tự tâm phải biết hối cải và làm lành.
            Thực ra, Đức Chí Tôn và chư Phật không bao giờ thay đổi nghiệp lực của chúng sanh, mà chỉ có thể giáo hóa chúng sanh tự mình nỗ lực sám hối ăn năn để thay đổi nghiệp lực hay vận mệnh của chính mình. Trời Phật chỉ dùng giáo pháp để dìu dắt chúng sanh tu thiện, tu phước để được trừ tai, miễn họa. Vì vậy, nói rằng do mình sám hối nên Trời Phật rộng tình tha thứ cho, điều đó là ý muốn nói trước nhứt tự bản thân chúng sanh phải biết ăn năn sám hối, tức là tự mình độ rỗi cho mình, nếu không thì làm trái với quy luật nhân quả tự nhiên. Như chính lời Thánh giáo của Đức Chí Tôn đã than: “Than ôi! Thầy đã là Đấng lập khổ hình, chiếu theo phép công bình của Tạo Hóa, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày càng bước vào con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó, thì Thầy cũng bắt đau lòng, nhưng chẳng lẻ bỏ phép công vì sanh chúng”.
            Những người có tội sở dĩ được sự quan tâm của Đức Chí Tôn cũng vì Ngài quá thương yêu chúng sanh còn khờ dại, nên đến dạy dỗ, dìu dắt trở về nẻo chánh đường chơn, hầu sau này có thể qui hồi cựu vị. Trước những sự ưu ái của Ngài, chúng ta, những người mới cải tà qui chánh phải biết các tội tình đã sai phạm và xin nguyện ăn năn sửa đổi, chừa bỏ việc quấy, từ nay về sau không bao giờ tái phạm nữa. Như thế mới thực sự là sám hối để tu hành.
            Muốn thực hiện lễ sám hối, chúng ta phải thiết đàn cúng Đức Chí Tôn và tụng kinh Sám Hối. Nhưng chúng ta cần nên hiểu rằng tâm là nguồn gốc tác động nên tội lỗi, do đó muốn dứt tội thì tất yếu phải sám hối ở tự tâm, chứ không có nghĩa là cầu xin Đức Chí Tôn tha tội, mà phải nhờ Ngài chứng giám để ta phát tâm ăn năn chừa cải. Có như thế, chúng ta mới quyết tâm sửa chữa những lỗi lầm để trở thành con người mới, có nội tâm trong sạch, thanh tịnh.
            Bài kinh để tụng sám hối của Đạo Cao Đài được Hội Thánh thỉnh từ Chi Minh Lý, trước đây gọi là kinh Nhơn Quả, trong ấy các Đấng Thiêng Liêng chỉ dạy những điều tội lỗi và các thứ hình phạt nơi cõi Diêm Cung tương ưng với những tội tình đã gây ra ở thế gian. Nhứt là nhấn mạnh đến luật luân hồi nhơn quả, nhằm cho chúng sanh ghê sợ mà tránh xa tội lỗi.
            Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Bát Nương Diêu Trì Cung khi giảng về cõi Âm quang, Bà có nói: “…chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong đô, Địa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các chơn hồn giải thần định trí”.
            Do lời dạy của Bát Nương, trước đây có một số chức sắc, chức việc ở miền Bắc nghĩ rằng những hình phạt ghê rợn nơi cõi Địa ngục được mô tả trong bài kinh Sám Hối có tính cách mê tín và mâu thuẩn với lời dạy của Bát Nương nên đồng ký tên kiến nghị với Hội Thánh Tây Ninh, yêu cầu sửa đổi lại bài kinh Sám Hối. Hội Thánh lúc ấy không chấp nhận.
            Thực ra, nếu căn cứ theo Thánh giáo Bát Nương, chúng ta biết chắc chắn nhứt là “nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh xưa đã đặt hiệu” tức là một danh từ mới của cõi Địa ngục, nơi ấy có các tội hồn chịu sự đau đớn khổ sở, có sự ăn năn dày vò do quả kiếp xấu mà họ đã gây ra trong kiếp sanh. Họ sống trong cõi tối tăm ấy ít nữa đôi trăm năm để họ được giải thần định trí.
            Còn các tội hình nơi Địa ngục được diễn tả trong kinh Sám Hối chẳng qua là do bị đớn đau, khổ sở, đã dày xéo chơn thần của người có tội, khiến nên cảm giác như thọ lãnh hình phạt một cách ghê sợ, dường thể trừng trị họ bởi những tội lỗi đã gây ra trong kiếp sanh.
            Sở dĩ, trong Kinh Sám Hối các Đấng Thiêng Liêng bày ra những cảnh tượng ghê gớm của tội hình cũng nhằm mục đích răn dạy kẻ sơ cơ. Người ta thường nói luật hình nơi Dương gian không khiến người ta ghê sợ bằng nhơn quả nơi Địa ngục. Vì thế, các cuốn kinh nhơn quả đều nói về sự trừng phạt trong cõi Địa ngục nhằm để giới răn những điều dữ, như Kinh Nhân Quả Ba Đời của Phật, Hồi Dương Nhơn Quả, Ngọc Lịch Minh Kinh…
Nhơn quả tức là cái nguyên nhơn của đời trước, gọi là tiền nhơn 前 因 thì sẽ có kết quả đời sau, gọi là hậu quả 後 果. Trong Truyền Đăng Lục của nhà Phật nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị, dục tri lai sinh quả, kim sinh tác giả thị                 ”: Muốn biết nguyên nhân đời trước ta thế nào, thì cứ xem hưởng thụ của ta đời nay; muốn biết sự kết quả đời sau thế nào, ta cứ xem việc ta làm đời nay đó. Biết được việc luân hồi nhơn quả như thế, con người mới sớm ăn năn làm phước để chuộc tội tiền khiên, nếu đợi đến ngày mãn số thì ăn năn sao kịp?
Bài Kinh Sám Hối nói về cõi Địa ngục hay Âm quang dù có hình phạt đau đớn như thế nào, ở đây chúng ta chỉ cần biết tránh ác làm lành để khỏi bị đọa vào cõi ấy, như lời khuyên của Bà Bát Nương Diêu Trì Cung: “Chớ chi nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang”. Như thế, bài kinh Sám Hối có thể nói là bài kinh nhằm muc đích: Đưa thuyết luân hồi nhân quả để răn kẻ làm ác, khuyên người làm lành:
                        Xuống Địa ngục, đọa đày hành mãi,
                        Đúng số rồi, còn phải luân hồi.
                              Hóa công xem xét đền bồi,
                     Lành siêu, dữ đọa, thêm nhồi tội căn.
Bài kinh Sám Hối còn khuyên người có tội lỗi phải ăn năn chừa cải:
           
                                                        Quấy rồi phải biết ăn năn
Ở cho nhân hậu, chế răn lòng tà.
Hoặc:
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Hoặc:
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy,
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.

Bài kinh Sám Hối này còn là một bài kinh khuyến thiện:
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.      

            Tóm lại, bài kinh Sám Hối của đạo Cao Đài, như tựa kinh khi xưa, là một bài kinh dạy về nhơn quả, để khuyên chúng sanh phải kiêng sợ quả báo mà cải quá tự tâm, là mục đích quan trọng trong giáo pháp Cao Đài. Bất cứ ai phạm một tội lỗi gì, dù là tội nặng nề, mà hễ thành tâm sám hối, tinh tấn tu hành, thảy đều được cứu độ. Trong các kinh điển thường có câu: Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Bồ Tát là bậc giác ngộ cho nên không dám tạo nhân, còn chúng sanh vì không sáng suốt cho nên chỉ khi nào quả khổ hiện ra mới lo sợ, chứ trong lúc gây nhân khổ thì chẳng nhận thấy. Gây nhân khổ thì tất phải chịu quả khổ; tạo duyên lành thì tất phải hưởng nghiệp lành. Đó là luật nhơn quả, cũng là mục đích khuyên dạy người đời của các Đấng Thiêng Liêng.
            Trong quyển này, ngoài việc chú giải bài kinh Sám Hối, chúng tôi còn chú giải thêm hai bài kinh: Bài Xưng Tụng Công Đức Phât, Tiên, Thánh, Thần và Giới Tâm Kinh.
            Như vậy quyển “Chú Giải Kinh Sám Hối” gồm ba phần:
            1. Kinh Sám Hối.
            2. Bài Xưng Tụng Công Đức Phật Tiên Thánh Thần.
            3. Giới Tâm Kinh.

THIÊN THỨ NHỨT

 I.-KINH VĂN:

KINH SÁM HỐI (1)

*********

Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
Lòng đừng so thiệt tính hơn,
Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
Người sang cả là vì duyên trước,
Kẻ không phần luống ước cầu may.
Sang giàu chẳng khác như mây,
Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.
Việc sanh tử như dường chớp nháng,
Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
Giữ cho trong sạch linh hồn,
Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.
Điều họa phước không hay tìm tới,
Tại mình dời nên mới theo mình.
Cũng như bóng nọ tùy hình,
`           Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
Sao bằng ở phải buổi đầu,
Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
Người làm phước có khi mắc nạn,
Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
Ấy là nợ trước còn mang,
Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
Nếu vội trách người trên thì đọa,
Cũng có khi tai họa trả liền
Đó là báo ứng nhãn tiền,
Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
Lo danh vọng hao mòn thân thể,
Ham làm giàu của để bằng non.
Một mai nhắm mắt đâu còn,
Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
Trên đầu có bủa giăng Thần, Thánh,
Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
Làm lành đặng hưởng phước duyên,
Trong lòng nham hiểm lộc quyền giảm thâu.
Đừng tính kế độc sâu trong dạ,
Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
Trái oan nào khác mối tơ,
`                       Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.
Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
Quấy rồi phải biết ăn năn,
Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.
Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
Xót thương đến kẻ tật nguyền,
Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
Làm con phải trau dồi hiếu đạo,
Trước là lo trả thảo mẹ cha.
Lòng thành thương tưởng ông bà,
Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
Ở sao đáng phận đạo dâu,
Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.
Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,
Không kiêng chồng khi dể công cô.
Ấy là những gái hung đồ,
Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
Ngày sau đọa chốn âm ty,
Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la.
Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
Kính anh mến chị thì là phận em.
Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
Cũng là một gốc sanh ra,
Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.
Người trung trực lo âu nợ nước,
Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
Chớ làm con giặc tôi loàn,
Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
Phận làm tớ thật thà trung tín,
Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
Áo cơm no ấm hằng ngày,
Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.
Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
Mà quên lời phú thác dặn dò.
Trước người giả bộ siêng lo,
Sau lưng gian trá so đo tấc lòng.
Phải chừa thói loài ong tay áo,
Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.
Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.
Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,
Đừng gian mưu hãm hại người hiền.
Anh em bằng hữu kết nguyền,
Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.
Chớ thấy khó mà khi mà thị,
Gặp người giàu mà vị mà nâng.
Dầu khi gặp lúc gian truân,
Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.
Làm người phải kỉnh thờ Thần, Thánh.
Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin,
Hễ là niệm Phật tụng kinh
Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
Chừa thói xấu đảo điên trong dạ
Muôn việc chi chẳng khá sai lời
Dối người nào khác dối Trời,
Trời đâu dám dối ra đời ngỗ ngang.
Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng.
Mà dể duôi sanh biến lăng loàn,
Con người có trí khôn ngoan,
Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi,
Phải cho biết kỉnh vì trên trước
Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ
Thuận cùng chú bác cậu cô,
Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.
Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh
Đừng chỗ đông buông tánh quá vui
Cợt người ra dạ dể duôi,
Sanh điều chích mích đâu nguôi dạ hờn.
Khi tế tự chớ lờn chớ dể
Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang
Gìn lòng chẳng khá lăng loàn.
Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.
Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức.
Phước ấm no túc thực túc y.
Thấy người gặp lúc tai nguy,
Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,
Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.
Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn
Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền
Bắc cầu đắp sửa đường liền,
Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
Rán tập thành sửa tánh từ hòa.
Việc lành chẳng khá bỏ qua,
Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.
Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,
Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
Thường dạn làm tội lại hằng hà.
Vì chưng tựu thiểu thành đa,
Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy
Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
Làm người nhơn nghĩa xử xong
Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội
Giúp cho người chớ vội khoe ra,
Việc chi cũng có chánh tà,
Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy vò.
Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm,
Chớ đừng thấy của dấy tham,
Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù,
Trong đời rất hiếm võ phu,
Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa.
Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
Lương tâm thường xét cho rành,
Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.
Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
Đâu làm điều nhục tổ hổ tông?
Đứa ngu thấy của thì mong,
Không gìn tội lỗi phép công nước nhà.
Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
Hễ nghe khua động đồng tiền,
Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào.
Người nghèo khổ biết sao than kể,
Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền,
Làm quan tính kế đảo điên,
Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.
Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu,
Trong lòng mưu chước rất sâu,
Mai sau suy sụp đáo đầu ra chi.
Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,
Phá tan hoang gia sản suy vi.
Làm người phải khá xét suy,
Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
Còn một nỗi gian dâm đại tội,
Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
Tuy là Trời Đất rộng thinh,
Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
Mới biệt phân sừng đội lông mang
Việc lành, việc dữ đồn vang
Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.
Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
Làm điều nhục nhã tổ tông,
Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng
Hung hoang tội báo nghiệt căn,
Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.
Lòng chừa biếng nhác kiêu căng
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người
Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đọa sa A Tỳ.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.
Đừng cố oán thầm lo gây họa,
Đem lòng thù hăm dọa rắp đường.
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.
Đời nhiều kẻ khi Thần, thị Thánh,
Ám muội lòng tánh hạnh gổ ganh
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần.
Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
Ăn gian xớt bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.
Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Ngày sau đọa lạc Âm ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong.
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa
Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời
Túng cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
Chớ sanh chước hiểm hẹp eo
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm cung luật xử nặng nề.
Đánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
Thánh hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.
Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất
Quỉ vô thường sẵn chực đem đi.
Dắt hồn đến chốn Âm ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Người lương thiện ra vào thong thả.
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh.
Phật, Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác hườn hình như xưa.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
Dỗ dành, rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Hành đến chết hườn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh.
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Đo gian, đong thiếu, Thánh Thần chẳng kiêng.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo đọa đày thế ni.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình tán đởm rất ghê.
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo trăng cùm xiềng gông.
Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
Có cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu.
Để hành kẻ chứa sâu, lường của
Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.
Vì chưng chưởi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần, Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
Bàn chông nhọn liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.
Hành người bế địch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
Thành Uổng tử cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên xiết khóc than.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
Xuống Địa ngục đọa đày hành mãi,
Đúng số rồi còn phải luân hồi.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu dữ đọa thêm nhồi tội căn.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Chớ thái quá đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
Lời kệ sám di truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?
Chớ buông tiếng thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.



        II.-NGUỒN GỐC VÀ Ý NGHĨA:

            Bài kinh Sám Hối được nhiều Đấng Thiêng Liêng lần lượt giáng cơ ban cho chi Minh Lý (Tam Tông Miếu) vào năm Ất sửu 1925.
            Theo ông Âu Minh Chánh, người lập ra Minh Lý Đạo, bài kinh Sám Hối này do Đức Thái Thượng Lão Quân giáng cơ ban cho một đoạn đầu bài kinh trong một đàn cơ cầu bịnh tại Thủ Thiêm. Sau đó, lần lần có các Đấng như Tam Giáo Đạo Chủ, Quan Âm Bồ Tát, Nam Cực Chưởng Giáo, Quan Thánh Đế Quân, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thập Điện Minh Vương..v.v.. giáng tiếp cho trọn bài kinh Sám Hối. Cuối cùng Đức Đông Phương Lão Tổ lại ban cho bài “Khen Ngợi Kinh Sám Hối” để kết thúc một giai đoạn giáng cơ ban Kinh Sám Hối kéo dài hơn 7 tháng.
            Khi ban cho bài kinh xong, Đức Văn Tuyên Vương giáng dạy các tín đồ chi Minh Lý phải đến chùa trong các ngày sóc vọng để dâng hương và sám hối theo bài kinh này.
            Đến khi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã được khai sáng, Đức Chí Tôn giáng cơ dạy Hội Thánh cử một phái đoàn gồm bốn người: Ngài Thượng Đầu Sư Lê Văn Trung, Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư và Giáo Sư phái Thượng Vương Quang Kỳ đến Minh Lý Đạo thỉnh kinh, trong đó có bài Kinh Sám Hốivà bài Khen Ngợi Kinh Sám Hối. Trong thời gian đầu này, bài Kinh Sám Hối được gọi là Kinh Nhơn Quả.
            Bài Kinh Sám Hối này được Hội Thánh dạy phải tụng vào những ngày sóc vọng, còn như ngày thường nếu có lầm lỗi điều chi thì tụng để xin tội.
            Như ta đã biết hai chữ Sám hối   là danh từ kết hợp cả tiếng Sanskrit và tiếng Hán. Sám do chữ Phạn sám ma, là ăn năn những lỗi lầm đã phạm, thật lòng muốn sửa đổi. Hối: Thú nhận những điều sái quấy mà mình đã làm, sẵn sàng cải sửa các tội lỗi ấy.
            Sám hối có nghĩa là xin thú nhận những lỗi lầm đã phạm và xin nguyện ăn năn sửa đổi tội lỗi, từ nay về sau không tái phạm nữa.
            Tội Lỗi do bởi con người vô minh để cho ý nghĩ xấu phát sinh ra, thông qua hành động của thân, khẩu, ý. Do đó khi tụng cầu sám hối thì ta phải cải hóa tâm trước, rồi sau đó, quì tụng trước Chánh điện Đức Chí Tôn nguyện xin ăn năn hối ngộ và quyết lòng cải tà qui chánh, có như thế mới thực sự là sám hối, nội tâm mới có thể đạt được an nhiên, thanh tịnh.

            III.-CHÚ GIẢI:

            1.               Cuộc danh lợi là phần thưởng quí,
                              Đấng Hóa Công xét kỹ ban ơn.
            3.                  Lòng đừng so thiệt tính hơn,
                           Ngày đêm than thở dạ hờn ích chi.
        Danh lợi  Danh là tiếng tăm, lợi là lợi lộc. Danh lợi là tiếng tăm và lợi lộc của con người.
            Cuộc danh lợi: Danh và lợi trong cuộc sống của con người.
            Thưởng : Ban cho người có công.
            Quí : Quí giá, quí báu.
            Hóa công  : Thợ tạo, tức là ông thợ đã sinh thành và biến hóa ra vạn vật. Do câu trong bài phú của Giã nghị: “Thiên địa vi lô, tạo hóa vi công    ,   ” (Trời đất làm lò, ông Tạo làm thợ). Chỉ Đấng Tạo hóa, Thượng Đế.
            So thiệt tính hơn: So sánh thiệt hơn, suy xét lợi hại, tức là tính toán một cách kỹ lưỡng.
            Theo Mạnh Tử, con người đừng nên so thiệt tính hơn, bởi vì: Một hớp uống một miếng ăn đều do nơi tiền định. Muôn việc cũng thế, đều đã chia định hết thảy. Với kiếp phù sinh con người lo gì cho uổng công, muôn việc không phải bởi người so thiệt tính hơn mà nên, một đời người đều là có mạng số đã an bài rồi (Nhất ẩm nhất trác sự giai tiền định, vạn sự phân dĩ định, phù sanh không tự mang, vạn sự bất do nhân kế giảo, nhất sanh đô thị mệnh an bài                事 不 由 人 計 較      ).
            Dạ hờn: Trong dạ hờn giận.
            Ích chi: Có lợi ích gì.
Câu 1 và 2Danh tiếng và lợi lộc trong cuộc sống của con người là do Đấng Tạo Hóa xét ban cho để làm phần thưởng quí giá.
            Sống ở thế gian không gì quí giá bằng danh và lợi. Chính danh lợi đã làm cho biết bao nhiêu người điêu đứng, khổ sở: Người thì tốn hao mồ hôi, nước mắt, thậm chí cả xương máu để tìm lấy nó, kẻ thì gây biết bao nhiêu tội tình để giành giựt, chiếm đọat lấy nó. Nhưng không phải ai cũng có thể tìm lấy nó được, mà phải có phước duyên để hưởng, tức là phải được Chí Tôn ban thưởng ơn đức cho. Muốn được vậy, kiếp trước chúng ta phải tạo phước đức, kiếp này mới được hưởng, bây giờ chúng ta làm việc thiện để hưởng ở kiếp lai sinh.
            Chính Khổng Tử cũng nói: Người làm việc lành thì Trời ban phước đức cho, kẻ làm việc chẳng lành thì Trời lấy họa mà trả cho (Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phước; vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ họa                ).
          Sách Thượng Thư cũng nói rằng: Hễ ai làm việc lành thì Trời ban cho trăm điều phước; hễ ai làm việc chẳng lành thì Trời xuống cho trăm điều họa (Tác thiện giáng chi bá tường; tác bất thiện giáng chi bá ương            ).
Câu 3 và 4: Trong lòng đừng tính toán hơn thiệt, đêm ngày cũng đừng than thở , lòng hờn giận nào có ích chi đâu.

               5.               Người sang cả là vì duyên trước,
                                 Kẻ không phần luống ước cầu may.
               7.                  Sang giàu chẳng khác như mây,
                              Khi tan khi hiệp đổi xây không thường.
            Sang cả: Sang là cao quí. Cả là lớn. Sang cả tức là giàu sang lớn, quí hiển sang trọng lắm.
            Duyên trước: Do từ Hán Việt Tiền duyên  , chỉ mối ràng buộc được định sẵn từ kiếp trước. Nếu duyên lành, tức là kiếp sống trước ta làm những điều lương thiện đạo đức, thì kiếp sống hiện tại được may mắn, giàu sang, hạnh phúc.
          Không phần: Không có số phận tốt đẹp, may mắn, tức là số phận khổ sở, vật vả.
            Người không phần hay vô phần cũng do bởi luật nhơn quả mà ra. Hay nói cách khác, vô phần là bởi cái ác nghiệp của mình đã tạo ra từ tiền kiếp.
            Luống ước: Nhiều lần ước muốn.
            Cầu may: Cầu mong được may mắn.
            Sang giàu chẳng khác như mây: Giàu sang chẳng khác gì một đám mây trôi nổi trên bầu trời, không được lâu dài, bền vững, khi tan khi tụ.
            Theo Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, mồi phú quí, bã vinh làm lóa mắt người trần thế, khiến họ quay cuồng đeo đuổi, đắm đuối cái mộng đẹp mà rốt cuộc chỉ là hư vô:
                              Giấc Nam kha khéo bất bình,
                        Bừng con mắt dậy thấy mình tay không.
Khi tan khi hiệp: Đám mây nổi lúc thì tụ lại lúc thì tan biến ra, không được bền bĩ.
Câu 5 và 6: Người được giàu sang là nhờ vào duyên lành nơi kiếp trước, còn kẻ không phần thì dù có mong cầu sự may mắn đi nữa cũng chẳng xong.
            Sự giàu sang phú quí, có tiền có của là nhờ ơn Trên ban thưởng cho người có duyên phần, biết tích chứa phước điền trong kiếp trước. Tùy theo buổi xưa tạo ra việc lành nhiều hay ít mà Trời Phật ban thưởng cho hưởng trong hiện kiếp.
            Ngày xưa nếu không lo lập công bồi đức, tức là thiếu phần phước đức, thì kiếp này sẽ trở thành người không duyên phần, mà nếu không duyên phần thì dù có ước ao cầu khẩn cho thế mấy thì cũng chẳng thể nào hưởng đặng. Còn nếu làm điều phi nghĩa để được hưởng thì phải mang lấy nghiệp quả mà bậc Thánh hiền không làm. Trong sách Luận Ngữ có câu: Bất nghĩa nhi phú thả quí ư ngã như phù vân           : (Bất nghĩa mà giàu sang, đối với ta như đám mây nổi).
Câu 7 và 8: Sự giàu sang không bền vững, chẳng khác gì một đám mây trôi trên trời, khi tan khi hiệp, thay đổi rất mau chóng, không thường tại.

               9.            Việc sanh tử như dường chớp nháng,
                              Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
             11.               Giữ cho trong sạch linh hồn,
                           Rèn lòng sửa nết đức tồn hậu lai.
          Sanh tử 生 死: Sống chết, một quảng đời của con người, từ lúc sinh ra cho đến lúc chết. Còn dùng để chỉ hai sự kiện lớn của con người nơi thế gian: Việc sống và việc chết.
            Đường sanh tử hay sinh tử lộ, chỉ đường luân hồi, tức là sinh ra rồi chết, chết rồi lại chuyển kiếp để được sinh ra… Cứ thế mà tạo nên con đường sinh tử.
            Sanh là một con đường mà người khách trần mượn để đi lên, để đầu thai xuống thế giới hữu hình trả những nghiệp quả đã gây ra trong kiếp trước.
            Tử là chết. Theo quan niệm thông thường của người đời, chết là hết. Nhưng đối với nhân sinh quan của Cao Đài hay Phật Giáo, chết chỉ là một giai đoạn hoại diệt của thân xác hữu hình hay sự đoạn lìa nghiệp trái ở cõi thế, để có một sự sống miên viễn, bất tận nơi thế giới vô vi, thanh tịnh.
            Việc sanh tử: Việc sống chết của con người.
            Đường chớp nhoáng: Hay đường sấm chớp, là một đường ánh sáng lóe lên do sấm sét tạo thành. Chỉ một khoảng thời gian rất ngắn.
            Quang âm  Quang là ánh sáng. Âm là bóng tối. Quang âm là sáng và tối thay đổi nhau. Chỉ thời gian.
            Bóng quang âm: Chỉ ngày (Quang: Ánh sáng) và đêm (Âm: Bóng tối).
            Dập dồn: Hay dồn dập, chỉ việc xảy ra liên tiếp.
            Giữ cho trong sạch: Giữ gìn cho thật trong sạch, tinh khiết.
            Linh hồn  : Còn gọi là Chơn hồn hay Vong hồn, tức là hồn của người chết.
            Triết lý Cao Đài cho rằng con người ở thế gian gồm có ba thể: Linh hồn, Chơn thần và Thể xác.
            - Linh hồn  : Hay Chơn linh là một điểm Linh quang được chiết ra từ khối Đại Linh quang của Thượng Đế ban cho. Thể này Thiêng liêng linh diệu trong con người, bất tiêu bất diệt, nên khi chết, linh hồn nhẹ nhàng sẽ trở về cõi Hằng sống.
            - Chơn thần  : Hay Đệ nhị xác thân. Theo Thánh giáo, đây là một xác thân thiêng liêng do Phật Mẫu dùng nguơn khí tạo thành. Thể này thuộc khí chất, bán hữu hình, vì nó có thể thấy đặng, mà cũng không có thể thấy đặng. Khi ra khỏi xác phàm, thì Chơn thần lấy hình xác phàm như khuôn in rập.
            Khi còn sống, Chơn thần không thể xuất ra đặng vì bị xác phàm níu kéo, chỉ bậc chân tu mới có thể xuất Chơn thần đặng.
            - Nhục thể  : Hay phàm thân, là đệ nhứt xác thân, do cha mẹ đào tạo bằng xác thịt, Phật giáo cho rằng thân tứ đại, bởi đất, nước, gió, lửa hợp lại mà thành. Thể này hữu hình, trọng trược, không thường tồn, dễ bị hoại.
          Đức tồn hậu lai    : Cái đức còn mãi về sau.
Câu 9: Sự sống chết của con người nhanh lẹ như lằn chớp nhoáng (Lóe lên rồi tắt).
Câu 10: Bóng thời gian trôi nhanh chóng, ngày tháng dồn dập qua đi.
            Mọi chúng sanh, mọi sự hiện hữu trên cõi đời hữu hình này đều phải có sống chết, sinh diệt theo nguyên lý duyên sinh duyên diệt. Việc sống chết theo quan niệm của Đạo là quá trình chuyển hóa miên viễn, có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc.
            Sinh tử đối với Tôn giáo là vấn đề chính yếu: “Sinh tử sự đại, vô thường tấn tốc       ” (Sự sinh tử là việc lớn, vô thường đến rất mau chóng). Đức Hộ Pháp cũng có nói: “Ôi! Kiếp sanh tại thế mang xác thịt, hỏi sống được mấy lát? Nội một giấc thức, giấc ngủ là thấy sự chết sống của kiếp con người, mang thi hài bóng dáng nầy là giả. Cảnh thiệt không phải ở đây, mà cảnh thiệt ở nơi chỗ khác kia, sao không tìm cảnh thiệt là cảnh tồn tại, lại chạy theo bóng?” Vì thế, tất cả các Đạo giáo đều dạy thoát ly sanh tử.
            Thật thế, hai câu:
                        Việc sanh tử như dường chớp nháng,
                        Bóng quang âm ngày tháng dập dồn.
cho ta thấy ngày tháng như thoi đưa, việc sanh tử thường xảy ra liên tục, nên cuộc đời của chúng sanh nơi cõi trần rất ngắn ngủi, phù du dễ tan biến như làn sấm chớp, như giấc chiêm bao.
            Trong bài kinh Khi Thức Dậy có câu:
                              Tử sanh, sanh tử là chi,
                  Gẫm trong giấc mộng cũng bì như nhau.
            Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều, trong tác phẩm “Cung Oán Ngâm Khúc” viết:
                                 Nghĩ thân phù thế mà đau,
                           Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê.
            Hoặc ví thân phận con người nhỏ bé như bào ảnh, dễ tiêu tan trước sóng gió của biển đời:
                                 Sóng cồn cửa bể nhấp nhô,
                           Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.
            Lý Bạch, một thi Tiên của nhà Đường, cũng là Lý Đại Tiên Trưởng Kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã coi đời như một giấc mộng:
                                 Xử thế nhược đại mộng.
                                           
                                 Hồ vi lao kỳ sinh?
                                           
                                    Ở đời tựa giấc chiêm bao,
                           Làm chi mà phải lao đao nhọc mình?
            Riêng Thánh giáo Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có dạy rằng: ...“bóng thiều quang nhặt thúc, con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu sang danh vọng đều thành một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội tình muôn kiếp”.
            Con người vừa dứt ba tấc hơi nằm xuống thì mọi âm thanh đều dứt hết bên tai, mọi hoạt động, mọi việc đều buông bỏ:
                           Tam thốn khí tại thiên ban dụng,
                                       
                           Nhứt đán vô thường vạn sự hưu.
                                       
            Nghĩa là:
                     Ba tấc hơi còn thì ngàn việc dùng (tức là có thể làm tất cả mọi việc).
                     Một buổi sáng vô thường (chết) muôn việc đều buông xuôi.
            Nếu chúng ta biết được cuộc sống con người là một kiếp phù sinh và sự chết không phải là hết mà chỉ là con đường dẫn đến những cảnh giới tuyệt diệu hơn thì chúng ta sẽ cảm thấy yêu đời và chuẩn bị cho con đường đến cõi chết.
Câu 11: Chúng ta gìn giữ sao cho Linh hồn được trong sạch.
Câu 12: Cố gắng rèn luyện nết na và tâm tánh hầu tạo nên phước đức để dành cho mai sau.
            Linh hồn còn gọi là Chơn linh, là Điểm Linh quang của Chí Tôn ban cho, tự nguyên sơ đã là trong sạch nhẹ nhàng rồi.
            Sở dĩ Chơn linh không trong sạch là bởi vì con người đã trải qua bao nhiêu kiếp luân hồi sinh tử, gây ra biết bao nhiêu oan nghiệt, và tạo nên nghiệp quả, khiến cho Chơn thần phải chịu nặng nề ô trược. Khi Chơn thần bị trọng trược thì sẽ níu kéo Chơn linh, làm cho Chơn linh cũng chịu nặng nề ô trược.
                        Dòng khổ hải dễ thường chìm đắm,
                        Mùi đau thương đã thấm Chơn linh.
                              Dây oan xe chặt buộc mình,
                     Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
                                                            (Kinh Giải Oan)
            Để Chơn linh được trong sạch nhẹ nhàng, con người phải rèn lòng sửa nết, tức là dẹp bỏ thất tình lục dục và tu dưỡng một cơ thể tinh khiết bằng cách giữ gìn trai giới, có tư tưởng thanh cao phát huy bản thể trọn lành.

               13.          Điều họa phước không hay tìm tới,
                              Tại mình dời nên mới theo mình.
               15.             Cũng như bóng nọ tùy hình,
                           Dữ lành hai lẽ công bình thưởng răn.
            Họa phước  Họa là việc rủi ro. Phước là việc tốt lành. Họa phước là việc rủi ro và việc may mắn.
            Không hay tìm tới: Không thường tìm tới.
            Tại mình dời (1): Tại mình dời đổi.
            Đúng ra chữ “vời” hợp với nghĩa chữ triệu : Mời đến, rước lấy.
            Trong Tả Truyện có câu: Việc họa phước không có cửa, chính do người vời nó đến (Họa phước vô môn duy nhân tự triệu       ).
            Bóng nọ tùy hình: Hình ảnh như thế nào thì cái bóng hiện ra như thế ấy. Ý nói nhơn nào quả nấy.
            Dữ lành hai lẽ: Hai việc dữ lành mà con người chọn lựa để hành xử ở thế gian, tức là hành vi thiện ác của con người.
Câu 13 và 14: Việc họa phước không phải tự nó tìm đến, mà tại mình tự vời lấy nên mới theo mình.
Câu 15: Điều họa phước tự mình vời tới thì cũng ví như bóng tùy hình hay quả do nhơn mà ra.
Câu 16: Hai việc lành dữ mà mình nhận được là do sự công bình của ơn Trên thưởng răn.
          Bốn câu kinh Sám Hối từ câu 13 đến câu 16 trên, lấy ý từ lời nói trong thiên Thái Thượng Cảm Ứng Kinh: “Họa phước vô môn duy nhân tự triệu. Thiện ác chi báo như ảnh tùy hình”               . Nghĩa là cái điều hoạ phước không có cửa, là không có chỗ định, tại mình tự vời nó mới tới mình mà thôi. Sự quả báo cái lành cái dữ, thì cũng như là cái bóng cứ theo cái hình mà thôi, chẳng hề sai chạy: Hễ hình ngay thì bóng cũng ngay, hình nghiêng thì bóng cũng nghiêng; lành thì trả lành, dữ thì trả dữ, đó là sự thưởng răn một cách công bình của Thiêng Liêng vậy.

               17.          Khi vận thới lung lăng chẳng kể,
                              Lúc suy vi bày lễ khẩn cầu.
               19.             Sao bằng ở phải buổi đầu,
                        Thần minh chánh trực có đâu tư vì.
            Vận thới  : Còn gọi là vận thái. Vận là khí số. Thới là tốt, yên vui. Vận thới là khí số gặp lúc thông suốt, yên vui (Trái với vận bĩ, vận suy).
            Lung lăng: Hung dữ càn bậy, không biết đến lẽ phải quấy.
            Suy vi  Suy là sa sút dần. Vi là hèn mọn. Suy vi là sa sút một cách thấp hèn, suy sụp.
            Khẩn cầu: Hay cầu khẩn  , tức là cầu xin một cách chân thành và tha thiết.
            Bày lễ khẩn cầu: Bày lễ vật cúng tế để cầu khẩn các Đấng Thần Thánh.
            Sao bằng: Chi bằng.
            Ở phải: Ăn ở theo lẽ phải, tức là cư xử với mọi người hợp luân thường đạo lý.
            Buổi đầu: Từ lúc đầu tiên.
            Thần minh  : Vị Thần sáng suốt.
            Chánh trực  : Ngay thẳng.
            Tư vì: Do từ Hán Việt tư vị  : Vì tình riêng tư, đối xử thiên lệch.
Câu 17: Khi gặp thời vận hanh thông, thịnh vượng thì hung hăng, càn bậy chẳng kể việc phải quấy.
Câu 18: Lúc suy vi, nghèo hèn thì bày lễ vật cúng tế để cầu khẩn các Đấng Thần Thánh Tiên Phật.
            Có nhiều người gặp vận thới, được hưởng những điều phước đức mà lại không lo tạo thêm phước đức, trái lại còn có lòng lung lăng, hung dữ. Đến chừng mạng vận suy sụp thì bày lễ cúng lạy để khẩn cầu. Đó là người không hiểu về luật nhơn quả.
            Như ta biết, vận thới hay vận suy là nhờ con người đã gieo giống từ trước, hễ gầy giống chi thì được hưởng quả nấy.
            Người được vận thới là nhờ phước đức tạo ra từ tiền kiếp, nên kiếp này mạng vận mới được hanh thông, thịnh vượng. Song người ở thế này đã được hưởng thì cũng phải lo bồi đắp cho thân sau này, chớ đừng hưởng hết. Người xưa có dạy: Hữu phước bất khả hưởng tận, hưởng tận thân bần cùng         . Muốn vậy, chúng ta vừa hưởng phước, vừa tạo thêm công đức, như thế mới không sợ hưởng hết phước đức.
Câu 19: Chi bằng từ lúc đầu mình ăn ở theo lẽ phải, hợp với đạo đức.
Câu 20: Thần Thánh sáng suốt và ngay thẳng có lẽ đâu vị tình riêng.
            Không phải đợi đến lúc gặp cảnh khốn cùng mới bày lễ cầu khẩn các Đấng, mà ta phải hằng ngày lo cúng kiếng, làm phước, làm lành, đó là ta đã chuẩn bị từ đầu những việc không may xảy đến cho ta sau này. Có nhiều người trước không nghĩ việc phải quấy, đến lúc túng cùng, mới khẩn cầu Trời đất để xin thứ tội, điều này Đông Nhạc Thánh Đế có dạy: Trời đất không tư vị, Thần minh thường soi xét. Không phải vì tế lễ mà ban cho phúc, không phải vì thất lễ mà giáng cho tai họa (Thiên địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất vị thất lễ nhi giáng họa                   ).
            Khổng Tử bị đau nặng, học trò là Tử Lộ xin Thầy bày lễ cầu nguyện để mau được khỏi bịnh. Ngài nói rằng: Khâu này cầu nguyện đã lâu rồi (Khâu chi đảo cửu hỹ     ). Ý Ngài muốn nói chung thân Ngài làm điều nhơn nghĩa, như vậy lúc nào Ngài cũng cầu xin rồi vậy.
            Như vậy, từ buổi đầu ta ăn ở theo lẽ phải, hợp với đạo đức, chứ không đợi đến lúc khốn cùng mới cầu xin các Đấng Thần Thánh, bởi vì các Đấng thiêng liêng rất sáng suốt và ngay thẳng nên không vị tình riêng cho ai cả.

               21.          Người làm phước có khi mắc nạn,
                              Kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang.
               23.             Ấy là nợ trước còn mang,
                     Duyên kia chưa dứt còn đang thưởng đền.
            Người làm phước: Người làm những việc thiện, việc có tính cách tạo ra phước đức.
            Làm phước là làm những điều thiện để giúp đỡ những người khác. Người biết làm phước là người có tâm hướng thiện.
            Làm phước hay làm lành thì được phước báo, phước quả, là cái kết quả được hưởng những điều an lạc, hạnh phước.
            Theo Phật, làm phước có hai thứ:
            1/.Phước hữu lậu   : Được hưởng an vui tương đối ở cõi thế gian, vì còn trong vòng luân hồi sinh tử.
            2/.Phước vô lậu   : Được hưởng an vui tuyệt đối, thoát ly sinh tử.
            Mắc nạn: Bị gặp tai nạn.
            Lăng loàn: Do chữ lăng loạn  Lăng là xúc phạm. Loạn là chống cự lại, làm rối trật tự. Lăng loạn là không chịu phục tùng ai, chống cự một cách hỗn xược.
            Đặng mạng giàu sang: Được cái mạng vận hưởng sự giàu sang.
            Nợ trước: Nợ nần từ kiếp trước.
            Còn mang: Còn thọ lãnh lấy, còn mang lấy nghiệp trước.
            Duyên : Mối dây liên lạc, mối dây ràng buộc.
            Duyên là điều kiện phụ để cho một sự vật thành hình. Còn điều kiện chánh là nhân. Duyên giúp cho nhân làm phát sinh ra quả, không có duyên thì nhân không thể phát sinh ra quả được.Ví dụ hạt giống là nhân, đất, nước, mưa, nắng, phân bón, chăm sóc...là duyên. Bất cứ một hiện tượng vật chất hay tinh thần nào đều cũng do bởi duyên tập hợp thành.
Câu 21: Người làm việc phước, việc lành có khi cũng bị mắc lấy tai nạn.
Câu 22: Còn kẻ hung hăng, hỗn xược mà lại được cái mạng giàu sang.
            Con người sống ở thế gian, ai cũng bị chi phối của luật nhơn quả. Hễ có nguyên nhân tất nhiên phải có kết quả tương thích với nguyên nhân ấy, đó là luật nhân nào quả nấy.
            Luật nhân quả không bị hạn chế bởi thời gian, có khi nhanh cũng có khi chậm. Có nhiều loại nhân quả:
            Nhân quả hiện tại gọi là Hiện báo : Nghiệp nhân trong đời này đưa đến quả báo ở hiện kiếp.
            Nhân quả trong hai đời gọi là Sanh báo  : Đời trước tạo nhân đời nay mới thọ quả. Đời này gây nhân đời sau nhận quả.
            Nhân quả trong nhiều đời gọi là Hậu báo  : Từ rất nhiều đời trước gây nhân, đời nay mới gặt quả, hoặc đời này tạo nhân nhưng mãi nhiều đời sau mới thọ quả.
            Hiện báo thì dễ thấy, dễ hiểu, nhưng hậu báo là quả báo do nghiệp nhân tạo ra từ những kiếp sống trước, đến nay mới có kết quả thì khó tin, khó hiểu. Ví dụ người lương thiện mà vẫn gặp chuyện không may.
            Theo hai câu kinh trên, người làm phước có khi mắc nạn cho ta thấy việc tai nạn, khổ sở là bởi nghiệp quả, tức do kiếp trước hay nhiều đời trước gây nhân, kiếp này phải đền trả. Việc làm phước làm lành trong hiện kiếp chưa đủ trả những oan nghiệt đã tạo ra ở tiền kiếp.
            Như vậy, không phải người làm phước mà mắc nạn, nếu không làm phước thì người ấy vẫn phải mắc nạn, có thể tai nạn còn nhiều hơn nữa, bởi việc làm phước có thể làm giảm bớt một số tai nạn.
            Còn những kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang là vì kiếp nầy tuy có những hành vi không tốt, nhưng nhờ còn hưởng phước đức từ nơi kiếp trước, khi nào phước đức của người ấy hết thì họ sẽ lãnh những quả báo ngay.
            Chúng ta đừng tưởng rằng làm những hành vi hung ác mà vẫn được giàu sang đâu, vì bởi quả báo chưa đến. Luật nhân quả như lưới Trời lồng lộng, quả báo như mũi kim không bao giờ lọt đặng.
            Từ Thần Ông    có nói rằng: Làm lành có lành báo, làm ác có ác báo, hiện thời chưa thấy báo là chưa đến lúc vậy (Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo; nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo             ).
Câu 23: Người làm phước bị nạn hay kẻ lăng loàn giàu sang là do bởi còn mang nợ nần từ kiếp trước.
Câu 24: Sự ràng buộc của nghiệp lực chưa dứt, nên còn đang vay trả, thưởng đền.
            Thực vậy, việc lành việc dữ chung cuộc rồi cũng có báo, có điều là trả kíp hay chầy mà thôi (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì            ).
            Câu chuyện sau đây cho ta thấy một nhà từ thiện suốt đời làm việc lành mà vẫn không siêu thoát là do bởi tội lỗi kiếp trước nặng hơn việc làm phước của ông nên còn trả quả.
            Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gariel Gobron người Pháp, vào một hôm ngồi chấp bút có một chơn linh giáng cơ xưng tên họ và nhờ ông tiến dẫn về Hội Thánh Cao Đài để cầu rỗi cho ông, vì ông chưa được siêu thoát.
            Ông Gobron nghe qua tên tuổi của vị này thì biết ngay, vì sanh tiền vị này là một nhà từ thiện nổi tiếng trong nước mà ai cũng biết. Cả một đời người chuyên đi bán đồ chơi trẻ em và đem số tiền lời được về giúp các trại cô nhi. Ông lại thường xin những đứa bé bị bỏ rơi đem về viện cô nhi để nuôi dưỡng. Những đứa bé do ông đem về thì ông lãnh phần trợ cấp cho trại cô nhi. Chính việc làm cao cả ấy, công nghiệp dường ấy mà lại không được siêu thoát làm cho ông Gobron thêm thắc mắc, mới hỏi:
            - Xin mạn phép hỏi ông: Cả một đời làm việc thiện như ông, thế sao không được siêu rỗi vậy?
Chơn linh ấy bùi ngùi trả lời rằng:
            Nhiều kiếp trước, tôi vốn là một quan đại thần, có quyền lực lớn, luôn luôn kề cận bên vua. Vì tôi có một thành kiến đối với phụ nữ là kẻ ngoại tình, người làm điếm hoặc không chồng mà có con, gái lang chạ. Tôi không muốn những đứa trẻ vốn sanh ra do những bà mẹ như vậy, nên quyết định diệt cho tuyệt; tôi cũng nghĩ những đứa trẻ ấy có sống cũng không làm lợi ích gì.
            Tôi tâu cùng đức vua và dâng bản luật ban hành khắp nơi bài trừ cho sạch cái nạn tồi bại nói trên để giữ nền đạo đức cho đất nước. Sau khi vua ký và đóng ấn ban hành; vì bản luật quá khắc nghiệt nên có nhiều phụ nữ có thai sợ quá mà phá bỏ thai nhi. Chính vì thế mà cả một kiếp sanh của tôi phải đi lượm và tìm trẻ mồ côi để nuôi. Tất cả việc làm của kiếp ấy, không có ngày nào nghỉ, vậy mà cũng chưa đủ đền trả tội lỗi của tiền kiếp đã gây ra, vì còn thiếu nên chưa siêu rỗi được; lại không còn dịp để tái sanh làm người nữa. Nay tôi nhờ Ngài cầu xin với Hội Thánh mà siêu độ giúp cho tôi.
            Khi hiểu rõ việc như thế, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn biên thư kể rõ nội dung và cầu xin Hộ Pháp và Đức Quyền Giáo Tông từ bi độ dẫn cho chơn linh ấy được sớm siêu rỗi.
            Câu chuyện trên cho ta thấy rằng công đức làm từ thiện suốt đời của Chơn linh trên không đủ tiêu trừ những tội lỗi mà chơn linh ấy đã gây ra nhiều kiếp trước.

               25.          Nếu vội trách người trên thì đọa,
                              Cũng có khi tai họa trả liền
               27.             Đó là báo ứng nhãn tiền,
                     Mau thì mình chịu lâu truyền cháu con.
            Vội trách: Vội vàng trách móc, không đắn đo suy xét mà vội đi trách cứ người.
            Người trên: Người cao quý hơn mình. Ở đây chỉ các Đấng Thiêng Liêng.
            Đọa : Rơi xuống, chìm đắm, chỉ sự bị đày xuống cõi khổ sở thấp kém.
            Tai họa  : Những thứ rủi ro lớn lao đưa đến khiến người ta phải khốn khổ.
            Tai họa trả liền: Gây những hành vi tội ác khiến bị quả báo bằng tai họa tức thì.
            Báo ứng  : Báo đáp lại, tức là được trả lại những gì mình đã làm ra. Như làm dữ gặp dữ; làm lành gặp lành.
            Việc báo ứng này, Khổng Tử có nói rằng: Người làm lành thì Trời trả cho điều phước; kẻ làm việc chẳng lành thì Trời báo ứng cho điều họa (Vi thiện giả thiên báo chi dĩ phước; vi bất thiện giả thiên báo chi dĩ họa                ).
            Nhãn tiên  : Trước mắt, chỉ việc xảy ra ngay trước mắt, tức là xảy ra liền.
            Trong Sấm Giảng Người Đời có câu:
                              Ngày xưa quả báo thì chầy,
                        Ngày nay quả báo một giây nhãn tiền.
            Lâu truyền cháu con: Nghiệp báo xảy ra lâu đời khiến cho con cháu phải thọ lãnh.
            Tử Đồng Đế Quân     có để lời dạy như sau: Trời đất đều có sự báo ứng, chậm thì đời con cháu phải chịu, còn mau thì đời mình phải nhận (Thiên địa tự nhiên giai hữu báo, viễn tại nhi tôn cận tại thân             ).
            Các tôn giáo đều tin tưởng rằng công đức, âm chất hay nghiệp quả do mình tạo lấy có thể chuyển từ mình để lại cho con cháu.
            Trong ca dao Việt Nam có nói lên điều này như sau:
                              Cây xanh thì lá cũng xanh,
                        Cha mẹ hiền lành để phúc cho con
            Tư Mã Ôn Công cũng có viết trong sách Gia Huấn: Chứa vàng để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã giữ được. Chứa sách để lại cho con cháu, con cháu chưa chắc đã học được. Cách để lại cho con cháu lâu dài không gì bằng chứa âm đức ở trong chỗ minh minh (Tích kim dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng thủ; tích thư dĩ di tử tôn, tử tôn vị tất năng đọc; bất như tích âm đức ư minh minh chi trung, dĩ vi tử tôn truờng cửu chi kế                                    ).
Câu 25: Nếu không xét nét, vội vàng trách cứ các Đấng Thiêng Liêng thì sẽ bị đọa.
Câu 26: Bởi vì việc làm ác đó cũng có khi đền trả bằng tai họa trước mắt.
Câu 27: Sự quả báo có thể xảy ra liền đó, là báo ứng nhãn tiền, tức là báo ứng xảy ra trước mắt.
Câu 28: Nếu việc báo ứng xảy ra mau thì bản thân người gây ra phải chịu; Còn nếu sự báo ứng xảy ra lâu thì truyền lại cho con cháu gánh chịu.
            Việc báo ứng là do nghiệp nặng nhẹ của mình đã làm ra từ một hay nhiều kiếp trước. Vì vậy, khi gặp trường hợp “người làm phước có khi mắc nạn” hay “kẻ lăng loàn đặng mạng giàu sang” mà chúng ta vội vàng trách cứ Trời Phật thì phải mang lấy tội lỗi.
            Theo luật nhơn quả, thì việc báo ứng chắc chắn sẽ xảy ra chỉ có điều mau chậm mà thôi. Điều này Từ Thần Ông đã nói: Lành có lành báo, ác có ác báo, hiện thời chưa báo, là chưa đến lúc vậy (Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo, nhược hoàn bất báo, thời thần vị đáo             ). Hoặc: Thiện ác bao giờ cũng có báo, chẳng sớm thì chầy sẽ đến mà thôi (Thiện ác đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì            ).
            Còn như suốt đời mình không thấy báo ứng thì đừng nghĩ rằng không có báo ứng đâu, vì nghiệp báo còn có thể truyền lại cho cháu con sau này thọ lấy.

               29.          Lo danh vọng hao mòn thân thể,
                              Ham làm giàu của để bằng non.
               31.             Một mai nhắm mắt đâu còn,
                     Đem vàng chuộc mạng đổi lòn đặng chăng.
            Danh vọng  Danh là nổi tiếng. Vọng là ngưỡng mộ. Danh vọng là nổi tiếng về tiền bạc, tài năng hay đức độ khiến người đời nhìn vào mà ngưỡng mộ.
            Trong bài Thánh giáo Chúa nhựt, ngày 19 tháng 12 năm 1926, Đức Chí Tôn giáng cơ nói về danh vọng bằng Pháp văn như sau: “La gloire est souvent contre la vertu. Elle est éphémère. Elle provient souvent de la fourberie” (Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá).
            Hao mòn thân thể: Thân xác con người bị hao phí hay sức khoẻ bị tiêu mòn.
            Danh vọng và giàu sang dễ làm cho con người ta phải lao tâm tiêu tứ, thân xác hao gầy, chính vì vậy, cổ nhân thường cho rằng: Phú quý trường trung dị bạch đầu       , tức là trong trường phú quí đầu dễ bạc.
            Của để bằng non: Của cải tiền bạc chất chứa lại thành đống lớn như núi non.
            Tánh tham con người không đáy, cứ mãi hao phí tinh thần và khí lực để tìm kiếm tiền bạc, của cải về chất cao như non núi, thế mà vẫn thấy chưa đủ, vì thế Ngô Chân Thiên có nói:
                              Thí vấn đôi kim đẳng sơn nhạc,
                                          ,
                              Vô Thường mãi đắc bất lai ma?
                                          ?
            Nghĩa là:
                              Bạc vàng ví chất cao như núi,
                              Nhưng quỉ Vô thường mua nổi không?
            Một mai: Một ngày nào đó.
            Nhắm mắt: Chết.
            Chuộc mạng: Đem tiền và vàng bạc đổi lấy mạng sống.
            Đổi lòn: Chịu hạ mình để cầu xin đổi lấy.
Câu 29: Chạy theo tiếng tăm để được người ta ngưỡng mộ thì phải tiêu hao sức lực của thân xác.
Câu 30: Ham mê giàu sang để có của cải chất cao như núi.
Câu 31 và 32: Một ngày kia, khi nhắm mắt chết rồi thì có thể đem vàng bạc để cầu xin chuộc lại mạng sống của mình được không?
            Danh vọng và tiền tài là cái khiến cho con ngươi phải lao đao lận lận, hao mòn thân thể bởi phải tính toán bằng trăm phương ngàn kế, phải mất ăn mất ngủ để làm việc một cách bán chết bán sống mới tạo ra được, cũng có khi phải dùng cả những thủ đoạn xấu xa, tội lỗi để giành giựt lấy nó. Ôi! Khi có được nó rồi thì thân xác hao mòn, sức khỏe suy kiệt, rồi mai kia vô thường lại đến thì thử hỏi công danh phú quý đó có thể đem thế mạng cho mình được không? Hay tội tình muôn kiếp mình phải thọ lấy.
            Cái thực vĩnh cửu mà ta không tìm lấy, lại chạy theo vô minh để tìm cái danh lợi quyền giả tạm để khiến phải lao tâm tiêu tứ và vương mang tội tình. Do vậy, Thánh giáo Đức Chí Tôn mới dạy: Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của quý ấy không ai ăn cướp đặng cả.
            Danh quyền nơi Trời là bền chắc nhứt và danh quyền ấy mới chịu đựng nổi bao sự thử thách (La gloire de Dieu est la seule qui résiste à toutes épreuves).
                                                            (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển).

               33.          Trên đầu có bủa giăng Thần, Thánh,
                              Xét xem người tánh hạnh dữ hiền.
               35.             Làm lành đặng hưởng phước duyên,
                        Trong lòng nham hiểm, lộc quyền giảm thâu.
            Bủa giăng: Giăng ra để bao vây mọi phía, tức là giăng ra khắp mọi nơi, mọi chốn.
            Tánh hạnh: Hay tính hạnh 性行: Tính tình và hạnh kiểm, tức là tính nết và cách ăn ở của mỗi con người.
            Phước duyên  Phước: Những gì may mắn, tốt lành, trái với họa. Duyên: Sức bổ trợ cho nhân thành quả. Phước duyên là những điều may mắn tốt đẹp do việc làm lành báo đáp lại.
            Nham hiểm  Nham: Sườn núi, hang núi. Hiểm: Khó khăn, cản trở. Nham hiểm: Nơi hiểm trở ở núi non. Nghĩa bóng: Độc ác một cách kín đáo khó lường được.
            Lộc quyền 祿 : Lợi lộc và quyền hành.
            Giảm thâu  : Hay giảm thu, tức là thâu bớt lại.
Câu 33 và 34: Bên trên đầu mỗi người đều có các Đấng Thần, Thánh khắp nơi để soi xét tánh hạnh hiền dữ của con người.
            Đối với Nho giáo, Thần Thánh là cái khí thiêng liêng trong Trời đất, tuy mắt người không trông thấy, tai người không nghe thấy, nhưng thể được muôn loài vạn vật, không sót một vật nào: Đâu đâu cũng hình như trên đẩu ta, ở bên tả ở bên hữu ta (Dương dương hồ như tại kỳ thượng, như tại kỳ tả hữu          ).
            Thần Thánh là những bậc công minh chánh trực, thường chứng giám những hành vi thiện ác của con người trong thế gian này. Như lời dạy trong Thánh giáo của Đức Chí Tôn: “Phải quấy Thần Thánh chỉnh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc. Khá biết lấy!”.
Câu 35: Người làm việc lành, tức là tạo âm chất thì sẽ được duyên hưởng điều phước đức.
Câu 36: Người có lòng dạ hiểm sâu, độc ác thì sẽ bị chư Thần giảm bớt lộc quyền.

               37.          Đừng tính kế độc sâu trong dạ,
                              Mà gổ ganh oán chạ thù vơ.
               39.             Trái oan nào khác mối tơ,
                           Rối rồi không gỡ, bao giờ cho ra.
            Tính kế độc sâu: Toan tính những mưu kế sâu độc để hãm hại người.
            Gổ ganh: Do ganh tị mà gây gổ.
            Oán chạ thù vơ: Thù oán không có lý do chính đáng, thù oán một cách bừa bãi, bạ đâu thù oán đó.
            Trái oan: Hay oan trái   là món nợ của sự thù giận. Kiếp trước mình gây thù chuốc oán cho người khiến kiếp này phải mắc món nợ oan nghiệt, đó gọi là oan trái.
            Theo thuyết luân hồi của đạo Phật thì kiếp trước làm một điều gì oan ức thì kiếp sau phải chịu trả một món nợ lại để đền trả điều mình đã làm.
            Mối tơ: Đầu mối của sợi dây tơ.
Câu 37: Trong dạ đừng nên toan tính những mưu kế sâu độc.
Câu 38: Mà gây gổ với người vì ganh tị hay thù oán nhỏ nhặt không chính đáng
Câu 39 và 40: Điều oan trái chẳng khác nào những cuộn dây tơ, nếu để mối tơ bị rối thì gỡ bao giờ cho ra.
            Những oan nghiệt và mầm ác mà con người sống ở thế gian đã gây ra, tạo thành những sợi dây vô hình ràng buộc lẫn nhau, trở thành oan gia trái chủ.
            Vì thế, người ta thường ví trái oan trong nhiều kiếp như cuộn dây tơ chằn chịt, nên gỡ mối chớ không nên kết, vì càng kết lại càng thêm rối, càng sinh oan trái, càng tạo ra khổ đau, phiền não. Rồi cứ oan oan tương báo, không bao giờ dứt được. Sách có nói “oan gia nghi giải bất nghi kết      ”.
            Ông Thái Công cũng dạy rằng: Khuyên người chớ nên gieo thù kết oán, thù thâm thì khó giải cho ra lắm. Thù kết một ngày mà thành, thì dù ngàn năm mở cũng không dứt (Khuyến quân mạc kết oan, oan thâm nan giải kết. Nhứt nhựt kết thành oan, thiên nhựt giải bất triệt                ).
            Lời Lục trong sách Cảnh Hành cũng viết: Kết oán gây thù với người dọc đường đi có thuở gặp chỗ hiểm khó tránh cho khỏi (Thù oan mạc kết: Lộ phùng hiểm xứ nan hồi tị          ).

               41.          Thấy hình khổ dạ ta đâu nỡ,
                              Khuyên làm lành trừ đỡ tội căn.
               43.             Quấy rồi phải biết ăn năn,
                           Ở cho nhân hậu chế răn lòng tà.
            Hình khổ: Hay Khổ Hình  , tức là hình phạt khổ sở.
            Thấy hình khổ: Xem thấy hình phạt khổ sở.
            Dạ ta đâu nỡ: Lòng dạ của ta không thể chịu nổi, không đành chịu nổi.
            Trừ đỡ: Tiêu trừ bớt.
            Tội căn  : Tội lỗi gây ra từ kiếp trước tạo nên gốc rễ để quả báo trong hiện kiếp.
            Quấy rồi: Đã làm điều sái quấy rồi.
            Ăn năn: Hối hận về việc mình đã làm.
            Nhân hậu  Nhân là lòng thương người. Hậu là dày, tốt. Nhân hậu là ăn ở với mọi người hết lòng thương, thương đến nơi đến chốn.
            Chế răn: Kềm chế và răn dạy những điều sái quấy.
            Lòng tà: Lòng dạ không ngay thật, lòng dạ gian xảo.
Câu 41: Thấy người ta bị khổ hình, lòng dạ chúng ta không đành chịu nổi.
Câu 42: Khuyên họ hãy lo làm lành để được giảm bớt tội căn.
Câu 43: Khi làm những việc sái quấy rồi, phải biết ăn năn hối ngộ.
Câu 44: Ăn ở với bất cứ ai cũng phải nhân từ và phải tự kềm chế, răn cấm lòng tà vạy.
            Con người sống ở thế gian, ai cũng phải có lỗi, song khi hiểu được đó là việc làm sái quấy thì phải biết ăn năn sám hối, để chừa bỏ những hướng sai lầm hầu trở về với nẻo chánh đường chơn:
                              Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
                              Biết lạc lầm sám hối tội căn
            Ăn năn, sám hối không phải là xin tội suông với Trời Phật, cũng không phải là bày lễ tụng niệm suông trước Chánh điện hay Thiên bàn Đức Chí Tôn, mà phải kết hợp sự quán chiếu tự tâm và phát nguyện cố gắng dứt trừ những tội quá để không lập lại những hành động, những lời nói đáng tiếc xảy ra nữa.
            Ngoài ra chúng ta còn phải trau giồi lòng nhơn hậu, lòng bác ái, làm những việc thiện lành để trừ bớt tội lỗi và giới răn lòng quấy quá dại tà của mình đi, có như vậy việc sám hối mới có ý nghĩa và ích lợi cho bản thân.

               45.          Hãy có dạ kỉnh già thương khó,
                              Chớ đem lòng lấp ngõ tài hiền.
               47.             Xót thương đến kẻ tật nguyền,
                           Đỡ nâng yếu thế binh quyền mồ côi.
            Kỉnh già thương khó: Kính trọng người già cả, thương xót người nghèo khó.
            Lấp ngõ: Làm bít đường, che lấp mất ngõ đi.
            Tài hiền: Hay hiền tài  , là người có tài có đức.
            Lấp ngõ tài hiền: Che lấp, ngăn chận không cho người tài đức tiến thân, yểm tài của người.
            Phàm con người ta có tính “tốt thì khoe, xấu thì che”, Nhưng khi thấy người khác có điều gì hay tốt, đáng lý phải nêu danh, hay giới thiệu cho mọi người cùng biết, đàng này lại giấu đi, bưng bít, ấy là che cái hay tốt của người hiền vậy. Đức Khổng Tử có dạy: Giấu cái lành của người ta thì gọi là che bậc hiền tài vậy (Nặc nhơn chi thiện sở vị tế hiền        ).
            Mạnh Tử cũng nói rằng: “Nói mà không chân thật, thì có sự tai hại, thực tai hại là những lời nói làm che lấp bậc hiền tài, khiến cho không tiến đạt được” (Ngôn vô thực bất tường, bất tường chi thực, tế hiền giả đương chi             ).
            Tật nguyềnTật  là trong cơ thể có một bộ phận nào bị hư hỏng: Què, đui, câm, điếc...Tật nguyền: Người bị tàn tật.
            Đỡ nâng yếu thế: Nâng đỡ những người yếu thế, người cô thế, người bị bức hiếp.
            Binh quyền: Binh vực quyền lợi.
            Mồ côi: Người lẻ loi một mình, không con cái, không bà con thân thuộc.
Câu 45: Phải có lòng kính trọng người già cả, thương xót người nghèo khó.
Câu 46: Đừng nên che lấp, yểm tài những người có tài có đức.
Câu 47: Phải biết thương xót đến những người tàn tật, đau yếu.
Câu 48: Nâng đỡ những kẻ yếu thế bị hiếp đáp và binh vực quyền lợi những người cô thế.
            Con người sống ở thế gian, ai cũng đều bẩm thụ chơn linh của Đức Thượng Đế, cũng đồng là con cái của Người, có điều vì nghiệp lực nặng nhẹ, nhơn quả sâu cạn mà mỗi con người phải mang một thân phận khác nhau: Người thì đui mù, tàn tật, kẻ lại ương yếu, neo đơn.
            Do vậy, người tu hành không thể sống một cuộc sống khép kín, nhắm mắt hay không quan tâm trước những nỗi khó khăn, đau khổ của những người chung quanh, nhất là đối với những người sống thua thiệt trong xã hội như người khuyết tật, mồ côi…Để thể hiện lòng từ bi của Đức Chí Tôn, người tín hữu phải biết yêu thương mọi người từ những giới tật nguyền, cô độc đến những người chịu sự bất công thua thiệt trong cộng đồng nhơn loại để đem lại sự bình đẳng trên thế gian này.

               49.          Làm con phải trau dồi hiếu đạo,
                              Trước là lo trả thảo mẹ cha.
               51.             Lòng thành thương tưởng ông bà,
                           Nước nguồn cây cội mới là tu mi.
            Trau giồi: Trau chuốc giồi mài, hay rèn luyện một việc gì, một tính đức gì.
            Hiếu : Hết lòng thờ phụng, chăm sóc cha mẹ.
            Đạo : Phép tắc mà con người có bổn phận phải gìn giữ và tuân theo.
            Hiếu đạo  : Bổn phận con cái ăn ở có hiếu với cha mẹ.
            Trả thảo: Người con lấy sự hiếu thảo báo đáp lại cha me.
            Lòng thành: Do chữ thành tâm   là lòng thành thật.
            Trong việc xử thế của con người điều trước tiên phải có lòng thành. Lòng thành là thể hiện sự thành thật của chính cá nhân mình đối với mọi người trong xã hội.
            Mạnh Tử   nói về đức “thành” như sau: Thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để nên thành thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm được thiên hạ, thì chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả. (Thành giả, thiên chi đạo dã, tư thành giả, nhân chi đạo dã. Chí thành nhi bất động giả, vị chi hữu dã; bất thành vị hữu năng động giả dã 誠者                       ).
            Thương tưởng ông bà: Thương kính và tưởng nghĩ đến ông bà. Khi Ông bà đã mất thì phải phụng thờ, tưởng niệm.
            Nước nguồn: Do chữ thủy nguyên   là dòng nước từ nguồn chảy ra.
            Cây cội: Do chữ mộc bổn   là cây từ gốc, cội sinh ra.
            Nước nguồn cây cội: Do thành ngữ Hán Việt “Mộc bổn thủy nguyên    ”, tức là nước có nguồn, cây có cội. Nghĩa bóng: Con người có cha mẹ ông bà. Ý nói phải nhớ đến nguồn gốc của mình.
            Tu mi  Tu là râu. Mi là lông mày. Tu mi: Râu và lông mày, chỉ người đàn ông, con trai.
Câu 49: Bổn phận làm con phải biết trau giồi lòng hiếu thảo đối với cha mẹ.
Câu 50: Trước là lo báo đáp công ơn cha mẹ bằng cách hiếu thảo cùng người.
            Ở cõi thế gian này, bất cứ một tôn giáo nào cũng đều dạy con người phải hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Nho giáo được xem như là một Đạo dạy về nhơn luân đạo đức, hay nói cách khác, là một đạo thờ cúng Tổ tiên ông bà, lấy hiếu làm đầu trong trăm nết (Hiếu vi bách hạnh chi tiên      ).
            Sách Hiếu Kinh cũng viết: Hiếu là Đạo thường của Trời, lẽ phải của Đất (Hiếu giả Thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã        ).
            Đạo hiếu là đầu mối trước nhứt của Nho giáo, nên trong sự giáo hóa, Khổng Tử lấy Hiếu Đễ là một nết rất quan trọng trong trăm nết. Ngài dạy rất kỹ lưỡng về việc hiếu với cha mẹ, ông bà. Theo Ngài, người có hiếu không phải nuôi dưỡng cha mẹ là đủ, mà còn phải có lòng kính. Điều nầy Ngài dạy Tử Du như sau: Cái hiếu ngày nay, người ta cho rằng chỉ có thể nuôi dưỡng cha mẹ, đến như loài chó ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt? (Kim chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính hà dĩ biệt hồ?                  ).
            Ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ, Ngài còn dạy chi ly về việc hiếu như phải quan tâm, lo lắng cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ, không đi chơi xa khi cha mẹ còn sống, có đi xa phải cho cha mẹ biết chỗ đi: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu phương        ”. Ngoài ra làm người con hiếu cũng phải biết nối chí của cha mẹ, khéo noi theo việc làm của cha mẹ: “Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí, thiện thuật nhân chi sự giả dã              ”. Qua câu này, Ngài lấy chữ thiện là khéo để dạy rằng hễ điều hay của cha mẹ thì nên theo, điều dở nên bỏ, chứ không phải theo một cách mù quán.
            Ơn sanh thành dưỡng dục của cha mẹ sâu nặng như vậy, người con hiếu thảo phải ở với cha mẹ hết lòng tôn kính, nuôi cha mẹ thì hết lòng vui vẻ, cha mẹ đau ốm thì hết lòng lo, cha mẹ mất, cư tang thì phải hết lòng xót thương, khi tế tự thì nghiêm trang hết mực (Hiếu tử chi sự thân, cư tắc trí kỳ kính, dưỡng tắc trí kỳ lạc, bệnh tắc trí kỳ ưu, tang tắc trí kỳ ai, tế tắc trí kỳ nghiêm             ,     ,         ).
Câu 51: Làm con người phải có lòng thành thưởng tưởng đến ông bà.
Câu 52: Biết được cây có cội nước có nguồn mới gọi là đấng tu mi (râu mày).
            Nho giáo rất trọng việc phụng tự ông bà, phong tục Việt Nam cũng vậy, rất sùng thượng thờ cúng ông bà tổ tiên. Việc thờ cúng ông bà là việc tốt đẹp, đáng quí trọng, nên coi là một nghĩa vụ của con cháu, vì nó thể hiện tính “uống nước nhớ nguồn”, nói lên cái lòng bất vong bản.
            Người bình dân Việt Nam cũng tưởng nhớ đến ông bà qua câu ca dao sau đây:
                                    Con người có tổ có tông,
                           Như cây có cội, như sông có nguồn.
            Trong sách Lễ Ký có nói rằng: Toàn thể vạn vật nương nhờ căn bản nơi Trời là Đấng tạo Thiên lập Địa, còn toàn thể nhơn loại nương nhờ căn bản nơi Tổ tiên là bậc khai sáng ra dòng giống (Vật bản hồ Thiên, nhân bản hồ Tổ       ). Triết lý Cao Đài cũng cho rằng nguồn cội của con người gồm hai phần, phần hữu hình, gần gũi nhứt là cha mẹ, ông bà đã sinh ra hình hài xác thịt; phần vô vi, không thấy được, phải suy luận mới nhận biết, đó là Đức Thượng Đế đã ban cho một Chơn linh để con người có sự sống, sự hiểu biết và sự khôn ngoan.

               53.          Giá trong sạch nữ nhi trượng tiết,
                              Giữ cho tròn trinh liệt mới mầu.
               55.             Ở sao đáng phận đạo dâu,
                        Thờ chồng tiết hạnh mới hầu gái ngoan.
            Giá trong sạch: Trong sạch như băng giá. Chỉ người đàn bà có chồng giữ lòng ngay thẳng, trong sạch với người chồng.
            Nữ nhi  : Chỉ chung tất cả người đàn bà con gái.
            Trượng tiết: Hay trọng tiết  Trọng là coi trọng, coi nặng. Tiết là khí tiết, lòng dạ ngay thẳng cứng cỏi. Trượng tiết: Coi trọng cái khí tiết hay tiết hạnh của mình.
            Giữ cho tròn: Giữ cho tròn vẹn, giữ vẹn.
            Trinh liệt  Trinh là trung trinh, lòng ngay thẳng. Liệt là cứng cỏi, không khuất phục.
            Trinh liệt: Một lòng ngay thẳng, trung thành với vua với nước, hoặc đàn bà giữ lòng trong trắng, ngay thẳng với chồng.
            Mới mầu: Mới tài giỏi, mới cao siêu.
            Đáng phận đạo dâu: Xứng đáng với phận làm dâu con theo đạo lý.
            Thờ chồng: Do chữ sự phu  , tức là khi chồng chết phải gìn giữ tiết hạnh mà thờ chồng theo đạo lý của Nho giáo. Đạo thờ chồng là đạo tùng phu và tùng tử.
               Đức Khổng Tử dạy như sau: Đàn bà thì nương dựa ở người, cho nên không có phép tự chuyên làm lấy một mình, mà có đạo tam tùng là: Còn ở nhà thì theo lịnh cha, có chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con (Phụ nhân phục ư nhân dã, thị cố vô chuyên chế chi nghĩa. Hữu tam tùng chi đạo: Tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử                         ).
            Tiết hạnh  Tiết là những gì mà con người phải giữ để bảo vệ thanh danh. Hạnh là nết na. Tiết hạnh: Tính nết người đàn bà con gái biết giữ gìn trong sạch.
            Mới hầu: Mới mong.
Câu 53: Làm người đàn bà phải coi trọng tiết hạnh bằng cách giữ giá sạch tiết trong.
Câu 54: Phải giữ sao cho trọn vẹn lòng trong trắng ngay thẳng với chồng mới gọi là đàn bà tài giỏi.
Câu 55: Người đàn bà có chồng ăn ở sao cho xứng đáng bổn phận của người con dâu.
Câu 56: Khi chồng chết, người đàn bà phải gìn giữ trinh tiết để thờ chồng, đó mới gọi là gái ngoan.
            Đức hạnh của người phụ nữ là một nết được người ta quý trọng nhứt trong tứ đức: Công, dung, ngôn, hạnh. Lục Vân Tiên của cụ Nguyễn Đình Chiểu có câu:
                              Trai thời trung hiếu làm đầu,
                        Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.
            Đối với người phụ nữ có đạo, sau khi lập gia đình rồi thì phải giữ tròn bổn phận dâu con và thuận với thân tộc bên nhà chồng. Người ta cho rằng người đàn bà hiền thục thì hòa với sáu thân (Hiền phụ hòa luc thân     ). Còn với chồng thì thủy chung như nhứt, giữ gìn tiết sạch giá trong để bảo vệ hạnh phúc gia đình.
            Khi chồng chết, theo Đạo Nho, phải giữ tiết hạnh mà thờ chồng. Tỷ như câu chuyện: “Vương Ngưng thê bị khiên, đoạn tý đầu địa        ” (Vợ Vương Ngưng bị kéo tay, tự chặt lìa xuống đất).
            Sách Ngũ Đại chép: Vương Ngưng là quan Tư hộ đất Quát Châu, gặp tai nạn mà chết, vợ ông là Lý Thị, dắt con, mang thi hài về quê, giữa đường vào xin nghỉ đêm, người chủ nhà háo sắc, kéo tay bà vô phòng. Lý Thị khóc rống, cho rằng cánh tay bà đã chịu nhục, bèn lấy búa chặt đứt lìa cánh tay ấy. Quan Phủ doãn Khai Phong nghe được chuyện, kêu bà Lý Thị để khen và hậu đãi, và ra lịnh đánh đòn người chủ nhà đó.

               57.          Đừng có cậy giàu sang chẳng nể,
                              Không kiêng chồng khi dể công cô.
               59.             Ấy là những gái hung đồ,
                        Xúi chồng tranh cạnh hồ đồ sân si.
            Đừng có cậy giàu sang: Đừng có ỷ lại mình là người giàu có, sang trọng.
            Kiêng: Nể sợ.
            Công cô  : Cha mẹ. Ở đây chỉ cha mẹ của chồng. Công là cha chồng. Cô là mẹ chồng.
            Hung đồ  : Bọn hung dữ.
            Tranh cạnh: Hay cạnh tranh  : Giành giật nhau.
            Hồ đồ  : Việc không biết được rõ ràng. Hồ đồ còn có nghĩa là không hiểu được việc rõ ràng mà hấp tấp làm.
            Trong Sử Ký   viết: “Lư Đoan tiểu sự hồ đồ nhi đại sự bất hồ đồ            ” (Lư Đoan chỉ hồ đồ việc nhỏ nhưng không hồ đồ việc lớn).
            Sân si  Sân là giận. Si là mê muội. Sân si là giận dữ và si mê.
Câu 57: Đừng có ỷ lại mình là người giàu sang mà không nể sợ ai.
Câu 58: Không kiêng sợ chồng lại khi dể cha mẹ chồng
Câu 59: Ấy là những người con gái hung dữ, chẳng kể việc phải quấy.
Câu 60: Xúi giục chồng giành giựt, mê muội mà làm việc càn bậy.

               61.          Tánh ngoan ngạnh không vì cô bác,
                              Thói lăng loàn bạn tác khinh khi.
               63.             Ngày sau đọa chốn âm ty,
                           Gông kềm khảo kẹp ích gì rên la.
            Ngoan ngạnh  : Ngoan là ngang bướng. Ngạnh là cứng đầu. Ngoan ngạnh: Cứng đầu bướng bỉnh, làm càn bậy không chịu nghe theo lẽ phải.
            Bạn tác: Bạn cùng trang lứa, bạn bè ngang nhau.
            Âm ty  Âm thuộc về người chết. Ty là nơi làm việc của quan.
            Âm ty: Hay Âm phủ, Phong đô, Địa ngục, A tỳ là chỉ nơi giam cầm và trừng trị các tội hồn gây nhiều ác nghiệp lúc còn sống nơi thế gian.
            Âm ty hay Địa ngục là nơi giam giữ và trừng phạt các vong hồn tội lỗi do lúc sinh tiền vì vô minh mà tạo ra bằng các hành động hung ác, tội lỗi, chứ không ai tạo ra hết. Địa ngục do mình tạo thì mình có thể giải thoát cho mình. Chỉ có trí huệ của con người chúng ta mới có thể xa rời Địa ngục, đưa con người sống an nhàn tự tại trên cõi Vĩnh hằng.
            Bà Bát Nương Diêu Trì Cung giảng về cõi Âm quang có nói rằng: khiếm khuyết ánh sáng thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay là Địa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu.
            Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong đô, Địa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để các Chơn hồn giải thân định trí”.
            Bà Thất Nương lại dạy rằng: “Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang”.
            Gông kềm khảo kẹp: Những dụng cụ dùng để tra khảo các tội hồn ở Âm phủ. Gông là vật mang vào cổ để kềm kẹp tay chân.
Câu 61: Đừng có học tính bướng bỉnh, cứng đầu không kể vì hàng cô bác.
Câu 62: Đừng hổn xược, càn bậy mà bạn bè khinh khi, coi rẻ.
Câu 63: Ngày sau sẽ bị đọa đày xuống Âm ty, Địa ngục để thọ những hình phạt vì đã gây ra tội lỗi ở Dương thế.
Câu 64: Phải chịu mang gông vào cổ và khảo kẹp tay chân thì dù rên la có ích gì đâu.
            Tu hành là phải tập tánh hiền lương, chất phác, phải biết kỉnh thờ Thần Thánh, biết thương tưởng ông bà, biết hiếu thảo cha mẹ, biết kỉnh già thương khó, biết yêu mến bạn bè…
            Nếu tu mà chẳng rèn tâm sửa tánh, giữ thói hung hăng, ngoan ngạnh, không kể ông bà cô bác, khinh dể anh em thì ngày kia hình phạt chốn Âm ty làm sao tránh khỏi. Thánh giáo Đức Chí Tôn cũng đã từng dạy: “…còn chút hơi thở ở cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Đài, khổ A tỳ bảo sao không trói buộc”.

               65.          Người tai mắt đạo nhà khá giữ,
                              Nghĩa anh em cư xử thuận hòa.
               67.             Vẹn tròn đạo cả giềng ba,
                        Kính anh mến chị thì là phận em.
            Người tai mắt: Người có nhiều hiểu biết và danh tiếng. Từ Hán Việt gọi là “danh gia vọng tộc    ”.
            Đạo nhà: Do chữ Gia đạo  , tức là đường lối hay phép tắc cư xử giữa những người trong gia đình với nhau.
            Nghĩa anh em: Tình nghĩa anh em, tức là cách ăn ở giữa anh em ruột thịt với nhau hợp với đạo lý.
            Thuận hòa: Hay Hòa thuận  , tức là không xung đột nhau, không trái ý nhau. Yêu thương đùm bọc lẫn nhau.
            Vẹn tròn: Tròn vẹn.
            Đạo cả: Do chữ Đại đạo  , ở đây chỉ mối đạo lớn làm căn bản cho con người, ấy là Nhơn đạo  , tức là đạo làm người.
            Nhơn đạo là một mối đạo làm căn bản cho con người, nhứt là đối với người tu hành. Sách có câu: Muốn tu Tiên đạo, trước hết tu nhơn đạo. Nếu chẳng tu nhơn đạo, thì Tiên đạo xa lắm khó tìm vậy (Dục tu Tiên đạo, tiên tu nhơn đạo. Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hĩ             ).
            Giềng ba: Tức là ba giềng. Do chữ tam cang  , là ba giềng mối của đạo nhơn luân, đó là Quân thần cang (Giềng mối của vua tôi), Phụ tử cang (Giềng mối của cha con), Phu thê cang (Giềng mối của vợ chồng).
Câu 65: Người có địa vị, tiếng tăm phải khá giữ nề nếp sinh hoạt trong gia đình cho hợp đạo lý.
Câu 66: Tình nghĩa giữa anh em phải cư xử với nhau trên hòa dưới thuận, thương yêu đùm bọc cho nhau.
Câu 67: Phải thi hành trọn vẹn mối đạo lớn của con người, giữ gìn ba giềng mối của đạo nhơn luân.
Câu 68: Bổn phận làm em, phải kính trọng và thương mến anh chị mình.

               69.          Trên thương dưới xét xem kẻ nhỏ,
                              Lúc lâm nàn chớ bỏ tránh xa.
               71.             Cũng là một gốc sanh ra,
                     Gồm bao nâng đỡ ruột rà thương nhau.
            Trên thương dưới: Làm người trên trước phải biết thương yêu, chăm sóc kẻ ở dưới mình. Ở đây chỉ người làm anh chị.
            Xét xem kẻ nhỏ: Chăm nom và săn sóc kẻ nhỏ hơn.
            Lâm nàn: Do chữ lâm nạn  : Gặp tai nạn, bị tai nạn.
            Một gốc sanh ra: Từ một nguồn gốc mà sinh ra. Như cành nhánh của cây do từ cội hay gốc cây mà sinh ra. Đây chỉ anh em ruột thịt.
            Ruột rà: Ruột thịt với nhau. Chỉ anh em cùng một cha một mẹ với nhau.
Câu 69: Làm người trưởng thượng phải xem xét, dòm ngó những người nhỏ hơn mình.
Câu 70: Khi những người nhỏ hơn mình gặp tai nạn thì chẳng khá tránh xa, mà phải tận tình giúp đỡ.
Câu 71 và 72: Anh em ruột thịt cũng từ một nguồn gốc cha mẹ mà sinh ra, nên nâng đỡ, đùm bọc và thương yêu lẫn nhau.
            Thánh hiền ngày xưa có quan niệm rằng nghĩa anh em như tay chân, tình chồng vợ như xiêm áo, trong ca dao cũng có câu:
                              Anh em như thể chân tay,
                        Vợ chồng như áo cởi ngay tức thì.
            Thực vậy, anh em cùng huyết thống, cùng cha mẹ sinh ra, tức là cùng núm ruột, đã từng sống bên nhau, thân thiết nhau từ lúc thơ bé cho đến lớn khôn, cùng vui đùa, cùng chia xẻ, san sớt chén cơm, miếng cá cho nhau:
                              Thân nhau từ buổi lọt lòng,
                     Chén cơm miếng cá cũng đồng chia nhau.
                                                (Kinh Tụng Huynh Đệ Mãn Phần)
            Chính vì cái tình cảm thấm thiết đó, anh em phải biết thương yêu nhau, thuận hòa cùng nhau. Anh chị lớn phải coi sóc người em nhỏ dại, khi em út gặp khó khăn, hoạn nạn thì phải quan tâm lo lắng, không bao giờ bỏ tránh xa. Câu chuyện sau đây trong sách Hán thư cho ta thấy tình nghĩa anh em hết sức thương nhau, thật là đoàn kết:
            Vào cuối triều Vương Mãng, Triệu Lễ bị ăn cướp bắt, muốn làm thịt mà ăn. Triệu Lễ lạy lục mà thưa rằng: Giờ mẹ tôi chưa ăn, xin tha mạng giây phút, về nhà dâng cơm cho mẹ ăn xong, liền trở lại chịu chết. Cướp cho về. Câu chuyện thấu đến tai người anh là Triệu Hiếu, nên anh tự trói mình đến chỗ bọn cướp nói: Thằng Lễ ốm, chẳng bằng Hiếu tôi mập, xin thế mạng cho em. Triệu Lễ khóc mà nói: Tôi gặp các ông trước, xin nạp mạng, đâu được làm thịt anh tôi. Bọn cướp khen hai người có nghĩa, nên thả hai người trở về nhà (trích trong Ấu Học Quỳnh Lâm).

               73.          Người trung trực lo âu nợ nước,
                              Hưởng lộc vua tìm chước an bang.
               75.             Chớ làm con giặc tôi loàn,
                        Thuế sưu đóng đủ đừng toan kế tà.
            Trung trực  Trung là trung thành. Trực là ngay thẳng. Trung trực: Một lòng một dạ ngay thẳng.
            Lo âu: Lo lắng, lo tính.
            Việc nước: Việc quốc gia, việc đất nước.
            Hưởng lộc  祿Hưởng là nhận lấy. Lộc là những thứ gì mà người ta cho mình. Hưởng lộc: Nhận được cái gì người khác ban cho mình.
            Hưởng lộc vua: Hay hưởng lộc nước, tức là thọ hưởng quyền tước hay lương bổng của quốc gia.
            Tìm chước: Tìm mưu kế, tìm cách.
            An bang  An là yên ổn. Bang là nước nhà. An bang: Làm cho quốc gia được yên ổn, thái bình.
            Con giặc: Vì dân là tôi con của nhà nước, nên con giặc là chỉ người dân làm giặc, tức là dân có ý đồ chống lại quốc gia.
            Tôi loàn: Dịch từ chữ loạn thần  : Làm quan có mưu đồ dấy loạn, có ý phản với nhà vua và đất nước.
            Thuế sưu: Hay sưu thuế  .
            Sưu: Hay sưu dịch   là mỗi năm người dân phải làm một số ngày nhứt định những công việc cho nhà nước. Như đào kênh, vét sông, đắp đường...
            Thuế: Tiền mà dân chúng phải nạp cho nhà nước để dùng vào những việc lợi ích chung.
            Đừng toan kế tà: Đừng có ý định gian xảo, đừng tính kế gian dối.
Câu 73: Người có lòng trung với quốc gia thì phải lo toan việc nước nhà.
Câu 74: Hưởng lộc vua thì phải tìm cách để làm cho đất nước yên ổn, thái bình.
Câu 75: Nếu làm người dân thì đừng sinh giặc, chống phá nhà nước; nếu làm quan (tôi) thì đừng làm loạn, phản lại quốc gia.
Câu 76: Bổn phận làm dân thì phải đóng đủ sưu thuế, chớ đừng có mưu kế gian dối nhà nước.
            Con người sống trong một quốc gia, có được ruộng đất phì nhiêu, có được an cư lạc nghiệp, có được nền văn minh đạo đức là nhờ công lao hạn mã của các vì vua chúa, những bậc tiền bối đã khai sơn phá thạch xây dựng nên dãy giang sơn gấm vóc và những bậc kế thừa đã bảo vệ mà để lại ngày nay chúng ta được thừa hưởng, do đó chúng ta phải hết lòng biết ơn những người đã lo cho muôn dân ấm no hạnh phúc.
            Để tỏ lòng biết ơn quốc vương thủy thổ, chúng ta phải giữ lòng trung trực gánh vác việc nước, nếu làm quan hưởng lộc vua thì hết lòng với nước, lo tìm kế để an bang, không nên làm kẻ gian thần sủng nịnh, con giặc tôi loàn mà hại dân hại nước; nếu làm người dân thì phải có bổn phận lo tròn sưu thuế, chung sức bảo vệ và xây dựng giang sơn xã tắc.

               77.          Phận làm tớ thật thà trung tín,
                              Với chủ nhà trọn kính trọn ngay.
               79.             Áo cơm no ấm hằng ngày,
                        Của người châu cấp ơn dày nghĩa sâu.
            Làm tớ: Người giúp việc trong nhà.
            Trung tín  : Trung thành và tín nhiệm, tức là người ngay thật và biết giữ sự tín nhiệm.
            Áo cơm no ấm: Áo giúp cho thân ấm, cơm làm cho người no. Còn gọi cơm no áo ấm.
            Châu cấp  : Đem vật dụng ra giúp đỡ cho đầy đủ.
Câu 77 và 78: Bổn phận người giúp việc nhà thì phải thật thà, trung thành, ngay thẳng và biết kính trọng chủ nhà.
Câu 79 và 80: Hằng ngày mình được cơm no áo ấm của chủ nhà châu cấp cho ấy là ơn nghĩa rất sâu nặng.
            Người làm tớ, hằng ngày được no ấm là nhờ cơm áo của chủ châu cấp cho, đó là ơn nghĩa sâu dày, nên phải có bổn phận ăn ở thật thà, ngay thẳng, giữ lòng thủy chung như nhứt, bất cứ hoàn cảnh nào cũng không thay dạ đổi lòng, sửa ngay ra vạy. Thánh giáo Đức Tôn Trung Sơn đã dạy: “Chữ trung là ngay, còn nịnh là vạy tà. Làm tớ phải giữ trọn đạo, lấy chánh tâm mà thờ chủ, gọi là trung”.

               81.          Đừng gặp việc câu mâu biếng nhác,
                              Mà quên lời phú thác dặn dò.
               83.             Trước người giả bộ siêng lo,
                           Sau lưng gian trá so đo tấc lòng.
            Câu mâu: Tỏ ý không bằng lòng.
            Biếng nhác: Lười biếng, không siêng năng.
            Phú thác: Hay phó thác  Phú là giao cho. Thác là gởi gấm. Phú thác: Giao và gởi gấm một việc gì cho ai.
            Trước người giả bộ: Làm bộ tịch trước mặt người ta, giả bộ trước mặt người.
            Siêng lo: Siêng năng lo lắng.
Gian trá  Gian là gian xảo. Trá là lừa gạt, tráo trở.
Gian trá: Lừa gạt gian xảo.
            So đo tấc lòng: So sánh hơn thiệt từng ly từng tí, chỉ lòng dạ hẹp hòi ích kỷ.
Câu 81 và 82: Đừng gặp việc không vừa ý mà sinh lòng biếng nhác, rồi quên đi lời dặn dò và gởi gấm của người ta.
Câu 83: Trước mặt người thì giả bộ siêng năng, lo lắng.
Câu 84: Rồi sau lưng người thì gian xảo, lừa dối, tính toán hơn thiệt từng ly từng tí.

               85.          Phải chừa thói loài ong tay áo,
                              Bớt học đòi khỉ dạo dòm nhà.
               87.             Gìn lòng ngay thẳng thật thà,
                        Nói năng minh chánh lời ra phải nhìn.
            Loài ong tay áo: Do câu thành ngữ: “nuôi ong tay áo”. Nghĩa là đem loài ong nuôi trong tay áo thì sẽ bị chính ong chích, ý chỉ kẻ phản chủ, hưởng của chủ mà chống lại chủ.
            Khỉ dạo dòm nhà: Do câu thành ngữ: “nuôi khỉ dòm nhà”. Nghĩa là nuôi khỉ để khỉ dòm ngó việc nhà. Loài khỉ thường bắt chước theo người một cách vô ý thức, nên dòm ngó mà bắt chước theo, làm hại cho chủ nhà.
            Gìn lòng ngay thẳng: Giữ gìn trong dạ ngay thẳng.
            Minh chánh 明正: Hay minh chính, là trong sáng ngay thẳng, rõ ràng chân chính.
            Lời ra phải nhìn: Phải nhìn nhận lời nói của mình, tức là không nuốt lời.
Câu 85: Phải chừa bỏ thói phản phúc như nuôi ong trong tay áo.
Câu 86: Đừng học theo loài khỉ dòm ngó việc nhà mà làm hại chủ nhà.
Câu 87: Phải gìn giữ lòng dạ thật thà, ngay thẳng.
Câu 88: Lời nói ra phải rõ ràng chơn chánh. Khi thốt ra chớ nên nuốt lời.
            Có nhiều người trong lúc vui, hay trong tình trạng khởi hứng, họ thường hứa hẹn, nhưng sau một thời gian họ lại quên lời. Do vậy, người bình dân Việt Nam dạy người ta phải cẩn thận về lời nói, khi nói ra thì phải giữ lấy lời như câu ca dao sau đây:
                                    Nói lời phải giữ lấy lời,
                           Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.
            Các nhà Nho cũng cho rằng: Cái miệng cái lưỡi là cửa của điều tai họa hại người, nó là cái búa cái rìu chém giết mình đi (Khẩu thiệt giả, họa nhân chi môn, diệt thân chi phủ dã          ).
            Chính vì thế, Đức Khổng Tử mới dạy người ta phải dè dặt, cẩn thận từng lời nói, đừng nên khi dể lời nói, Ngài bảo: Ôi! Người không nói, mà hễ nói thì phải đúng lý (Phù! Nhân bất ngôn, ngôn tất hữu trúng      ). Và Lão Tử cũng nói: khi người quân tử nói ra một lời, như con ngựa hay bị chạm một roi vậy; một lời đã nói ra, thì dù cho bốn ngựa cũng khó theo kịp (Quân tử nhất ngôn, khoái mã nhất tiên; nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy            ).

               89.          Chớ quyệt ngữ mà khinh kẻ dại,
                              Đừng gian mưu hãm hại người hiền.
               91.             Anh em bằng hữu kết nguyền,
                           Một lòng tin cậy phải kiêng phải vì.
            Quyệt ngữ  Quyệt là xảo trá, gian dối. Ngữ là lời nói. Quyệt ngữ: Lời nói xảo trá, không ngay thẳng.
            Kẻ dại: Người khờ dại, người dại dột.
            Gian mưu  : Mưu kế gian xảo.
            Hãm hại  : Làm điều ám muội để hại người.
            Bằng hữu  : Bạn bè.
            Kết nguyền: Thề nguyền để kết tình anh em với nhau.
            Tin cậy: Tin tưởng để cậy nhờ.
            Kiêng vì: Kiêng sợ và nể nang.
Câu 89: Thấy người ta khờ dại đừng khinh dể mà buông lời xảo trá, gian dối.
Câu 90: Đừng có mưu gian để hãm hại người hiền lương.
Câu 91 và 92: Nếu thề nguyền để kết tình bằng hữu, anh em với nhau thì phải một lòng tin tưởng và phải kiêng vì lẫn nhau.
            Người xưa thường quan niệm rằng: Người đàn bà nếu chẳng có gương trong để soi mặt thì làm sao biết mặt mình dơ, hay sạch. Kẻ sĩ nếu chẳng có bạn hiền, thì ai mách cho mình những lỗi lầm (Nữ vô minh kính, bất tri diện thượng tinh thô; sĩ vô lương hữu, bất tri hành bộ khuy du                ). Như vậy việc kết bằng hữu rất cần cho chúng ta. Nhưng muốn giao thiệp bạn bè, phải chọn người hiền lương, tín cẩn. Cách chọn bạn của cổ nhân thường rất kỹ lưỡng, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Ông Thái Công cũng có dạy: “Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người hiền thì sáng, gần người tài thì trí, gần kẻ si thì ngu, gần người lành thì có đức…” (Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc; cận hiền giả minh, cận tài giả trí; cận si giả ngu, cận lương giả đức                   ).
            Khi bạn bè đã kết nguyền với nhau rồi, ta phải có lòng thành thật đối đãi với nhau, phải tin cậy và kính nhường để giữ niềm hòa ái, tương trợ tương thân. Anh em phải khuyên bảo nhau, giúp đỡ lẫn nhau, nếu có lỗi lầm, phải sửa đổi lẫn nhau, nghèo nàn phải thương yêu nhau, hoạn nạn phải cứu giúp nhau.

               93.          Chớ thấy khó mà khi mà thị,
                              Gặp người giàu mà vị mà nâng.
               95.             Dầu khi gặp lúc gian truân,
                        Cũng đồng giúp ích chớ đừng mặt ngơ.
            Thấy khó: Thấy nghèo hèn, thấy nghèo khó.
            Khi thị  : Lừa dối và khinh thường người ta.
            Vị: Nể nang.
            Nâng: Nịnh hót, bợ đỡ, tâng bốc.
            Gian truân  Gian là khó khăn. Truân là khó tiến tới. Gian truân: Khó tiến bước, chỉ sự khó khăn bước tới.
            Giúp ích: Giúp nhau cho có ích.
            Mặt ngơ: Mặt làm lơ, không để ý đến, hay không biết tới.
Câu 93: Chớ thấy người ta nghèo khó thì khinh rẻ, coi thường.
Câu 94: Gặp những người giàu sang thì bợ đỡ, tâng bốc.
            Thói thường, người nào ham chuộng tiền tài, vật chất hay danh quyền thì họ thường nhìn người qua bề ngoài, mà có thái độ cư xử khác nhau: Hễ thấy người nghèo hèn thì tỏ vẻ rẻ rúng, khi dể, hễ thấy ai giàu sang, quyền hành thì nịnh bợ, ỷ lại. Ông Thái Công có khuyên như sau: Thấy người nghèo thì không nên khi, người giàu thì không nên cậy. Vì âm dương xoay vần, giáp vòng rồi cũng trở lại như cũ (Bần bất khả khi, phú bất khả thị; âm dương tương thôi, châu nhi phục thủy            ).
            Bởi vì bỉ thới thường thay đổi, cho nên:
                              Hoa rơi hoa nở, nở rồi rơi,
                              Gấm kia vải nọ sẽ thay dời.
                              Nhà hào chưa chắc giàu sang mãi,
                              Kẻ khó nào đâu mãi tả tơi.
            Bài thơ trên dịch vần từ câu nói của Ngô Chơn Nhơn    như sau:
                              Hoa lạc hoa khai, khai hựu lạc,
                                          
                              Cẩm y bố y canh hoán trước;
                                          
                              Hào gia vị tất trường phú quý,
                                          
                              Gia bần vị tất trường tịch mịch.
                                          
Câu 95: Dầu có lúc gặp cảnh gian nan vất vả, khó qua được,
Câu 96: Thì cũng giúp ích cho nhau, chớ đừng làm mặt ngơ.

97.       Làm người phải kỉnh thờ Thần Thánh.
                           Giữ lời nguyền tâm tánh tưởng tin,
               99.          Hễ là niệm Phật tụng kinh
                        Rèn lòng sửa nết khá in như nguyền.
            Kỉnh thờ: Thờ phụng một cách kính trọng.
            Lời nguyền: Lời thề nguyền.
            Tưởng tin: Hay tưởng tín  , tức là tin và tưởng nghĩ đến.
            Niệm Phật  : Đọc trang nghiêm danh hiệu của Đức Phật. Theo nghĩa rộng của kinh, đây là từ chỉ chung cho các Đấng: Niệm Phật cũng có nghĩa là niệm danh hiệu Đức Chí Tôn hay các Đấng Phật, Tiên, Thánh, Thần.
            Có nhiều cách niệm:
                        - Tụng niệm  : Đọc lớn tiếng danh hiệu các Đấng, như chú của Chí Tôn trước Chánh điện hay Thiên bàn.
                        - Mật niệm  : Niệm thầm, niệm nhỏ tiếng ở bất cứ nơi nào.
                        - Khẩu niệm  : Niệm một cách chí thành, khẩn thiết khi gặp tai nạn hay bệnh tật.
                        - Quán niệm: Tưởng niệm các Đấng như có hình ảnh ở trước mắt.
                        - Chuyên niệm  : Lúc nào cũng niệm, trong mọi lúc đi, đứng, nằm, ngồi.
            Mục đích niệm danh hiệu các Đấng là để trói buộc cái tâm mình vào danh hiệu các Đấng, lúc đó các vọng tưởng hết, chân tâm thanh tịnh hiện bày. Nhưng điều cần nhứt là niệm đến chỗ nhứt tâm bất loạn    , tức là tâm không bị loạn động, chí thành, không để các tạp niệm xen vào, miệng niệm mà trong lòng không có vọng tưởng.
            Tâm bị vô minh, vọng tưởng làm điên đảo, bất tịnhniệm Phật có công năng phá trừ vọng niệm, làm cho tâm mê lầm trở nên sáng tỏ, tinh tấn.
            Tụng kinh  : Đọc thành tiếng theo nhịp kinh một cách thành kính.
            Chúng ta chí thành tụng đọc thì kinh có công năng phá trừ vô minh, khai mở tâm trí sáng suốt. Như vậy, ý nghĩa huyền diệu trong kinh điển chúng ta cần phải tìm hiểu, học tập: “Độc kinh cầu lý    ”, bởi vì lý của kinh sẽ chiếu sáng tâm con người (lý dĩ chiếu nhân tâm     ).
            Sau một thời tụng kinh, người tụng có cảm thấy tâm mình được thanh thản, an lạc, thì thời kinh đó mới có ý nghĩa.
            Rèn lòng: Do chữ luyện tâm   là trau giồi tâm cho thiện lương, thanh tịnh.
            Sửa nết: Do chữ tu tánh   là trau giồi tự tánh.
Câu 97: Làm con người phải biết và có đức tin kỉnh thờ các Đấng Thần Thánh.
Câu 98: Phải có lòng tin tưởng và gìn giữ theo lời thề nguyền.
            Kỉnh thờ Thần Thánh là kỉnh thờ các Đấng do Đức Chí Tôn hóa sinh ra, để thay mặt cho Ngài lo cho chúng sanh. Thần Thánh là các bậc có lòng từ bi, có oai nghi, đức độ và công lao đối với con người. Thờ phụng và kỉnh lạy Thần Thánh nhằm thể hiện lòng quy ngưỡng, tri ân công đức, và noi theo những gương lành của các bậc ấy.
            Kỉnh thờ Thần Thánh chẳng phải vì van xin tha tội, cũng chẳng phải vì cầu mong ban ơn được giàu sang, mạnh giỏi…Sự thờ kỉnh Thần Thánh không phải là một lễ lo lót, vì các Đấng ấy công minh, vô tư, chẳng bao giờ thiên vị. Đông Nhạc Thánh Đế có lời dạy: Thiên địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa                   , nghĩa là Trời đất không tư riêng, có Thần minh soi xét, chẳng vì cúng tế mà cho phước, chẳng vì thất lễ mà giáng họa.
Câu 99 và 100: Hễ chúng ta chuyên tâm tụng kinh niệm Phật thì chúng ta phải trau giồi tâm, tu sửa tánh một cách nghiêm cẩn như lời nguyền khi niệm Phật tụng kinh.

            101.          Chừa thói xấu đảo điên trong dạ
                              Muôn việc chi chẳng khá sai lời
            103.             Dối người nào khác dối Trời,
                           Trời đâu dám dối ra đời ngỗ ngang.
            Đảo điên  : Làm rối trật tự, đang xuôi bỗng nhiên lật ngược. Chỉ sự thay đổi lung tung, tráo trở bất thường.
            Dối người nào khác dối Trời: Sách Trung Hiếu Lược nói: Mình dối người là tự dối lòng mình. Dối lòng mình là tự dối cả Trời, Trời có thể dối ru? (Khi nhân tất tự khi kỳ tâm, khi kỳ tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên kỳ khả khi hồ?                 ?).
            Khi nói về vọng ngữ, Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Thầy đã nói rằng, nơi thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng sanh tồn.
            Thầy tưởng chẳng cần nói, các con cũng hiểu rõ rằng, đấng chơn linh ấy vốn vô tư, mà lại đặng phép giao thông cùng cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các đấng Trọn Lành nơi Ngọc Hư Cung, nhứt nhứt đều lành và việc dữ ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa Phán Xét. Bởi vậy nên một mảy không qua, dữ lành đều có trả. Lại nữa, các chơn linh ấy, tánh Thánh nơi mình, đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi, mà còn dạy dỗ các con, thường nghe đời gọi lộn Lương tâm là đó.
            Bởi vậy chư Hiền, chư Thánh Nho nói rằng:
                                    “Khi nhơn tức khi tâm
                              “Hoạch tội ư Thiên vô sở đảo dã
            Như các con nói dối, trước chưa dối với người thì các con đã nói dối với Lương tâm, tức là chơn linh”.
            Ngỗ ngang  : Ngạo ngược, bướng bỉnh, tức là không kể lời dạy dỗ của người trên.
Câu 101: Phải chừa bỏ những thói xấu xa và dứt trừ lòng dạ tráo trở bất thường.
Câu 102: Dầu bất cứ việc chi cũng phải giữ đúng, chớ khá sai lời.
Câu 103 và 104: Dối người có khác chi là dối Trời, mà Trời mình dám dối sao? Nếu dối Trời thì thành người ngạo ngược bướng bỉnh.
            Thật vậy, sách Trung Hiếu Lược còn nói như sau: Dối người được, không thể dối Trời được, lừa người được, không thể lừa Trời được. Người đời có đánh lừa nhau mới sinh ra lòng dối, mà dối lòng tức là dối Trời vậy. Chớ nói Trời không biết. Trời ở nóc nhà, đầu nhà, nói gì Trời không nghe. ngươi nói không nghe, thử hỏi xưa nay đã bỏ quên người nào. Trời xanh lồng lộng không nên nói dối, ý ngươi muốn gì ta đã biết trước rồi. Cho nên rõ ràng trời xanh không nên khinh khi. Chưa có nghĩ tới thì đã biết trước rồi, nên ta khuyên ngươi chớ làm sự quấy quá; xưa qua nay lại, có thấy Trời bỏ qua ai chưa?
            Nhân khả khi Thiên bất khả khi, nhân khả man Thiên bất khả man thế nhân yếu man nhơn, phân minh bả tâm khi; khi tâm tức khi Thiên, mạc đạo Thiên bất tri, Thiên tại ốc thềm đầu, tu hữu thính đắc thì, nễ đạo thính bất đắc, cổ kim phóng quá thùy?
            Trạm trạm thanh thiên bất khả khi, vị tằng cử ý ngã tiên tri, khuyến quân mạc tác khuy tâm sự, cổ vãng kim lai phóng quá thùy?                                                                  ?.

            105.          Chớ lầm tưởng trong hang vắng tiếng.
                              Mà dể duôi sanh biến lăng loàn,
            107.             Con người có trí khôn ngoan,
                           Tánh linh hơn vật biết đàng lễ nghi,
            Chớ lầm tưởng: Đừng có lầm lẫn mà tưởng rằng, chẳng nên lầm mà tưởng như vậy.
            Trong hang vắng tiếng: Trong hang vắng vẻ không có âm thanh. Ý nói đừng nghĩ rằng nơi kín đáo không ai hay biết.
            Dể duôi: Xem thường, khi dể.
            Sanh biến  : Hay sinh biến, là gây ra những điều không tốt.
            Tánh linh hơn vật: Trong vạn vật, con người là vật có tánh linh hơn hết, vì có đủ tam hồn: Sinh hồn, giác hồn, linh hồn.
            Lễ nghi  : Cách thức bên ngoài để bày tỏ việc đạo đức, lễ nghĩa.
Câu 105: Đừng có lầm tưởng rằng ở nơi kín đáo, vắng vẻ không ai hay biết.
Câu 106: Rồi xem thường, mà gây ra những điều trái với luân lý đạo đức.
            Có nhiều người khi làm việc gì sái quấy thường hay lén lút, hay làm nơi vắng vẻ, kín đáo, vì họ nghĩ như vậy sẽ không ai thấy, biết. Nhưng họ quên rằng giấu được người, chứ không sao giấu được lương tâm mình, hoặc các bậc Thần Thánh. Chính vì vậy mà sách Cảnh Hành dạy làm bất cứ việc gì cũng cần giữ quang minh, chính đại: Ngồi trong nhà kín tưởng không ai hay nhưng thật như ngoài đường cái, ai cũng rõ (Tọa mật thất như thông cù      ).
            Những việc làm mờ ám, nghĩ rằng không ai hay biết, nhưng “chẳng có gì tỏ hơn những chỗ mờ tối, chẳng có gì rõ hơn những điều nhỏ bé, cho nên người quân tử giữ gìn cẩn thận trong khi chỉ có một mình mình” (Mạc kiến hồ ẩn, mạc hiển hồ vi, cố quân tử thận kỳ độc dã             ).
            Chuyện thầm lén tưởng rằng không người biết, không người rõ, song có sự soi xét của các Đấng Thần minh như Tử Hư Nguyên Quân nói: Việc rõ ràng thì đâu cũng có phép vua luật nước, việc mờ ám, kín đáo thì có các đấng Thần minh soi xét cho (Minh hữu vương pháp tương kế, ám hữu quỉ thần tương tùy      ,     ).
            Câu chuyện sau đây cho ta thấy không nên thầm lén:
            Dương Chấn người đất Quan Tây, đời nhà Hán, làm quan thái úy, tánh thanh liêm. Hồi làm thứ sử có tiến dẫn Vương Mật làm lệnh doãn huyện Xương Ấp. Nên khi ông đi ngang qua Xương Ấp, vì trời tối, có nghỉ tạm ở đó một đêm. Vương Mật mới lén đem mười lượng vàng đền ơn. Ông Dương Chấn mới trách: Ta biết tài ngươi mà ngươi không biết lòng ta.
            Dương Mật nói: Đêm hôm khuya khoắc có ai hay mà ngài sợ.
            Dương Chấn đáp: Sáng thì có trời biết, tối thì có thần soi biết; trong có ta biết, ngoài có ông biết. Chỗ biết có nhiều sao gọi rằng không ai biết.
Câu 107 và 108: Trong vạn vật, con người là loài có trí khôn ngoan và có tánh linh hơn mọi loài nên biết đường đạo đức, lễ nghĩa.
            Con người là một sinh vật có ý thức, có trực giác, biết suy tư và nhứt là biết đường nhơn nghĩa, đạo lý. Vì vậy, Tuân Tử có nói: “Nước lửa có khí mà không sinh, cây cỏ có sinh mà không hiểu biết, cầm thú có hiểu biết mà vô nghĩa, duy chỉ có con người có khí, có sinh, có hiểu biết và cũng có nghĩa, cho nên người là quý nhứt trong thiên hạ (Thủy hỏa hữu khí nhi vô sinh, thảo mộc hữu sinh nhi vô tri, cầm thú hữu tri nhi vô nghĩa, duy nhơn giả hữu khí, hữu sinh, hữu tri diệc hữu nghĩa, cố vi thiên hạ quý                                ).
            Con người là một yếu tố trong Tam tài là thiên, địa, nhơn (Trời, đất, người). Sở dĩ con người đạt được địa vị ấy là vì con người được Trời đất sinh ra và ban cho một đức tính rất cao quí, rất thiêng liêng, hay nói khác đi người chịu cái đức của Trời đất. Ngoài ra, con người còn được hấp thụ hoàn toàn cái tinh thần linh diệu và cái khí chất tinh túy của Trời đất , nên con người linh hơn, sáng suốt hơn vạn vật. Chính nhờ cái sáng suốt này mà con người phân biệt được điều hay dở, lẽ phải trái. Cái sáng suốt ấy có sẵn trong mỗi người được gọi là trực giác, hay lương tri, hay minh đức.
Nói theo triết lý đạo Cao Đài, con người có tánh linh hơn vật, có trí khôn ngoan, biết điều nhơn nghĩa là vì:
- Thứ nhứt là bởi vì con người phải qua muôn nghìn kiếp tiến hóa, từ vật chất, thảo mộc, thú cầm, rồi mới chuyển hóa đến nhơn loại.
            Đức Chí Tôn giảng về sự tiến hóa của muôn vật như sau: “Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn năm, muôn năm lần mới đến địa vị nhơn phẩm”.
- Thứ nhì là vì con người có ba phần hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, mà loài vật chất thấp nhứt kim thạch, là loài vô tri vô giác, không phân biệt được đầu ngọn; kim thạch tiến lên thảo mộc thì có một hồn là sanh hồn, có gốc quay xuống đất, ngọn hướng lên trời; thảo mộc tiến lên thú cầm thì có được hai hồn là sanh hồn, giác hồn, đầu và đuôi ngang nhau; thú cầm tiến lên con người thì có ba hồn: Sanh hồn, giác hồn, linh hồn, đầu hướng lên trời, chân quay xuống đất.
            Con người nhờ Sanh hồn mới có được sự sống, Giác hồn mới có cảm giác, biết đau đớn khổ sở và Linh hồn mới khôn ngoan, biết đạo lý, suy xét đủ điều, cho nên con người tánh linh hơn vật.

            109.          Phải cho biết kỉnh vì trên trước
                              Đừng buông lời lấn lướt hồ đồ
            111.             Thuận cùng chú bác cậu cô,
                        Bà con chòm xóm ra vô khiêm nhường.
            Kỉnh vì trên trước: Đối với bậc cao quý, trưởng thượng, tức là người có địa vị hay tuổi tác thì phải nể nang, kính trọng.
            Thói thường, người ta chỉ dạy kẻ dưới kính trọng người trên mà không lấy trên kính dưới để thu phục bậc hiền tài, nên Mạnh Tử mới nói: Lấy kẻ dưới kính người trên, gọi là quý trọng người cao quý, lấy người trên kính kẻ dưới, gọi là tôn kính người hiền tài; quý trọng người cao quý, tôn kính người hiền tài, nghĩa cũng là một vậy (Dụng hạ kính thượng, vị chi quý quý, dụng thượng kính hạ, vị chi tôn hiền; quý quý tôn hiền, kỳ nghĩa nhất dã             ;      ).
            Đây nói bè bạn là một mối trong nhân luân để giúp nhau làm điều nhân, cho nên thiên tử làm bạn với kẻ thất phu mà không cho là khuất nhục, thất phu làm bạn với thiên tử mà không cho là tiếm lạm. Đó là Mạnh Tử dựa theo sự ứng xử giữa vua Nghiêu và Thuấn về đạo nhân luân vậy. Ngài nói: “Vua Thuấn lên triều kiến vua Nghiêu, vua Nghiêu gả hai con gái cho và để con rể ở phó cung, vua Nghiêu cũng ăn uống với vua Thuấn. Khi thì vua Nghiêu đến thăm vua Thuấn, lúc thì vua Thuấn đến thăm vua Nghiêu, thay đổi nhau làm chủ khách, thế là bậc thiên tử làm bạn với kẻ thất phu vậy”.
            Buông lời: Không suy nghĩ mà nói ra, phát ngôn cẩu thả.
            Thuận : Xuôi theo, phục theo.
            Bà con chòm xóm: Bà con láng giềng, tức là những người thân thuộc, gần gũi trong xóm.
            Khiêm nhường: Hay khiêm nhượng  Khiêm là nhún nhường, khiêm tốn. Nhượng là nhường nhịn. Khiêm nhường: Khiêm tốn nhún nhường.
Câu 109: Làm người phải biết nể nang, kính trọng những người hơn mình về tài ba, đạo đức hay địa vị (Trưởng thượng).
Câu 110: Đừng nói ra những điều thiếu suy nghĩ mà lấn lướt những người trưởng thượng.
Câu 111:Trong thân tộc phải ăn ở xuôi thuận với chú, bác, cậu, cô.
Câu 112: Ngoài chòm xóm thì phải khiêm tốn, nhún nhường với bà con láng giềng.

            113.          Thấy già yếu hẹp đường nhượng tránh
                              Đừng chỗ đông buông tánh quá vui
            115.                Cợt người ra dạ dể duôi,
                        Sanh điều chích mích đâu nguôi dạ hờn.
            Hẹp đường: Đường đi chật hẹp.
            Nhượng : Nhường.
            Nhượng tránh: Tránh qua một bên để nhường đường, nhường chỗ.
            Thấy người già yếu hay tàn tật đi đường, đi xe, đạo lý của con người là phải nhượng tránh, hay nhường chỗ ngồi. Hiếu Hữu Châu Tiên sinh có nói rằng: Mình nhường cho người ta đi trước mình, trót đời cũng không thua sút là bao nhiêu; bờ ruộng người ta tranh lấn mình, mình nhường nhịn cho người ta thì mình cũng chẳng mất đi đoạn nào (Chung thân nhượng lộ, bất uổng bách bộ; chung thân nhượng bạn, bất thất nhất đoạn             ).
            Cổ Linh Trần Tiên Sinh cũng có dạy: Đi đường phải nhường bước, cày bừa phải nhường bờ. Chớ để người đầu bạc phải gánh đội đi ngoài đường phố, có thế mới thành phong tục lễ nghĩa vậy (Hành giả nhượng lộ, canh giả nhượng bạn; ban bạch giả bất phụ đái ư đạo lộ, tắc vi lễ nghĩa chi tục hĩ                      ).
            Buông tánh: Thả lỏng tánh tình, để tánh buông lung không gìn giữ chặt chẽ.
            Cợt người: Trêu ghẹo người, cười cợt người.
            Trêu ghẹo người chơi cũng nên vừa phải, đừng vì quá sức vui mà cợt người, bởi vui quá sẽ sinh ra buồn phiền (lạc cực sanh bi    ) mất niềm hòa khí.
            Xích mích: Phiền hà, tức là có sự va chạm nhỏ nhặt với nhau mà sinh ra phiền lòng.
            Đâu nguôi dạ hờn: Không giảm bớt lòng hờn giận.
Câu 113: Ở nơi đường chật hẹp phải tránh nhường cho những người già yếu, tật nguyền.
Câu 114: Chỗ đông người, đừng vì quá vui mà buông tánh cẩu thả, không gìn giữ.
Câu 115: Đừng có lòng khi dể mà cười cợt, trêu ghẹo người ta.
Câu 116: Để sinh ra sự xích mích với nhau khiến cho không bao giờ nguôi được hờn giận .

            117.          Khi tế tự chớ lờn chớ dể
                              Việc quan, hôn thủ lễ nghiêm trang
            119.             Gìn lòng chẳng khá lăng loàn.
                           Lễ nghi vẹn giữ vững vàng chớ quên.
            Tế tự  Tế là cúng một cách long trọng. Tự là thờ cúng. Tế tự: Chỉ chung về sự thờ tự và cúng tế.
            Ngày xưa người ta phân biệt: Cúng Thần trên Trời là tự , cúng Thần dưới đất là tế . Về sau, hai chữ này chỉ còn nghĩa là cúng một cách trọng thể các Đấng Thiêng Liêng.
            Chớ lờn chớ dể: Không được khinh thường và vô lễ.
            Quan hôn  Quan là cái mão. Hôn là việc cưới vợ gả chồng.
            Theo nghi lễ thời xưa, một đời người có bốn cái lễ lớn: Quan, hôn, tang, tế. Quan hôn chịu ảnh hưởng hỉ lạc, tang tế chịu ảnh hưởng ai bi.
            - Quan : Theo sách Lễ Ký, hễ con trai đến trưởng thành đúng 20 tuổi thì thọ lễ Gia quan (lễ đội mão), còn con gái đến trưởng thành đúng 18 tuổi thì thọ lễ Gia kê (lễ cài trâm).
            - Hôn : Nghi lễ cưới vợ gả chồng.
            - Tang : Nghi lễ khi có người chết.
            - Lễ : Các lễ cúng tế trong gia đình, trong làng...
            Thủ lễ  : Giữ gìn nghi lễ hay giữ gìn phép tắc.
            Nghiêm trang: Hay trang nghiêm  : Uy nghi, làm cho người ta kính sợ.
            Chẳng khá lăng loàn: Không nên hỗn xược làm càn bậy, chẳng tùng theo phép tắc.
            Lễ nghi vẹn giữ: Giữ gìn nghi lễ cho tròn vẹn.
Câu 117: Khi thờ phượng và cúng tế thì không nên khinh lờn và vô lễ.
Câu 118: Việc quan hôn thì phải giữ gìn nghi lễ cho được nghiêm trang.
            Đạo sửa trị con người cho đặng thuần lương chơn chánh, chẳng có phương pháp nào cần thiết và gấp rút cho bằng lễ nghi, pháp độ như lời dạy của Đức Khổng Phu Tử trong sách Lễ Ký: Trị nhân chi Đạo mạc cấp ư lễ        .
            Thực vậy, lễ nghi pháp độ được người xưa thực hiện để làm nền móng giáo hóa nhơn sanh cho thấm nhuần đạo đức: Biết trọng lễ nghĩa, liêm sỉ, biết giữ khiêm cung, kỉnh nhượng. Người có giữ lễ nghi, biết khiêm cung kỉnh nhượng thì đặng an toàn danh phận, còn người không giữ lễ pháp, lại buông lung khinh dể thì phải chịu nguy hại đến thân danh. Vì thế, lễ là cái cần thiết không thể không học (Nhân hữu lễ tắc an, vô lễ tắc nguy. Lễ giả, bất khả bất học dã         ,    ). (Thiên Khúc lễ).
            Lễ đối với một con người sống trong xã hội, từ nhỏ đến lúc già thì có quan, hôn, tang, lễ: Tang lễ thì không nên lờn dể, quan hôn thì phải giữ gìn cho nghiêm trang.
Câu 119: Phải gìn lòng ngay thật, chẳng khá hỗn xược làm càn bậy mà không tùng theo phép tắc.
Câu 120: Giữ vẹn lễ nghi cho vững chắc, không để cho sa ngã mà thất lễ.

            121.          Giàu sang ấy Ơn Trên giúp sức.
                              Phước ấm no túc thực túc y.
            123.             Thấy người gặp lúc tai nguy,
                           Ra tay tế độ ấy thì lòng nhơn.
            Ơn Trên: Ơn huệ của Đức Chí Tôn hay các Đấng Thiêng Liêng.
            Giúp sức: Sức trợ giúp thêm.
            Phước ấm no: Điều phước đức hay điều may mắn tốt lành khiến cho thân được no ấm.
            Túc thực túc y    : Đủ ăn đủ mặc, có nghĩa là đời sống được no ấm.
            Túi tham của con người không đáy, nên cuộc sống lúc nào cũng thấy thiếu thốn, không bao giờ biết đủ. Chính vì vậy sách Cảnh Hành mới nói: Biết đủ (cho là đủ) thì thường vui, tham quá thì lo nhiều.Người biết đủ thì nghèo hèn cũng vui, kẻ không biết đủ thì giàu sang cũng lo. Biết đủ thường đủ, trọn đời không nhục, biết thôi thường thôi, trọn đời không hổ. Nhìn lên thì thấy chưa đủ, trông xuống thì thấy có dư (Tri túc thường lạc, đa tham tắc ưu; tri túc giả bần tiện diệc lạc, bất tri túc giả phú quí diệc ưu; tri túc thường túc, chung thân bất nhục, tri chỉ thường chỉ, chung thân bất sỉ; tỷ thượng bất túc, tỷ hạ hữu dư                                     ).
            Cái đủ theo Thánh hiền xưa cũng phải có đạo lý, sách Đại Học dạy: Thà chẳng được đủ mà cư xử ngay ngắn, chẳng nên có dư mà ăn ở vạy vò (Ninh khả chánh nhi bất túc, bất khả tà nhi hữu dư           ).
            Tai nguy  : Tai nạn nguy hiểm.
            Tế độ  Tế là đưa đò qua sông, giúp đỡ. Độ là cứu giúp. Tế độ: Dùng Phật pháp để cứu vớt người đưa qua khỏi biển khổ. Nghĩa rộng: Đem tài vật cứu giúp cho người nghèo khổ, khó khăn.
            Lòng nhơn: Lòng thương người mến vật.
            Lòng nhơn phải là một thứ tình thương không có điều kiện, không bắt buộc và không đòi hỏi bất cứ một sự đền trả nào. Ngoài ra, lòng nhơn theo đạo Phật, không chỉ hạn chế trong nhơn loại, mà còn mở rộng đến tất cả các loài động vật và cây cỏ.
Câu 121: Những người biết đạo đức thì Ơn Trên trợ giúp cho được giàu sang.
Câu 122: Được nhiều điều may mắn tốt lành để đủ ăn đủ mặc.
            Không phải ai cũng được Ơn Trên giúp sức cho sự giàu sang mà chỉ có những người tâm tốt để tạo âm chất nhiều hay ít mới được giàu sang hay no ấm.
            Theo thuyết luân hồi của nhà Phật, giàu sang hay nghèo hèn của một con người là do duyên nghiệp hay phước đức đã tạo ra từ nơi kiếp trước. Như vậy ta thấy rằng cái duyên nghiệp đó được Nho gia hay người đời gọi là mệnh số (mạng) hay Trời giúp cho.
            Mạnh Tử có nói: Muôn việc chẳng phải bởi người định được, mà tất cả đều do mệnh Trời đã xếp đặt sẵn sàng (Vạn sự bất do nhân kế giảo, nhất sinh đô thị mệnh an bài             ).
            Mệnh số định cho con người cái số phận, song mình cũng có thể điều chỉnh cho cái số phận đó của mình, nói cách khác, lấy cái tâm lành của mình để cải sửa một phần nào cái mạng của mình. Điều này Tư Mã Ôn Công có nói như sau: Lòng đã tốt rồi, mệnh lại tốt nữa thì thế nào cũng sớm được hưởng vinh hoa phát đạt. Lòng tốt, nhưng mệnh lại không tốt thì trọn đời cũng ấm no. Mệnh tốt mà lòng không tốt, thì tương lai khó mà giữ được. Còn cả lòng và mệnh đều không tốt thì cực khổ đến già (Tâm hảo mệnh hựu hảo, phát đạt vinh hoa tảo; tâm hảo mệnh bất hảo, nhất sinh dã ôn bão; mệnh hảo tâm bất hảo, tiền trình khủng nan bảo; tâm mệnh đô bất hảo, cùng khổ trực đáo lão                                 ).
Câu 123 và 124: Thấy bất cứ một người nào gặp tai nạn nguy hiểm thì sẵn sàng ra tay cứu giúp cho họ. Ấy là người có lòng nhơn từ.

            125.          Thương đồng loại cũng hơn thí bạc,
                              Thấy trên đường miểng bát, miểng chai,
            127.             Hoặc là đinh nhọn, chông gai,
                           Mau tay lượm lấy đoái hoài kẻ sau.
            Đồng loại  : Cùng chung một loài với nhau.
            Thí bạc: Bố thí tiền bạc, tức là đem bạc tiền để cứu giúp cho người tàn tật, nghèo khó, khổ sở.
            Miểng bát miểng chai: Miểng sành miểng ly, tức là những mảnh vở của chén dĩa, ly tách…
            Đinh nhọn: Những phế liệu như đinh kẽm nhọn bị dẹo, sét.
            Chông gai: Hay gai chông là những cây hay vật có gai nhọn, khiến có thể đâm thủng bàn chân được
            Đoái hoài: Tưởng nghĩ đến, quan tâm đến.
Câu 125: Biết thương yêu người đồng loại với nhau công đức còn hơn đem tiền bạc cứu giúp cho người nghèo khổ.
Câu 126: Chính do có lòng thương người nên khi đi trên đường gặp miểng bát miểng chai...
Câu 127: Hoặc là có những vật bén nhọn như đinh nhọn, chông gai.
Câu 128: Thì nên mau tay lượm lấy để tránh những người đi sau đạp phải. Đó là có sự quan tâm đến những người đi sau.

            129.          Ấy làm phước khỏi hao khỏi tốn
                              Chẳng có đâu mòn vốn thâm tiền
            131.             Bắc cầu đắp sửa đường liền,
                        Kẻ qua người lại bước yên gọn gàng.
            Khỏi hao khỏi tốn: Không hao tốn về tiền bạc của cải chi hết. Đây là việc cứu giúp người bằng công sức.
            Mòn vốn thâm tiền: Hao mòn tiền của, thâm thủng vốn liếng.
            Bắc cầu: Nối liền hai bên bờ rạch, kênh hay sông bằng cây ván để người qua lại một cách dễ dàng.
            Đắp sửa: Đắp thêm đất đá vào những ổ gà, chỗ trủng để sửa đường đi lại cho bằng phẳng.
Câu 129: Những việc làm phước trên khỏi có hao tốn tài vật.
Câu 130: Và cũng chẳng có thâm mòn tiền bạc vốn liếng.
Câu 131: Bắc cầu qua kênh rạch hay đắp sửa đường đi cho liền lạc bằng phẳng.
Câu 132: Để người qua lại cho được yên ổn thuận lợi.

            133.          Thi ân hậu bạc ngàn khó sánh,
                              Rán tập thành sửa tánh từ hòa.
            135.             Việc lành chẳng khá bỏ qua,
                           Tuy là nhỏ nhít cũng là công phu.
            Thi ân hậu   : Làm ơn sâu dày cho người.
            Tập thành  : Luyện tập lâu ngày cho thành thói quen.
            Từ hòa  : Nhơn từ và hòa thuận, tức có lòng thương yêu người, giúp người và hòa đồng với mọi người.
            Chẳng khá: Chớ nên, không nên.
            Nhỏ nhít: Nhỏ nhặt, không lớn.
            Công phu  Công là kết quả sự việc. Phu là một người. Công phu: Một người đem hết sức ra để thành tựu sự việc, hoặc chỉ khoảng thời gian làm một việc gì.
Câu 133: Làm ơn sâu dày cho người ta thì công đức ấy bạc ngàn cũng không sánh bằng.
Câu 134: Cố gắng luyện tập để sửa tánh hạnh được từ hòa.
Câu 135 và 136: Dầu gặp việc lành nhỏ cũng chẳng nên bỏ qua, vì tuy nó là việc nhỏ nhưng vẫn phải dụng công phu.
            Trên đời có một vài hành động dù nhỏ, cũng có thể tạo ra một lượng lớn hạnh phúc. Ngay cả những hành vi cực nhỏ cũng có thể đưa đến kết quả khổng lồ, cũng như một hạt giống nhỏ có thể trở thành một cây lớn. Vì thế chúng ta không nên bỏ qua những hành vi thiện nhỏ trong khi ta đang có gắng tạo nghiệp tốt, dù nhỏ nhặt nhưng tập hợp nhiều việc lại thì trở thành lớn lao.

            137.          Năng làm phải, nhựt nhu ngoạt nhiễm,
                              Lâu ngày dồn tính đếm có dư.
            139.             Phước nhiều tội quá tiêu trừ,
                     Phép Trời thưởng phạt không tư chẳng vì.
            Năng làm phải: Siêng năng làm những việc phải.
            Nhựt ngoạt: Hay Nhật nguyệt  : Ngày và tháng.
            Nhu nhiễm  Nhu là ướt. Nhiễm là thấm vào. Nhu nhiễm: Dầm thấm vào.
            Nhựt nhu ngoạt nhiễm    : Dầm thấm theo ngày tháng rồi trở thành thói quen.
            Lâu ngày dồn: Để lâu ngày rồi tính gộp lại.
            Tội quá  : Tội lỗi và sai lầm.
            Tiêu trừ  : Trừ bỏ đi, dứt bỏ đi.
            Thưởng : Cho người có công.
            Phạt : Trị người có tội.
            Không tư chẳng vì: Không tư vị, tức là không vì kiêng nể mà có lòng thiên vị.
Câu 137: Siêng năng làm việc phải lâu ngày thì dần dần nhiễm vào tánh thành thói quen tốt.
Câu 138: Những việc lành tuy là nhỏ nhặt song lâu ngày tính gộp lại thì công đức cũng có dư.
Câu 139: Nếu làm việc phước đức nhiều thì những tội lỗi sẽ được tiêu trừ.
Câu 140: Phép Trời đất thưởng phạt rất công bình, không tư chẳng vì một ai.

            141.          Thấy lỗi mọn chớ nghi chẳng hại,
                              Thường dạn làm tội lại hằng hà.
            143.             Vì chưng tựu thiểu thành đa,
                     Họa tai báo ứng chẳng qua mảy hào.
            Lỗi mọn: Lỗi lầm nhỏ mọn.
            Chớ nghi chẳng hại: Đừng nghĩ rằng không có tai hại.
            Dạn làm: Bạo dạn làm, mạnh dạn làm, không sợ sệt mà làm.
            Hằng hà  : Do thành ngữ “hằng hà sa số    ”, có nghĩa là số nhiều như hạt cát ở sông Hằng hà (Ấn Độ). Đây là thành ngữ của Phật giáo, dùng để chỉ một số lượng nhiều, như: Hằng hà sa số Phật     .
            Vì chưng: Vì rằng.
            Tựu thiểu thành đa    : Hợp nhiều cái ít lại thành ra nhiều.
            Họa tai: Hay tai họa  : Những rủi ro, tai nạn lớn lao đưa đến, khiến người ta phải khốn khổ.
            Báo ứng  : Được trả lại những gì mình đã làm theo luật nhơn quả. Như làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ
            Mảy hào: Một phần rất nhỏ.
Câu 141: Đừng có thấy lỗi nhỏ nhít mà nghĩ rằng chẳng có gây tai hại.
Câu 142: Thường mạnh dạn mà làm thì sẽ gây ra tội hằng hà.
Câu 143: Vì rằng gộp nhiều cái ít lại sẽ thành nhiều. Tỷ như làm những việc hung dữ nhỏ nhặt nhiều gom lại cũng thành nhiều.
Câu 144: Sẽ bị báo ứng những tai họa, chẳng sai sót một ly hào nào.
            Thói thường, người ta hay khinh dể những điều nhỏ nhít: Công việc nhỏ nhặt người ta thường không thèm để ý đến, hay không muốn làm đến, tỷ như việc làm phước, thấy điều nhỏ không đáng làm, nên bỏ qua; còn việc dữ, tưởng lỗi mọn, vẫn cứ làm.
            Ta nên nhận chân rằng dù những điều ác nghiệp nhỏ nhứt cũng có thể đem lại đau khổ vô biên. ví như uống phải mọt ít thuốc cũng có thể đưa đến chết hay bịnh hiểm nghèo.
            Cũng vậy, những việc thiện dù nhỏ, khiến ta xem thường, nhưng chúng cũng có thể đem đến những hạnh phúc lớn lao.
            Điều nầy vua Chiêu Liệt đời nhà Hán có dạy con là vua Hậu Chủ như sau: Dù cho những việc thiện nhỏ cũng chớ nên bỏ qua mà không làm, dù cho những việc ác nhỏ cũng chớ làm.(Vật dĩ thiện tiểu nhi bất vi, vật dĩ ác tiểu nhi vi chi             ).
            Kinh Pháp Cú Phật cũng có dạy rằng: “Chớ khinh điều ác nhỏ, cho rằng: Chẳng đưa lại quả báo cho ta. Phải biết giọt nước nhiểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ ngu phu sở dĩ đầy tội ác bởi chứa dồn từng khi ít mà nên” và cũng “Chớ khinh điều lành nhỏ, cho rằng: Chẳng đưa lại quả báo cho ta. Phải biết giọt nước nhiểu lâu ngày cũng làm đầy bình. Kẻ trí sở dĩ toàn thiện bởi chứa dồn từng khi ít mà nên.

            145.          Giữa bụi thế giữ sao khỏi vấy
                              Biết ăn năn xét lấy sửa lòng.
            147.             Làm người nhơn nghĩa xử xong
                           Rủi cho gặp lúc long đong chẳng sờn.
            Bụi thế: Ở cõi thế gian đầy bụi bặm.
            Chữ trần  là bụi bặm. Người ta cho rằng cõi thế gian là nơi ô trược, mang nhiều bụi bặm, nên thường gọi là cõi trần hoặc những danh từ có chữ trần như: Trần gian, trần thế, trần ai, trần hoàn, trần cấu, hồng trần...
            Khỏi vấy: Không bị nhiễm, không bị dính.
            Xét lấy sửa lòng: Suy xét lấy để tu sửa lòng mình.
            Nhơn nghĩa xử xong: Cư xử theo nhơn nghĩa cho vẹn toàn.
            Long đong: Không được ổn định, lưu lạc vất vả, rày đây mai đó.
            Chẳng sờn: Không lung lay ý chí, chẳng nao núng.
Câu 145: Sống ở giữa cõi thế gian đầy bụi bặm nầy làm sao cho khỏi nhiễm bụi trần.
Câu 146: Nếu có tội lỗi phải biết ăn năn suy xét để tu sửa lại tấm lòng.
            Xét về phương diện vật chất, cõi thế gian là nơi nặng nề, ô trược, chứa đầy cát bụi trần ai; còn xét về phương diện tinh thần, Phật cho rằng cõi trần nói riêng, Thế giới Ta Bà nói chung là một cõi đầy ô uế, có đủ ngũ trược: Kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược, nên cõi này được gọi là uế thổ (uế độ).
            Cao Đài cũng cho rằng cõi thế gian là cõi đọa, là nơi chứa nhiều tội lỗi, vì bởi con người bị vô minh mới tạo ra nhiều tội ác, tội ác mới gây thành nghiệp quả, là động lực lôi kéo con người phải chìm sâu trong luân hồi sinh tử.
            Như vậy, con người sống giữa cõi trần đầy uế trược và tội lỗi nầy thì làm sao không nhiễm theo trần, tức là cũng phải có những lỗi lầm. Nhưng nếu biết ăn năn, suy xét để trau giồi tâm thiện lương của mình thì Chí Tôn sẽ độ rỗi cho như lời Thánh giáo đã dạy: “Buổi lập Thánh đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không có tội lỗi, đâu nhọc đến công Thầy.
            Ấy vậy, các con rán độ kẻ tội lỗi là công lớn làm cho Thầy vui hơn hết”.
            Trong bài Kinh Cầu Hồn Khi Hấp Hối có câu:
                                 Ăn năn sám hối tội tình,
                        Xét câu minh thệ gởi mình cõi thăng.
Câu 147: Làm con người phải lấy nhân nghĩa ra cư xử với mọi người một cách tròn vẹn.
Câu 148: Được như vậy, dù có gặp cuộc sống long đong vất vả thì cũng chẳng sờn lòng.
            Sống ở nơi thế gian này, nếu mình đem nhơn nghĩa ra mà cư xử với mọi người thì có lúc mình chịu cảnh long đong còn có chỗ gặp nhau lại, có thể vì ân nghĩa mà người ta đền đáp lại chăng. Còn thù oán thì không nên kết, dọc đường đi có khi gặp lúc nguy hiểm cũng khó có đường tránh khỏi. Đây là lời dạy trong sách Cảnh Hành Lục: Ân nghĩa quảng thi, nhân sinh hà xứ bất tương phùng? Thù oan mạc kết, lộ phùng hiểm xứ nan hồi tỵ                  .

            149.          Hễ biết nghĩa thọ ơn chẳng bội
                              Giúp cho người chớ vội khoe ra,
            151.             Việc chi cũng có chánh tà,
                        Làm điều phải nghĩa lánh xa vạy vò.
            Thọ ơn: Hay thụ ân  : Nhận lãnh ơn huệ của người.
            Bội : Quay lưng lại với nhau, chỉ sự phản bội.
            Thọ ơn chẳng bội: Nhận lãnh ơn huệ người ta không nên phản bội.
            Chánh tà  Chánh là ngay thẳng.  là cong quẹo, sai trái.
            Chánh tà là hai con đường mà người tu phải chọn lựa: Chánh là ngay thẳng, chơn thật, đúng đắn, hợp với luân lý đạo đức. Tà là cong queo, tà vạy, không hợp với luân thường đạo lý. Chánh tà luôn luôn lúc nào cũng xung khắc nhau, đối chọi nhau. Nhưng vì luật đối đải nơi thế gian hễ có chánh tự nhiên có tà, có thiện là phải có ác, cũng như có ngày thì phải có đêm. Chính nhờ có tà mà cái chánh mới hiển lộ ra, cũng như nhờ cái dữ mới trau giồi được điều hiền. Thánh thi có bài như sau:
                              Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
                              Chánh tà hai lẽ đoán sao ra.
                              Sao ra Tiên Phật người trần tục,
                              Trần tục muốn thành phải đến Ta.
            Người tu hành muốn phân biệt được tà chánh thì phải có trí huệ, như lời kinh Giải Oan đã viết:
                              “Huệ quang chiếu thấu chánh tà
            Chính trí huệ là cây đuốc soi rọi cho người tu lần đi theo con đường chơn chánh, bằng phẳng và ngắn nhứt.
            Làm điều phải nghĩa: Làm những điều đúng với đạo lý, lễ nghĩa.
            Vạy vò: Gian tà, không ngay thẳng, không chơn chánh.
Câu 149: Hễ làm con người biết lễ nghĩa thì thọ ơn của người chẳng nên bội phản.
Câu 150: Mình dù có giúp cho người thì cũng đừng vội khoe khoang.
Câu 151: Trên đời này, việc gì cũng có chánh tà, và thiện ác.
Câu 152: Nên phải làm những điều nghĩa mà lánh xa điều tà vạy

            153.          Khi gặp chuyện khá dò xét cạn,
                              Liệu sức mình cho hẳn sẽ làm,
            155.             Chớ đừng thấy của dấy tham,
                        Giục người làm quấy ắt cam đồng hình.
            Khá dò xét cạn: Nên dò xét cho cặn kẻ, tức là suy xét cho tận cùng
            Liệu sức mình: Tiên liệu xem sức lực của mình hay khả năng của mình có làm nổi không.
            Trên đời này có nhiều người trí lực kém, mà tham vọng quá lớn lao, nên thường hay làm càn nhiều việc quá sức hay quá khả năng của mình, khiến cho thường bỏ dở công việc giữa đường hay có nhiều khi tai hại đến sự nghiệp. Người tu hành, phải nên cẩn thận, khi làm việc gì, liệu sức mình làm nổi mới nên làm, chẳng làm càn mà có hại cho cả một kiếp tu hành.
            Cho hẳn: Cho chắc chắn, cho rõ ràng.
            Thấy của: Thấy tiền bạc của cải.
            Dấy tham: Nổi dậy lòng tham lam.
            Giục người làm quấy: Xúi giục người ta làm việc sái quấy.
            Ắt cam đồng hình: Ắt là cam chịu chung hình phạt.
Câu 153: Khi gặp phải bất cứ một việc gì thì nên suy xét cho cặn kẻ.
Câu 154: Và liệu sức của mình cho chắc chắn xem có thể làm được hay không thì mới nên làm.
Câu 155: Đừng nên thấy tiền bạc của cải mà động lòng tham.
Câu 156: Xúi giục người làm trái đạo đức thì ắt cam chịu chung hình phạt

            157.          Ở ngay thẳng Thần minh bảo hộ,
                              Nết xéo xiên gặp chỗ rạc tù,
            159.             Trong đời rất hiếm võ phu,
                        Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa.
            Ở ngay thẳng: Cư xử với mọi người một cách ngay thật.
            Thần minh  : Vị Thần sáng suốt, quang minh.
            Bảo hộ  : Giữ gìn và che chở.
            Nết xéo xiên: Tánh nết gian trá, tánh nết không ngay thẳng.
            Rạc tù: Tù giam, nơi nhốt những người có tội.
            Hiếm: Đây là từ Nôm, có hai nghĩa trái nhau:
                  -Hiếm: Là rất ít, như hiếm thấy (rất ít thấy), hiếm có (rất ít có), hiếm gặp (rất ít gặp)...
                  -Hiếm: Có nghĩa là nhiều, như hiếm hiệm (có rất nhiều). Chữ hiếm trong câu Kinh trên đây theo nghĩa này, tức là rất nhiều.
            Võ phu (1): Hay vũ phu  : Một loại đá giống như ngọc. Ở Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu thì viết vũ phu bằng bộ ngọc ().
            Câu kinh trên, có nhiều người hiểu chữ võ phu   là kẻ võ biền, kẻ lỗ mãng, tức kẻ chuyên dùng sức mạnh. Nếu hiểu theo nghĩa này, khi kết hợp với câu kinh sau “Lường cân, tráo đấu, dối tu cúng chùa”, ta thấy câu này không bổ nghĩa cho câu sau, bởi vì kẻ võ phu là người không mưu kế, không gian manh, xảo quyệt bằng người có trí mà thiếu đạo đức. Người trí thiếu đạo đức mới có mưu mô gian giảo để lường cân tráo đấu, mới có mánh khoé gian manh để dối tu cúng chùa, khiến người ta phải lầm lẫn. Như vậy, “võ phu” 碔砆 theo nghĩa là ngọc giả, tức là một loại đá khi nhìn thì giống như ngọc thật, dùng để chỉ giới hay bọn người chuyên giả dối, lừa đảo, chuyên lường gạt người ta.
            Lường cân tráo đấu: Chỉ sự cân lường gian trá: Cân non lường thiếu để ăn gian cho mình.
            Dối tu cúng chùa: Giả danh người tu hành để lừa gạt lấy vật thực, tiền bạc, của cải người có đức tin cúng hiến.
Câu 157: Người ăn ở ngay thẳng thì được Thần minh gìn giữ che chỡ cho.
Câu 158: Người có tánh nết gian giảo thì thường hay gặp chỗ tù tội.
Câu 159: Trên đời này rất nhiều kẻ chuyên giả dối (tỷ như loài đá khiến người ta lầm như ngọc thật).
Câu 160: Những bọn ấy gạt người để mưu gian cho mình lường cân tráo đấu hoặc còn dối tu cúng chùa để lừa người tin theo.

            161.          Còn hoi hóp tranh đua bay nhảy,
                              Nhắm mắt rồi phủi thảy lợi danh.
            163.             Lương tâm thường xét cho rành,
                           Của không phải nghĩa chớ sanh lòng tà.
            Hoi hóp: Hơi thở rất yếu, chỉ tình trạng sắp chết. Ở đây ý chỉ rằng hễ còn một tấc hơi thở.
            Tranh đua bay nhảy: Tranh đấu hay luồn lách trong đường danh nẻo lợi. Ý chỉ không chịu yên thân.
            Nhắm mắt rồi: Chỉ sự chết.
            Phủi thảy: Phủi bỏ hết, buông bỏ tất cả.
            Lương tâm  : Cái thiện tâm của con người, cũng là cái Thiên lương, hay Thiên tánh mà Chí Tôn ban cho con người.
            Theo Mạnh Tử  , con người nhờ có lương tâm mới biết được điều nhân điều nghĩa, lẽ phải lẽ trái. Còn người chỉ đắm đuối vào đường vật chất, do thất tình lục dục sai khiến, thì lương tâm của họ bị mờ tối đi, thành thử không hiểu được điều nhơn nghĩa.
            Theo Cao Đài, lương tâm là một khiếu Thiêng liêng của Đức Chí Tôn ban cho con người, như lời Thánh giáo đã dạy: “Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức”.
            Của không phải nghĩa: Của không chính đáng, của phi nghĩa.
            Sách Cảnh Hành chép rằng: Nhân phi hiền bất giao, vật phi nghĩa bất thủ         : Người không hiền thì đừng làm bạn, vật chẳng phải thì không nên giữ.
            Lòng tà: Hay tà tâm 邪心: Lòng không ngay thẳng.
Câu 161: Con người khi còn hơi thở thì giành giựt hay luồn lách trong danh lợi.
Câu 162: Đến khi chết rồi thì lợi danh đều buông bỏ hết.
Câu 163: Làm bất cứ một việc gì đều phải lấy lương tâm ra mà xét cho rành mạch.
Câu 164: Hễ thấy tiền bạc của cải không hợp đạo nghĩa thì đừng sinh tà tâm.

            165.          Người quân tử chẳng thà chịu khổ,
                              Đâu làm điều nhục tổ hổ tông?
            167.             Đứa ngu thấy của thì mong,
                        Không gìn tội lỗi phép công nước nhà.
            Quân tử  : Người xưa cho rằng đạo Nho là đạo của người quân tử, tức là Khổng Tử đem cái đạo lý ra dạy dỗ người ta cho thành người có tài năng, có đức hạnh hoàn toàn và có nhơn phẩm tôn quí để giúp ích cho đời, gọi là người quân tử.
            Trong xã hội ngày xưa thường chia làm hai hạng người: Quân tử và Tiểu nhân. Quân tử là quí, hay, là người có phẩm hạnh tôn quí, tiểu nhân là tiện, dở, là người có chí khí hèn hạ.
            Khổng Tử nêu ra một số thái độ của người quân tử và kẻ tiểu nhân như sau:
            -Quân tử học đạo tắc ái nhân, tiểu nhân học đạo tắc dị sử dã             使 : Quân tử học đạo thì yêu người, tiểu nhân học đạo thì dễ khiến.
            -Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt       : Quân tử đạt về lý cao minh, tiểu nhân đạt về cái lý đê hạ.
            -Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi         : Quân tử hiểu sâu về việc nghĩa, tiểu nhân chỉ biết về việc lợi.
            -Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân         : Người quân tử chỉ cầu ở mình, kẻ tiểu nhân thì cầu ở người.
            -Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ         : Người quân tử cố giữ lúc khốn cùng, kẻ tiểu nhân gặp khốn cùng thì làm bậy.
            -Quân tử thái nhi bất kiêu, tiểu nhân kiêu nhi bất thái           : Người quân tử thư thái mà không kiêu căng, kẻ tiểu nhân kiêu căng mà không thư thái.
            -Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa           : Quân tử hòa với mọi người mà không hùa với ai, tiểu nhân thì hùa với mọi người mà không hòa với ai.
            -Quân tử bất khả tiểu tri, nhi khả đại thụ dã; tiểu nhân bất khả đại thụ, nhi khả tiểu tri dã                   : Người quân tử không thể biết được cái nhỏ mà có thể chịu được cái lớn; tiểu nhân không thể chịu được cái lớn, mà có thể biết được cái nhỏ vậy.
            -Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành nhân chi ác; tiểu nhân phản thị             : Quân tử gây thành cái hay cho người ta, không gây thành cái ác cho người ta, tiểu nhân không thế.
            -Quân tử ưu đạo bất ưu bần       : Người quân tử lo đạo, không lo nghèo.
            -Quân tử dục nột ư ngôn, nhi mẫn ư hành         : Quân tử muốn nói thì chậm mà làm thì nhanh.
            Chẳng thà chịu khổ: Thà rằng chịu khổ, chớ chẳng làm điều gì sái quấy.
            Nhục tổ hổ tông: Làm ô nhục tổ tiên, xấu hổ dòng họ ông bà của mình.
            Đứa ngu: Người ngu dốt, ở đây chỉ kẻ tiểu nhân.
            Thấy của thì mong: Thấy tiền bạc của cải thì ham muốn.
            Phép công nước nhà: Pháp luật của nhà nước.
Câu 165: Người quân tử thà rằng chịu khổ chớ chẳng bao giờ làm điều sái quấy.
Câu 166: Để làm nhục nhã tổ tiên, xấu hổ dòng họ của mình.
Câu 167: Đứa ngu dốt, không biết đạo lý thấy tiền bạc của cải thì ham muốn, mong mỏi.
Câu 168: Nên dám làm mọi việc không sợ tội lỗi và luật pháp của nhà nước.
            Người xưa thường cho rằng đạo Nho là đạo của người quân tử, tức là chủ đích của Nho giáo là để dạy cho con người trong xã hội thành người nhơn nghĩa, trung chính, đó là hạng người quân tử.
            Quân tử bao giờ cũng sống phù hợp với thiên lý, cho nên là người có tâm tính trong sáng, nghĩa lý thanh minh, biết rõ về điều nghĩa, nên dốc lòng muốn làm điều nghĩa, còn kẻ tiểu nhân người ngu dốt, chỉ biết về việc lợi, nên mới dốc lòng vì lợi, không kể phép tắc, tội lỗi: Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi        .
            Người quân tử sống vì nghĩa, nên dù nghèo cũng không làm gì trái với điều nghĩa, còn kẻ tiểu nhân nếu gặp lúc khốn cùng thì không nghĩ gì đến lễ nghĩa, đạo lý nữa, miễn thỏa mãn điều lợi về mình mà thôi: Quân tử cố cùng, tiểu nhân cùng tư lạm hỹ         .
            Người quân tử không làm điều trái với đạo đức, nghĩa là không làm điều nhục tổ hổ tông, còn đứa ngu (tức tiểu nhân) thì chỉ mong điều lợi, cho nên bất cứ việc gì có lợi cũng đều làm bất kể tội lỗi, hay phép công của nước nhà.

            169.          Bày chước độc, xúi ra việc quấy,
                              Tổn cho người mà lấy lợi riêng.
            171.             Hễ nghe khua động đồng tiền,
                        Sửa ngay làm vạy không kiêng chút nào.
            Bày chước độc: Bày ra mưu chước sâu độc để hại người.
            Xúi ra việc quấy: Xúi giục làm những điều sái quấy.
            Tổn cho người: Làm hao tốn tiền của người ta, làm tổn hại đến người ta.
            Khua động: Gây thành tiếng động.
            Đồng tiền  : Tiền bằng đồng, tiền bằng kim loại.
            Sửa ngay làm vạy: Sửa những điều ngay thẳng thành ra những điều sái quấy, tà vạy.
Câu 169: Bày ra những mưu chước sâu độc để xúi giục người làm những việc trái đạo đức.
Câu 170: Vì muốn lợi riêng mà làm những việc hao tốn cho người ta.
Câu 171: Hễ nghe ở đâu có tiếng khua động của đồng tiền.
Câu 172: Sửa những việc ngay thẳng thành những việc tà vạy chẳng kiêng chẳng sợ chút nào.

            173.          Người nghèo khổ biết sao than kể,
                              Kẻ lễ nhiều cậy thế ỷ quyền,
            175.             Làm quan tính kế đảo điên,
                           Gạt thâu gia sản, đất điền của dân.
            Biết sao than kể: Biết làm sao than van, kể lể cho hết.
            Kẻ lễ nhiều: Kẻ đem tiền bạc hay quà biếu làm lễ vật tặng cho người có quyền thế để cầu cạnh một việc gì.
            Thế : Thế lực.
            Cậy thế: Nhờ cậy vào thế lực của mình hay của người.
            Ỷ quyền  : Dựa vào quyền lực của mình hay của người.
            Đảo điên: Hay Điên đảo  : Xáo lộn ngược, chỉ sự rối loạn.
            Tính kế đảo điên: Bày mưu tính kế lung tung, xáo trộn làm hại người.
            Gia sản  : Tài sản gia đình, tức là tiền bạc, của cải, nhà cửa của một gia đình.
            Gạt thâu gia sản: Lường gạt để chiếm đoạt tài sản của người.
            Đất điền: Ruộng đất.
Câu 173: Người nghèo khổ biết làm sao than van kể lể cho hết sự khổ sở.
Câu 174: Người có tiền bạc đem đút lót kẻ quyền quí để dựa cậy quyền thế.
Câu 175 và 176Làm quan vì lòng tham lam ích kỷ, bày mưu tính kế một cách tráo trở  để lường gạt tài sản và ruộng đất của nhân dân.
            Cuối thời hạ nguơn, đạo lý Thánh hiền đã hết cho nên xã hội vì quyền tước lợi danh, vì chén cơm manh áo mà con người cấu xé lẫn nhau, khiến cho kẻ nghèo khổ phải kêu than rên siết, người giàu sang thì cậy thế ỷ quyền, kẻ làm quan thì tính tình điên đảo, lường gạt tài sản, ruộng đất, áp bức dân lành. Xã hội đầy dẫy những sự bất bình, theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, đó bởi do con người vô đạo: “Các con nghe cho rõ, thường ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con biết vì tại sao chăng? Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con biết vì tại sao chăng? Tại vô đạo”.
            Do vậy, Đức Chí Tôn mới khai mở nền Đại Đạo để cứu vớt sanh linh thoát khỏi vòng hắc ám như lời Thánh giáo cho biết: “Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh đạo. Thế thì nhơn loại, nếu chẳng có mối huyền vi để nhắc chừng tâm tánh, sẽ vì mồi danh lợi, miếng đỉnh chung mà cắn xé giựt giành, giết hại lẫn nhau cho đến buổi cùng đường, rồi vì hung bạo ấy mà cõi dinh hoàn nầy chẳng còn sót dấu chi của nhân vật cả”.

            177.          Thả tôi tớ thôn lân húng hiếp,
                              Bức gái lành, ép thiếp đòi hầu,
            179.             Trong lòng mưu chước rất sâu,
                           Mai sau suy sụp đáo đầu ra chi.
            Thả tôi tớ: Buông thả những người giúp việc trong nhà để ra ngoài làm điều sằn bậy.
            Thôn lân  Thôn là làng. Lân là bên cạnh, gần. Thôn lân: Xóm giềng, làng xóm.
            Húng hiếp: Hống hách và hiếp đáp người.
            Bức gái lành: Áp bức con gái nhà lành.
            Ép thiếp đòi hầu: Ép buộc con gái người để đòi hỏi làm hầu thiếp.
            Mưu chước: Đồng nghĩa với mưu kế  , chỉ sự tính toán ngầm để tìm cách làm một việc gì.
            Suy sụp: Xuống dốc.
            Đáo đầu  : Đưa đến chỗ cuối cùng.
Câu 177 và 178Làm quan không nghiêm chánh để cho tôi tớ trong nhà ra xóm làng áp bức gái lành để làm hầu thiếp.
Câu 179: Trong lòng tính toán những kế hoạch sâu độc để hại người.
Câu 180: Một ngày kia khi cuộc đời xuống dốc thì rốt cuộc lại mình có ra gì đâu.

            181.          Gái xướng kỵ, trai thì du đảng,
                              Phá tan hoang gia sản suy vi.
            183.             Làm người phải khá xét suy,
                        Của rơi chớ lượm, tham thì phải thâm.
            Xướng kỵ: Hay xướng kỹ. Xướng  là ca hát. Kỹ  (Đọc là kỹ) là người con gái hát xướng để kiếm tiền, như kỹ nữ  .
            Du đãng  Du là đi chơi. Đãng là không ai kềm chế. Du đãng: Chơi bời phóng túng, không ai kềm chế nổi.
            Phá tan hoang: Phá tan nát hết, phá hết sạch.
            Suy vi  : Hư hỏng, mòn mỏi.
            Xét suy: Xét nét và suy tính kỹ càng.
            Của rơi chớ lượm: Của cải, tiền bạc rơi rớt chớ nên lượm.
            Tham thì phải thâm: Đây là một thành ngữ dùng để chê những người có tính tham lam, không suy xét chỉ vì tham số lợi nhỏ mà mất đi số vốn lớn.
Câu 181: Gái thì làm con hát (kỹ nữ), trai thì chơi bời hoang đãng.
Câu 182: Làm cho sự nghiệp của gia đình suy sụp tan hoang.
Câu 183: Làm con người khá nên biết suy xét kỹ lưỡng.
Câu 184: Khi gặp của rơi chẳng nên tham lam mà lượm lấy vì tục ngữ có câu: Tham thì phải thâm.
            Phàm làm người cần nên suy xét, hễ muốn có ăn thì phải tự thân lao động để kiếm tiền hay tạo ra của cải vật chất, đó là ta hưởng những thành quả do sức làm việc của bản thân mình. Còn tiền bạc, hay của phi nghĩa, của hoạnh tài, tức là của không phải do sức mình kiếm được mà do lường gạt, chiếm đoạt của người, hay của rơi hoặc tự dưng có được thì không nên tham lam, vì tham thì thâm. Câu chuyện sau đây cho thấy điều đó.
            Khi Đức Phật còn tại thế, một hôm Ngài cùng vị đại đệ tử A Nan Đà từ non Thứu Lãnh đi xuống Kinh thành khất thực. Đi giữa đường, ngang qua một bờ đất, Ngài thấy một ghè vàng.
            Đức Phật bảo A Nan Đà rằng: “Nầy A Nan! Ngươi có thấy đây là một loài rắn độc không?”. Ngài A Nan cung kính bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Thật là một loài rắn độc, rất đáng sợ hãi!”. Rồi hai người ra đi.
            Đương lúc ấy, có một tiều phu đứng gần nghe được, vội đến xem, thấy một ghè đậy kín. Anh mở ra, thấy toàn là vàng. Anh cười thầm Đức Phật và đệ tử Ngài không biết dùng thứ ấy, còn cho là rắn độc.
            Trước khi đem về, anh sung sướng la lên rằng: “Tôi xin nguyện rắn độc này luôn luôn cắn tôi, cha mẹ tôi, vợ con tôi, và quyến thuộc tôi. Tôi không cảm thấy đau đớn gì hết!”.
            Sau khi được ghè vàng, anh tiều phu kia trở thành người trưởng giả giàu có kiêu sa. Làng xóm nghi kỵ, không biết vì sao anh giàu sang đột ngột như vậy. Tiếng đồn vang đến tai vua A Xà Thế, nên vua đòi đến hỏi. Anh ấp úng, không muốn nói lượm được ghè vàng. Vua cho là người gian, ra lệnh tịch thu gia tài và bắt anh ta cùng tất cả bà con quyến thuộc đem đi hành hình.
            Đi giữa đường anh ta khóc lóc: “Ngài A Nan ơi! Thật là một thứ rắn độc! Rắn độc nó cắn tôi và cắn hết bà con của tôi đây!”. Bọn lính nghe anh ta luôn gọi Ngài A Nan Đà, bèn trở lại tâu cho vua hay.
            Vua ra lệnh đem anh ta về, hỏi lại. Lần này anh ta mới chịu thưa thiệt nguyên do được ghè vàng. Nghe xong, vua bảo anh tiều phu rằng: “Tội ngươi đáng chết, nhưng may duyên gặp Đức Thế Tôn, nên ta tha tội cho ngươi và bà con ngươi. Ngươi được đem vàng bạc về và từ nay phải sửa đổi tự tâm, tu hành theo thiện nghiệp”.

            185.          Còn một nỗi gian dâm đại tội,
                              Lấy vợ người làm lỗi tiết trinh.
            187.             Tuy là Trời Đất rộng thinh,
                  Mắt dường sao nháy chiếu minh lòng người.
            Gian dâm  : Việc quan hệ thể xác giữa hai người nam nữ không chính đáng như đàn ông lấy vợ người, đàn bà lấy chồng người.
            Đây là phạm điều thứ ba của ngũ giới cấm: Không được tà dâm, tà hạnh.
            Theo Phật, người hành trì giới tà dâm là không được quan hệ bất chính với người ngoài chồng hay vợ chính thức. Phải hết lòng trung trinh với người chồng hay vợ của mình.
            Người giữ được giới này thì tạo được hạnh phúc trong gia đình mình, ngoài ra cũng tránh được sự gây ra đổ vỡ khổ đau trong gia đình khác và bảo vệ tiết hạnh của kẻ khác.
            Theo đạo Cao Đài, người giữ giới tà dâm thì ngoài việc tránh được quan hệ bất chính với nguời khác phái, còn tránh được sự sát mạng của một khối chơn linh trong một giọt máu, tức là những sinh vật nhỏ bé, gọi là tinh trùng. Thánh giáo Đức Chí Tôn đã dạy: “Một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, thì nó đến tại Nghiệt Cảnh đài mà kiện các con. Các con không hề chối tội đặng”.
            Đại tội  : Tội lớn nhứt, tội nặng nhứt.
            Làm lỗi: Gây nên tội lỗi.
            Tiết trinh: Hay trinh tiết  : Giữ vững tấm lòng trinh bạch, nghĩa là giữ lòng cứng cỏi ngay thẳng của người đàn bà đối với chồng.
            Chiếu minh  : Soi rọi sáng tỏ.
            Trời đất rộng thinh: Trời đất rộng lớn, bao la bát ngát.
            Mắt dường sao nháy: Mắt của Trời đất như là ánh sao sáng, soi rọi khắp mọi nơi, thấy biết tất cả.
Câu 185: Còn một nỗi gian dâm với vợ hoặc chồng của người là một điều đại tội.
Câu 186: Lấy vợ của người gây nên tội lỗi làm hư hoại về trinh tiết của người.
            Vợ chồng là bạn tình trăm năm, là một nghĩa vụ thiêng liêng, là mối quan hệ chặt chẽ trong việc xây dựng tổ ấm hạnh phúc gia đình, gây tạo con cháu nối dõi tông đường.
            Vì thế, vợ chồng phải giữ gìn trinh tiết, chung thủy với nhau, không lang chạ, không quan hệ trái phép với vợ hay chồng người mà gây xáo trộn hạnh phúc của gia đình người.
            Ngoài ra, giữ giới này cũng là một phương cách tiết dục. Như chúng ta đều biết, sở dĩ chúng ta có một sức khoẻ cường tráng là nhờ các chất tinh huyết trong cơ thể. Các chất này là tinh hoa của bao nhiêu chất bổ dưỡng mà ta ăn uống hằng ngày, một phần nuôi cơ thể, một phần tạo nên tinh trùng. Nếu không tiết chế tình dục, tham dâm quá độ thì vô tình tự hại thân tiều tụy, tự gieo bệnh tật, hay tự làm giảm tuổi thọ của mình.
Câu 187: Tuy là Trời đất rộng lớn bao la, bát ngát.
Câu 188: Nhưng mắt Trời đất như sao sáng chiếu khắp tất cả nhân gian để soi rọi lòng người.

            189.          Lương tâm biết hổ ngươi chừa lỗi,
                              Mới biệt phân sừng đội lông mang
            191.             Việc lành, việc dữ đồn vang
                        Tuy là bóng khuất xương tan tiếng còn.
            Hổ ngươi: Hổ thẹn, xấu hổ.
            Biệt phân: Hay phân biệt  : Chia riêng nhau ra.
            Sừng đội lông mang: Mang lông đội sừng, chỉ các loài thú vật có lông, có sừng.
            Đồn vang: Tiếng tăm truyền tụng khắp mọi nơi.
            Bóng khuất xương tan: Không còn nhìn thấy hình bóng nữa (hay khuất bóng, chỉ sự chết); xương cốt tàn rụi, tan biến thành đất.
Câu 189: Con người có lương tâm nên khi gây điều sái quấy thì phải biết hổ thẹn mà ăn năn chừa lỗi.
Câu 190: Như vậy mới có sự phân biệt giữa con người với loài thú vật đội mang lông sừng (vì con người có trí khôn ngoan hơn loài vật).
            Mạnh Tử nói: “Người ta khác với giống cầm thú không mấy tí, chỉ có người ta bẩm thụ được cái bản tính tốt thôi, thế mà kẻ thường dân thì bỏ mất đi, người quân tử thì giữ lấy” (Nhân chi sỡ dĩ dị ư cầm thú giả cơ hi, thứ dân khứ chi, quân tử tồn chi                 ).
            Nhờ có lương tâm, con người mới nhận thức được điều thiện lẽ ác, việc phải sự quấy. Nếu làm một việc lành thì lòng an nhiên tự tại, nếu phạm một điều ác, thì dạ xốn xang, xấu hổ. Thánh giáo Đức Chí Tôn có dạy: “Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật”.
            Chính lương tâm này mới biệt phân giữa con người và loài thú vật sừng đội lông mang. Phổ Am Tổ Sư có bài kệ như sau:
                              Súc sanh bổn thị nhân lai tác,
                                       ,
                              Nhân xuất luân hồi cổ đáo câm (kim).
                                       .
                              Bất yếu phi mao tính đái giác,
                                       ,
                              Khuyến quân hữu sử súc sanh tâm.
                                    使   .
            Nghĩa là:
                        Người lộn súc sanh cũng tại tâm,
                              Xưa nay người vật chuyển luân thầm.
                              Muốn không đội gạc mang lông xấu,
                              Khuyên chớ làm theo dạ thú cầm.
Câu 191: Việc làm lành, việc làm dữ được truyền tụng vang khắp mọi nơi.
Câu 192: Tuy là chết rồi, hình bóng đã khuất, xương cốt đã tàn rụi mà tiếng tăm vẫn còn lưu mãi.

            193.          Gái tiết hạnh giữ tròn danh giá,
                              Chớ học đòi mèo mả gà đồng.
            195.             Làm điều nhục nhã tổ tông,
                        Tiếng nhơ giặt rửa biển sông đặng nào.
            Tiết hạnh  : Tánh nết đàn bà con gái biết giữ gìn ngay thẳng, không làm bậy về phương diện tình ái.
            Danh giá  : Có tiếng tăm và có giá trị.
            Học đòi: Bắt chước hay học hỏi theo những hành vi không tốt đẹp.
            Mèo mả gà đồng: Mèo ngoài mả, gà ngoài đồng, chỉ những con mèo, gà hoang dã làm bậy ngoài mả, ngoài đồng. Nghĩa bóng chỉ những hạng trai gái không đứng đắn, hẹn hò làm tình lén lút ngoài đồng hoang mả vắng.
            Tổ tông  : Những người đầu tiên của dòng họ, như tổ tiên  , ông bà.
Câu 193: Nếu là gái có tánh nết ngay thẳng đứng đắn thì cố giữ gìn danh giá của mình.
Câu 194: Đừng nên học theo thói mèo mả gà đồng, tức là hạng người lang chạ bừa bãi, không giữ lễ giáo.
Câu 195: Làm những điều nhục nhã đến tổ tông ông bà.
Câu 196: Gây nên tiếng xấu xa không thể giặt rửa sông biển nào cho sạch hết tiếng nhơ được.

            197.          Trai trung hiếu sửa trau ba mối,
                              Đừng buông lung lầm lỗi năm hằng
            199.             Hung hoang tội báo nghiệt căn,
                           Kẻ chê người thị không bằng cỏ cây.
            Trung : Hết lòng với vua với nước.
            Hiếu : Hết lòng thờ kính cha mẹ.
            Ba mối: Ba giềng mối, dịch từ chữ tam cang  , gồm: Quân thần cang   , Phụ tử cang   , Phu thê cang   .
            Buông lung: Buông thả để làm những điều lung dữ.
            Năm hằng: Do chữ ngũ thường 五常: Năm đạo hằng có là nhân , nghĩa , lễ , trí , tín .
            Hung hoang  : Hung đồ hoang đảng, chỉ bọn hung dữ không ai kềm chế được.
            Tội báo  : Quả báo do những hành vi tội lỗi đã gây ra từ trước.
            Nghiệt căn  : Những việc gây ra từ kiếp trước (nghiệt) làm gốc rễ (căn) của các tai họa xảy đến trong kiếp này.
            Kẻ chê người thị: Kẻ chê bai, người khinh rẻ.
Câu 197: Làm trai trung hiếu phải trau giồi ba giềng mối, đó là đạo vua tôi, cha con và vợ chồng.
Câu 198: Đừng nên buông thả làm những điều hung dữ mà lỗi đạo năm hằng.
Câu 199: Những người hung dữ gây nhiều căn nghiệt, tội báo.
Câu 200: Khiến cho kẻ chê bai, người khinh thị không bằng loài cỏ cây.