KINH SÁM HỐI 2
******
201.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.
203. Lòng
chừa biếng nhác kiêu căng
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Tiết
kiệm 節 儉: Hay cần kiệm, tức ăn xài có chừng mực, không tiêu xài hoang phí.
Người xưa thường dạy: Cẩn tắc vô ưu, nhẫn tắc vô nhục, tịnh tắc thường
an, kiệm tắc thường túc 謹 則 無 憂, 忍 則 無 辱; 靖 則 常 安, 儉 則 常 足:
Cẩn thận thì khỏi lo, nhẫn nhịn thì khỏi nhục, tĩnh lặng thường yên, cần
kiệm thường đủ.
Đức kiệm cũng được Đức Chí Tôn dạy như sau: “Vì tại sao Thầy muốn các con
mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết
đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy.
Như sự lãng phí se sua ở đời nầy, Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy”.
Lam
lũ 襤 褸: Áo quần rách rưới hôi hám.
Lam
lũ làm ăn: Chịu đựng sự rách rưới, nghèo khổ và vất vả để lo làm ăn.
Biếng
nhác: Lười biếng, không siêng năng.
Kiêu
căng 驕 矜: Khoe khoang ngạo mạn, tức là ỷ tài giỏi lên mặt khinh khi người.
Lãng
phí 浪 費: Tiêu xài phóng túng, tức là ăn mặc, tiêu pha hoang phí, không
tiết kiệm.
Không
ngằn: Không cần thiết, không tới mức phải tiêu xài.
Câu
201: Thà rằng tiêu xài có chừng mực miễn hằng ngày được no đủ mà thôi.
Câu
202: Tánh tình phải siêng năng cần cù, chịu đựng vất vả để lo làm ăn.
Câu
203: Lòng nên chừa bỏ tật lười biếng và tánh kiêu căng.
Câu
204: Tiền của không nên tiêu xài lãng phí, phải tiêu xài cho có chừng mực.
205.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
207.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.
Thương
đều muôn vật: Thương yêu muôn sinh vật đồng đều như nhau.
Háo
sanh 好 生: Hay hiếu sinh là ưa thích sự sống, thương yêu mạng sống.
Đức háo sanh là Thánh chất của Chí Tôn. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Ngài có
dạy: “Chi chi hữu sanh cũng bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có
Thầy. Thầy là cha của sự sống. Vì vậy lòng háo sanh của Thầy không
cùng tận”.
Một
màu: Giống hệt như nhau.
Thượng
cầm 上 禽: Các loài chim bay ở trên trời.
Hạ
thú 下 獸: Các loài thú sống ở dưới đất.
Lao
xao: Rộn rịp lên.
Côn
trùng 昆 蟲: Côn là đông đúc. Trùng là sâu
bọ. Côn trùng: Danh từ dùng để gọi tất cả loài sâu bọ.
Thảo
mộc 草 木: Các loại cây cỏ.
Câu
205: Đối với muôn vật, lòng của Trời đất thương yêu đồng đều nhau.
Câu
206: Đức háo sanh của các Đấng Tiên, Phật cũng giống hệt như nhau.
Câu
207: Trên thì các loài chim, dưới thì các loài thú sống lao xao nơi cõi
thế gian.
Câu
208: Các loài côn trùng, cây cỏ loài nào mà chẳng linh.
Tạo hóa có công sinh thành, nuôi dưỡng con người và vạn vật. Mỗi Chơn linh mà
Ngài sinh hóa ra, dù lớn dù nhỏ đều có điểm Linh quang của Ngài chiết ra, cho
nên đối với muôn vật, từ côn trùng thảo mộc, đến loài cầm thú và con người,
ngài đều thương yêu như nhau, che chở như nhau.
Chư Tiên Phật cũng thế, là các Đấng từ bi cũng lấy lòng Trời làm lòng mình,
chính vì vậy, Tiên Phật cũng như Thượng Đế đều có lòng hiếu sinh. Thánh giáo
Thầy có dạy: “Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa
sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước. Nếu ai giết mạng sống, đều
chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên Phật bị
đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy. Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không
phải dễ. Các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy”.
Theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Trời đất sở dĩ trường cửu là vì Trời đất không
sống cho mình; bậc Thánh nhân nên theo gương ấy. Ngài nói: Trời đất sở dĩ được
dài và lâu, là vì không sống cho mình, nên mới đặng trường sanh. Vì vậy Thánh
nhân để thân ra sau mà thân ở trước, để thân ra ngoài mà thân đặng còn (Thiên
địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sanh, cố năng trường sanh. Thị
dĩ Thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn 天 地 所 以 能 長 且久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是 以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存).
209.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
211.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Tuyệt 絕:
Chấm dứt, dứt tuyệt.
Tuyệt
giống dứt nòi: Dứt tuyệt nòi giống. Hán thường dùng từ tuyệt chủng 絕 種.
Bền
công: Ra công một cách bền bỉ.
Kinh
sách: Sách làm nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo. Ví dụ như:
Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật
giáo và Kinh Thánh của Công giáo.
Trong một bài kinh những lời chỉ dạy, những bài giảng hay thuyết pháp của các
Đấng nói lên thật tướng của Chân lý (Pháp) để giáo hóa các đệ tử hay chúng sanh
tu tập hầu đạt đến Chân Thiện Mỹ, hoặc giác ngộ giải thoát.
Kinh sách của Tôn giáo tức là con đường dẫn dắt tâm chúng sanh đi vào đường
thanh tịnh, khi ý bị phiền não khởi, ta cầm cuốn kinh đọc thì mọi phiền não sẽ
được xua tan.
Ngoài
ra, phải hiểu được ý nghĩa của kinh, chúng ta mới ứng dụng được lời của các
Đấng dạy vào sự tu tập cho mình. Như thế Kinh mới có giá trị thực đối với chúng
ta, bằng không thấu suốt nghĩa lý kinh mà cứ đọc tụng hằng ngày đêm, ấy chỉ là
từ chương hoặc mê tín. Đọc kinh cầu lý, có vượt qua văn tự mới đạt lý, chứng
tri.
Vô
can 無 干: Không can dự tới, không dính líu tới.
Sát
mạng: Hay sát mệnh 殺 命: Giết chết mạng sống.
Thiệt
thòi: Chịu thua thiệt.
Câu
209: Loài cầm thú và côn trùng thảo mộc, giống như con người, nó cũng muốn
được sống còn.
Câu
210: Chúng ta nỡ lòng nào mà dứt tuyệt nòi giống của nó.
Mỗi sinh vật dù lớn nhỏ đều thọ một điểm Chơn linh của Đức Thượng Đế, đều được
Ngài thương yêu đồng đều như nhau, đều được quyền sống ở cõi thế gian như nhau.
Lại nữa, do bản năng sinh tồn mà mọi loài đều ham sống sợ chết. Vì thế, ai sát
hại sinh mạng của một loài vật thì sẽ bị ác báo, người nào cứu mạng một sinh
vật sẽ được thiện báo. Câu chuyện sau đây cho thấy phước báo của sự bảo vệ sanh
linh, dù là vật bé nhỏ.
Thuở xưa, có một vị La Hán ở trên núi Tuyết đã chứng lục thông, thấy rõ việc
trong ba đời như xem việc trước mắt. Ngài có nuôi một vị thiếu niên Sa di làm
đệ tử.
Một hôm, vị thiếu niên đứng hầu bên cạnh thầy, vị La Hán xem qua sắc tướng rồi
cho biết vị đệ tử đã hết phước báo, sau bảy ngày nữa sẽ chết. Thiếu niên Sa di
nghe được sự việc chỉ biết đau đớn đảnh lễ thầy rồi từ tạ trở về nhà.
Trên đường về, gặp phải trận mưa lớn, người thiếu niên rẽ qua con đường hẻm
thấy một bầy kiến nhỏ đang chơi vơi trên một dòng nước nhỏ chảy ngang qua
đường. Bầy kiến hết sức chống đỡ, nhưng vô hiệu, vì thân nhỏ sức yếu mà dòng
nước quá mạnh, nên đành để dòng nước đưa về cõi chết.
Thiếu niên Sa di thấy vậy, động lòng từ bi, liền cởi chiếc áo đang mặc trong
mình ngăn ngang dòng nước, để đàn kiến có chỗ leo vào, những con kiệt sức không
leo được, thiếu niên nhẹ tay bắt từng con bỏ vào áo, rồi đem vào nơi khô ráo.
Sau khi xem xét thấy cứu hết bầy kiến, thiếu niên mới yên lòng trở về nhà.
Trong thời gian bảy ngày, chàng thiếu niên lo sợ chờ ngày mạng chung. Nhưng đến
ngày thứ tám, thiếu niên thấy không có gì xảy đến, mình vẫn còn sống. Chàng
thiếu niên mừng vui, tìm đến gặp thầy.
Vị La hán hết sức ngạc nhiên, Ngài liền nhập định dùng diệu trí quán xét mới
biết đệ tử mình do công đức cứu bầy kiến nên cải được tử mệnh, lại còn được
sống lâu nữa. Sau khi xuất định, vị La hán cho đệ tử mình biết và cho rằng có
lòng từ bi mà cứu vớt sinh linh thì công đức ấy vô lượng.
Câu
211: Lúc rảnh rỗi, hãy bền lòng mà xem coi kinh sách.
Câu
212: Các loài đó không hại đến mình mà giết chết nó thì thiệt thòi và rất
nên oan uổng.
213.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng
215.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
Kiếm
thế: Tìm kiếm phương thế, tìm cách này cách nọ.
Ngoan:
Khôn ngoan.
Xảo
trá 巧 詐: Xảo quyệt dối trá, tức dối trá một cách khéo léo.
Lưới
rập chim: Dùng lưới làm bẫy để bắt chim.
Thuốc
cá: Dùng thuốc độc để bắt cá.
Đốt
rừng: Đốt cháy rừng để thú chạy ra mà bắt, tức săn đốt thú rừng.
Phá
noãn 破 卵: Noãn là trứng. Thọc phá tổ chim để lấy trứng.
Lẫy
lừng: Vang dội. Ở đây, dùng với nghĩa dẫy đầy.
Tội
căn báo ứng 罪 根 報 應: Gây điều tội lỗi tạo thành gốc rễ cho việc báo ứng.
Câu
213: Chớ tìm cách gian xảo mà làm rồi cho rằng mình khôn ngoan.
Câu
214: Giăng lưới bắt chim, thuốc độc bắt cá, đốt rừng bắt thú.
Câu
215: Thương thay chọc phá tổ chim, gây nên những việc hung dữ dẫy đầy.
Câu
216: Những tội lỗi đó sẽ bị báo ứng biết chừng nào yên được.
217.
Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người
219.
Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Ác
nghiệt 惡 孽: Mang sẵn mầm hung dữ, ác độc.
Đoàn
năm lũ bảy: Cùng nghĩa với Tụ năm dụm bảy, tức là tụ tập thành nhóm năm bảy
đứa.
Hiếp
người lương thiện: Hiếp đáp người hiền lành, cưỡng bức người lương thiện.
Phá
đời hại dân: Phá phách người đời, báo hại nhân dân.
Câu
217: Lại có những người hung dữ gây ra nhiều ác nghiệt.
Câu
218: Đã cướp giựt đồ vật rồi lại chém giết mạng người.
Câu
219: Tụ tập thành nhóm năm bảy đứa để đi lang thang, phá tán.
Câu
220: Hiếp đáp người hiền lương, phá phách người đời và báo hại nhân dân.
221.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
223.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
Tua
khá tưởng: Nên tưởng nghĩ đến, khá nên nghĩ tới.
Mạng
sống khó cầu: Cái sinh mạng khó cầu xin đặng, cái mạng sống khó tìm cầu
đặng.
Bài
bạc lận nhau: Cờ bạc gian lận với nhau.
Rù
quến: Dụ dỗ.
Lấy
xâu: Hay lấy tiền xâu, tức là tiền công tổ chức đánh bạc hoặc chứa cờ bạc.
Ăn
đầu: Ăn tiền đầu.
Câu
221: Khá nên nghĩ thương yêu đến nòi giống.
Câu
222: Hãy xét vì mạng sống của con người khó mà cầu xin được.
Câu
223: Cũng đừng nên đánh bài đánh bạc để gian lận nhau.
Câu
224: Dụ dỗ rủ ren người đến đánh bạc để lấy tiền xâu hoặc ăn tiền đầu.
Cờ bạc là môn chơi rất tai hại, vì nó có thể làm táng gia bại sản, làm mất hạnh
phúc gia đình, làm cho con người sa đọa, trộm cướp, giết người, mang thân tù
tội. Chính vì thế, người bình dân thường khuyên dạy câu:
Cờ
bạc là bác thằng bần,
Ruộng vườn bán hết, chôn chân vào cùm.
Ông Bàng Đức Công cũng có bài thi dạy răn con về cờ bạc như sau:
Phàm
nhơn bá nghệ hảo tùy thân,
凡 人 百 藝 好 隨 身
Đổ bác môn trung mạc khứ thân,
賭 博 門 中 莫 去 親
Năng sử anh hùng vi hạ tiện,
能 使 英 雄 為 下 賤
Giải giao phú quí tác cơ bần.
解 教 富 貴 作 饑 貧
Y sam lam lũ thân bằng tiếu,
衣 衫 襤 褸 親 朋 笑
Điền địa tiêu ma cốt nhục sân.
田 地 消 磨 骨 肉 嗔
Bất tín đản khán hương đảng nội,
不 信 但 看 鄉 黨 內
Nhãn tiền suy bại kỷ đa nhân.
眼 前 衰 敗 幾 多 人
DỊCH
VẦN
Hễ
biết nghề nào cũng ấm thân,
Mấy nơi cờ bạc chẳng nên gần.
Anh hùng mắc phải ra hèn hạ,
Phú quí lâm rồi lại khó khăn!
Quần áo tả tơi bằng hữu nhạo,
Ruộng vườn hao hớt chị em dần.
Chẳng tin thì ngó trong làng xóm,
Thua thiệt nhiều người ít kẻ ăn.
(Minh
Tâm Bửu Giám)
225.
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
227.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đọa sa A Tỳ.
Máy
sâu: Do chữ cơ thâm 機 深: Lòng dạ sâu hiểm.
Người xưa nhận thấy sự phát động của tâm như máy móc nên gọi là cơ tâm 機 心. Trong
Hán Việt có từ Cơ tâm 機 心: Cái lòng biến trá khéo léo, giống như máy móc, tâm con người ẩn
bên trong những mưu mô xảo quyệt để đối xử nhau, giết hại lẫn nhau, không chút
thương yêu, không lòng đạo đức. Đấy là bản tâm con người trong thời hạ nguơn
mạt Pháp, trong thời xu hướng theo văn minh vật chất, mà quên đi luân thường
đạo đức.
Trang
Tử có câu: “Hữu cơ giới giả, tất hữu cơ sự, hữu cơ sự giả tất hữu cơ
tâm 有 機 械 者, 必 有 機 事, 有 機 事 者, 必 有 機 心”: Có cơ giới tất có cơ sự, có cơ sự tất có cơ tâm.
Thành Huyền Anh chú rằng: Có đồ máy móc tất có chuyện chuyển đổi, có việc
chuyển đổi tất sinh lòng đổi thay theo việc.
Họa
kín: Tai họa ngầm đến, bởi vì tai họa không lộ ra, chừng đến thì mới biết.
Tai họa do con người tự rước lấy, nên Bàng Đức Công có dạy con rằng: Lượng đại
phước diệc đại, cơ thâm họa diệc thâm 量 大 福 亦 大, 機 深 禍 亦 深:
Hễ con người có độ lượng ăn ở rộng rãi, khoan dung càng lớn thì cái phước người
ấy lớn theo; hễ lòng dạ sâu hiểm hẹp hòi bao nhiêu thì cái tai họa
ngầm đến với người ấy cũng bấy nhiêu!
Máy
sâu họa kín: Lòng dạ sâu hiểm thì tai họa ngầm đến.
Tư
lịnh: Hay tư lệnh 私 令: Ra lịnh theo ý riêng tư của mình.
Tuần
khắp xét tra: Đi canh tuần khắp mọi nơi để tra xét.
Đọa
sa: Đọa 墮 là
phạt xuống cõi khổ sở, thấp kém. Sa là rơi xuống. Đọa
sa: Phạt đày xuống cõi Địa ngục, A tỳ.
A
tỳ 阿 鼻: Phiên âm từ Phạn ngữ Avici, nghĩa là “vô gián” tức là không gián
đoạn, không ngừng nghỉ. Vô gián Địa ngục hay A tỳ địa ngục là nơi thấp kém nhứt
trong mười cửa Địa ngục, giam những người phạm tội ngũ nghịch.
Đây là một cõi Địa ngục chịu tội báo nặng nề nhứt, bởi vì các hình khổ nơi đây
liên tục triền miên không ngừng và linh hồn phải chịu ở đó đời đời kiếp kiếp.
Câu
225: Phải nên biết rằng lòng dạ càng sâu hiểm thì tai họa sâu kín sẽ ngầm
đến.
Câu
226: Thánh Thần không bao giờ tư lịnh mà bỏ qua bao giờ.
Câu
227: Thường ngày, Thần, Thánh tuần khắp mọi nơi để tra xét.
Câu
228: Những người có hành vi hung ác sẽ bị phạt đọa xuống A tỳ địa ngục.
229.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
231.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.
Dương
thế 陽 世: Hay dương gian là cõi thế gian, nơi ở của những người đang sống.
Căn
bịnh: Hay bệnh căn 病 根, còn được gọi là bệnh nghiệp: Là bịnh do những hành vi hung ác từ
trước tạo nên căn nghiệp mà báo ứng trong hiện kiếp. Bịnh này làm cho người thọ
lãnh phải chịu đau khổ triền miên để trả nghiệp, nên không có thuốc nào điều
trị được, chỉ khi nào hết nghiệp là mới hết bịnh.
Tử Đồng Đế Quân có để lời dạy như sau: Cái bịnh oan nghiệt thì
thuốc hay khó chửa cho lành, của hoạnh tài không có thể làm cho người mạng cùng
giàu được (Diệu dược nan y oan trái bệnh, hoạnh tài bất phú mệnh cùng nhân 妙 藥 難 醫 冤 債 病, 橫 財 不 富 命 窮 人).
Dấp
dính: Dính líu, dính dấp.
Khử
ám hồi minh 去 暗 迴 明: Từ bỏ nơi đen tối để trở về chỗ sáng lạn. Nghĩa là bỏ nẻo tà để
trở về với đường chánh.
Từ
bi Trời Phật rộng tình xét cho: Biết ăn năn, sám hối lỗi lầm thì Trời Phật
vì lòng đại từ đại bi sẽ tha thứ tội tình cho.
Câu
229: Người làm ác, khi còn sống thì hành cho mang bệnh căn nghiệp.
Câu
230: Xui khiến những tai nạn thường dính dấp bên mình.
Câu
231: Làm người phải biết ăn năn từ bỏ nẻo tà để trở về với con đường chánh.
Câu
232: Lòng từ bi của Đức Chí Tôn và chư Phật sẽ rộng tình tha thứ cho.
Cuộc sống luôn thay đổi, vô thường. Con người thì luôn khao khát ước mơ được
mạnh khỏe, yên ổn. Chính vì thế, con người mới tìm đến tín ngưỡng của tôn giáo,
để có sự “bảo vệ” che chỡ của các Đấng Thượng Đế và chư Thần Thánh Tiên Phật.
Nên khi có những bệnh tật nguy hiểm, tai nạn đột xuất thì con người thường hay
sợ sệt, cầu xin. Điều này do bởi con người không hiểu lý nhơn quả mà thôi.
Chúng ta phải hiểu rằng bệnh tật, tai nạn xảy ra cũng chỉ là do nghiệp lực ta
làm từ trước, nên ta cần phải tránh bằng cách không gieo nghiệp dữ, cố gắng tạo
nghiệp lành. Nhưng rủi như gặp cảnh ấy, thì chúng ta cũng cần phải chấp nhận
trả, một mặt chúng ta phải tạo nghiệp lành để trừ bớt những tội căn đã gây ra.
Lòng từ bi của Trời Phật cũng giống như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp mọi
nơi, muôn vật nơi thế gian bất kể lớn hay nhỏ đều được ánh sáng mặt trời rọi
đến, nhưng tùy theo mỗi vật tiếp thu ánh sáng đó tự chuyển hóa để có lợi ích
cho chính bản thân mình vậy.
233.
Đừng cố oán thầm lo gây họa,
Đem lòng thù hăm dọa rấp đường.
235.
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
Đừng
cố oán: Chẳng nên cố tâm thù oán, chớ nên giữ lòng thù hận.
Thầm
lo gây họa: Âm thầm lo tính gây họa cho kẻ khác.
Rấp
đường: Rào bít đường đi, ngăn lấp lối đi của người.
Tháo
cống: Tháo cống nước, tức là mở miệng cống để cho nước chảy ra ngoài.
Phá
mương: Phá miệng của con mương để nước chảy thoát, tràn ra ngoài.
Tan
hoang: Tan vỡ hoang tàn, chỉ sự tiêu tan hết.
Câu
233: Đừng cố tâm oán thù rồi âm thầm tìm cách gây tai họa cho người.
Câu
234: Đem lòng thù hằn người rồi hăm dọa bít đường rấp ngõ.
Câu
235 và 236: Đốt nhà, tháo nước cống hay phá miệng mương để nước chảy tràn
ra ngoài khiến cho ngập lụt, ruộng vườn người hư hại tan hoang.
237.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
239.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.
Liều
mạng: Làm càn không kể mạng số, tức là biết rằng làm việc đó có hại cho
sanh mạng nhưng vẫn cứ làm càn.
Đổ
tội: Tội lỗi của mình đem đổ trút lên người khác.
Chịu
lỗi vương mang: Chịu vướng mắc vào tội lỗi.
Hồn
lìa khỏi trần gian: Triết lý Cao Đài cho rằng con người có Linh hồn, còn
được gọi là Chơn linh hay Tiểu linh quang, là một thể do Đức Chí Tôn ban cho,
nên có thể nói cõi giới của Linh hồn là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống. Vì vậy,
khi con người vừa trút hơi thở cuối cùng thì Chơn thần, và Chơn linh sẽ thoát
ra thân xác để lìa khỏi trần gian, tùy theo nghiệp lực dẫn dắt mà trở về Thiên
cảnh nhẹ nhàng hay cõi Âm quang đen tối để giải thần định trí.
Ngạ
quỉ 餓 鬼: Cô hồn, quỉ đói. Một trong tam ác đạo của Phật là cõi Địa ngục,
cõi Ngạ quỉ và cõi Súc sinh.
Theo giáo lý Phật, ngạ quỉ là loài quỉ phải chịu đói khát khổ sở, chúng không
ăn uống gì được, bởi vì bụng rất lớn mà miệng thì nhỏ như lỗ kim.
Người ta cho rằng người sống trên cõi dương trần có tánh keo kiệt, độc ác, hay
ganh ghét, khi chết chơn hồn bị phạt làm ngạ quỉ.
Tại các chùa trước mỗi bữa ăn thường có lệ cúng thí thực cô hồn ngạ quỉ.
Cơ
hàn 飢 寒: Đói và lạnh.
Câu
237: Có kẻ liều mạng để toan tính đổ những tội lỗi của mình cho người khác.
Câu
238:Khiến cho người hiền lương phải chịu vương mang lỗi lầm.
Câu
239: Khi chết, hồn sẽ lìa khỏi cảnh trần gian.
Câu
240: Hóa làm ngạ quỉ chịu đói khát, lạnh lùng một cách khổ sở.
Theo truyện cổ Phật giáo, Ngài Mục Kiền Liên mới đắc được thần thông từ trên
núi Kỳ Xà Quật đi xuống do nhờ nhãn thông mà thấy được các ngạ quỉ.
Khi Ngài về chùa Trúc Lâm gần thành Vương Xá vào buổi chiều, bạch câu chuyện
ngạ quỉ vừa thấy buổi sáng với Đức Phật. Nhân dịp ấy Đức Thế Tôn mới nói rằng:
- Các thứ ngạ quỉ này Như Lai từng thấy nhiều lần, nhưng không muốn đem ra nói
cho ai, vì không bằng cớ là không có ngươi thứ nhì cùng biết. Nay có Mục Kiền
Liên tuệ nhãn đã phát sanh, được thấy các ngạ quỉ ấy cũng như Như Lai.
Theo Ngạ quỉ kinh giải, các thứ ngạ quỉ này xưa kia là những
người trong xứ Ma Kiệt Đà, đã làm những điều tội ác, có 24 thứ ngạ quỉ, phần
nhiều các thứ này đều còn sót lại quả báo của cảnh Địa ngục, phải tái sanh làm
ngạ quỉ rất lâu đời, phải chịu khổ sở đói khát nhiều kiếp, chỉ thoát khỏi được
là khi nào hết quả hoặc có thân nhân làm phước rồi hồi hướng quả lành, tùy theo
nghiệp nặng nhẹ, mới có thể siêu sanh đặng.
241.
Đời nhiều kẻ khi Thần, thị Thánh,
Ám muội lòng tánh hạnh gổ ganh
243.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Khi
Thần thị Thánh: Khinh thị Thần Thánh, tức là coi rẻ, khi dể Thần Thánh.
Ám
muội 暗 昧: Tối tăm không rõ ràng.
Ám
muội lòng: Hay lòng ám muội, tức là lòng dạ đen tối.
Gổ
ganh: Vì ganh ghét mà gây gổ.
Xiểm
gièm: Hay gièm xiểm là nịnh hót và nói xấu người khác để khoe danh mình.
Khoe
danh: Khoe khoang tiếng tốt cho mình.
Câu
241: Ở trên đời có nhiều kẻ khinh thị, coi thường Thần Thánh.
Câu
242: Lòng dạ lại đen tối và tánh hay gây gổ vì tỵ hiềm ganh ghét.
Câu
243: Thấy ai làm điều phải và làm điều lành.
Câu
244: Thì sinh lòng ganh ghét mà gièm xiểm để được khoe danh của mình.
245.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
247.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.
Hiểm
độc: Hay Độc hiểm 毒 險: Nham hiểm và độc ác.
Thân
tộc 親 族: Bà con thân thích trong họ.
Ruột
rà: Quan hệ về ruột thịt.
Nghiệt
báo 孽 報: Cái mầm ác được báo đáp lại bằng những tai họa, bệnh tật hay đau
khổ.
Oan
gia 冤 家: Nhà hay người bị nhiều điều oan trái.
Câu
245: Lại còn có những người tánh tình nham hiểm và độc ác.
Câu
246: Xúi giục phân chia tình thân tộc ruột rà khiến chia lìa với nhau.
Câu
247: Gây mâu thuẩn vợ chồng người ta khiến phải chia lìa.
Câu
248: Suốt đời sẽ bị nghiệp báo ứng và bị oan gia phá hại chẳng khi nào dứt.
249.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần.
251.
Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Tội
quá 罪 過: Quá là lỗi lầm. Tội quá: Tội lỗi.
Lánh
kẻ tà: Xa lánh người gian tà, tức là phải tránh xa những người có tư tưởng
và hành vi không chính đáng, tà vạy.
Thí
tiền thí bạc: Là bố thí bằng cách đem tiền bạc ra giúp đỡ người nghèo đói,
thiếu thốn, đau yếu.
Bố thí tiền bạc còn gọi là tài thí, một trong ba cách hiến tặng: Tài
thí 財 施, pháp thí 法施 và vô úy thí 無 畏 施.
Thí tiền thí bạc không những chỉ riêng có lợi cho người nhận mà lẫn cả người
cho nữa. Như vậy hành bố thí vừa cứu giúp cho người mà vừa độ cho chính mình:
Làm cho tâm được an vui, làm mất đi tính tham lam, ích kỷ, phá chấp sâu nặng
của con người mình và làm phát triển lòng từ bi hỷ xả của Phật.
Chẩn
bần 賑 貧: Chẩn là cứu giúp. Chẩn bần: Cứu
giúp cho người nghèo khổ.
Câu
249: Nếu mình muốn tránh đặng khỏi nơi tội lỗi.
Câu
250: Thì hãy xa lánh với kẻ tà vạy, chẳng nên gần gũi họ.
Theo Nho giáo, con người sinh ra tính vốn lành, vì tập nhiễm xã hội nên tính
của con người trở nên bất thiện, tức là người ta có những hành vi xấu xa, tội
lỗi là do bởi gần gũi với những kẻ gian xảo, tà vạy. Do vậy người xưa thường
dạy phải xa lánh những người không ngay thẳng, hung ác, mà phải gần gũi người
hiền lương, chính trực, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Ở đây, con người muốn tránh đặng khỏi nơi tội lỗi, thì phải lánh xa những kẻ
gian tà. Ông Thái Công dạy rằng: Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người
hiền thì sáng, gần người tài thì trí, gần kẻ ngây thì dại, gần người lành thì
có đức, gần người trí thì thông minh, gần kẻ ngu thì ám muội, gần kẻ nịnh thì
bợ đỡ, gần kẻ trộm thì sinh giặc (Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc, cận
hiền giả minh, cận tài giả trí, cận si giả ngu, cận lương giả đức, cận nịnh giả
siểm, cận thâu giả tặc 近 朱 者赤, 近 墨 者 黑, 近 賢 者 明, 近 才 者 智, 近 癡 者 愚, 近 良 者 德, 近 佞 者 諂, 近 偷 者 賊).
Thánh nhân xưa cũng thường nói: Ở chung với người không biết lẽ phải, thì cũng
như ngồi giữa hàng cá ươn, dầu chẳng dơ áo, mà nghe mùi hôi thúi (Dữ vô thức
giả xử như bào ngư tứ trung tọa, tuy bất ô y, thời thời văn xú 與 無 識 者 處 如 鮑 魚 肆 中 坐, 雖 不 污 衣, 時 時 聞 臭).
Tóm lại, gần người tà vạy thì phải làm những việc chẳng lành rồi gây nên nhiều
điều tội lỗi. Muốn tránh tội quá thì chẳng gần kẻ gian, xa lánh người xấu.
Câu
251 và 252: Thấy ai nghèo khổ, đau yếu hay thiếu thốn thì mình đem tiền
bạc, vật chất để cứu giúp cho người, còn gặp người bệnh hoạn thì thí thuốc. Làm
được những hành vi đó, Thánh Thần sẽ ban phước cho.
Câu chuyện sau đây cho ta thấy được điều phước báo của việc bố thí:
Một hôm tôn giả Mục Kiền Liên đến nhà người em ruột mình là một vị trưởng giả
rất giàu có, Ngài bảo em rằng:
Tôi nghe chú không ưa bố thí, điều ấy không tốt. Phật thường dạy: Người nào hay
bố thí sẽ được hưởng phước báo không lường. Nay chú được giàu sang, là do công
đức từ kiếp trước. Nay chú cứ ôm lòng lẫn tiếc, chẳng hưởng phước không đặng
bao lâu mà đời sau do nghiệp bỏn xẻn sẽ mang thân ngạ quỉ khốn khổ vô cùng.
Nghe lời anh dạy, vị trưởng giả mở rộng kho, cúng dường Tam Bảo, chu cấp cho kẻ
nghèo đói. Trong khi ấy ông lại cất thêm kho vựa mới, ý muốn thâu chứa những
của cải mình sẽ được do phước bố thí, nhưng chẳng đặng bao lâu, thì tiền của
tiêu mòn, kho cũ đã hết, mà kho mới cũng trống trơn. Trưởng giả sanh lòng ảo
não, đến thưa với Mục Kiền Liên: Xưa anh bảo bố thí sẽ được nhiều phước báo, em
đem của kho làm việc phước đức đã hết sạch, nhưng phước báo đâu không thấy? Tôn
giả Mục Kiền Liên bảo: Nếu phước đức có hình tướng, thì cảnh giới hư không dung
chứa vào đâu cho hết. Tuy nhiên, nếu chú muốn, tôi có thể chỉ cho thấy một phần
ít quả báo của sự bố thí.
Nói đoạn, Ngài liền dùng sức thần thông đem em lên một cõi Trời, nơi đây lầu
các nguy nga, cảnh trí vui tươi sáng suốt, ao thất bửu, gió thơm thanh khiết,
hoa mạn đà la vẻ đẹp thần tiên. Từ trong cung điện lộng lẫy, chậm rãi đi ra một
đoàn ngọc nữ. Trưởng giả thấy toàn người nữ, nên thắc mắc hỏi, thiên nữ đáp:
Đây là cung Trời Đạo Lợi, chúng tôi ở chốn này đã lâu hưởng phước tự nhiên. Bao
nhiêu cung điện và tất cả trang nghiêm tốt đẹp nơi đây đều là kết quả của sự bố
thí. Người chủ quản của chúng tôi sau này sẽ là người ở cõi nhân gian siêng tu
phước đức, đó là một vị trưởng giả em Ngài Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Thích
Ca Mâu Ni Phật.
Sau khi trở về nhơn gian, trưởng giả lại càng bố thí nhiều hơn và khuyến khích
người khác làm theo, không lúc nào biết nhàm chán.
(Theo
Lịch sử Đức Mục Kiền Liên)
253.
Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
255.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình [1].
Chớ
toan mưu dối: Chẳng nên toan tính hay âm mưu lừa dối người.
Ngỗ
ngang 忤 昂: Ngỗ là trái, ngạo ngược. Ngang là
bướng bỉnh. Ngỗ ngang: Làm điều ngang ngược sái quấy.
Âm
đài 陰 臺: Chỉ lâu đài ở cõi Âm phủ, nơi Thập Điện Diêm Vương làm việc.
Đồng nghĩa với Âm ty, Âm cung hay Âm phủ.
Gông:
Một tấm gỗ nặng có khoét lỗ dùng để tròng vào cổ và tay tội nhân.
Tróng:
Cái cùm để khóa chơn người có tội.
Cổ
mang hành hình: Cho tội nhơn mang gông vào cổ để tra tấn, hành hình.
Câu
253 và 254: Đêm tối vắng vẻ, đừng nên toan tính hay âm mưu những điều dối
trá để xúi giục trẻ thơ làm những việc tội lỗi, ngang ngược.
Câu
255: Ở cõi Âm phủ đã chuẩn bị sẵn sàng gông và cùm.
Câu
256: Chờ đến khi chết, hồn bị đày xuống mang gông vào cổ để chịu tra tấn,
hình phạt.
257.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường
259.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!
Thơ
truyện: Hay thư truyện 書 傳, tức là sách và truyện.
Huê
tình: Hay hoa tình 花 情 chuyện tình yêu lãng mạn giữa nam nữ. Ý chỉ chuyện trăng hoa.
Lụy 累: Dính dấp tới, làm liên lụy tới, làm hại tới.
Lời
tục tĩu: Lời nói chứa đầy điều thô tục, xấu xa.
Tội
hành cắt lưỡi: Người có tội bị hành phạt cắt lưỡi.
Câu
257: Gặp các sách hay truyện trăng hoa, lãng mạn thì hãy xé nát hoặc hủy
bỏ.
Câu
258: Nếu không, để lại đời sẽ làm hại đến luân thường đạo lý.
Mục đích của văn chương đối với Nho giáo là “lấy văn chở Đạo”(Văn dĩ tải
Đạo 文 以 載 道), tức là dùng văn chương để dạy về đạo lý Thánh hiền. Thế mà cũng
có nhiều người vì quyền lợi, nên viết truyện huê tình, dâm loạn, khiến làm lụy
đến luân thường đạo đức của người đời. Những loại sách như vậy đã đầu độc biết
bao nhiêu trẻ thơ non dại, hại cả thế hệ của con cháu, làm thương luân bại lý.
Bài ngự chế của vua Cao Tông có nói: Một đóm lửa nhỏ, cũng đốt đặng núi rừng
muôn đám, nửa lời nói bậy có thể làm tổn đức bình sanh (nhất tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh chi sơn; bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sinh chi đức 一 星 之 火, 能 燒 萬 頃之 山; 半 句 非 言, 誤 損 平 生 之 德).
Tội lỗi của những người viết dâm thư hay truyện huê tình không phải là nhỏ, vì
đầu độc đầu óc non nớt của trẻ thơ, làm hại cả thế hệ đạo đức.
Câu
259: Mở miệng nói không kể lời tục tĩu, xấu xa.
Câu
260: Khi chết xuống Âm phủ bị hành phạt cắt lưỡi.
261.
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
263.
Ăn gian xớt bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.
Miệng
ngay lòng vạy: Miệng nói ngay thật, lòng dạ vạy tà. Chỉ những người ngoài
miệng ăn nói đàng hoàng, ngay thẳng mà trong lòng thì gian tà xảo trá.
Tởi
làm chùa: Đi vận động người ta hiến tiền bạc, vật liệu để xây cất chùa
chiền, in ấn kinh sách hay lên cốt tượng Phật.
Dối
cậy in kinh: Cậy vào việc in ấn kinh sách để dối gạt người kiếm tiền, kiếm
lợi.
Ăn
gian xớt bớt: Lường gạt người để ăn gian xớt bớt cho mình.
Dương
pháp 陽 法: Luật pháp ở cõi thế gian.
Luật
hình 律 刑: Bị hành hình theo luật pháp.
Người phạm pháp đều bị hình luật xử phạt, nếu ở thế gian thì bị phép vua luật
nước, còn ở âm phủ thì bị quỷ thần dõi xét: Âm vi quỷ thần sở hại,
dương vi dương pháp sở tru 陰 為 鬼 神 所 害, 陽 為 陽 法 所 誅. Luật hình thế gian còn khó tư vì, huống là luật Thiên điều xử
phạt, như Thánh Ngôn Đức Chí Tôn đã dạy: “Mấy con biết luật hình thế gian còn
chưa tư vị thay, huống là Thiên Điều thì tránh sao cho lọt?”.
Diêm
vương 閻 王: Theo Phật giáo, Diêm Vương là vua các cõi Địa ngục ở dưới Âm
phủ, còn gọi là Diêm La Vương 閻 羅 王.
Theo truyền thuyết, có mười vị vua cai quản mười cung điện ở nơi Âm phủ gọi là
Thập Điện Diêm Vương 十 殿 閻 王 hay Thập Điện Minh Vương 十 殿 明 王.
Theo kinh sách, mười vị Diêm Vương cai quản mười điện ở Âm phủ được kể như sau:
Nhứt Điện 一 殿: Tần Quảng Vương 秦 廣 王.
Nhị Điện 二 殿: Sở Giang Vương 楚 江 王.
Tam Điện 三 殿: Tống Đế Vương 宋 帝 王.
Tứ Điện 四 殿: Ngũ Quan Vương 五 關 王.
Ngũ Điện 五 殿: Diêm La Vương 閻 羅 王.
Lục Điện 六 殿: Biện Thành Vương 卞 城 王.
Thất Điện 七 殿: Thái Sơn Vương 泰 山 王.
Bát Điện 八 殿: Bình Đẳng Vương 平 等 王.
Cửu Điện 九 殿: Đô Thị Vương 都 示 王.
Thập Điện 十 殿: Chuyển Luân Vương 轉 輪 王.
Câu
261: Lại có những kẻ nói năng ngoài miệng thì ngay thật nhưng trong lòng
thì gian tà xảo trá.
Câu
262: Mượn việc xây dựng chùa chiền và in ấn kinh sách để dối người thủ lợi.
Câu
263 và 264: Ở trên Dương thế, lường gạt người để ăn gian xớt bớt cho mình
dầu vượt qua khỏi luật pháp thì cũng bị hình luật ở Âm phủ.
Trên
đời có nhiều kẻ vì lợi mà họ bày lắm mưu sâu kế độc để lừa đảo người nhẹ dạ: Kẻ
thì ngoài miệng ngọt ngào, ngay thật, nhưng trong lòng gian tà, xảo trá, chuyên
lường gạt người lấy tài sản, vật chất; người lại đội lốt tôn giáo, lợi dụng
Trời Phật để lừa dối người dễ tin, mượn việc xây dựng chùa chiền, in ấn kinh
sách mà gạt người lấy tiền của.
Những hành vi của họ tuy rằng không bị người phát hiện, vượt vòng dương pháp,
nhưng họ khó qua được luật hình của Diêm cung. Bài Tư Thế thông huấn nói rằng: Âm
pháp trì nhi bất lậu, Dương hiến cận nhi hữu đào; dương võng sơ nhi dị lậu, âm
võng mật nhi nan đào 陰 法 遲 而 不 漏, 陽 憲 近 而 有 逃; 陽 網 疏 而 易 漏,陰 網 密 而 難 逃: Âm pháp chậm mà không thể nào lọt qua, dương pháp kín mà có thể
trốn được; lưới dương gian thưa nên dễ lọt, chớ lưới âm phủ nhặt mà khó trốn.
265.
Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
267.
Ngày sau đọa lạc Âm ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Giả
nương cửa Phật: Giả dối nương tựa vào cửa chùa. Ý chỉ người giả dối tu hành.
Thập
phương 十 方: Mười phương, tức là khắp chốn, mọi nơi.
Của
thập phương: Của cải tiền bạc người đạo ở khắp mọi nơi dâng cúng cho chùa.
Châu
cấp 周 給: Cấp cho đầy đủ để nuôi sống.
Thê
nhi 妻 兒: Vợ và con.
Đọa
lạc 墮 落: Rơi xuống cõi thấp kém. Phạt người có tội đày xuống cõi thấp kém
khổ sở.
Khảo
kẹp: Kềm kẹp để tra khảo.
Câu
265: Lại thêm những thầy sãi dối nương tựa vô cửa chùa để giả tu hành.
Câu
266: Dùng tiền dâng cúng Phật của bổn đạo ở thập phương để cung cấp nuôi
nấng vợ con.
Câu
267: Ngày sau sẽ bị đày đọa xuống cõi Âm ty.
Câu
268: Thường thường bị kềm kẹp để tra khảo, không khi nào ngừng nghỉ.
269.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
271.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.
Giấy
chữ: Giấy có chữ viết.
Người xưa có quan niệm cho rằng chữ Nho là chữ của Thánh hiền đặt ra, dùng để
viết kinh sách, liễn thờ, nên khi gặp giấy có chữ viết thì chẳng khá chà đạp
hay để rơi rớt khắp mọi chỗ ô uế.
Thủy
triều 水 潮: Con nước ở sông hay biển khi lên khi xuống, mỗi ngày đêm hai
lần. Hiện tượng này có được là do bởi sức hút của mặt trăng và mặt trời. Người
bình dân thường gọi là con nước lớn ròng.
Vận
tải 運 載: Chuyên chở từ nơi này đến nơi khác.
Phước
đồng 福 同: Đồng với phước đức.
Ăn
chay: Ăn chay hay ăn lạt là ăn những thức ăn trong sạch, nhẹ nhàng, tinh
khiết, tức là những thức ăn thuộc loại thảo mộc như hoa quả, rau đậu, tương
chao…chứ không ăn thịt những loại động vật như cá thịt, tôm, cua…
Chay dịch từ chữ Trai 齋,
có nghĩa là ăn lạt, ăn những thức ăn từ thảo mộc, rau đậu. Trai còn có nghĩa là
giữ tấm lòng trong sạch, ý tưởng tinh tấn, thân xác tinh khiết. Trai lại có
nghĩa là đãi ăn, cúng dường, bố thí như trai tăng, tức là đãi các tu sĩ, các
thầy bên Phật giáo. Chữ trai còn có nghĩa phẩm vật, thức ăn do lòng thành của
tín đồ dâng lên cho các tu sĩ, các thầy, như thọ trai.
Trong tôn giáo, có ba hạng ăn chay: Lục trai 六 齋 (Ăn
chay sáu ngày trong tháng), Thập trai 十 齋 (Ăn
chay mười ngày), Trường trai 長 齋 (Ăn chay quanh năm suốt tháng).
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, người tín đồ Cao Đài nào ăn chay được mười ngày
trong tháng trở lên được thọ truyền bửu pháp, tức là được hưởng những bí pháp
do tôn giáo mang lại.
Câu
269 và 270: Thấy giấy chữ rơi rớt bất cứ nơi đâu phải lượm lấy và đốt cháy
ra tro rồi đem rải xuống dòng sông.
Câu
271: Thủy triều chuyên chở hạt tro theo dòng nước ra biển đông.
Câu
272: Lòng luôn được như vậy thì có phước đức đồng với sự ăn chay.
Cổ nhân thường cho rằng chữ viết ngày xưa là chữ của bậc Thánh hiền chế tác ra,
nên phải giữ gìn một cách trang trọng, không dám để rơi rớt, chà đạp. Trong bài
kinh Nho giáo cho biết chữ viết được chế tác một cách thiêng liêng, nên nói: Tự
lôi trữ bính 字 雷 貯 炳, nghĩa là chữ viết vừa được chế ra thì sấm sét nổ vang, chữ viết
làm cho trí tuệ con người sáng rực (khai hóa).
Hứa
Thận đời Hậu Hán có cho biết lai lịch văn tự Trung Hoa như sau: Đời xưa họ Bao
Hy cai trị thiên hạ, ngửng xem hình tượng trên Trời, cúi xem phép tắc dưới đất,
trông dáng vẻ loài cầm thú cùng trạng thái đất đai, gần thì lấy ở thân mình, xa
thì lấy ở muôn vật, bắt đầu sáng tác ra Dịch Bát quái để truyền lại các hiện
tượng về sau. Đến Thần Nông thắt nút dây cai trị thiên hạ, thống hợp mọi sự. Sử
quan Hoàng Đế là Ông Thương Hiệt nhìn vết chân chim muông chạy nhảy mà biết
rằng văn lý có thể phân biệt nhau, mới sáng tạo ra chữ viết. Thương Hiệt chế ra
chữ viết căn cứ vào loại, mô tả ra hình, nên gọi là Văn. Về sau, hình thanh bổ
túc cho nhau, nên gọi là Tự.
Tương truyền rằng khi văn tự được hình thành rồi thì Trời gây mưa giông và nổi
cơn sấm sét. Bởi vì nhờ Thánh Hiền chế ra chữ viết mới có Kinh sách ra đời để
truyền đạt những giáo lý của Thánh nhân từ đời nầy qua đời khác.
Chính vì xem trọng chữ viết như thế, nên Kinh cho rằng khi thấy giấy chữ rơi
rớt thì phải lượm lên, đốt thành tro rồi còn phải đem tro ấy thả trôi theo dòng
sông. Cái công đức của người lượm lấy giấy chữ Thánh hiền thì được phước đồng
với sự ăn chay.
273.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong.
275.
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Đắng
cay: Hay Cay đắng là hai vị khó ăn trong ngũ vị, nên người ta thường dùng
để chỉ sự khổ sở, vất vả. Từ Hán Việt gọi là Tân khổ.
Cuốc,
cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong: Những công việc mà người nông phu phải làm
khi sản xuất ra lúa gạo: Cuốc, cày, bừa là giai đoạn làm đất, gieo giống lên
thì cấy lúa, lúa trổ bông thì lo gặt đong rồi đem về.
Dày
công: Công phu sâu dày.
Câu
273: Chịu khổ cực, chịu đắng cay không biết là bao nhiêu.
Câu
274: Nào là cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong rất nên nhọc nhằn.
Câu
275: Làm ra được một hạt lúa gạo thì công phu rất sâu dày.
Câu
276: Người nông dân phải chịu phơi mưa dan nắng rất nên nhọc nhằn.
Ăn uống là việc hằng ngày của con người buộc ai cũng phải có. Ăn để cung cấp
chất dinh dưỡng cơ thể, bổ sung năng lượng cho con người hoạt động. Từ ngàn
xưa, vật thực cũng tiến theo từng thời kỳ: Thời kỳ hái lượm thì con người ăn
rau quả; đến thời kỳ ngư lạp thì con người đánh bắt cá hay săn thú rừng mà ăn thịt;
sang đến thời nông nghiệp, con người không có thể tìm kiếm những tài nguyên sẵn
có trong thiên nhiên nữa, mà phải tự trồng lấy khoai củ, ngũ cốc. Do vậy, có
được lúa gạo cho con người ăn phải qua nhiều công sức cực nhọc làm ra, như
cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong…
Người bình dân Việt Nam đã thấy được cái công lao của người nông dân sản xuất
ra hạt gạo rất nên nhọc nhằn, nên thường nhắc nhở trong ca dao:
Ai
ơi! Bưng bát cơm đầy,
Dẻo
thơm một hột, đắng cay muôn vàng.
Còn đối với người tín đồ đạo Cao Đài, ăn một hột cơm thì nguyện nhớ ơn người
làm ra hạt lúa, nguyện ra tài lợi sanh như lời kinh Khi Ăn Cơm Rồi đã
dạy:
Nguyện
nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,
Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.
Và nhất là phải tìm cái lý sâu xa hơn nữa, đó là nguồn gốc của ân đức ấy. Những
bậc Thánh nhân xưa, không phải vì mình ở mà kết cây làm tổ để bảo vệ thân mình,
không phải vì mình ăn mà tìm ra ngũ cốc để nuôi sống cơ thể mình, không phải vì
mình bệnh mà tìm thuốc để chửa trị cho mình. Các bậc Thánh nhân ấy, vì theo
lòng thương yêu của Thượng Đế mà chỉ dạy cho con người biết làm nhà để ở, biết
trồng lúa để ăn, biết tìm thuốc để trị bịnh. Có hiểu như vậy, người ta mới thấy
rằng ân đức của người xưa rất nên sâu nặng, và công sức làm ra hạt gạo thật rất
nhọc nhằn.
Trong Bài Ngự chế của vua Thần Tông có nói rằng: Thân mình mặc áo phải nhớ đến
khó nhọc của người đàn bà dệt lụa, Cơm ngày ba bữa phải nghĩ đến khổ cực của
người cày cấy (Thân phi nhất lũ, thường tư chức nữ chi lao; nhật thực tam
xan, mỗi niệm nông phu chi khổ 身 披 一 縷, 常 思 織 女 之 勞; 日 食 三 餐, 每 念 農夫 之 苦).
277.
Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng.
279.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
Viêm
Đế 炎 帝: Hiệu của Thần Nông 神 農, một vị vua thứ ba trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人,
Phục Hy 伏 羲 và Thần Nông 神 農. (Thượng Thư Đại Truyện).
Thần Nông là vị vua thời Thượng cổ, trị vì sau vua Phục Hy. Ngài có công dạy
dân đẽo gỗ chế ra cày bừa để làm ruộng, hợp chợ búa để dân trao đổi hóa vật,
nếm các thứ cây cỏ để làm vị thuốc cho dân trị bệnh.
Đến thời vua Thần Nông con người mới biết định cư, sống hợp quần theo nông
nghiệp. Ngài có công lớn trong việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ để làm lương
thực cho dân chúng thời bấy giờ, và mãi mãi sau này.
Đức
cao 德 高: Đức độ cao dày.
Ân nặng: Ân nghĩa sâu nặng.
Vọng
niệm 望 念: Mong mỏi và tưởng nghĩ đến.
Vong 忘: Quên.
Hủy
hoại 毀 壞: Làm cho hư nát, phá hoại.
Mới
phòng khỏi hoang: Mới tránh được khỏi bị hoang phí.
Câu
277 và 278: Từ xưa, con người đã nhờ ân đức sâu nặng của vua Thần Nông dạy
dỗ và tìm ra lúa khoai để nuôi sống hằng ngày.
Câu
279: Biết được ân đức sâu dày của Viêm Đế, hằng ngày ta phải tưởng nghĩ
đến Người, chớ nên quên.
Câu
280: Nghĩ đến ân đức và sự nhọc nhằn của việc làm ra lúa khoai, ta chẳng
nên hủy hoại mới tránh được sự lãng phí.
281.
Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa
Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao.
283.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
Hiểm
độc 險 毒: Nham hiểm và độc ác.
Lang 狼: Loài chó sói.
Dạ
lang: Lòng dạ như loài chó sói, chỉ lòng độc hiểm. Có câu thành ngữ: Lòng
lang dạ sói.
Lần
lựa: Kéo dài thời gian.
Thất
mùa: Làm lúa không trúng hoặc thiên tai khiến lúa thất mùa.
Bế
vựa: Đóng cửa kho vựa lúa, tức là không đem lúa bán ra ngoài.
Gắt
gao: Khắt khe, nghiêm nhặt.
Lúa
phát giá cao: Giá lúa thình lình mắc lên.
Câu
281: Người có lòng dạ hiểm độc như lang sói, lần lựa chờ thời cơ,
Câu
282: Nhơn dịp lúa thất mùa, thì gom thu lúa gạo vào vựa một cách gắt
gao, không chịu bán ra.
Câu
283: Chờ đợi khi lúa trên thị trường có giá mắc.
Câu
284: Lúc đó mới đem lúa bán ra ngoài để được nhiều lãi. Thực là độc hiểm,
Trời đất không bao giờ dung thứ đặng.
Trong nền kinh tế hiện tại, muốn độc quyền về sản phẩm, người ta thường đầu cơ
tích trữ, tức là thu gom tất cả sản phẩm trên thị trường vào kho tích trữ, tạo
cho thị trường khan hiếm sản phẩm ấy. Rồi sau đó tung ra thị trường bán với giá
cao để được lời nhiều.
Đối với tôn giáo, nhứt là lương thực là sản phẩm chính yếu của con người,
là hột ngọc quí báu của chúng sanh, người đầu cơ tích trữ lúa gạo,
lại phải dựa vào năm hạn hán hay thất mùa, đã không chịu bán lúa gạo ra, mà còn
thu gom bế dựa vào kho một cách gắt gao. Đợi thị trường thật khan hiếm, khiến
dân tình thiếu đói, mới chịu tung lúa gạo ra bán với giá cắt cổ, thử hỏi lòng
dạ con người ấy có độc hiểm như lang sói không? Trời đất có dung tha đặng
không? Ôi! Cổ nhân thường nói: “Vi phú bất nhân 為 富 不 仁”
là đúng vậy.
285.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời
287. Túng
cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
Trợ 助: Giúp đỡ.
Đền
báo: Đền đáp ân nghĩa trở lại.
Nghĩa
đạo: Hay đạo nghĩa 道 義, tức là những qui tắc ứng xử hợp với luân thường đạo đức.
Túng
cùng: Nghèo nàn nên túng thiếu về vật chất hay tiền bạc.
Vốn:
Tiền gốc cho mượn hay cho vay.
Lời:
Tiền lời (tiền lãi) do vốn cho vay sinh ra, tùy theo phần trăm mà định nặng nhẹ.
Kham 堪: Chịu đựng nổi.
Câu
285: Ơn nghĩa do người ta giúp đỡ mình thì khá lo đền đáp lại.
Câu
286: Và cố cư xử cho vẹn tròn đạo lý với người đời.
Ở đời, có lắm kẻ được người ta giúp đỡ, nhận biết bao ơn nghĩa của người, nhưng
khi qua khỏi cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn của họ, họ đành ngoảnh mặt
làm kẻ xa lạ. người như thế là người bội ơn, không phải là người hiểu đạo lý,
và là người không có tâm lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người
phải biết ơn và đền ơn người ta đã giúp đỡ cho mình, như thế mới gọi là người
biết giữ tròn đạo nghĩa, là người “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” hay “uống
nước nhớ người đào giếng” vậy.
Câu
287: Lúc túng thiếu cùng cực đi vay mượn của người ta.
Câu
288: Thì phải vui lòng lo trả tiền vốn và tiền lời cho xong.
289.
Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.
291.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
Oán
chạ: Thù oán một cách bừa bãi, không chính đáng.
Tham
lam : Tham là ham của. Lam là ham ăn. Tham lam: Lòng ham ăn, tham của
cải vật chất. Nghĩa bóng Ham muốn một cái gì thái quá.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về tham lam như sau: “Các con có hiểu vì sao nhơn
sanh có lòng tham lam chăng? Thì cũng muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi
của mình. Vã lại, người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục
tùng không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỉ
quyệt thâu đoạt lợi lộc, quyền thế. Vì vậy, mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh
đấu, giựt giành; mạnh được, yếu thua, mất hẳn công bình, thiên nhiên Tạo hóa.
Ấy vậy, phải biết rằng: Tham lam vào tâm, tâm hết đạo đức; tham lam vào nhà,
nhà hết chánh giáo; tham lam vào nước, nước mất chơn trị. Tham lam lộng khắp
thế giới, thế giới hết Thần Tiên: Lòng tham lam có thể giục các con lỗi đạo
cùng Thầy”.
Ngược
ngạo: Bướng bỉnh ngang ngược.
Bội
nghĩa ân: Hay bội ân nghĩa 背 恩 義:
Phản bội lại kẻ mình thọ ân nghĩa.
Trở
tráo: Lật lộng, tức là thay đen đổi trắng một cách dễ dàng.
Luân
hồi 輪 迴: Luân là bánh xe. Hồi là xoay trở lại.
Giống như một bánh xe lăn quay, luân hồi là sự xoay chuyển của chúnh sanh trong
sáu cõi (Lục đạo), sanh tử, tử sanh, tiếp nối mãi không ngừng cho đến khi đạt
được giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn mới thôi.
Nguyên nhân của luân hồi là do chúng sanh vô minh mà tạo ra các nghiệp, khiến
cho nghiệp lực cuốn hút vào vòng sống chết, lên xuống không bao giờ ra thoát
khỏi sáu cõi. Mục đích của việc tu hành là nhằm giải thoát con người ra khỏi
vòng luân hồi sanh tử để được về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Rất
mầu: Rất huyền diệu, rất mầu nhiệm.
Tái
thế 再 世: Đầu kiếp xuống trần một lần nữa.
Chuyển
thân tái thế 轉 身 再 世: Chuyển kiếp qua một xác thân mới để đầu thai xuống cõi trần.
Ngựa
trâu công đền: Làm kiếp trâu ngựa để lấy công đền tội.
Câu
289: Chớ nên tham lam, bướng bỉnh ngược ngạo và thù oán người một cách bậy
bạ.
Câu
290: Mà phản bội lại người có ơn nghĩa, lật lộng và mưu chước sâu độc.
Câu
291: Sự thưởng phạt của Thiêng Liêng trong vòng luân hồi sanh tử rất nên
mầu nhiệm.
Câu
292: Nếu nghiệp nhẹ thì được đầu thai lên cõi trần một lần nữa; còn nếu có
tội thì chuyển kiếp ngựa trâu để lấy công đền tội lỗi.
293.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
295. Chớ
sanh chước hiểm hẹp eo
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
Phú
túc 富 足: Phú là giàu có. Túc là đầy
đủ. Phú túc: Giàu có đầy đủ.
Vun
nền: Bồi đắp nền tảng.
Âm
đức 陰 德: Còn gọi là Âm chất: Những việc làm lành tạo thành phước đức, tuy
người ở thế gian không biết, nhưng Thần Thánh chứng biết.
Chước
hiểm: Mưu chước hiểm độc.
Hẹp
eo: Hẹp hòi, nhỏ nhặt.
Lời
tăng quá vốn: Đồng nghĩa với câu “vốn một lời mười”, tức là đem tiền
cho vay lãi suất quá nặng, khiến tiền lời hơn vốn vay.
Câu
293: Người giàu có đầy đủ nếu biết thì bồi đắp nền âm đức.
Câu
294: Lấy lòng nhơn từ để giúp đỡ người nghèo khó.
Câu
295: Chẳng nên có tánh hẹp hòi hiểm độc.
Câu
296: Cho vay tiền với mức lời quá nặng, lời tăng hơn vốn, khiến cho kẻ
nghèo kêu than rên xiết.
297.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
299.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Làm
mặt phải: Bề ngoài mặt ra vẻ làm việc phải, tức là làm phải với hình thức
bên ngoài.
Cố
đất cầm vườn: Đem vườn đất đi cầm cố để lấy tiền.
Nhơn
vật 人 物: Con người và thú vật.
Bất
lương 不 良: Không lương thiện, không lành.
Câu
297: Làm ra vẻ bên ngoài là người biết đạo đức, đem tiền bạc đi cúng Phật.
Câu
298: Bên trong thì lấy lời nặng, khiến những kẻ nghèo phải thế đất cầm
vườn.
Câu
299: Trời Phật đều thương yêu người và loài vật một cách đồng đều như nhau.
Câu
300: Có bao giờ hưởng của bất lương đâu mà bày lễ cúng mời.
Ở đời cũng có những kẻ tu hành mà lại cầu danh. Họ làm việc phải, việc lành là
để lấy tiếng tốt với đời, chứ không cầu công đức, vì nhiều khi đồng tiền cúng
Phật hay giúp người nghèo của họ do việc làm thất đức mà ra. Ví như vì muốn có
lợi, họ áp bức những người nghèo khổ đến nỗi phải cầm cố ruộng đất.
Trời, Phật, Thánh, Thần là những Đấng công bình, từ bi, có lòng thương yêu mọi
con người như nhau, chứ không vì sự cúng tế bề ngoài mà chứng hưởng. Đông Nhạc
Thánh Đế có để lời dạy: Thiên Địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi
giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa (Trời đất không có riêng tây, Thần
minh thường soi xét. Không vì tế lễ mà ban phước, không vì thất lễ mà giáng
họa).
301.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
303.
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
Nghiêm
trừng 嚴 懲: Đồng nghĩa với nghiêm trị 嚴 治:
Trừng trị một cách nghiêm nhặt.
Tôi
đòi: Người giúp việc trong nhà, đầy tớ trong nhà.
Nham
hiểm 巖 險: Núi non hiểm trở. Nghĩa bóng chỉ người độc ác kín đáo, khó lường
được.
Hẹp
hòi: Nhỏ nhen ích kỷ.
Không
từ: Không buông tha, không chừa ra.
Câu
301 và 302: Phận mình là người làm chủ thì nên lấy lời nhỏ nhẹ mà dạy răn
mấy người giúp việc trong nhà.
Câu
303: Đừng có lòng nhỏ nhen ích kỷ, sâu độc khó lường.
Câu
304: Đừng có buông lời chửi rủa, đánh đập, chẳng chừa đòn roi nào.
305.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm cung luật xử nặng nề.
307.
Đánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Tội
dư: Nhiều tội lỗi đến nỗi dư thừa.
Tích
trữ 積 貯: Cất chứa lại.
Âm
cung 陰 宮: Cung điện nơi Âm phủ. Đồng nghĩa với Âm đài, Âm ty, Âm phủ.
Khảo
kẹp gớm ghê: Tra khảo bằng kềm kẹp rất ghê gớm.
Hành
hình 行 刑: Thi hành các hình phạt.
Khổ
não 苦 惱: Khổ sở phiền não.
Nới
tay: Nới lỏng tay, tức là giảm bớt sự nghiêm nhặt.
Câu
305 và 306: Tánh tình độc ác, gây ra nhiều tội lỗi cất chứa đó chờ khi
thác xuống Âm cung sẽ bị xử theo hình luật rất nặng nề.
Câu
307: Sẽ bị tra khảo bằng đòn roi, kềm kẹp một cách ghê gớm.
Câu
308: Rồi thi hành hình án một cách khổ não, chẳng hề nới tay bao giờ.
309.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
311.
Thánh hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.
Âm
cảnh 陰 境: Cảnh giới của người ở cõi Âm, tức Âm phủ, Âm cung…
Hình
lạ: Hình phạt rất kỳ lạ.
Tội
quá 罪 過: Tội lỗi.
Thánh
Hiền 聖 賢: Bậc Thánh Hiền.
Thánh 聖: Người có trí tuệ sáng suốt, hiểu thấu mọi việc, có học thức và
đạo đức cao siêu.
Hiền 賢: Người có tài năng và đức hạnh.
Dạy
bày: Chỉ bày và dạy dỗ.
Ám
muội 暗 昧: Lòng dạ tăm tối.
Câu
309: Nơi Âm cảnh có nhiều hình phạt tội nhơn rất nên lạ lùng.
Câu
310: Cõi Dương gian thì con người gây nên tội lỗi đầy dẫy.
Câu
311: Kinh sách của các bậc Thánh Hiền đã chỉ dạy rõ ràng.
Câu
312: Do bởi lòng người tăm tối (vô minh) nên thường gây ra tội lỗi hoài.
313.
Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
315.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Lỗ
mãng 魯 莽: Lỗ là đần độn. Mãng là cọc
cằn, thô tục. Lỗ mãng: Người đần độn thô tục.
Thác:
Chết.
Còn
kể ra chi: Còn có ra gì nữa đâu. Ý muốn nói chết rồi không còn cái gì tất
cả.
Nhãn
tiền 眼 前: Thấy trước mắt.
Trả
quả tức thì: Trả lại quả báo do những tội lỗi đã gây ra liền tức khắc.
Tội
dư: Hay dư tội 餘 罪: Tội lỗi mình phải đền trả, nếu chết mà còn dư thừa lại thì con
cháu chịu.
Câu
313 và 314: Kẻ lỗ mãng vì không có tin tưởng tôn giáo, nên chê bai khinh
dể Thần Thánh, cho rằng người chết rồi không còn chi hết, còn kể chi nữa.
Câu
315: Sự trả quả do việc làm ác sẽ báo ứng tức thì ngay trước mắt.
Câu
315: Tội lỗi đã trả quả, nếu chết còn dư thừa con cháu sẽ đền bồi.
Người lỗ mãng là người cọc cằn thô tục, không biết suy xét lẽ thiệt hơn, nên
khi đọc đến bài kinh Sám Hối này thì chắc chắn rằng sẽ chê bai, khinh dể, bởi
vì đối với hạng người này, họ chỉ biết sống có thân xác và vật chất mà thôi,
chứ không tin con người có linh hồn. Đối với họ, con người khi chết là hết,
không có nghiệp báo, nhơn quả gì cả. Vì vậy, họ chỉ sống cho hiện tại, không lo
sợ về việc báo ứng, cứ lòng hung hăng mà làm điều dữ. Đến chừng quả báo xảy đến
trước mắt thì than ôi! Tội lỗi đã dẫy đầy, khiến cho con cháu cũng phải chịu
vương mang.
317.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
319.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.
Quấy
tưởng: Tưởng nghĩ bậy, cạn suy xét mà nghĩ bậy.
Phi
lý 非 理: Chẳng có lý, vô lý.
Thi
hài 屍 骸: Thi thể hình hài, tức là thể xác.
Thông
tri 通 知: Bảo cho biết, biết rõ suốt mọi việc.
Câu
317: Chớ nên lầm tưởng rằng chuyện luân hồi nhân quả là không có lý.
Câu
318: Rồi chẳng nghĩ chẳng suy mà giữ tánh lung lăng hung dữ.
Có nhiều người tưởng quấy rằng chết là hết tất cả, chẳng có linh hồn, không
luân hồi nhơn quả, cho nên họ chẳng ngại ngùng, sợ sệt việc quả báo, cứ lòng
hung hăng làm điều ác đức. Họ nghĩ hiện tại thân này hành động tạo nghiệp thiện
hay ác, mai kia thân hoại rồi nghiệp cũng mất đi. Họ không hiểu rằng Phật đã
thường nói nghiệp theo con người như bóng với hình vậy. Chúng sanh sở dĩ luân
hồi sinh tử là do nghiệp. Nghiệp là động cơ lôi kéo chúng sanh cứ quanh lên lộn
xuống trong sáu cảnh giới, gọi là lục đạo.
Lời giải thích của Đức Phật trong câu chuyện sau đây cho ta thấy rằng có luân
hồi và chính nghiệp lực đã dẫn dắt con người trong vòng
sinh tử.
Xưa có Ma Ha Nam, là em chú bác của Đức Phật. Ma Ha Nam theo Phật tu hành mà
không hiểu sau này mình sẽ ra sao, nên hỏi Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, bình
thường con tu hành, giả sử con vì một tai nạn nào đó đưa đến con phải chết, thì
sau khi chết con sẽ đi về đâu?
Đức Thế Tôn không trả lời thẳng, mà đưa ra câu hỏi ví dụ rằng: Có một cây to,
mọc từ dưới đất lên cao, thân cây nghiêng về một phía. Vậy lúc đốn cây đó, thân
sẽ ngã về bên nào?
Ma Ha Nam trả lời: Cây sẽ ngã về phía thân cây đã nghiêng.
Phật dạy: Như vậy, bình thường ông làm điều lành, khi chết tuy tâm thần bị hỗn
loạn, nhưng nghiệp thiện đã tích lũy sẽ hướng ông đến chỗ
lành, đó là chơn lý vậy.
Câu
319: Thân xác con người khi chết rồi thì như khúc gỗ có biết gì đâu.
Câu
320: Linh hồn mới là chủ của con người, hiểu biết hết mọi việc trong đời.
Trong bài kinh Tẫn Liệm có câu:
Khối
vật chất vô hồn viết tử,
Đất biến hình tự thử qui căn.
cho
ta thấy rằng thân xác là khối hình hài vật chất, con người nếu không có linh
hồn thì coi như đã chết, mà khi chết thì thân xác như khúc gỗ vô tri vô giác.
Nó là một khối vật chất do đất biến nên hình thể con người, khi mất, hình thể
đó cũng trở về đất.
Thật vậy, xác thân con người chỉ là những tế bào xương thịt do cha mẹ tạo ra,
được lớn lên nhờ sự nuôi sống của vật thực, là nguồn cung cấp từ đất. Xác thân
này theo Phật, do bốn nguyên tố, hay bốn đại là: Đất, nước, gió lửa duyên hợp
tạo ra, nên còn gọi là thân tứ đại người phải ăn uống vật thực, hoa quả, đó là
những thứ vật chất nơi thế gian nuôi dưỡng nhục thể. Do vậy xác thân con người
chính là một khối vật chất, nếu không có linh hồn thì là vật không tri giác.
Sở dĩ con người có sự sống là nhờ sự hiện diện của linh hồn. Linh hồn là một
Tiểu Linh Quang của Thượng Đế chiết từ khối Đại Linh Quang để ban cho con
người. Vậy Đất sinh ra vật chất tạo ra hình thể, còn Trời ban cho linh hồn con
người. Trời đất trong con người hợp lại thì có sự sống, nghĩa là có linh hồn và
thể xác. Nếu như linh hồn lìa khỏi xác thân thì thi hài như một khúc gỗ vô tri
vô giác, còn linh hồn mới thực là chủ nhân trong con người, thông rõ hết các
việc Trời đất và vạn vật.
Theo Mạnh Tử, tính 性 là
bản nguyên của Trời phú cho con người, tức là thiên lý chí linh chí diệu. Con
người có được tính ấy thì tất sẽ có một cái tâm 心 như vậy.Tâm với tính là một, tâm là phần chủ tể trong con
người, hễ hiểu rõ cái tâm thì ta biết rõ cái tính, biết rõ cái tính thì biết rõ
việc Trời đất và vạn vật (Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã. Tri kỳ tính, tắc
tri thiên hỹ 盡 其 心 者, 知 其 性 也. 知 其 性, 則 知 天 矣).
321.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất
Quỉ vô thường sẵn chực đem đi.
323.
Dắt hồn đến chốn Âm ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Chung
mạng 終 命: Hay chung mệnh: Chấm dứt mạng sống, tức là chết.
Quỉ
vô thường: Hay vô thường quỉ 無 常 鬼:
Một loài quỉ khi con người vừa sắp chết đến dẫn vong hồn xuống cõi Âm phủ cho
Diêm Vương xét công tội.
Sẵn
chực: Chực chờ sẵn sàng một bên.
Công
quả 功 果: Cái kết quả tốt đẹp được hưởng, khi làm những việc thiện, lành
để giúp đỡ cho đời hoặc đạo.
Theo luật tự nhiên, hễ có công thì ắt phải có quả. Người nào giúp đỡ kẻ tàn
tật, người nghèo khổ hoặc đến Chùa Thất làm công việc tự nguyện. Đó là công
việc mang lại kết quả tốt cho mình cho người, nên được gọi là công quả.
Chẳng
ly mảy hào: Chẳng sai lìa một chút nhỏ nào, chẳng sơ sót một chút xíu nào.
Câu
321: Lúc mới dứt hơi vừa chết, vong hồn mới xuất khỏi thân xác con người.
Câu
322: Quỉ vô thường sẵn chực chờ một bên đó sẽ dẫn hồn đem đi.
Câu
323: Dắt vong hồn đi về cõi Âm ty.
Câu
324: Để dưới Diêm cung xem xét công quả đã làm được nơi thế gian, không
sai chạy một ly nào.
325.
Người lương thiện ra vào thong thả.
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh.
Phật, Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác hườn hình như xưa.
Thong
thả: Thảnh thơi, không bị ràng buộc bởi hình phạt.
Rất
minh: Rất công minh, rất rõ ràng.
Phép
lạ: Phép tắc lạ lùng, tức là những sự việc mà cõi thế gian không thể nào
nghĩ ra được.
Hiển
linh 顯 靈: Sự linh thiêng được hiện rõ ra.
Tan
giác: Giác 覺 là
sự hiểu biết, tức là chơn thần của con người. Tan giác có nghĩa là tan nát cái
chơn thần. Người chết về cõi Âm chỉ còn Chơn thần và Chơn linh. Chơn thần được
coi như là cái xác của Chơn linh trong cõi Âm phủ.
Câu
325: Người sống trên thế gian hiền lương, khi chết thì được ra vào thong
thả nơi cõi Âm cung.
Câu
326: Còn kẻ có nhiều tội lỗi thì bị đày đọa rất là công minh.
Câu
327: Trời Phật có nhiều phép tắc lạ lùng linh hiển.
Câu
328: Hành hình cho đến nỗi tan nát chơn thần của tội nhơn, rồi được làm
phép hườn hình sống lại như trước.
329.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
331.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Con
bất hiếu: Người con không có hiếu thảo với cha mẹ.
Theo đạo lý, công cha mẹ sanh thành dưỡng dục cho con thành người rất thâm
trọng, nên bổn phận của con cái phải hiếu thảo cùng với hai đấng song thân.
Từ ngàn xưa không biết bao nhiêu thi ca, kinh sách và các nhà Tôn giáo nói về
công lao sinh dưỡng của cha mẹ. Ca dao Việt Nam nói về công đức cao dày ấy như
sau:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng nói lên công Trời biển đó:
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba
năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi cũng viết:
Cù
lao đội đức cao dày,
Phải
lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Kinh Thi cũng nói rằng: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu,
sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực 父 兮 生 我, 母 兮 鞠 我, 哀哀 父 母 生 我 劬 勞, 欲 報 深 恩, 昊 天 罔 極”, tức là cha sinh ta, mẹ nuôi ta. Thương thay cha mẹ sinh ta khó
nhọc, muốn báo ơn sâu, công ơn ấy như Trời cao mênh mông không thể nào trả hết
được.
Đạo hiếu là đầu mối trước nhứt của Nho giáo, nên trong sự giáo hóa, Khổng Tử
lấy Hiếu Đễ là một nết rất quan trọng trong trăm nết. Ngài dạy rất kỹ lưỡng về
việc hiếu với cha mẹ, ông bà. Theo Ngài, người có hiếu không phải nuôi dưỡng
cha mẹ là đủ, mà còn phải có lòng kính. Điều nầy Ngài dạy Tử Du như sau : Cái
hiếu ngày nay, người ta cho rằng chỉ có thể nuôi dưỡng cha mẹ, đến như loài chó
ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt ? (Kim
chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính
hà dĩ biệt hồ? 今 之 孝 者, 是 謂 能 養, 至 於 犬 馬, 皆 能 有 養, 不 敬 何 以 別 乎).
Ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ, Ngài còn dạy chi ly về việc hiếu như phải quan
tâm, lo lắng cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ, không đi chơi xa khi cha mẹ còn sống,
có đi xa phải cho cha mẹ biết chỗ đi: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu
phương 父 母 在, 不 遠 遊, 遊 必 有 方”. Ngoài ra làm người con hiếu cũng phải biết nối chí của cha mẹ,
khéo noi theo việc làm của cha mẹ: “Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí,
thiện thuật nhân chi sự giả dã 夫 孝 者 善 繼 人 之 志, 善 述 人 之 事 者 也”.
Qua câu này, Ngài lấy chữ thiện là khéo để dạy rằng hễ điều hay của cha mẹ thì
nên theo, điều dở nên bỏ, chứ không phải theo một cách mù quán.
Phanh
rã: Xẻ ra từng miếng nhỏ.
Chuyển
thân 轉 身: Chuyển kiếp trở lại nơi cõi thế gian với một thân xác mới.
Đội
mang lông sừng: Đội sừng mang lông, tức là xác thân loài vật, ý nói đầu
thai làm loài vật.
Câu
329: Làm con mà bất hiếu, khi chết xuống Âm ty thì bị xay, cưa, đốt, giã.
Câu
330: Và còn bị mổ bụng ra để phanh rã tim và gan.
Câu
331 và 332: Chuyển kiếp trở lại nơi cõi trần gian để sanh ra làm trâu, chó
mà đội mang lông sừng.
Câu chuyện có thật ở Trung Hoa xảy ra vào niên hiệu Khang Hy thứ 39 đời nhà
Thanh. Chuyện “Người bất hiếu bị chuyển thân trở lại làm heo” được kể
lại như sau:
Hầu Nhị ở Kim Đơn vốn là kẻ bất hiếu. Bà mẹ đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu
Nhị trông thấy nổi giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà, vợ con khóc lóc can gián,
y cũng không nghe. Chẳng bao lâu khắp mình Nhị sanh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau
nhức cho đến lúc y mãn phần.
Sau khi chết, Hầu Nhị ứng mộng cho con thấy, bảo rằng: Do cha ngỗ nghịch bất
hiếu nên bị phạt đọa làm heo ở nhà Trương Nhị nơi cửa Tuyên Võ tại kinh sư. Con
nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu để trễ e không kịp.
Thức dậy đứa con y theo lời, tìm đến nhà Trương Nhị, quả có heo nái vừa mới
sanh ra mấy heo con. Trong đó một heo con mình thú mặt người, có râu mép, trạng
mạo giống cha mình. Đứa con thương khóc thuật lại duyên cớ, nguyện đưa ra mười
lượng vàng xin chuộc đem về. Nhưng Trương Nhị không nghe đem heo con ra giết.
Thật là thảm thay!
333.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
335.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
Lẫy
lừng: Danh tiếng vang lừng. Ở đây cũng có thể hiểu đầy dẫy.
Hạnh
xấu: Tánh nết xấu xa.
Vạc
đồng: Cái chảo lớn bằng đồng.
Thảm
kinh 慘 驚: Kinh khủng và thảm khốc.
Trinh
tiết 貞 節: Cái đức kiên trinh của người đàn bà, tức là cái lòng trong sạch
của người đàn bà đối với chồng.
Ngoại
tình 外 情: Có tình cảm yêu đương với người ngoài khi đã có vợ hoặc có chồng
rồi.
Câu
333: Kìa là những người con gái tánh nết dẫy đầy sự xấu xa.
Câu
334: Bỏ vào vạc đồng để đốt, nấu một cách thê thảm và kinh tâm.
Câu
335: Vì rằng chẳng chịu gìn giữ cái lòng trong sạch của mình đối với chồng.
Câu
336: Khi đã có chồng rồi mà lại ngoại tình với trai.
337.
Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
339.
Dỗ dành, rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Tham
lợi 貪 利: Có tính tham lam về lợi lộc.
Cột
mai cột mối: Vì tiền bạc, làm mai mối để cột buộc hai người con trai và con
gái thành vợ chồng với nhau.
Chuốt
trau lời: Trau chuốt lời nói, tức là tô điểm thêm lời nói cho đẹp đẽ để
thuyết phục một việc gì.
Dỗ
dành: Dùng lời nói ngọt ngon để an ủi người.
Rù
quến: Dụ dỗ, khuyến dụ người.
Gái
non: Gái mới lớn lên, chưa có kinh nghiệm về chuyện đời, con gái còn khờ
dại.
Làm
hư hoại tiết: Làm hư hỏng cái khí tiết của người con gái. Ở đây có nghĩa là
làm hư hoại cái tiết trinh của người đàn bà.
Câu
337 và 338: Còn có kẻ vì tham lợi lộc mà đi làm mai mối cho người. Họ
giả dối, dùng lời ngon ngọt, trau chuốt lời nói để cột mai cột mối cho người ta.
Câu
339: Dụ dỗ, quyến rũ những người con gái mới lớn lên.
Câu
340: Làm hư hỏng cái trinh tiết của con cháu nhà người ta.
Trong thời Nho giao, nam nữ thọ thọ bất thân, có nghĩa là trai gái không được
phép giao tiếp một cách tự do thân thiết với nhau. Vì vậy, việc hôn nhân giữa
hai bên phải nhờ có người làm mai mối. Bởi thế trong xã hội ngày xưa mới có
những người làm nghề mai mối, họ chuyên dùng môi mép để gạ gẫm, ngon ngọt mà dụ
nhiều gái non lòng nhẹ dạ, gả bán vào những gia đình giàu có để làm hầu thiếp,
họ đặng hưởng lợi lớn, gây biết bao khổ đau cho cuộc đời người con gái.
Trong Hồi Dương Nhơn Quả, có kể lại một bản án mà người làm mai mối gây ra tội
lỗi như sau: Họ Lý ở huyện Thần Châu ròng nghề làm mai mối, miễn có
tiền mướn mà ăn, thì quyết dụ gạt con gái nhà lành, ở đợ, làm bé mà chẳng động
lòng thương, đến nỗi làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ,
bọn ấy không vừa ý, tức mình phát bịnh mà chết hết bảy người, vì không thể sinh
đẻ nối đời đặng. Phán: Bởi tội y nói xảo mà rù quến gạt người, nên bị án nặng.
Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ xuống hầm đời đời, cho oan hồn bớt tức.
341.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
343.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
Lang
độc 狼 毒: Độc ác như lang sói.
Lòng
lang độc: Lòng độc ác như loài lang sói.
Diêm
đình 閻 廷: Đồng nghĩa với Diêm cung 閻 宮,
chỉ cõi Âm phủ.
Phạt
quở: Hay Quở phạt, tức là dùng lời nói rầy rà khiển trách người.
Trừng
răn: Răn cấm và trừng trị.
Lăng
xăng: Chạy tới chạy lui, chạy qua chạy lại, cảnh tượng nhộn nhịp.
Đáng
kiếp: Xứng đáng với tội đã gây ra trong kiếp sanh.
Tội
căn 罪 根: Cái gốc rễ của tội lỗi đã gây ra từ nơi kiếp trước.
Câu
341: Lòng độc địa như lang sói, lúc còn thời thì vui cười hớn hở.
Câu
342: Khi chết rồi, xuống chốn Diêm đình thì bị quở phạt, răn dạy hay trừng
trị.
Câu
343: Nơi Diêm đình lăng xăng với những hình phạt khảo kẹp bằng gông kềm.
Câu
344: Trừng phạt một cách đau đớn cho xứng đáng với cái tội đã làm trong
kiếp sống nơi cõi thế gian.
345.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
347.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Ngục
đao kiếm: Hay đao kiếm ngục 刀 劍 獄:
Trong ngục chứa toàn đao và kiếm.
Cầm
giam: Hay giam cầm 監 擒, tức là trói buộc hay giam giữ người có tội lỗi.
Phạm
ác: Hay ác phạm 惡 犯, tức những tội phạm gian ác.
Giáo
gươm: Hay gươm giáo là hai loại binh khí thời xưa dùng để đâm và chém.
Tư
bề: Bốn phương, tứ phía, bốn bên, tứ hướng đều cùng một nghĩa.
Ngục
môn 獄 門: Cửa ngục.
Câu
245: Ngục có chứa đao kiếm dùng để giam cầm những tội phạm gian ác.
Câu
246: Để hành phạt một cách ghê gớm với kẻ có tánh gian dâm.
Câu
347: Bốn phía ngục đều có cắm những ngọn gươm giáo bén nhọn.
Câu
348: Gươm giáo chung quanh ngục sẽ đâm chém tội phạm, khiến cho máu chảy
tràn trề cửa ngục.
349.
Hành đến chết hườn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
351.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.
Hành
đến chết: Trừng phạt cho đến chết.
Ở đây, chúng ta biết rằng con người khi chết, xác phàm đã được táng lại nơi cõi
thế gian, quỉ vô thường chỉ dẫn vong hồn người chết về cõi Âm phủ. Như vậy, khi
thọ hình phạt nơi Diêm đình, người chết chỉ còn lại Chơn thần và Chơn hồn mà
thôi.
Thế mà theo những câu kinh trên, sao lại có thân xác để “xay, cưa, đốt, giã”,
để “mổ bụng ra phanh rã tim gan”, hoặc sao lại còn “chém đâm máu chảy
tràn trề ngục môn”, hoặc “Hành đến chết huờn hồn sống lại”. Đây là
những hình phạt nơi Âm phủ rất nên mầu nhiệm mà người ở thế khó nghĩ bàn được,
đúng như lời Kinh đã dạy:
Phật
Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác, hườn hình như xưa.
Nhưng chúng ta nên biết Chơn thần của con người là một thể xác thiêng liêng do
Phật mẫu tạo hình, là một thể chứa nhiều dục vọng và cảm giác. Nếu là một tội
phạm nơi cõi Âm thì dĩ nhiên còn nhiều dục vọng và cảm giác, cho nên Chơn thần
mới nặng nề, trọng trược mà kéo Chơn linh chịu chung hình phạt. Khi thọ hình,
Chơn thần tưởng như mình còn sống, còn có thân xác, còn có tim gan, máu huyết,
còn biết đau đớn, khổ sở. Những hình phạt nặng đến nỗi Chơn thần nghĩ là mình
chết đi và được phép huyền diệu của Thiêng Liêng cho hườn hồn như sống lại. Đó
thực ra là do cái cảm giác của Chơn thần khi bị thọ hình mà thôi.
Thanh
lâu 青 樓: Lầu xanh, nơi chứa những gái mãi dâm, tức là nhà chứa điếm.
Thời xưa, thanh lâu dùng để chỉ nhà phú quí. Đời Tề, vua Võ Đế bảo xây dựng lầu
cao, phía trên sơn xanh, nên chỗ vua ở thời bấy giờ cũng gọi là thanh lâu.
Nhưng từ khi Lương Lưu Diếu làm câu thơ như sau: Xương nữ bất thăng sầu, kết
thúc hạ thanh lâu (Xương nữ sầu mênh mông, thanh lâu nàng bước xuống), thì hai
chữ thanh lâu chuyên dùng để nói về nhà chứa điếm.(Theo Hán Việt Từ Nguyên, Bửu
Kế)
Chực
chầu: Hay chầu chực, chỉ sự sẵn sàng chờ đợi để hầu hạ.
Phép
mầu: Phép tắc mầu nhiệm, phép huyền diệu.
Chí
Linh 至 靈: Rất linh thiêng, chỉ Đức chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Câu
349: Hành hình cho đến chết đi rồi cho hườn hồn để sống lại.
Câu
350: Cho đầu thai lên cõi Dương gian để làm gái lầu xanh.
Câu
351: Nơi lầu xanh, ngày đêm phải chầu chực, đưa rước khách ăn chơi.
Câu
352: Đạo Trời đất rất là công bình, và sự thưởng phạt của Thượng Đế rất là
huyền diệu.
353.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh.
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
355.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Đo gian đong thiếu Thánh Thần chẳng kiêng.
Nhọn
vắt: Hết sức nhọn và bén.
Treo
mình nhỏng nhảnh: Treo thân mình lơ lửng, đưa qua đưa lại. Tục gọi là treo
tòn teng.
Cối
đạp đồng: Cối giã có chày đạp bằng đồng.
Giã:
Lấy chày đập cho nát, gọi là giã.
Dần:
Lấy chày đâm nhiều lần cho mềm ra, gọi là dần.
Lường
cân: Ăn gian, ăn lường bằng cách cân non, đong thiếu.
Đo
gian: Ăn gian bằng cách đo thiếu.
Đong
thiếu: Đong lường không đủ để ăn gian cho mình.
Thánh
Thần chẳng kiêng: Chẳng kiêng nể các Đấng Thánh Thần.
Câu
353: Hình phạt treo mình tòn teng với cái móc nhọn vắt.
Câu
354: Rồi đưa vào cối đồng để dùng chày giã, dần rất mạnh.
Câu
355: Tội ấy là để phạt những kẻ cân lường không đủ, có lợi cho
mình mà hại người khác.
Câu
356: Và xảo trá bằng cách đo gian đong thiếu, chẳng kiêng sợ gì đến Thần
Thánh.
357.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
359.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo đọa đày thế ni.
Mang
xiềng: Mang sợi dây lòi tói, hay dây xích, bị trói buộc bằng dây xiềng, dây
xích.
Chạy
đại: Chạy càn, tức là chạy thẳng vào, khó ngăn cản lại đặng.
Phân
thây: Hay phân thi 分 屍: Chia thi thể ra làm nhiều mảnh.
Dại
ngây: Khờ ngây dại dột, tức chỉ những người thiếu trí hiểu biết.
Tam
Giáo 三 教: Ba nền Tôn giáo lớn ở cõi Á Đông. Đó là Phật giáo do Đức Thích
Ca Mâu Ni làm giáo chủ; Tiên giáo do Đức Thái Thượng Lão Quân làm giáo chủ; và
Nho giáo do Đức Khổng Thánh Tiên Sư làm giáo chủ.
Thế
ni: Thế này, như thế này vậy.
Câu
357 và 358: Hình phạt cho bầy chó hung dữ mang xiềng xích chạy xong vào
người, xúm nhau lại cắn xé thi thể tội nhân ra thành nhiều mảnh.
Câu
359: Hình này dùng để phạt những kẻ khờ ngây, dại dột.
Câu
360: Và những người khinh khi Tam giáo nên mới bị đày đọa như thế nầy.
361.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
363.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.
Ao
nước nóng: Ao chứa nước nóng đang sôi, lên hơi sục sục.
Dầm:
Ngâm vào nước một thời gian lâu.
Rã
rục: Hay rục rã, nghĩa là tan nhừ ra.
Vô
lương 無 良: Không lương thiện, người hung ác.
Bất
mục 不 睦: Không hòa thuận nhau.
Lời của sách Ích Trí dạy như sau: Quân thần bất tín, quốc bất an; phụ
tử bất tín, gia bất mục; Huynh đệ bất tín, tình bất thân; bằng hữu bất
tín, giao dị sơ 君 臣不 信, 國 不 安; 父 子 不 信, 家 不 睦; 兄 弟 不 信, 情 不 親; 朋 友 不 信, 交 易 疏 (Vua
tôi chẳng tin nhau, nước chẳng yên ổn; cha con chẳng tin nhau, nhà chẳng hòa
thuận; anh em chẳng tin nhau, tình chẳng thân; bạn bè chẳng tin nhau, giao kết
sơ).
Đồng
bào 同 胞: Cùng chung một bào thai, chỉ anh em cùng một cha một mẹ.
Người trong một nước cũng gọi là “Đồng bào”, vì xem nhau như con một cha
một mẹ, do sự tích Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh 100 người con, cho nên người
dân Việt gọi là giống Tiên Rồng và coi nhau như đồng bào.
Câu
361: Hình phạt dùng ao nước nóng sôi sục sục để trừng trị tội nhân.
Câu
362: Dầm người vào đó cho rục rã tất cả thịt xương.
Câu
363: Cũng bởi vì lòng dạ không hiền lành, không lương thiện.
Câu
364: Khiến nên chẳng thương yêu anh em ruột thịt và chẳng hòa thuận cùng
nhau.
Thánh hiền ngày xưa có quan niệm rằng tình nghĩa anh em như là tay chân, tình
nghĩa vợ chồng như xiêm áo, trong ca dao Việt Nam cũng có câu:
Anh
em như thể chân tay,
Vợ
chồng như áo cởi ngay tức thì.
Cổ ngữ cũng có nói: Thế gian tối nan đắc giả huynh đệ 世 間 最 難 得 者 兄 弟,
nghĩa là cái khó kiếm được nhứt ở thế gian là anh em. Câu này cho chúng ta thấy
rằng tình nghĩa anh em thực là nồng nàn, thắm thiết, rất cao quý và thiêng
liêng.
Nếu đệ huynh bất mục, tức là anh em chẳng hòa thuận cùng nhau thì chẳng khác gì
“củi đậu nấu đậu”, nghĩa là anh em chẳng những không thương yêu nhau mà
còn muốn hại nhau như câu chuyện sau được trích từ sách Thế Thuyết:
Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong
bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị xử tử. Tào Thực liền ngâm
rằng:
煮 豆 燃 豆 萁
Chử
đậu nhiên đậu ki,
豆 在 釜 中 泣
Đậu
tại phủ trung khấp.
本 是 同 根 生
Bổn
thị đồng căn sanh,
相 煎 何 太 急
Tương
tiễn hà thái cấp!
Nghĩa là:
Nấu
đậu chụm cây đậu,
Hạt đậu trong nồi khóc,
Vốn cùng một gốc sanh,
Đốt nhau chi quá gấp?!
Tào Phi xem xong bài thi, rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực.
365.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình tán đởm rất ghê.
367.
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
Gộp
núi: Mỏm núi, tức là những mỏm đá núi nhọn nhô ra ngoài.
Chơm
chởm: Nhọn tua tủa ra.
Táng
đởm: Hay táng đảm 喪 膽: Mất mật. Vì mật là một bộ phận chủ chốt giúp cho con người trở
nên gan dạ. Nghĩa bóng: Hết sức sợ hãi, hoảng sợ. Người ta thường dùng thành
ngữ “Kinh tâm táng đởm” để chỉ sự sợ hãi.
Dầm
dề: linh láng, chỉ sự ướt đến độ lan tràn ra ngoài.
Tư
bề rùm tai: Tiếng ầm ĩ bốn phía làm ồn lỗ tai.
Câu
365: Lại có những mỏm núi mọc tua tủa ra những ngọn đao bén nhọn.
Câu
366: Nhìn thấy những gộp núi đó bắt dùn mình, mà kinh hồn mất vía.
Câu
367: Thây người nằm oằn oại, máu chảy ra dầm dề.
Câu
368: Ba bên bốn phía tiếng than khóc, rên la làm rùm cả lỗ tai.
369.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
371.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo trăng cùm xiềng gông.
Sửa
ngay ra vạy: Sửa những điều ngay thẳng ra những điều tà vạy, chỉ hạng người
chuyên làm điều gian tà giả dối.
Tớ
phản thầy: Đầy tớ phản lại chủ.
Quan 官: Những người thay mặt triều đình hay nhà nước để cái trị dân.
Lại 吏: Những viên chức làm việc dưới quyền các quan.
Bất
trung 不 忠: Chẳng trung thành, nghĩa là chẳng ngay với vua hay nước. Người
bất trung là người có lòng phản bội.
Giam
lại Âm cung: Nhốt lại ở cõi Âm phủ.
Đánh
khảo: Đánh đập tra khảo.
Trăng: Còn
gọi là cùm hay tróng, là một dụng cụ tra khảo,
dùng để khóa chơn tội phạm vào một chỗ.
Xiềng:
Dùng dây xích để khóa tay và chơn của tội phạm.
Gông:
Lấy khung gỗ có khóa để tròng vào cổ và hai tay của tội nhơn.
Câu
369: Hình phạt trên để hành kẻ chuyên sửa điều ngay ra điều tà vạy.
Câu
370: Và những kẻ làm đầy tớ phản lại chủ, làm quan, lại chẳng trung thành.
Câu
371: Hành phạt xong rồi giam tội phạm ở lại cõi Âm cung.
Câu
372: Để đêm ngày xiềng xích , trói trăng hoặc đánh đập, khảo tra.
373.
Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
375.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
Bào
lạc 炮 烙: Một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm.
Cột
đồng: Hay đồng trụ 銅 柱: Một cây cột bằng đồng, tức là cây trụ đồng của bào lạc.
Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương
nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc
này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.
Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than
cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.
Vòi
vọi: Sừng sựng.
Ánh
giọi chói lòa: Ánh sáng giọi chói lòa ra ngoài.
Hung
bạo 凶 暴:
Hung tàn bạo ngược, chỉ sự hung ác dữ tợn.
Bắn
săn: Săn bắn chim hoặc thú, tức là săn bắt chim thú bằng cách bắn tên hoặc
bắn súng.
Câu
373 và 374: Hình phạt bằng bào lạc, tức là một cây cột đồng cao vòi vọi,
bên trong đốt cho lửa cháy hồng áng sáng giọi ra chói lòa.
Câu
375: Trói tội phạm vào bào lạc để xát chà cho cháy phỏng.
Câu
376: Chịu tội ấy bởi vì tánh tình hung bạo đốt nhà người hay săn bắn chim
thú.
377. Có
cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.
379.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Đưa
vấu: Giương cái móng vuốt để vồ con mồi.
Quào
quấu: Lấy móng và vuốt để cào cấu vào thân người.
Xé
thây: Xé xác người.
Lòng
dạ chẳng ngay: Người có tâm không ngay thẳng, người gian tà, xảo trá.
Giết
người lấy của: Giết người để cướp giựt của cải.
Câu
377: Hình phạt bằng cách liệng vào cọp dữ đang nhăn răng đưa móng vuốt ra.
Câu
378: Gặp được người có tội nhảy đến quào quấu để xé thây.
Câu
379: Ấy là vì có lòng dạ chẳng ngay thật.
Câu
380: Giết chết người để lấy của nên nay bị thọ hình này.
381.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
383.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu.
Huyết
phẩn 血 糞: Máu huyết và phân người.
Nhờm
thay: Ghê tởm thay.
Tanh
hôi mình mẩy: Thân mình dính dơ bẩn nên bay mùi tanh hôi.
Vấy
đầy: Dính đầy.
Trồi
lên hụp xuống: Nổi lên chìm xuống, chỉ sự chới với dưới ao khi chìm khi nổi.
Câu
381: Dùng cái ao rộng lớn, trong đó chứa đầy những máu và phân người.
Câu
382: Xô tội nhơn xuống đó cho lội lặn chỗ dơ bẩn, thật là gớm ghiếc thay.
Câu
383: Thân mình dính đầy ô uế nên bay hơi mùi tanh hôi khó chịu.
Câu
384: Ở dưới ao, thân bị trồi lên hụp xuống, song khi trồi lên lại còn bị
gậy cây đánh đầu.
385.
Để hành kẻ chứa sâu, lường của
Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.
387.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Chứa
xâu: Tổ chức và chứa bài bạc để thu tiền người tới đánh, gọi là chứa xâu.
Lường
của: Lừa gạt để lấy tiền và của cải vật chất của người.
Trù
ếm: Ghét người, nên nguyền rủa, trù dập người, hoặc dùng bùa chú ếm đối
người cho bị đau bệnh, chết chốc.
Đồ
dơ: Chỉ quần áo dơ của phụ nữ có kinh nguyệt.
Uế
trược: Hay uế trọc 穢 濁:dơ bẩn hôi hám.
Đương
khi uế trược: Đang khi bị dơ mình, tức người phụ nữ đang lúc có kinh nguyệt.
Chỗ
thờ: Nơi thờ tự các Đấng hay tổ tông ông bà.
Câu
385: Hình phạt trên để hành kẻ chứa bài bạc lấy xâu, lừa gạt người lấy của.
Câu
386: Hoặc trù rủa ếm đối người, hoặc mắng chửi tổ tông ông bà.
Câu
387: Giặt quần áo dơ của phụ nữ có kinh nguyệt rồi đổ nước xuống rạch sông.
Câu
388: Và phụ nữ đang lúc dơ mình xông thẳng vào nơi thờ tự.
Tội hình này được Ngài Mục Kiền Liên xuống Địa ngục vào nơi Huyết bồn trì chứng
kiến và kể lại như sau:
Huyết bồn trì là ao đầy máu, những tội nhân đầu bù tóc rối, tay bị kềm kẹp. Mỗi
ngày ba lần, ngục tốt quỉ vương sai đưa máu đến bắt tội nhân uống, nếu không
uống, tức thì chúa ngục dùng gậy sắt đánh kêu la thảm thiết. Ngài Mục Kiền Liên
bèn hỏi chúa ngục rằng: Tại sao chỉ có những người đàn bà chịu tội lỗi như thế?
Chúa ngục đáp: Vì những người đàn bà trong khi sinh nở, đem đồ dơ bẩn giặt giũ
biển sông hoặc giếng ao rồi nước từ đấy chảy đi nơi khác, gặp người thành tâm
múc nước ấy uống hoặc cúng các Đấng Thiêng Liêng, vì vậy khi chết, phải chịu
tội nghiệp này.
389.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
391.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
Bếp
núc: Chỗ đặt lò, bếp để nấu nướng đồ ăn.
Chỗ
nhơ: Đây chỉ người đàn bà lúc bị dơ mình, tức lúc có kinh nguyệt.
Chú
Thích: Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh in năm 1936 đến 1975 đều
viết: “vào bếp núc chỗ nhơ không kể” , là ý muốn nói về trường
hợp của người đàn bà, mà là người đàn bà lúc bị dơ mình, nghĩa là lúc có kinh
nguyệt. Nhưng Kinh Sám Hối của Minh Lý Đạo viết: “Vào bếp núc, lúc nhơ chẳng
kể”, chỉ cái nghĩa rõ ràng hơn.
Tam
quan 三 關: Tên một cái cổng lớn, phần nhiều là cửa chùa, cửa các phủ thờ có
ba lối đi vào: Cửa giữa, cửa tả, cửa hữu.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh từ trước đến nay đều viết là Tam quan
(không có chữ g). Đây chỉ cái cổng Tam quan, nếu ở nhà thường dân có lẽ chỉ
trước sân nhà.
Trong quyển Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “đổ đồ nhơ uế xuống sông, phơi
áo quần dơ giọi bóng Tam quang là mặt nhựt, mặt nguyệt, ánh sao, hoặc
nhơ uế mà để lên chỗ thờ phượng, vào bếp núc. Các tội trên đều bị xô xuống Tạp
trì (hay huyết ô trì), là ao huyết dơ mà lặn hụp, tùy theo tội nhiều ít phạt ở
lâu mau”.
Như vậy, theo Ngọc Lịch Minh Kinh thì chữ Tam Quang 三 光 (có
chữ g) có nghĩa là nhựt, nguyệt, tinh, tức là không phơi áo quần dơ dưới ánh
mặt trời, mặt trăng và ánh sao (Điều này thật khó, bởi vì phơi áo quần phải
phơi chỗ có nắng, tức dưới ánh mặt trời rồi còn gì).
Buông
lời tục tĩu: Nói ra lời tục có tính cách dâm đảng.
Dâm
loàn: Hay dâm loạn 淫 亂: Dâm dục đến rối loạn cả nền tảng luân lý , đạo đức.
Câu
389: Người đàn bà khi vào nơi bếp không kiêng cử lúc bị dơ mình.
Câu
390: Và phơi quần áo chẳng kiêng cử đến cổng Tam Quan (hoặc phơi trước sân
nhà).
Câu
391: Nói ra lời dâm bôn, tục tĩu trái với nền luân lý, đạo đức.
Câu
392: Thì sẽ bị mang tội hình này, tùy theo lâu mau hay nặng nhẹ.
393.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
395.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Giòi
tửa: Ruồi đẻ ra một dề trứng, được gọi là tửa. Tửa (hay trứng) mới nở ra
giòi, là một loại trùng sống lúc nhúc nơi chỗ dơ bẩn hôi thúi.
Thường
bữa lẫy lừng: Hằng ngày hôi thúi xông lên dữ dội.
Hủy
hoại quen chừng: Quen tánh hủy hoại (cơm gạo).
Mới
ưng tội hình: Hình phạt như vậy mới xứng đáng với cái tội đã làm. Tức là
phạt ăn dơ dáy mới vừa với tội hủy hoại cơm gạo.
Câu
393: Một cái ao rộng và sâu, trong ấy chứa đầy giòi tửa.
Câu
394: Hằng ngày hơi tanh hôi xông mùi lên lừng lẫy.
Câu
395: Những kẻ quen tánh hủy hoại gạo cơm.
Câu
396: Nên phạt cho ăn dơ dáy mới xứng đáng với cái tội hình đã mang.
397.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.
399.
Vì chưng chưởi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần, Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
Quá
kinh rất lạ: Quá kinh sợ và rất lạ lùng.
Dạ
Xoa 夜 叉: Tiếng Pali Yakkha.
1. Một loài Thần (Thần dạ xoa) có sức mạnh khác thường.
2. Một loại quỉ có hình thù cổ quái ở cõi Âm phủ để Diêm Vương sai khiến đi bắt
và hành phạt các tội hồn.
Còn là một loài quỉ hay phá phách người tu hành bằng cách gây tiếng động ồn ào
trong lúc họ thiền.
Theo Kinh Duy Ma, quỉ Dạ xoa, còn gọi là Dược xoa, dịch nghĩa là Tiệp tật quỉ
(quỉ nhanh nhẹn). Có ba loại: Một ở mặt đất, hai ở hư không, ba là thiên dạ xoa.
Vì
chưng: Vì rằng, vì bởi.
Chẳng
chừa chẳng kiêng: Chẳng chừa bỏ và cũng không kiêng nể gì.
Câu
397: Hình phạt kỳ lạ và kinh tâm nhứt, là trói buộc tội nhơn thòng đầu
xuống.
Câu
398: Rồi quỉ Dạ xoa đến xử phạt bằng cách đánh, vả, kẹp cưa.
Câu
399: Cũng bởi vì chửa gió mắng mưa.
Câu
400: Hoặc kêu tên các Đấng Thần, Thánh chẳng chừa hay chẳng kiêng nể gì cả.
Những hình phạt này dành cho tội lỗi do lổ miệng mà ra.
Khẩu nghiệp cũng là một nghiệp rất nặng mà người tu cần phải thận trọng gìn
giữ, trong Thánh thi có viết:
Nho
nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một
câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
Theo Nho giáo, mọi sự thị phi, phiền não cũng đều do miệng mà ra, vì vậy ông
Châu Tử mới khuyên như sau: “Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành. Thị phi
chỉ vị đa khai khẩu, phiền não nhân do cưỡng xuất đầu 守 口 如 缾, 防 意 如 城. 是 非 只 為 多 開 口, 煩 惱 皆 因 強 出 頭”:
Phải giữ miệng kín như miệng bình, phòng ý tứ như giữ thành. Phải trái chỉ do
miệng nói nhiều, phiền não đều ở sự gắng gượng chiều lòn mà ra.
Như vậy, người tu hành cần phải biết khẩu nghiệp mang đến một hình phạt rất
nặng nề. Tỷ như người biết ăn chay, lo cúng kiếng, mỗi khi có ai xúc phạm đến
thì la lối chửi rủa, không kể nhỏ lớn. Đối với Trời đất, việc mưa nắng là sự
thường tình nơi nhơn gian, thế mà lại có kẻ dám “chửi gió mắng mưa”, kêu
tên các bậc Thần Thánh, chẳng kiêng dè nể sợ là gì, khiến nên phải mang tội
hình kinh lạ này.
401. Bàn chông nhọn
liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.
403.
Hành người bế địch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
Bàn
chông nhọn: Một dụng cụ làm bằng miếng bản nhỏ trên đó lởm chởm nhiều hàng
cây đinh nhọn hoặc sắt nhọn, để gài bẫy người. Ở đây, bàn chông nhọn là một
hình cụ dùng để tra khảo tội nhơn nơi Âm phủ.
Bế
địch 閉 糴: Bế là đóng cửa. Địch là Mua
thóc ở xử ngoài mang về xứ mình (nhập cảng). Bế địch: Đồng nghĩa
với bế quan, đóng ải quan, không để cho lúa gạo nhập cảng.
Trợ
hoang 助 荒: Hoang là thất mùa lúa. Trợ hoang:
Trợ giúp nạn thất mùa.
Dân chúng bị thiên tai mất mùa, không có đủ lúa gạo để ăn, cần phải mua lúa gạo
từ nước ngoài để cứu đói, nhưng có những người có thân thế làm cho việc nhập
cảng gạo bị ngưng trệ, giá lúa gạo cao lên, để độc quyền bán ra hầu thâu lợi
thật nhiều.
Thừa
năm hạn đói: Nhơn cơ hội nắng hạn, thất mùa lúa, dân chúng đói khổ.
Mưu
toan bức nghèo: Mưu tính để áp bức dân nghèo.
Câu
401: Hình phạt này bắt tội nhơn nằm lên bàn chông nhọn để đánh khảo liền
liền.
Câu
402: Tra tấn tội nhơn một cách nặng nề những người gian giảo, ngang ngược.
Câu
403: Hình phạt này để hành người tìm cách không cho lúa gạo nhập cảng để
trợ giúp việc thất mùa, khiến cho lúa gạo cao giá, người nghèo khó càng thêm
thiếu đói.
Câu
404: Nhơn dịp những năm hạn hán thất mùa, mưu toan áp bức dân nghèo bằng
cách đầu cơ tích trử.
405. Thành Uổng tử
cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên xiết khóc than.
407.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
Uổng
tử 枉死:
Không đáng chết mà chết, chết một cách oan ức, hay chết oan vì tự tử.
Thành
Uổng Tử: Hay Uổng Tử thành 枉 死 城:
Một cái thành nơi Âm phủ, dùng để giam giữ các vong hồn của người khi ở dương
thế bị chết do tự tử.
Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “Thế tục nói sái rằng, ai bị thác oan thì hồn bị
cầm nơi thành Uổng Tử. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không
xét cho đủ lý, người đã thác oan còn cầm ngục là nghĩa gì? Cho đi thong thả chớ
không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn
oan cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai. Còn thành này (Thành Uổng Tử) để giam
những kẻ vô cớ giận lẫy mà tự giết mình, trầm mình, thắt họng, uống thuốc
độc…giam đỡ đợi hành tội, chưa đặng đầu thai”.
Cheo
leo gớm ghiếc: Đứng sừng sựng một cách vắng lặng ghê gớm.
Cầm
hồn oan: Hay cầm oan hồn 擒 冤 魂:
Giam những hồn bị oan uổng.
Ngỗ
nghịch 忤 逆: Làm trái ý người, ngang bướng, xấc xược.
Tự
vận: Hay tự vẫn 自 刎: Tự mình cắt cổ của mình mà chết, gọi là tự vẫn.
Không
màng thảo ngay: Không kể gì đến chữ hiếu với cha mẹ và chữ trung với đất
nước. Thảo ngay là trung hiếu 忠 孝.
Câu
405: Thành Uổng Tử đứng cheo leo thấy mà gớm ghê.
Câu
406: Trong ấy dùng để giam cầm những oan hồn nên đầy những tiếng rên than
khóc lóc.
Câu
407: Khi còn sống ở Dương gian thì ngỗ nghịch, lăng loàn.
Câu
408: Liều mạng sống mình bằng cách tự vận chẳng kể gì đến việc thảo ngay.
409. Xuống Địa ngục
đọa đày hành mãi,
Đúng số rồi còn phải luân hồi.
411.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu dữ đọa thêm nhồi tội căn.
Đoạ
đày hành mãi: Luôn luôn bị hành hình và bị đày đọa một cách khổ sở.
Đúng
số rồi: Đúng theo số mạng rồi, tức là đúng theo cái nghiệp lực mà mình đã
làm khi còn ở thế gian.
Lành
siêu: Khi ở thế gian làm việc lành thì chểt sẽ được siêu thoát.
Dữ
đọa: Khi ở thế gian làm những việc hung dữ thì chết sẽ bị đọa lạc.
Chúng ta nên biết siêu và đọa là hai đường đi của các Chơn linh. Khi còn ở
Dương thế nếu khôn, lo việc làm lành thì sẽ được siêu thăng vào cõi Thiêng
Liêng Hằng Sống, là nơi Cực Lạc, Vĩnh Hằng; nếu dại làm những việc hung dữ thì
sẽ bị rơi vào đường đọa, cõi Phong đô kềm thúc:
Lành
dữ hai đường đọa với siêu,
Đòn cân tội phước trả mai chiều.
Khôn lên bờ giác làm Tiên Phật,
Dại xuống mê đồ hóa quỉ yêu.
Câu
409: Bị đọa xuống Địa ngục thì hồn bị đày một cách khổ sở và bị hành hình
mãi mãi.
Câu
410: Đúng theo số định rồi thì vong hồn còn phải chịu luân hồi.
Câu
411: Đấng Hóa Công sẽ xem xét hành vi khi còn nơi Dương thế sẽ thưởng phạt
đền bồi.
Câu
412: Lành thì được siêu thăng, dữ thì bị đọa lạc và nhồi thêm những tội
căn.
413.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
415.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
Cầu
Nại Hà: Hay Nại Hà kiều 奈 河 橋:
Tên một con sông. Sách Tuyên Thất Chí của Trương Độc chép: Đổng Quang chết, hồn
đến một con sông rộng không đầy vài thước, nước chảy về hướng tây nam, tục gọi
là cầu Nại Hà, chảy từ Địa phủ ra. Quang nhìn nước thấy toàn là huyết, mùi tanh
hôi không thể chịu được (Hán Việt Từ Nguyên, Bửu Kế).
Theo Phật giáo, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, trong ấy có các loại thủy tộc như
rắn, cua, kình rất dữ tợn. Tội nhơn đến đó không thể nào qua sông đặng, chỉ
những người có đầy đủ phước đức mới đi qua cầu Nại Hà được, còn những kẻ hung
dữ đều bị té nhào xuống sông để cho cua kình rỉa thây.
Ốc
rởn dùn mình: Sợ đến nỗi thân mình da mọc đầy ốc, mình mẩy run bần bật.
Gập
ghình: Không vững chắc, bị lung lay và nhún nhẩy.
Kình 鯨:
Cá kình. Hình tuy là giống cá, nhưng thực ra thuộc về loài thú. Có con to dài
đến tám chín mươi thước.
Câu
413: Trên sông Nại Hà ở cõi Địa ngục có bắc một cây cầu giăng qua sông lớn.
Câu
414: Tội nhơn đi qua cầu đó khiến thân mình sợ hãi rùn mình.
Câu
415 và 416: Qua đến giữa cầu, ván bị gập ghình, hoảng sợ nên chơn bị hụt
mà nhào đầu xuống đó khiến cho cua kình rỉa thây.
417.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
419.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
Mắt
trợn dòm người: Trợn mắt lên dòm ngó người, bởi vì những loại rắn dưới đây
bị đói, khi thấy người đi qua thì ngóng cổ trừng mắt dòm để chờ ăn thịt.
Nuốt sống ăn tươi: Ăn thịt tươi sống, không chặt nấu,
để nguyên như vậy mà ăn.
Móc
bươi: Moi móc chuyện xấu xa của người ta.
Xúi
lời: Lấy lời xúi giục người ta làm điều sái quấy.
Câu
417: Dưới sông đó lại có nhiều thứ rắn trông thấy mặt mày rất nên dữ tợn.
Câu
418: Cổ rắn ngóng lên cao dòm người đi ngang qua cầu Nại Hà.
Câu
419: Những loài rắn đó gặp thây người bèn ăn tươi nuốt sống.
Câu
420: Hình này để phạt những người bày ra thưa kiện, hoặc bươi móc chuyện
xấu, hoặc xúi giục người làm điều sái quấy.
421.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
423.
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
Bay
hơi tanh khét: Hơi tanh hôi và cháy khét bay ra.
Đầy
nghẹt: Nhiều đến nỗi đầy ngập, không còn chỗ chứa.
Quến
gái: Rù quến con gái, tức quyến rũ con gái nhẹ dạ.
Dụ
trai: Dụ dỗ con trai.
Tuyệt
loài: Tuyệt loại 絕 類: Làm tuyệt hẳn nòi giống.
Câu
421: Trong núi lửa, hơi tanh hôi và hơi cháy khét bay xông ra.
Câu
422: Nơi ấy, đầy cả trong lẫn ngoài những linh hồn nghẹt cứng.
Câu
423: Hình phạt trên dùng để hành những người chuyên rù quến con gái và dụ
dỗ con trai.
Câu
424: Bày ra cách dùng thuốc độc phá những bào thai, làm tuyệt nòi giống.
425.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
427.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
Lạc
lầm: Sai lạc và lầm lẫn.
Sám
hối 懺 悔: Hai chữ sám hối là danh từ kết hợp cả tiếng Sanskrit và tiếng
Hán. Sám do chữ Phạn sám ma, là hối hận điều lầm lỗi. Hối:
Tiếc vì đã làm điều lỗi, xin tha thứ.
Sám hối có nghĩa là xin thú nhận những lỗi lầm đã phạm và xin nguyện ăn năn sửa
đổi tội lỗi, từ nay về sau không tái phạm nữa.
Khi có lầm lỗi, muốn cầu Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng tha tội, trước
nhứt chúng ta phải nhờ các Đấng chứng minh để ta phát tâm ăn năn chừa cải.
Trong bài tụng Sám hối bên Phật giáo có bốn câu:
Tội
tánh bổn không do tâm tạo,
罪 性 本 空 由 心 造
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong.
心 若 滅 時 罪 亦 亡
Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không,
罪 亡 心 滅 兩 俱 空
Thị tắc danh vi chân sám hối.
是 則 名 為 真 懺 悔
Nghĩa là:
Tánh của tội vốn là không, do tâm tạo. (vì tâm ý là chủ động)
Động cơ tâm đã diệt rồi thì tội cũng theo đó mà mất.
Tội hết, tâm diệt rồi cả hai đều không.
Thế mới gọi là chân sám hối (Sám hối chân thật).
Tội lỗi do tâm sinh ra, rồi cũng do tâm diệt đi, tâm diệt hết thì tội lỗi cũng
không còn.
Ba
giềng: Ba giềng mối, dịch từ chữ Tam cang, gồm: Quân thần cang, phụ tử
cang, phu thê cang.
Năm
Hằng: Năm đạo hằng, dịch từ Ngũ thường, gồm: Nhân, nghĩa, Lễ, trí, tín.
Câu
425: Làm người sống ở thế gian, có mấy ai mà chẳng mang tội lỗi.
Câu
426: Nếu biết được lỗi lầm thì nên sám hối những tội căn của mình.
Con người sống ở thế gian có mấy ai không bị lầm lỗi, khi đã biết lỗi rồi phải
sám hối ăn năn.
Có người không tự xét lấy mình, nên chẳng biết mình có lỗi, như có ai chỉ cho
mình điều sái quấy thì phải vui vẻ nhận lấy như thầy Tử Lộ đã từng làm, như thế
mới có khí tượng của bậc Thánh hiền: Cáo hữu quá tắc hỷ, hữu Thánh hiền khí
tượng 告 有 過 則 喜, 有 聖 賢 氣 像.
Có người biết mình quấy mà không chừa không cải, thì là mình tự che lấy cho
mình đừng biết vậy: Hữu quá bất tri giả tự tế chi dã 有 過 不 知 者 自 蔽 之 也.
Lại có người biết lỗi mà không chịu ăn năn hối cải thì cái lỗi ấy thực là càng
thái quá thêm: Quá nhi bất cải thị vị quá hỹ 過 而 不 改 是 謂 過 矣.
Như vậy, mình phải biết nghe lời sửa lỗi của người. Khi biết mình có lỗi lầm thì
phải ăn năn hối ngộ sửa cải tánh tình, để trở về với nẻo chánh đường chơn mà lo
tu thân lập đức.
Câu
427: Phải biết ăn năn để tu tâm sửa tánh.
Câu
428: Nắm giữ tam cang, và chẳng nên lơi lỏng đạo ngũ thường.
429.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
431.
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Tưởng
Trời tin Phật: Tin tưởng Trời Phật.
Kính
thành: Kính trọng một cách thành thật.
Lâm
nguy 臨 危: Gặp sự nguy hiểm.
Nguyện
vái làm lành: Cầu nguyện và van vái các Đấng sẽ làm những điều lành.
Tai
qua: Tai nạn đã đi qua, tức là đã hết tai nạn.
Phụ
vong 負 忘: Quên lời, không nhớ lời nguyện vái.
Câu
429 và 430: Ngặt có những kẻ bên ngoài tuy là tin tưởng Trời Phật, nhưng
trong lòng không thật sự là kính thành.
Câu
431: Lúc gặp tai nạn thì cầu nguyện, vái van sẽ làm phải làm lành.
Câu
432: Đến khi tai qua nạn khỏi rồi thì lòng không nhớ những lời vái van ấy
nữa.
Ở
cõi thế gian này, có nhiều người vì quyền lợi nên không sống thật với lòng
mình. Trong đoạn trên của kinh Sám Hối có những câu:
Thêm
những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Hoặc:
Làm
mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Tất cả những hạng người đó tuy là có tin Trời tưởng Phật, song trong lòng họ
chẳng thật sự có lòng thành kính. Bởi nếu biết thành kính Trời Phật, thì phải
noi theo tánh từ bi của các Đấng ấy, tức là có lòng thương yêu tất cả chúng
sanh. Mà hễ có lòng hiếu sanh thì họ nỡ lòng nào dối người để lấy của thập
phương châu cấp cho vợ con, và nỡ nào bức ép những kẻ nghèo khổ cố đất cầm
vườn. Và người có lòng tin tưởng chân thật vào Đức Chí Tôn và chư Phật thì dù
hoàn cảnh nào cũng noi theo lòng bác ái các Đấng Thiêng Liêng ấy, chứ không đợi
lúc lâm nguy mới nguyện làm việc lành, đến chừng tai nạn qua khỏi rồi thì quên
hết mọi điều đã nguyện vái.
Người thật sự là tin tưởng Trời Phật thì lúc nào cũng làm lành, không phải đợi
lúc lâm nguy mới làm lành, mà thành thực làm lành vì thể theo đức háo sanh của
Trời Phật.
433.
Chớ thái quá đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
435.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
Thái
quá 太 過: Quá mức độ.
Bất
cập 不 及: Chẳng kịp, thua sút.
Thiệt
rày: Từ nay về sau mới thiệt là.
Phước
duyên 福 緣: Cái duyên phước đức, hay cái duyên may mắn tốt lành.
Câu
433: Sống ở trên đời, làm việc gì chẳng nên thái quá mà cũng không nên bất
cập.
Câu
434: Phương pháp tu hành là phải luyện tập hằng ngày.
Thời xưa các Nho gia thường khuyên người ta đừng thái quá cũng đừng bất cập, mà
phải giữ thái độ trung dung.
Đạo Trung dung theo Khổng Mạnh là một qui tắc hành động của bậc hiền minh, hợp
với lẽ đương nhiên, không thái quá, không bất cập, song phải biết quyền biến,
biết tùy thời, tùy cảnh ngộ, tùy địa vị mà xử sự, lúc nên làm thì làm, lúc
không nên làm thì không làm. Nghĩa là phải cho hợp tình hợp lý chứ không chấp
nhứt.
Đây là thái độ của người Quân tử theo đạo Trung dung: Người quân tử cứ theo địa
vị mình mà ăn ở, không cần ở ngoài; địa vị giàu sang thì ăn ở theo cách giàu
sang; địa vị nghèo hèn thì ăn ở cách nghèo hèn; ở nơi mọi rợ thì ăn ở theo cách
mọi rợ; ở vào lúc hoạn nạn thì ăn ở theo cảnh hoạn nạn. Người quân tử ở vào
cảnh nào cũng tự đắc (tức là vui vẻ, thản nhiên) (Quân tử tố kỳ vị nhi hành,
bất nguyện hồ kỳ ngoại; tố phú quý hành hồ phú quý; tố bần tiện hành hồ bần
tiện; tố di địch hành hồ di địch; tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập
nhi bất đắc yên 君 子 其 位 而 行, 不 願 乎 其 外, 素 富 貴 行 乎 富 貴, 素 貧 賤 行 乎 貧 賤, 素 夷 狄 行 乎 夷 狄,素 患 難 行 乎 患 難, 君 子 無 入 而 不 自 得 焉).
Người tu thì lấy đường trung đạo mà tu tập, phải tránh xa hai cực đoan, tức là
giữ thái độ vô chấp, vô trụ, là không bị lệ thuộc vào định kiến nào và không bị
đóng khung trong một phạm trù tư tưởng nào, cứ theo mức trung mà hằng ngày tu
tập.
Câu
435: Làm những điều lành, xem những điều phải và nói những điều ngay thật.
Câu
436: Nếu giữ được ba điều trên thì thiệt là có cái duyên phước đức rất lớn.
437. Lời kệ sám di
truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
439.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?
Kệ 偈: Bài thơ ngắn, bài văn vần tóm tắt đại ý một đoạn hay một bài
kinh, một bài thuyết pháp để ca ngợi công đức của Bồ Tát, chư Phật.
Kệ còn là một bài ca chứng đạo của các vị Thiền sư.
Sau
đây là một bài Kệ của Lục Tổ Huệ Năng:
Bồ
đề bổn vô thọ,
菩 提 本 無 樹
Minh kính diệc phi đài.
明 鏡 亦 非 臺
Bổn
lai vô nhất vật.
本 來 無 一 物
Hà
xứ nhạ trần ai.
何 處 惹 塵 埃
Sám 懺: Ăn năn những điều lầm lỗi và thật lòng hối cải.
Lời
kệ sám: Những lời kinh kệ để sám hối ăn năn. Ở đây, chỉ bài Kinh Sám Hối.
Di
truyền 遺 傳: Truyền để lại, truyền lại cho những người sau này.
Khuyến
thiện 勸 善: Khuyên làm việc lành.
Văn
từ 文 詞: Văn chương chữ nghĩa.
Luận
biện 論 辨: Bàn bạc phân biệt cho rõ ràng.
Những
tiếng sâu xa: Những từ ngữ hay ý tưởng cao sâu khó hiểu.
E
ra không thấu: E sợ rằng không hiểu thấu nổi.
Diễn
ra: Trình bày ra.
Câu
437: Lời kinh Sám Hối truyền để lại mục đích để khuyên răn làm điều thiện.
Câu
438: Văn từ của bài kinh nhằm để phổ thông mọi giới nên luận biện thật thà.
Câu
439: Lời kinh chẳng dùng những từ ngữ hay những ý tưởng cao sâu.
Câu
440: Vì e sợ rằng không hiểu thấu nổi, trình bày có ích chi đâu.
Như ta đã biết, mục đích của bài kinh Sám Hối, như tên gọi khi xưa “Kinh
Nhơn Quả”, là nêu lên thuyết luân hồi nhơn quả, nhằm răn dạy cho chúng sanh
tránh xa điều tội lỗi, ác đức, khuyên người làm việc lương thiện, phước lành.
Nhưng chúng sanh phần đông là những hạng người bình dân ít học, vì vậy, ngôn
ngữ trong bài kinh Sám Hối được các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho không
dùng những lời lẽ cao xa, cầu kỳ, vì e rằng người học ít sẽ không hiểu thấu,
nên mới dùng lời văn bình dị, mộc mạc để tất cả mọi giới đều có thể tiếp thu,
nhận biết.
441. Chớ buông tiếng
thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
443.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.
Buông
tiếng: Tỏ ra những lời nói thiếu suy nghĩ, nói một cách bừa bãi.
Thị
phi 是 非: Phải và trái.
Nhơn
nghĩa giữ tròn: Giữ gìn trọn vẹn điều nhơn nghĩa.
Bóng
khuất: Hay khuất bóng ý nói đã chết rồi, tức là hình bóng khuất dạng trên
cõi đời.
Tiếng
còn bay xa: Tiếng thơm còn lưu lại bay khắp nơi.
Câu
441: Chẳng nên thiếu suy xét mà tỏ ra lời khiến thị phi khinh dể.
Câu
442: Mà hãy rán làm việc lành để phước đức lại cho cháu con.
Câu
443: Làm con người phải gìn giữ điều nhơn nghĩa cho trọn vẹn.
Câu
444: Dù muôn năm hình bóng có khuất dạng trên cõi đời này thì tiếng tăm,
danh thể còn lưu lại.
KINH SÁM HỐI 2
******
201.
Thà tiết kiệm hằng ngày no đủ,
Tánh siêng năng lam lũ làm ăn.
203. Lòng
chừa biếng nhác kiêu căng
Của tiền lãng phí không ngằn phải tiêu.
Tiết
kiệm 節 儉: Hay cần kiệm, tức ăn xài có chừng mực, không tiêu xài hoang phí.
Người xưa thường dạy: Cẩn tắc vô ưu, nhẫn tắc vô nhục, tịnh tắc thường
an, kiệm tắc thường túc 謹 則 無 憂, 忍 則 無 辱; 靖 則 常 安, 儉 則 常 足:
Cẩn thận thì khỏi lo, nhẫn nhịn thì khỏi nhục, tĩnh lặng thường yên, cần
kiệm thường đủ.
Đức kiệm cũng được Đức Chí Tôn dạy như sau: “Vì tại sao Thầy muốn các con
mặc đồ bô vải chăng? Vì bô vải là tấm gương đạo đức, các con đã rõ đạo thì biết
đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian nầy.
Như sự lãng phí se sua ở đời nầy, Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy”.
Lam
lũ 襤 褸: Áo quần rách rưới hôi hám.
Lam
lũ làm ăn: Chịu đựng sự rách rưới, nghèo khổ và vất vả để lo làm ăn.
Biếng
nhác: Lười biếng, không siêng năng.
Kiêu
căng 驕 矜: Khoe khoang ngạo mạn, tức là ỷ tài giỏi lên mặt khinh khi người.
Lãng
phí 浪 費: Tiêu xài phóng túng, tức là ăn mặc, tiêu pha hoang phí, không
tiết kiệm.
Không
ngằn: Không cần thiết, không tới mức phải tiêu xài.
Câu
201: Thà rằng tiêu xài có chừng mực miễn hằng ngày được no đủ mà thôi.
Câu
202: Tánh tình phải siêng năng cần cù, chịu đựng vất vả để lo làm ăn.
Câu
203: Lòng nên chừa bỏ tật lười biếng và tánh kiêu căng.
Câu
204: Tiền của không nên tiêu xài lãng phí, phải tiêu xài cho có chừng mực.
205.
Lòng Trời Đất thương đều muôn vật,
Đức háo sanh Tiên, Phật một màu.
207.
Thượng cầm hạ thú lao xao,
Côn trùng thảo mộc loài nào chẳng linh.
Thương
đều muôn vật: Thương yêu muôn sinh vật đồng đều như nhau.
Háo
sanh 好 生: Hay hiếu sinh là ưa thích sự sống, thương yêu mạng sống.
Đức háo sanh là Thánh chất của Chí Tôn. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Ngài có
dạy: “Chi chi hữu sanh cũng bởi Chơn linh Thầy mà ra, hễ có sự sống ắt có
Thầy. Thầy là cha của sự sống. Vì vậy lòng háo sanh của Thầy không
cùng tận”.
Một
màu: Giống hệt như nhau.
Thượng
cầm 上 禽: Các loài chim bay ở trên trời.
Hạ
thú 下 獸: Các loài thú sống ở dưới đất.
Lao
xao: Rộn rịp lên.
Côn
trùng 昆 蟲: Côn là đông đúc. Trùng là sâu
bọ. Côn trùng: Danh từ dùng để gọi tất cả loài sâu bọ.
Thảo
mộc 草 木: Các loại cây cỏ.
Câu
205: Đối với muôn vật, lòng của Trời đất thương yêu đồng đều nhau.
Câu
206: Đức háo sanh của các Đấng Tiên, Phật cũng giống hệt như nhau.
Câu
207: Trên thì các loài chim, dưới thì các loài thú sống lao xao nơi cõi
thế gian.
Câu
208: Các loài côn trùng, cây cỏ loài nào mà chẳng linh.
Tạo hóa có công sinh thành, nuôi dưỡng con người và vạn vật. Mỗi Chơn linh mà
Ngài sinh hóa ra, dù lớn dù nhỏ đều có điểm Linh quang của Ngài chiết ra, cho
nên đối với muôn vật, từ côn trùng thảo mộc, đến loài cầm thú và con người,
ngài đều thương yêu như nhau, che chở như nhau.
Chư Tiên Phật cũng thế, là các Đấng từ bi cũng lấy lòng Trời làm lòng mình,
chính vì vậy, Tiên Phật cũng như Thượng Đế đều có lòng hiếu sinh. Thánh giáo
Thầy có dạy: “Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa
sanh cũng vậy, đến thế này lâu mau đều định trước. Nếu ai giết mạng sống, đều
chịu quả báo không sai, biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên Phật bị
đọa luân hồi mà ra đến đỗi ấy. Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không
phải dễ. Các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy”.
Theo Đạo Đức Kinh của Lão Tử, Trời đất sở dĩ trường cửu là vì Trời đất không
sống cho mình; bậc Thánh nhân nên theo gương ấy. Ngài nói: Trời đất sở dĩ được
dài và lâu, là vì không sống cho mình, nên mới đặng trường sanh. Vì vậy Thánh
nhân để thân ra sau mà thân ở trước, để thân ra ngoài mà thân đặng còn (Thiên
địa sở dĩ năng trường thả cửu giả, dĩ kỳ bất tự sanh, cố năng trường sanh. Thị
dĩ Thánh nhân, hậu kỳ thân nhi thân tiên, ngoại kỳ thân nhi thân tồn 天 地 所 以 能 長 且久 者, 以 其 不 自 生, 故 能 長 生. 是 以 聖 人 後 其 身 而 身 先, 外 其 身 而 身 存).
209.
Nó cũng muốn như mình đặng sống,
Nỡ lòng nào tuyệt giống dứt nòi.
211.
Bền công kinh sách xem coi,
Vô can sát mạng thiệt thòi rất oan.
Tuyệt 絕:
Chấm dứt, dứt tuyệt.
Tuyệt
giống dứt nòi: Dứt tuyệt nòi giống. Hán thường dùng từ tuyệt chủng 絕 種.
Bền
công: Ra công một cách bền bỉ.
Kinh
sách: Sách làm nền tảng của một triết thuyết hay một Tôn giáo. Ví dụ như:
Ngũ kinh trong Nho giáo, Đạo Đức kinh trong Lão giáo, Tam Tạng kinh trong Phật
giáo và Kinh Thánh của Công giáo.
Trong một bài kinh những lời chỉ dạy, những bài giảng hay thuyết pháp của các
Đấng nói lên thật tướng của Chân lý (Pháp) để giáo hóa các đệ tử hay chúng sanh
tu tập hầu đạt đến Chân Thiện Mỹ, hoặc giác ngộ giải thoát.
Kinh sách của Tôn giáo tức là con đường dẫn dắt tâm chúng sanh đi vào đường
thanh tịnh, khi ý bị phiền não khởi, ta cầm cuốn kinh đọc thì mọi phiền não sẽ
được xua tan.
Ngoài
ra, phải hiểu được ý nghĩa của kinh, chúng ta mới ứng dụng được lời của các
Đấng dạy vào sự tu tập cho mình. Như thế Kinh mới có giá trị thực đối với chúng
ta, bằng không thấu suốt nghĩa lý kinh mà cứ đọc tụng hằng ngày đêm, ấy chỉ là
từ chương hoặc mê tín. Đọc kinh cầu lý, có vượt qua văn tự mới đạt lý, chứng
tri.
Vô
can 無 干: Không can dự tới, không dính líu tới.
Sát
mạng: Hay sát mệnh 殺 命: Giết chết mạng sống.
Thiệt
thòi: Chịu thua thiệt.
Câu
209: Loài cầm thú và côn trùng thảo mộc, giống như con người, nó cũng muốn
được sống còn.
Câu
210: Chúng ta nỡ lòng nào mà dứt tuyệt nòi giống của nó.
Mỗi sinh vật dù lớn nhỏ đều thọ một điểm Chơn linh của Đức Thượng Đế, đều được
Ngài thương yêu đồng đều như nhau, đều được quyền sống ở cõi thế gian như nhau.
Lại nữa, do bản năng sinh tồn mà mọi loài đều ham sống sợ chết. Vì thế, ai sát
hại sinh mạng của một loài vật thì sẽ bị ác báo, người nào cứu mạng một sinh
vật sẽ được thiện báo. Câu chuyện sau đây cho thấy phước báo của sự bảo vệ sanh
linh, dù là vật bé nhỏ.
Thuở xưa, có một vị La Hán ở trên núi Tuyết đã chứng lục thông, thấy rõ việc
trong ba đời như xem việc trước mắt. Ngài có nuôi một vị thiếu niên Sa di làm
đệ tử.
Một hôm, vị thiếu niên đứng hầu bên cạnh thầy, vị La Hán xem qua sắc tướng rồi
cho biết vị đệ tử đã hết phước báo, sau bảy ngày nữa sẽ chết. Thiếu niên Sa di
nghe được sự việc chỉ biết đau đớn đảnh lễ thầy rồi từ tạ trở về nhà.
Trên đường về, gặp phải trận mưa lớn, người thiếu niên rẽ qua con đường hẻm
thấy một bầy kiến nhỏ đang chơi vơi trên một dòng nước nhỏ chảy ngang qua
đường. Bầy kiến hết sức chống đỡ, nhưng vô hiệu, vì thân nhỏ sức yếu mà dòng
nước quá mạnh, nên đành để dòng nước đưa về cõi chết.
Thiếu niên Sa di thấy vậy, động lòng từ bi, liền cởi chiếc áo đang mặc trong
mình ngăn ngang dòng nước, để đàn kiến có chỗ leo vào, những con kiệt sức không
leo được, thiếu niên nhẹ tay bắt từng con bỏ vào áo, rồi đem vào nơi khô ráo.
Sau khi xem xét thấy cứu hết bầy kiến, thiếu niên mới yên lòng trở về nhà.
Trong thời gian bảy ngày, chàng thiếu niên lo sợ chờ ngày mạng chung. Nhưng đến
ngày thứ tám, thiếu niên thấy không có gì xảy đến, mình vẫn còn sống. Chàng
thiếu niên mừng vui, tìm đến gặp thầy.
Vị La hán hết sức ngạc nhiên, Ngài liền nhập định dùng diệu trí quán xét mới
biết đệ tử mình do công đức cứu bầy kiến nên cải được tử mệnh, lại còn được
sống lâu nữa. Sau khi xuất định, vị La hán cho đệ tử mình biết và cho rằng có
lòng từ bi mà cứu vớt sinh linh thì công đức ấy vô lượng.
Câu
211: Lúc rảnh rỗi, hãy bền lòng mà xem coi kinh sách.
Câu
212: Các loài đó không hại đến mình mà giết chết nó thì thiệt thòi và rất
nên oan uổng.
213.
Chớ kiếm thế gọi ngoan xảo trá,
Lưới rập chim, thuốc cá, đốt rừng
215.
Thương thay phá noãn lẫy lừng,
Tội căn báo ứng biết chừng nào an.
Kiếm
thế: Tìm kiếm phương thế, tìm cách này cách nọ.
Ngoan:
Khôn ngoan.
Xảo
trá 巧 詐: Xảo quyệt dối trá, tức dối trá một cách khéo léo.
Lưới
rập chim: Dùng lưới làm bẫy để bắt chim.
Thuốc
cá: Dùng thuốc độc để bắt cá.
Đốt
rừng: Đốt cháy rừng để thú chạy ra mà bắt, tức săn đốt thú rừng.
Phá
noãn 破 卵: Noãn là trứng. Thọc phá tổ chim để lấy trứng.
Lẫy
lừng: Vang dội. Ở đây, dùng với nghĩa dẫy đầy.
Tội
căn báo ứng 罪 根 報 應: Gây điều tội lỗi tạo thành gốc rễ cho việc báo ứng.
Câu
213: Chớ tìm cách gian xảo mà làm rồi cho rằng mình khôn ngoan.
Câu
214: Giăng lưới bắt chim, thuốc độc bắt cá, đốt rừng bắt thú.
Câu
215: Thương thay chọc phá tổ chim, gây nên những việc hung dữ dẫy đầy.
Câu
216: Những tội lỗi đó sẽ bị báo ứng biết chừng nào yên được.
217.
Lại có kẻ hung hoang ác nghiệt,
Cướp giựt rồi chém giết mạng người
219.
Đoàn năm, lũ bảy dạo chơi,
Hiếp người lương thiện, phá đời hại dân.
Ác
nghiệt 惡 孽: Mang sẵn mầm hung dữ, ác độc.
Đoàn
năm lũ bảy: Cùng nghĩa với Tụ năm dụm bảy, tức là tụ tập thành nhóm năm bảy
đứa.
Hiếp
người lương thiện: Hiếp đáp người hiền lành, cưỡng bức người lương thiện.
Phá
đời hại dân: Phá phách người đời, báo hại nhân dân.
Câu
217: Lại có những người hung dữ gây ra nhiều ác nghiệt.
Câu
218: Đã cướp giựt đồ vật rồi lại chém giết mạng người.
Câu
219: Tụ tập thành nhóm năm bảy đứa để đi lang thang, phá tán.
Câu
220: Hiếp đáp người hiền lương, phá phách người đời và báo hại nhân dân.
221.
Tua khá tưởng thương lần nòi giống
Hãy xét vì mạng sống khó cầu.
223.
Cũng đừng bài bạc lận nhau,
Rủ ren rù quến, lấy xâu ăn đầu.
Tua
khá tưởng: Nên tưởng nghĩ đến, khá nên nghĩ tới.
Mạng
sống khó cầu: Cái sinh mạng khó cầu xin đặng, cái mạng sống khó tìm cầu
đặng.
Bài
bạc lận nhau: Cờ bạc gian lận với nhau.
Rù
quến: Dụ dỗ.
Lấy
xâu: Hay lấy tiền xâu, tức là tiền công tổ chức đánh bạc hoặc chứa cờ bạc.
Ăn
đầu: Ăn tiền đầu.
Câu
221: Khá nên nghĩ thương yêu đến nòi giống.
Câu
222: Hãy xét vì mạng sống của con người khó mà cầu xin được.
Câu
223: Cũng đừng nên đánh bài đánh bạc để gian lận nhau.
Câu
224: Dụ dỗ rủ ren người đến đánh bạc để lấy tiền xâu hoặc ăn tiền đầu.
Cờ bạc là môn chơi rất tai hại, vì nó có thể làm táng gia bại sản, làm mất hạnh
phúc gia đình, làm cho con người sa đọa, trộm cướp, giết người, mang thân tù
tội. Chính vì thế, người bình dân thường khuyên dạy câu:
Cờ
bạc là bác thằng bần,
Ruộng vườn bán hết, chôn chân vào cùm.
Ông Bàng Đức Công cũng có bài thi dạy răn con về cờ bạc như sau:
Phàm
nhơn bá nghệ hảo tùy thân,
凡 人 百 藝 好 隨 身
Đổ bác môn trung mạc khứ thân,
賭 博 門 中 莫 去 親
Năng sử anh hùng vi hạ tiện,
能 使 英 雄 為 下 賤
Giải giao phú quí tác cơ bần.
解 教 富 貴 作 饑 貧
Y sam lam lũ thân bằng tiếu,
衣 衫 襤 褸 親 朋 笑
Điền địa tiêu ma cốt nhục sân.
田 地 消 磨 骨 肉 嗔
Bất tín đản khán hương đảng nội,
不 信 但 看 鄉 黨 內
Nhãn tiền suy bại kỷ đa nhân.
眼 前 衰 敗 幾 多 人
DỊCH
VẦN
Hễ
biết nghề nào cũng ấm thân,
Mấy nơi cờ bạc chẳng nên gần.
Anh hùng mắc phải ra hèn hạ,
Phú quí lâm rồi lại khó khăn!
Quần áo tả tơi bằng hữu nhạo,
Ruộng vườn hao hớt chị em dần.
Chẳng tin thì ngó trong làng xóm,
Thua thiệt nhiều người ít kẻ ăn.
(Minh
Tâm Bửu Giám)
225.
Phải hiểu biết máy sâu họa kín,
Thánh, Thần đâu tư lịnh bỏ qua.
227.
Thường ngày tuần khắp xét tra,
Phạt người hung ác đọa sa A Tỳ.
Máy
sâu: Do chữ cơ thâm 機 深: Lòng dạ sâu hiểm.
Người xưa nhận thấy sự phát động của tâm như máy móc nên gọi là cơ tâm 機 心. Trong
Hán Việt có từ Cơ tâm 機 心: Cái lòng biến trá khéo léo, giống như máy móc, tâm con người ẩn
bên trong những mưu mô xảo quyệt để đối xử nhau, giết hại lẫn nhau, không chút
thương yêu, không lòng đạo đức. Đấy là bản tâm con người trong thời hạ nguơn
mạt Pháp, trong thời xu hướng theo văn minh vật chất, mà quên đi luân thường
đạo đức.
Trang
Tử có câu: “Hữu cơ giới giả, tất hữu cơ sự, hữu cơ sự giả tất hữu cơ
tâm 有 機 械 者, 必 有 機 事, 有 機 事 者, 必 有 機 心”: Có cơ giới tất có cơ sự, có cơ sự tất có cơ tâm.
Thành Huyền Anh chú rằng: Có đồ máy móc tất có chuyện chuyển đổi, có việc
chuyển đổi tất sinh lòng đổi thay theo việc.
Họa
kín: Tai họa ngầm đến, bởi vì tai họa không lộ ra, chừng đến thì mới biết.
Tai họa do con người tự rước lấy, nên Bàng Đức Công có dạy con rằng: Lượng đại
phước diệc đại, cơ thâm họa diệc thâm 量 大 福 亦 大, 機 深 禍 亦 深:
Hễ con người có độ lượng ăn ở rộng rãi, khoan dung càng lớn thì cái phước người
ấy lớn theo; hễ lòng dạ sâu hiểm hẹp hòi bao nhiêu thì cái tai họa
ngầm đến với người ấy cũng bấy nhiêu!
Máy
sâu họa kín: Lòng dạ sâu hiểm thì tai họa ngầm đến.
Tư
lịnh: Hay tư lệnh 私 令: Ra lịnh theo ý riêng tư của mình.
Tuần
khắp xét tra: Đi canh tuần khắp mọi nơi để tra xét.
Đọa
sa: Đọa 墮 là
phạt xuống cõi khổ sở, thấp kém. Sa là rơi xuống. Đọa
sa: Phạt đày xuống cõi Địa ngục, A tỳ.
A
tỳ 阿 鼻: Phiên âm từ Phạn ngữ Avici, nghĩa là “vô gián” tức là không gián
đoạn, không ngừng nghỉ. Vô gián Địa ngục hay A tỳ địa ngục là nơi thấp kém nhứt
trong mười cửa Địa ngục, giam những người phạm tội ngũ nghịch.
Đây là một cõi Địa ngục chịu tội báo nặng nề nhứt, bởi vì các hình khổ nơi đây
liên tục triền miên không ngừng và linh hồn phải chịu ở đó đời đời kiếp kiếp.
Câu
225: Phải nên biết rằng lòng dạ càng sâu hiểm thì tai họa sâu kín sẽ ngầm
đến.
Câu
226: Thánh Thần không bao giờ tư lịnh mà bỏ qua bao giờ.
Câu
227: Thường ngày, Thần, Thánh tuần khắp mọi nơi để tra xét.
Câu
228: Những người có hành vi hung ác sẽ bị phạt đọa xuống A tỳ địa ngục.
229.
Sống dương thế hành thì căn bịnh,
Xui tai nàn dấp dính theo mình.
231.
Ăn năn khử ám hồi minh,
Từ bi Trời Phật rộng tình xét cho.
Dương
thế 陽 世: Hay dương gian là cõi thế gian, nơi ở của những người đang sống.
Căn
bịnh: Hay bệnh căn 病 根, còn được gọi là bệnh nghiệp: Là bịnh do những hành vi hung ác từ
trước tạo nên căn nghiệp mà báo ứng trong hiện kiếp. Bịnh này làm cho người thọ
lãnh phải chịu đau khổ triền miên để trả nghiệp, nên không có thuốc nào điều
trị được, chỉ khi nào hết nghiệp là mới hết bịnh.
Tử Đồng Đế Quân có để lời dạy như sau: Cái bịnh oan nghiệt thì
thuốc hay khó chửa cho lành, của hoạnh tài không có thể làm cho người mạng cùng
giàu được (Diệu dược nan y oan trái bệnh, hoạnh tài bất phú mệnh cùng nhân 妙 藥 難 醫 冤 債 病, 橫 財 不 富 命 窮 人).
Dấp
dính: Dính líu, dính dấp.
Khử
ám hồi minh 去 暗 迴 明: Từ bỏ nơi đen tối để trở về chỗ sáng lạn. Nghĩa là bỏ nẻo tà để
trở về với đường chánh.
Từ
bi Trời Phật rộng tình xét cho: Biết ăn năn, sám hối lỗi lầm thì Trời Phật
vì lòng đại từ đại bi sẽ tha thứ tội tình cho.
Câu
229: Người làm ác, khi còn sống thì hành cho mang bệnh căn nghiệp.
Câu
230: Xui khiến những tai nạn thường dính dấp bên mình.
Câu
231: Làm người phải biết ăn năn từ bỏ nẻo tà để trở về với con đường chánh.
Câu
232: Lòng từ bi của Đức Chí Tôn và chư Phật sẽ rộng tình tha thứ cho.
Cuộc sống luôn thay đổi, vô thường. Con người thì luôn khao khát ước mơ được
mạnh khỏe, yên ổn. Chính vì thế, con người mới tìm đến tín ngưỡng của tôn giáo,
để có sự “bảo vệ” che chỡ của các Đấng Thượng Đế và chư Thần Thánh Tiên Phật.
Nên khi có những bệnh tật nguy hiểm, tai nạn đột xuất thì con người thường hay
sợ sệt, cầu xin. Điều này do bởi con người không hiểu lý nhơn quả mà thôi.
Chúng ta phải hiểu rằng bệnh tật, tai nạn xảy ra cũng chỉ là do nghiệp lực ta
làm từ trước, nên ta cần phải tránh bằng cách không gieo nghiệp dữ, cố gắng tạo
nghiệp lành. Nhưng rủi như gặp cảnh ấy, thì chúng ta cũng cần phải chấp nhận
trả, một mặt chúng ta phải tạo nghiệp lành để trừ bớt những tội căn đã gây ra.
Lòng từ bi của Trời Phật cũng giống như ánh sáng mặt trời chiếu rọi khắp mọi
nơi, muôn vật nơi thế gian bất kể lớn hay nhỏ đều được ánh sáng mặt trời rọi
đến, nhưng tùy theo mỗi vật tiếp thu ánh sáng đó tự chuyển hóa để có lợi ích
cho chính bản thân mình vậy.
233.
Đừng cố oán thầm lo gây họa,
Đem lòng thù hăm dọa rấp đường.
235.
Đốt nhà, tháo cống, phá mương,
Nước tràn lụt ngập ruộng vườn tan hoang.
Đừng
cố oán: Chẳng nên cố tâm thù oán, chớ nên giữ lòng thù hận.
Thầm
lo gây họa: Âm thầm lo tính gây họa cho kẻ khác.
Rấp
đường: Rào bít đường đi, ngăn lấp lối đi của người.
Tháo
cống: Tháo cống nước, tức là mở miệng cống để cho nước chảy ra ngoài.
Phá
mương: Phá miệng của con mương để nước chảy thoát, tràn ra ngoài.
Tan
hoang: Tan vỡ hoang tàn, chỉ sự tiêu tan hết.
Câu
233: Đừng cố tâm oán thù rồi âm thầm tìm cách gây tai họa cho người.
Câu
234: Đem lòng thù hằn người rồi hăm dọa bít đường rấp ngõ.
Câu
235 và 236: Đốt nhà, tháo nước cống hay phá miệng mương để nước chảy tràn
ra ngoài khiến cho ngập lụt, ruộng vườn người hư hại tan hoang.
237.
Thêm liều mạng đặng toan đổ tội,
Cho người hiền chịu lỗi vương mang.
239.
Khi hồn lìa khỏi trần gian,
Hóa ra ngạ quỉ cơ hàn khổ thân.
Liều
mạng: Làm càn không kể mạng số, tức là biết rằng làm việc đó có hại cho
sanh mạng nhưng vẫn cứ làm càn.
Đổ
tội: Tội lỗi của mình đem đổ trút lên người khác.
Chịu
lỗi vương mang: Chịu vướng mắc vào tội lỗi.
Hồn
lìa khỏi trần gian: Triết lý Cao Đài cho rằng con người có Linh hồn, còn
được gọi là Chơn linh hay Tiểu linh quang, là một thể do Đức Chí Tôn ban cho,
nên có thể nói cõi giới của Linh hồn là cảnh Thiêng Liêng Hằng Sống. Vì vậy,
khi con người vừa trút hơi thở cuối cùng thì Chơn thần, và Chơn linh sẽ thoát
ra thân xác để lìa khỏi trần gian, tùy theo nghiệp lực dẫn dắt mà trở về Thiên
cảnh nhẹ nhàng hay cõi Âm quang đen tối để giải thần định trí.
Ngạ
quỉ 餓 鬼: Cô hồn, quỉ đói. Một trong tam ác đạo của Phật là cõi Địa ngục,
cõi Ngạ quỉ và cõi Súc sinh.
Theo giáo lý Phật, ngạ quỉ là loài quỉ phải chịu đói khát khổ sở, chúng không
ăn uống gì được, bởi vì bụng rất lớn mà miệng thì nhỏ như lỗ kim.
Người ta cho rằng người sống trên cõi dương trần có tánh keo kiệt, độc ác, hay
ganh ghét, khi chết chơn hồn bị phạt làm ngạ quỉ.
Tại các chùa trước mỗi bữa ăn thường có lệ cúng thí thực cô hồn ngạ quỉ.
Cơ
hàn 飢 寒: Đói và lạnh.
Câu
237: Có kẻ liều mạng để toan tính đổ những tội lỗi của mình cho người khác.
Câu
238:Khiến cho người hiền lương phải chịu vương mang lỗi lầm.
Câu
239: Khi chết, hồn sẽ lìa khỏi cảnh trần gian.
Câu
240: Hóa làm ngạ quỉ chịu đói khát, lạnh lùng một cách khổ sở.
Theo truyện cổ Phật giáo, Ngài Mục Kiền Liên mới đắc được thần thông từ trên
núi Kỳ Xà Quật đi xuống do nhờ nhãn thông mà thấy được các ngạ quỉ.
Khi Ngài về chùa Trúc Lâm gần thành Vương Xá vào buổi chiều, bạch câu chuyện
ngạ quỉ vừa thấy buổi sáng với Đức Phật. Nhân dịp ấy Đức Thế Tôn mới nói rằng:
- Các thứ ngạ quỉ này Như Lai từng thấy nhiều lần, nhưng không muốn đem ra nói
cho ai, vì không bằng cớ là không có ngươi thứ nhì cùng biết. Nay có Mục Kiền
Liên tuệ nhãn đã phát sanh, được thấy các ngạ quỉ ấy cũng như Như Lai.
Theo Ngạ quỉ kinh giải, các thứ ngạ quỉ này xưa kia là những
người trong xứ Ma Kiệt Đà, đã làm những điều tội ác, có 24 thứ ngạ quỉ, phần
nhiều các thứ này đều còn sót lại quả báo của cảnh Địa ngục, phải tái sanh làm
ngạ quỉ rất lâu đời, phải chịu khổ sở đói khát nhiều kiếp, chỉ thoát khỏi được
là khi nào hết quả hoặc có thân nhân làm phước rồi hồi hướng quả lành, tùy theo
nghiệp nặng nhẹ, mới có thể siêu sanh đặng.
241.
Đời nhiều kẻ khi Thần, thị Thánh,
Ám muội lòng tánh hạnh gổ ganh
243.
Thấy ai làm phải làm lành,
Xiểm gièm cho đặng khoe danh của mình.
Khi
Thần thị Thánh: Khinh thị Thần Thánh, tức là coi rẻ, khi dể Thần Thánh.
Ám
muội 暗 昧: Tối tăm không rõ ràng.
Ám
muội lòng: Hay lòng ám muội, tức là lòng dạ đen tối.
Gổ
ganh: Vì ganh ghét mà gây gổ.
Xiểm
gièm: Hay gièm xiểm là nịnh hót và nói xấu người khác để khoe danh mình.
Khoe
danh: Khoe khoang tiếng tốt cho mình.
Câu
241: Ở trên đời có nhiều kẻ khinh thị, coi thường Thần Thánh.
Câu
242: Lòng dạ lại đen tối và tánh hay gây gổ vì tỵ hiềm ganh ghét.
Câu
243: Thấy ai làm điều phải và làm điều lành.
Câu
244: Thì sinh lòng ganh ghét mà gièm xiểm để được khoe danh của mình.
245.
Lại còn có tánh tình hiểm độc,
Xúi phân chia thân tộc ruột rà.
247.
Làm cho chồng vợ lìa xa,
Cả đời nghiệt báo oan gia chẳng rời.
Hiểm
độc: Hay Độc hiểm 毒 險: Nham hiểm và độc ác.
Thân
tộc 親 族: Bà con thân thích trong họ.
Ruột
rà: Quan hệ về ruột thịt.
Nghiệt
báo 孽 報: Cái mầm ác được báo đáp lại bằng những tai họa, bệnh tật hay đau
khổ.
Oan
gia 冤 家: Nhà hay người bị nhiều điều oan trái.
Câu
245: Lại còn có những người tánh tình nham hiểm và độc ác.
Câu
246: Xúi giục phân chia tình thân tộc ruột rà khiến chia lìa với nhau.
Câu
247: Gây mâu thuẩn vợ chồng người ta khiến phải chia lìa.
Câu
248: Suốt đời sẽ bị nghiệp báo ứng và bị oan gia phá hại chẳng khi nào dứt.
249.
Muốn tránh đặng khỏi nơi tội quá,
Lánh kẻ tà chẳng khá nên gần.
251.
Thí tiền, thí bạc, chẩn bần,
Người đau thí thuốc, Thánh, Thần phước ban.
Tội
quá 罪 過: Quá là lỗi lầm. Tội quá: Tội lỗi.
Lánh
kẻ tà: Xa lánh người gian tà, tức là phải tránh xa những người có tư tưởng
và hành vi không chính đáng, tà vạy.
Thí
tiền thí bạc: Là bố thí bằng cách đem tiền bạc ra giúp đỡ người nghèo đói,
thiếu thốn, đau yếu.
Bố thí tiền bạc còn gọi là tài thí, một trong ba cách hiến tặng: Tài
thí 財 施, pháp thí 法施 và vô úy thí 無 畏 施.
Thí tiền thí bạc không những chỉ riêng có lợi cho người nhận mà lẫn cả người
cho nữa. Như vậy hành bố thí vừa cứu giúp cho người mà vừa độ cho chính mình:
Làm cho tâm được an vui, làm mất đi tính tham lam, ích kỷ, phá chấp sâu nặng
của con người mình và làm phát triển lòng từ bi hỷ xả của Phật.
Chẩn
bần 賑 貧: Chẩn là cứu giúp. Chẩn bần: Cứu
giúp cho người nghèo khổ.
Câu
249: Nếu mình muốn tránh đặng khỏi nơi tội lỗi.
Câu
250: Thì hãy xa lánh với kẻ tà vạy, chẳng nên gần gũi họ.
Theo Nho giáo, con người sinh ra tính vốn lành, vì tập nhiễm xã hội nên tính
của con người trở nên bất thiện, tức là người ta có những hành vi xấu xa, tội
lỗi là do bởi gần gũi với những kẻ gian xảo, tà vạy. Do vậy người xưa thường
dạy phải xa lánh những người không ngay thẳng, hung ác, mà phải gần gũi người
hiền lương, chính trực, bởi họ cho rằng: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”.
Ở đây, con người muốn tránh đặng khỏi nơi tội lỗi, thì phải lánh xa những kẻ
gian tà. Ông Thái Công dạy rằng: Gần son thì đỏ, gần mực thì đen, gần người
hiền thì sáng, gần người tài thì trí, gần kẻ ngây thì dại, gần người lành thì
có đức, gần người trí thì thông minh, gần kẻ ngu thì ám muội, gần kẻ nịnh thì
bợ đỡ, gần kẻ trộm thì sinh giặc (Cận chu giả xích, cận mặc giả hắc, cận
hiền giả minh, cận tài giả trí, cận si giả ngu, cận lương giả đức, cận nịnh giả
siểm, cận thâu giả tặc 近 朱 者赤, 近 墨 者 黑, 近 賢 者 明, 近 才 者 智, 近 癡 者 愚, 近 良 者 德, 近 佞 者 諂, 近 偷 者 賊).
Thánh nhân xưa cũng thường nói: Ở chung với người không biết lẽ phải, thì cũng
như ngồi giữa hàng cá ươn, dầu chẳng dơ áo, mà nghe mùi hôi thúi (Dữ vô thức
giả xử như bào ngư tứ trung tọa, tuy bất ô y, thời thời văn xú 與 無 識 者 處 如 鮑 魚 肆 中 坐, 雖 不 污 衣, 時 時 聞 臭).
Tóm lại, gần người tà vạy thì phải làm những việc chẳng lành rồi gây nên nhiều
điều tội lỗi. Muốn tránh tội quá thì chẳng gần kẻ gian, xa lánh người xấu.
Câu
251 và 252: Thấy ai nghèo khổ, đau yếu hay thiếu thốn thì mình đem tiền
bạc, vật chất để cứu giúp cho người, còn gặp người bệnh hoạn thì thí thuốc. Làm
được những hành vi đó, Thánh Thần sẽ ban phước cho.
Câu chuyện sau đây cho ta thấy được điều phước báo của việc bố thí:
Một hôm tôn giả Mục Kiền Liên đến nhà người em ruột mình là một vị trưởng giả
rất giàu có, Ngài bảo em rằng:
Tôi nghe chú không ưa bố thí, điều ấy không tốt. Phật thường dạy: Người nào hay
bố thí sẽ được hưởng phước báo không lường. Nay chú được giàu sang, là do công
đức từ kiếp trước. Nay chú cứ ôm lòng lẫn tiếc, chẳng hưởng phước không đặng
bao lâu mà đời sau do nghiệp bỏn xẻn sẽ mang thân ngạ quỉ khốn khổ vô cùng.
Nghe lời anh dạy, vị trưởng giả mở rộng kho, cúng dường Tam Bảo, chu cấp cho kẻ
nghèo đói. Trong khi ấy ông lại cất thêm kho vựa mới, ý muốn thâu chứa những
của cải mình sẽ được do phước bố thí, nhưng chẳng đặng bao lâu, thì tiền của
tiêu mòn, kho cũ đã hết, mà kho mới cũng trống trơn. Trưởng giả sanh lòng ảo
não, đến thưa với Mục Kiền Liên: Xưa anh bảo bố thí sẽ được nhiều phước báo, em
đem của kho làm việc phước đức đã hết sạch, nhưng phước báo đâu không thấy? Tôn
giả Mục Kiền Liên bảo: Nếu phước đức có hình tướng, thì cảnh giới hư không dung
chứa vào đâu cho hết. Tuy nhiên, nếu chú muốn, tôi có thể chỉ cho thấy một phần
ít quả báo của sự bố thí.
Nói đoạn, Ngài liền dùng sức thần thông đem em lên một cõi Trời, nơi đây lầu
các nguy nga, cảnh trí vui tươi sáng suốt, ao thất bửu, gió thơm thanh khiết,
hoa mạn đà la vẻ đẹp thần tiên. Từ trong cung điện lộng lẫy, chậm rãi đi ra một
đoàn ngọc nữ. Trưởng giả thấy toàn người nữ, nên thắc mắc hỏi, thiên nữ đáp:
Đây là cung Trời Đạo Lợi, chúng tôi ở chốn này đã lâu hưởng phước tự nhiên. Bao
nhiêu cung điện và tất cả trang nghiêm tốt đẹp nơi đây đều là kết quả của sự bố
thí. Người chủ quản của chúng tôi sau này sẽ là người ở cõi nhân gian siêng tu
phước đức, đó là một vị trưởng giả em Ngài Mục Kiền Liên, đệ tử của Đức Thích
Ca Mâu Ni Phật.
Sau khi trở về nhơn gian, trưởng giả lại càng bố thí nhiều hơn và khuyến khích
người khác làm theo, không lúc nào biết nhàm chán.
(Theo
Lịch sử Đức Mục Kiền Liên)
253.
Đêm thanh vắng chớ toan mưu dối,
Xúi trẻ thơ lầm lỗi ngỗ ngang.
255.
Âm đài gông tróng sẵn sàng,
Chờ khi thác xuống cổ mang hành hình [1].
Chớ
toan mưu dối: Chẳng nên toan tính hay âm mưu lừa dối người.
Ngỗ
ngang 忤 昂: Ngỗ là trái, ngạo ngược. Ngang là
bướng bỉnh. Ngỗ ngang: Làm điều ngang ngược sái quấy.
Âm
đài 陰 臺: Chỉ lâu đài ở cõi Âm phủ, nơi Thập Điện Diêm Vương làm việc.
Đồng nghĩa với Âm ty, Âm cung hay Âm phủ.
Gông:
Một tấm gỗ nặng có khoét lỗ dùng để tròng vào cổ và tay tội nhân.
Tróng:
Cái cùm để khóa chơn người có tội.
Cổ
mang hành hình: Cho tội nhơn mang gông vào cổ để tra tấn, hành hình.
Câu
253 và 254: Đêm tối vắng vẻ, đừng nên toan tính hay âm mưu những điều dối
trá để xúi giục trẻ thơ làm những việc tội lỗi, ngang ngược.
Câu
255: Ở cõi Âm phủ đã chuẩn bị sẵn sàng gông và cùm.
Câu
256: Chờ đến khi chết, hồn bị đày xuống mang gông vào cổ để chịu tra tấn,
hình phạt.
257.
Các thơ truyện huê tình xé hủy,
Kẻo để đời làm lụy luân thường
259.
Nói lời tục tĩu không nhường,
Tội hành cắt lưỡi trăm đường ghê thay!
Thơ
truyện: Hay thư truyện 書 傳, tức là sách và truyện.
Huê
tình: Hay hoa tình 花 情 chuyện tình yêu lãng mạn giữa nam nữ. Ý chỉ chuyện trăng hoa.
Lụy 累: Dính dấp tới, làm liên lụy tới, làm hại tới.
Lời
tục tĩu: Lời nói chứa đầy điều thô tục, xấu xa.
Tội
hành cắt lưỡi: Người có tội bị hành phạt cắt lưỡi.
Câu
257: Gặp các sách hay truyện trăng hoa, lãng mạn thì hãy xé nát hoặc hủy
bỏ.
Câu
258: Nếu không, để lại đời sẽ làm hại đến luân thường đạo lý.
Mục đích của văn chương đối với Nho giáo là “lấy văn chở Đạo”(Văn dĩ tải
Đạo 文 以 載 道), tức là dùng văn chương để dạy về đạo lý Thánh hiền. Thế mà cũng
có nhiều người vì quyền lợi, nên viết truyện huê tình, dâm loạn, khiến làm lụy
đến luân thường đạo đức của người đời. Những loại sách như vậy đã đầu độc biết
bao nhiêu trẻ thơ non dại, hại cả thế hệ của con cháu, làm thương luân bại lý.
Bài ngự chế của vua Cao Tông có nói: Một đóm lửa nhỏ, cũng đốt đặng núi rừng
muôn đám, nửa lời nói bậy có thể làm tổn đức bình sanh (nhất tinh chi hỏa, năng
thiêu vạn khoảnh chi sơn; bán cú phi ngôn, ngộ tổn bình sinh chi đức 一 星 之 火, 能 燒 萬 頃之 山; 半 句 非 言, 誤 損 平 生 之 德).
Tội lỗi của những người viết dâm thư hay truyện huê tình không phải là nhỏ, vì
đầu độc đầu óc non nớt của trẻ thơ, làm hại cả thế hệ đạo đức.
Câu
259: Mở miệng nói không kể lời tục tĩu, xấu xa.
Câu
260: Khi chết xuống Âm phủ bị hành phạt cắt lưỡi.
261.
Lại có kẻ miệng ngay lòng vạy
Tởi làm chùa, dối cậy in kinh.
263.
Ăn gian xớt bớt cho mình,
Dầu qua dương pháp, luật hình Diêm vương.
Miệng
ngay lòng vạy: Miệng nói ngay thật, lòng dạ vạy tà. Chỉ những người ngoài
miệng ăn nói đàng hoàng, ngay thẳng mà trong lòng thì gian tà xảo trá.
Tởi
làm chùa: Đi vận động người ta hiến tiền bạc, vật liệu để xây cất chùa
chiền, in ấn kinh sách hay lên cốt tượng Phật.
Dối
cậy in kinh: Cậy vào việc in ấn kinh sách để dối gạt người kiếm tiền, kiếm
lợi.
Ăn
gian xớt bớt: Lường gạt người để ăn gian xớt bớt cho mình.
Dương
pháp 陽 法: Luật pháp ở cõi thế gian.
Luật
hình 律 刑: Bị hành hình theo luật pháp.
Người phạm pháp đều bị hình luật xử phạt, nếu ở thế gian thì bị phép vua luật
nước, còn ở âm phủ thì bị quỷ thần dõi xét: Âm vi quỷ thần sở hại,
dương vi dương pháp sở tru 陰 為 鬼 神 所 害, 陽 為 陽 法 所 誅. Luật hình thế gian còn khó tư vì, huống là luật Thiên điều xử
phạt, như Thánh Ngôn Đức Chí Tôn đã dạy: “Mấy con biết luật hình thế gian còn
chưa tư vị thay, huống là Thiên Điều thì tránh sao cho lọt?”.
Diêm
vương 閻 王: Theo Phật giáo, Diêm Vương là vua các cõi Địa ngục ở dưới Âm
phủ, còn gọi là Diêm La Vương 閻 羅 王.
Theo truyền thuyết, có mười vị vua cai quản mười cung điện ở nơi Âm phủ gọi là
Thập Điện Diêm Vương 十 殿 閻 王 hay Thập Điện Minh Vương 十 殿 明 王.
Theo kinh sách, mười vị Diêm Vương cai quản mười điện ở Âm phủ được kể như sau:
Nhứt Điện 一 殿: Tần Quảng Vương 秦 廣 王.
Nhị Điện 二 殿: Sở Giang Vương 楚 江 王.
Tam Điện 三 殿: Tống Đế Vương 宋 帝 王.
Tứ Điện 四 殿: Ngũ Quan Vương 五 關 王.
Ngũ Điện 五 殿: Diêm La Vương 閻 羅 王.
Lục Điện 六 殿: Biện Thành Vương 卞 城 王.
Thất Điện 七 殿: Thái Sơn Vương 泰 山 王.
Bát Điện 八 殿: Bình Đẳng Vương 平 等 王.
Cửu Điện 九 殿: Đô Thị Vương 都 示 王.
Thập Điện 十 殿: Chuyển Luân Vương 轉 輪 王.
Câu
261: Lại có những kẻ nói năng ngoài miệng thì ngay thật nhưng trong lòng
thì gian tà xảo trá.
Câu
262: Mượn việc xây dựng chùa chiền và in ấn kinh sách để dối người thủ lợi.
Câu
263 và 264: Ở trên Dương thế, lường gạt người để ăn gian xớt bớt cho mình
dầu vượt qua khỏi luật pháp thì cũng bị hình luật ở Âm phủ.
Trên
đời có nhiều kẻ vì lợi mà họ bày lắm mưu sâu kế độc để lừa đảo người nhẹ dạ: Kẻ
thì ngoài miệng ngọt ngào, ngay thật, nhưng trong lòng gian tà, xảo trá, chuyên
lường gạt người lấy tài sản, vật chất; người lại đội lốt tôn giáo, lợi dụng
Trời Phật để lừa dối người dễ tin, mượn việc xây dựng chùa chiền, in ấn kinh
sách mà gạt người lấy tiền của.
Những hành vi của họ tuy rằng không bị người phát hiện, vượt vòng dương pháp,
nhưng họ khó qua được luật hình của Diêm cung. Bài Tư Thế thông huấn nói rằng: Âm
pháp trì nhi bất lậu, Dương hiến cận nhi hữu đào; dương võng sơ nhi dị lậu, âm
võng mật nhi nan đào 陰 法 遲 而 不 漏, 陽 憲 近 而 有 逃; 陽 網 疏 而 易 漏,陰 網 密 而 難 逃: Âm pháp chậm mà không thể nào lọt qua, dương pháp kín mà có thể
trốn được; lưới dương gian thưa nên dễ lọt, chớ lưới âm phủ nhặt mà khó trốn.
265.
Thêm những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
267.
Ngày sau đọa lạc Âm ty,
Thường thường khảo kẹp chẳng khi nào rời.
Giả
nương cửa Phật: Giả dối nương tựa vào cửa chùa. Ý chỉ người giả dối tu hành.
Thập
phương 十 方: Mười phương, tức là khắp chốn, mọi nơi.
Của
thập phương: Của cải tiền bạc người đạo ở khắp mọi nơi dâng cúng cho chùa.
Châu
cấp 周 給: Cấp cho đầy đủ để nuôi sống.
Thê
nhi 妻 兒: Vợ và con.
Đọa
lạc 墮 落: Rơi xuống cõi thấp kém. Phạt người có tội đày xuống cõi thấp kém
khổ sở.
Khảo
kẹp: Kềm kẹp để tra khảo.
Câu
265: Lại thêm những thầy sãi dối nương tựa vô cửa chùa để giả tu hành.
Câu
266: Dùng tiền dâng cúng Phật của bổn đạo ở thập phương để cung cấp nuôi
nấng vợ con.
Câu
267: Ngày sau sẽ bị đày đọa xuống cõi Âm ty.
Câu
268: Thường thường bị kềm kẹp để tra khảo, không khi nào ngừng nghỉ.
269.
Thấy giấy chữ rớt rơi lượm lấy,
Đốt ra tro bỏ chảy dòng sông.
271.
Thủy triều vận tải biển đông,
Lòng hằng dường ấy phước đồng ăn chay.
Giấy
chữ: Giấy có chữ viết.
Người xưa có quan niệm cho rằng chữ Nho là chữ của Thánh hiền đặt ra, dùng để
viết kinh sách, liễn thờ, nên khi gặp giấy có chữ viết thì chẳng khá chà đạp
hay để rơi rớt khắp mọi chỗ ô uế.
Thủy
triều 水 潮: Con nước ở sông hay biển khi lên khi xuống, mỗi ngày đêm hai
lần. Hiện tượng này có được là do bởi sức hút của mặt trăng và mặt trời. Người
bình dân thường gọi là con nước lớn ròng.
Vận
tải 運 載: Chuyên chở từ nơi này đến nơi khác.
Phước
đồng 福 同: Đồng với phước đức.
Ăn
chay: Ăn chay hay ăn lạt là ăn những thức ăn trong sạch, nhẹ nhàng, tinh
khiết, tức là những thức ăn thuộc loại thảo mộc như hoa quả, rau đậu, tương
chao…chứ không ăn thịt những loại động vật như cá thịt, tôm, cua…
Chay dịch từ chữ Trai 齋,
có nghĩa là ăn lạt, ăn những thức ăn từ thảo mộc, rau đậu. Trai còn có nghĩa là
giữ tấm lòng trong sạch, ý tưởng tinh tấn, thân xác tinh khiết. Trai lại có
nghĩa là đãi ăn, cúng dường, bố thí như trai tăng, tức là đãi các tu sĩ, các
thầy bên Phật giáo. Chữ trai còn có nghĩa phẩm vật, thức ăn do lòng thành của
tín đồ dâng lên cho các tu sĩ, các thầy, như thọ trai.
Trong tôn giáo, có ba hạng ăn chay: Lục trai 六 齋 (Ăn
chay sáu ngày trong tháng), Thập trai 十 齋 (Ăn
chay mười ngày), Trường trai 長 齋 (Ăn chay quanh năm suốt tháng).
Theo Thánh giáo Đức Chí Tôn, người tín đồ Cao Đài nào ăn chay được mười ngày
trong tháng trở lên được thọ truyền bửu pháp, tức là được hưởng những bí pháp
do tôn giáo mang lại.
Câu
269 và 270: Thấy giấy chữ rơi rớt bất cứ nơi đâu phải lượm lấy và đốt cháy
ra tro rồi đem rải xuống dòng sông.
Câu
271: Thủy triều chuyên chở hạt tro theo dòng nước ra biển đông.
Câu
272: Lòng luôn được như vậy thì có phước đức đồng với sự ăn chay.
Cổ nhân thường cho rằng chữ viết ngày xưa là chữ của bậc Thánh hiền chế tác ra,
nên phải giữ gìn một cách trang trọng, không dám để rơi rớt, chà đạp. Trong bài
kinh Nho giáo cho biết chữ viết được chế tác một cách thiêng liêng, nên nói: Tự
lôi trữ bính 字 雷 貯 炳, nghĩa là chữ viết vừa được chế ra thì sấm sét nổ vang, chữ viết
làm cho trí tuệ con người sáng rực (khai hóa).
Hứa
Thận đời Hậu Hán có cho biết lai lịch văn tự Trung Hoa như sau: Đời xưa họ Bao
Hy cai trị thiên hạ, ngửng xem hình tượng trên Trời, cúi xem phép tắc dưới đất,
trông dáng vẻ loài cầm thú cùng trạng thái đất đai, gần thì lấy ở thân mình, xa
thì lấy ở muôn vật, bắt đầu sáng tác ra Dịch Bát quái để truyền lại các hiện
tượng về sau. Đến Thần Nông thắt nút dây cai trị thiên hạ, thống hợp mọi sự. Sử
quan Hoàng Đế là Ông Thương Hiệt nhìn vết chân chim muông chạy nhảy mà biết
rằng văn lý có thể phân biệt nhau, mới sáng tạo ra chữ viết. Thương Hiệt chế ra
chữ viết căn cứ vào loại, mô tả ra hình, nên gọi là Văn. Về sau, hình thanh bổ
túc cho nhau, nên gọi là Tự.
Tương truyền rằng khi văn tự được hình thành rồi thì Trời gây mưa giông và nổi
cơn sấm sét. Bởi vì nhờ Thánh Hiền chế ra chữ viết mới có Kinh sách ra đời để
truyền đạt những giáo lý của Thánh nhân từ đời nầy qua đời khác.
Chính vì xem trọng chữ viết như thế, nên Kinh cho rằng khi thấy giấy chữ rơi
rớt thì phải lượm lên, đốt thành tro rồi còn phải đem tro ấy thả trôi theo dòng
sông. Cái công đức của người lượm lấy giấy chữ Thánh hiền thì được phước đồng
với sự ăn chay.
273.
Chịu cực khổ đắng cay biết mấy,
Cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong.
275.
Làm ra lúa gạo dày công,
Dầm mưa dan nắng kẻ nông nhọc nhằn.
Đắng
cay: Hay Cay đắng là hai vị khó ăn trong ngũ vị, nên người ta thường dùng
để chỉ sự khổ sở, vất vả. Từ Hán Việt gọi là Tân khổ.
Cuốc,
cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong: Những công việc mà người nông phu phải làm
khi sản xuất ra lúa gạo: Cuốc, cày, bừa là giai đoạn làm đất, gieo giống lên
thì cấy lúa, lúa trổ bông thì lo gặt đong rồi đem về.
Dày
công: Công phu sâu dày.
Câu
273: Chịu khổ cực, chịu đắng cay không biết là bao nhiêu.
Câu
274: Nào là cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong rất nên nhọc nhằn.
Câu
275: Làm ra được một hạt lúa gạo thì công phu rất sâu dày.
Câu
276: Người nông dân phải chịu phơi mưa dan nắng rất nên nhọc nhằn.
Ăn uống là việc hằng ngày của con người buộc ai cũng phải có. Ăn để cung cấp
chất dinh dưỡng cơ thể, bổ sung năng lượng cho con người hoạt động. Từ ngàn
xưa, vật thực cũng tiến theo từng thời kỳ: Thời kỳ hái lượm thì con người ăn
rau quả; đến thời kỳ ngư lạp thì con người đánh bắt cá hay săn thú rừng mà ăn thịt;
sang đến thời nông nghiệp, con người không có thể tìm kiếm những tài nguyên sẵn
có trong thiên nhiên nữa, mà phải tự trồng lấy khoai củ, ngũ cốc. Do vậy, có
được lúa gạo cho con người ăn phải qua nhiều công sức cực nhọc làm ra, như
cuốc, cày, bừa, gieo, cấy, gặt, đong…
Người bình dân Việt Nam đã thấy được cái công lao của người nông dân sản xuất
ra hạt gạo rất nên nhọc nhằn, nên thường nhắc nhở trong ca dao:
Ai
ơi! Bưng bát cơm đầy,
Dẻo
thơm một hột, đắng cay muôn vàng.
Còn đối với người tín đồ đạo Cao Đài, ăn một hột cơm thì nguyện nhớ ơn người
làm ra hạt lúa, nguyện ra tài lợi sanh như lời kinh Khi Ăn Cơm Rồi đã
dạy:
Nguyện
nhớ ơn nông canh nhằn nhọc,
Nguyện ơn người lúa thóc giã xay.
Ngậm cơm ơn ngậm hằng ngày,
Nên người con nguyện ra tài lợi sanh.
Và nhất là phải tìm cái lý sâu xa hơn nữa, đó là nguồn gốc của ân đức ấy. Những
bậc Thánh nhân xưa, không phải vì mình ở mà kết cây làm tổ để bảo vệ thân mình,
không phải vì mình ăn mà tìm ra ngũ cốc để nuôi sống cơ thể mình, không phải vì
mình bệnh mà tìm thuốc để chửa trị cho mình. Các bậc Thánh nhân ấy, vì theo
lòng thương yêu của Thượng Đế mà chỉ dạy cho con người biết làm nhà để ở, biết
trồng lúa để ăn, biết tìm thuốc để trị bịnh. Có hiểu như vậy, người ta mới thấy
rằng ân đức của người xưa rất nên sâu nặng, và công sức làm ra hạt gạo thật rất
nhọc nhằn.
Trong Bài Ngự chế của vua Thần Tông có nói rằng: Thân mình mặc áo phải nhớ đến
khó nhọc của người đàn bà dệt lụa, Cơm ngày ba bữa phải nghĩ đến khổ cực của
người cày cấy (Thân phi nhất lũ, thường tư chức nữ chi lao; nhật thực tam
xan, mỗi niệm nông phu chi khổ 身 披 一 縷, 常 思 織 女 之 勞; 日 食 三 餐, 每 念 農夫 之 苦).
277.
Nhờ Viêm Đế đức cao ơn nặng,
Tìm lúa khoai người đặng no lòng.
279.
Ngày ngày vọng niệm chớ vong,
Chẳng nên hủy hoại mới phòng khỏi hoang.
Viêm
Đế 炎 帝: Hiệu của Thần Nông 神 農, một vị vua thứ ba trong thời Tam Hoàng, đó là Toại Nhân 燧 人,
Phục Hy 伏 羲 và Thần Nông 神 農. (Thượng Thư Đại Truyện).
Thần Nông là vị vua thời Thượng cổ, trị vì sau vua Phục Hy. Ngài có công dạy
dân đẽo gỗ chế ra cày bừa để làm ruộng, hợp chợ búa để dân trao đổi hóa vật,
nếm các thứ cây cỏ để làm vị thuốc cho dân trị bệnh.
Đến thời vua Thần Nông con người mới biết định cư, sống hợp quần theo nông
nghiệp. Ngài có công lớn trong việc tìm các loại ngũ cốc, khoai củ để làm lương
thực cho dân chúng thời bấy giờ, và mãi mãi sau này.
Đức
cao 德 高: Đức độ cao dày.
Ân nặng: Ân nghĩa sâu nặng.
Vọng
niệm 望 念: Mong mỏi và tưởng nghĩ đến.
Vong 忘: Quên.
Hủy
hoại 毀 壞: Làm cho hư nát, phá hoại.
Mới
phòng khỏi hoang: Mới tránh được khỏi bị hoang phí.
Câu
277 và 278: Từ xưa, con người đã nhờ ân đức sâu nặng của vua Thần Nông dạy
dỗ và tìm ra lúa khoai để nuôi sống hằng ngày.
Câu
279: Biết được ân đức sâu dày của Viêm Đế, hằng ngày ta phải tưởng nghĩ
đến Người, chớ nên quên.
Câu
280: Nghĩ đến ân đức và sự nhọc nhằn của việc làm ra lúa khoai, ta chẳng
nên hủy hoại mới tránh được sự lãng phí.
281.
Chớ hiểm độc dạ lang lần lựa
Nhơn thất mùa bế dựa gắt gao.
283.
Chờ khi lúa phát giá cao,
Khai ra bán mắc Trời nào dung cho.
Hiểm
độc 險 毒: Nham hiểm và độc ác.
Lang 狼: Loài chó sói.
Dạ
lang: Lòng dạ như loài chó sói, chỉ lòng độc hiểm. Có câu thành ngữ: Lòng
lang dạ sói.
Lần
lựa: Kéo dài thời gian.
Thất
mùa: Làm lúa không trúng hoặc thiên tai khiến lúa thất mùa.
Bế
vựa: Đóng cửa kho vựa lúa, tức là không đem lúa bán ra ngoài.
Gắt
gao: Khắt khe, nghiêm nhặt.
Lúa
phát giá cao: Giá lúa thình lình mắc lên.
Câu
281: Người có lòng dạ hiểm độc như lang sói, lần lựa chờ thời cơ,
Câu
282: Nhơn dịp lúa thất mùa, thì gom thu lúa gạo vào vựa một cách gắt
gao, không chịu bán ra.
Câu
283: Chờ đợi khi lúa trên thị trường có giá mắc.
Câu
284: Lúc đó mới đem lúa bán ra ngoài để được nhiều lãi. Thực là độc hiểm,
Trời đất không bao giờ dung thứ đặng.
Trong nền kinh tế hiện tại, muốn độc quyền về sản phẩm, người ta thường đầu cơ
tích trữ, tức là thu gom tất cả sản phẩm trên thị trường vào kho tích trữ, tạo
cho thị trường khan hiếm sản phẩm ấy. Rồi sau đó tung ra thị trường bán với giá
cao để được lời nhiều.
Đối với tôn giáo, nhứt là lương thực là sản phẩm chính yếu của con người,
là hột ngọc quí báu của chúng sanh, người đầu cơ tích trữ lúa gạo,
lại phải dựa vào năm hạn hán hay thất mùa, đã không chịu bán lúa gạo ra, mà còn
thu gom bế dựa vào kho một cách gắt gao. Đợi thị trường thật khan hiếm, khiến
dân tình thiếu đói, mới chịu tung lúa gạo ra bán với giá cắt cổ, thử hỏi lòng
dạ con người ấy có độc hiểm như lang sói không? Trời đất có dung tha đặng
không? Ôi! Cổ nhân thường nói: “Vi phú bất nhân 為 富 不 仁”
là đúng vậy.
285.
Ơn trợ giúp khá lo đền báo,
Giữ vẹn tròn nghĩa đạo với đời
287. Túng
cùng vay mượn của người,
Vui lòng tính trả vốn lời cho kham.
Trợ 助: Giúp đỡ.
Đền
báo: Đền đáp ân nghĩa trở lại.
Nghĩa
đạo: Hay đạo nghĩa 道 義, tức là những qui tắc ứng xử hợp với luân thường đạo đức.
Túng
cùng: Nghèo nàn nên túng thiếu về vật chất hay tiền bạc.
Vốn:
Tiền gốc cho mượn hay cho vay.
Lời:
Tiền lời (tiền lãi) do vốn cho vay sinh ra, tùy theo phần trăm mà định nặng nhẹ.
Kham 堪: Chịu đựng nổi.
Câu
285: Ơn nghĩa do người ta giúp đỡ mình thì khá lo đền đáp lại.
Câu
286: Và cố cư xử cho vẹn tròn đạo lý với người đời.
Ở đời, có lắm kẻ được người ta giúp đỡ, nhận biết bao ơn nghĩa của người, nhưng
khi qua khỏi cơn nguy khốn, sau đó đối với người ơn của họ, họ đành ngoảnh mặt
làm kẻ xa lạ. người như thế là người bội ơn, không phải là người hiểu đạo lý,
và là người không có tâm lương thiện. Thế nên, người đạo đức chân thật là người
phải biết ơn và đền ơn người ta đã giúp đỡ cho mình, như thế mới gọi là người
biết giữ tròn đạo nghĩa, là người “ăn trái nhớ kẻ trồng cây” hay “uống
nước nhớ người đào giếng” vậy.
Câu
287: Lúc túng thiếu cùng cực đi vay mượn của người ta.
Câu
288: Thì phải vui lòng lo trả tiền vốn và tiền lời cho xong.
289.
Chớ oán chạ tham lam ngược ngạo,
Bội nghĩa ân trở tráo chước sâu.
291.
Luân hồi thưởng phạt rất mầu,
Chuyển thân tái thế ngựa trâu công đền.
Oán
chạ: Thù oán một cách bừa bãi, không chính đáng.
Tham
lam : Tham là ham của. Lam là ham ăn. Tham lam: Lòng ham ăn, tham của
cải vật chất. Nghĩa bóng Ham muốn một cái gì thái quá.
Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy về tham lam như sau: “Các con có hiểu vì sao nhơn
sanh có lòng tham lam chăng? Thì cũng muốn có nhiều kẻ phục tùng dưới quyền lợi
của mình. Vã lại, người đời cần nhứt là cơm với áo. Nay muốn có nhiều kẻ phục
tùng không chi bằng nắm chặt quyền phân phát áo cơm, phải dùng đủ mưu chước quỉ
quyệt thâu đoạt lợi lộc, quyền thế. Vì vậy, mà đời trở nên trường hỗn độn, tranh
đấu, giựt giành; mạnh được, yếu thua, mất hẳn công bình, thiên nhiên Tạo hóa.
Ấy vậy, phải biết rằng: Tham lam vào tâm, tâm hết đạo đức; tham lam vào nhà,
nhà hết chánh giáo; tham lam vào nước, nước mất chơn trị. Tham lam lộng khắp
thế giới, thế giới hết Thần Tiên: Lòng tham lam có thể giục các con lỗi đạo
cùng Thầy”.
Ngược
ngạo: Bướng bỉnh ngang ngược.
Bội
nghĩa ân: Hay bội ân nghĩa 背 恩 義:
Phản bội lại kẻ mình thọ ân nghĩa.
Trở
tráo: Lật lộng, tức là thay đen đổi trắng một cách dễ dàng.
Luân
hồi 輪 迴: Luân là bánh xe. Hồi là xoay trở lại.
Giống như một bánh xe lăn quay, luân hồi là sự xoay chuyển của chúnh sanh trong
sáu cõi (Lục đạo), sanh tử, tử sanh, tiếp nối mãi không ngừng cho đến khi đạt
được giải thoát, chứng ngộ Niết Bàn mới thôi.
Nguyên nhân của luân hồi là do chúng sanh vô minh mà tạo ra các nghiệp, khiến
cho nghiệp lực cuốn hút vào vòng sống chết, lên xuống không bao giờ ra thoát
khỏi sáu cõi. Mục đích của việc tu hành là nhằm giải thoát con người ra khỏi
vòng luân hồi sanh tử để được về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Rất
mầu: Rất huyền diệu, rất mầu nhiệm.
Tái
thế 再 世: Đầu kiếp xuống trần một lần nữa.
Chuyển
thân tái thế 轉 身 再 世: Chuyển kiếp qua một xác thân mới để đầu thai xuống cõi trần.
Ngựa
trâu công đền: Làm kiếp trâu ngựa để lấy công đền tội.
Câu
289: Chớ nên tham lam, bướng bỉnh ngược ngạo và thù oán người một cách bậy
bạ.
Câu
290: Mà phản bội lại người có ơn nghĩa, lật lộng và mưu chước sâu độc.
Câu
291: Sự thưởng phạt của Thiêng Liêng trong vòng luân hồi sanh tử rất nên
mầu nhiệm.
Câu
292: Nếu nghiệp nhẹ thì được đầu thai lên cõi trần một lần nữa; còn nếu có
tội thì chuyển kiếp ngựa trâu để lấy công đền tội lỗi.
293.
Người phú túc vun nền âm đức,
Lấy lòng nhơn giúp sức trợ nghèo.
295. Chớ
sanh chước hiểm hẹp eo
Lời tăng quá vốn kẻ nghèo xiết than.
Phú
túc 富 足: Phú là giàu có. Túc là đầy
đủ. Phú túc: Giàu có đầy đủ.
Vun
nền: Bồi đắp nền tảng.
Âm
đức 陰 德: Còn gọi là Âm chất: Những việc làm lành tạo thành phước đức, tuy
người ở thế gian không biết, nhưng Thần Thánh chứng biết.
Chước
hiểm: Mưu chước hiểm độc.
Hẹp
eo: Hẹp hòi, nhỏ nhặt.
Lời
tăng quá vốn: Đồng nghĩa với câu “vốn một lời mười”, tức là đem tiền
cho vay lãi suất quá nặng, khiến tiền lời hơn vốn vay.
Câu
293: Người giàu có đầy đủ nếu biết thì bồi đắp nền âm đức.
Câu
294: Lấy lòng nhơn từ để giúp đỡ người nghèo khó.
Câu
295: Chẳng nên có tánh hẹp hòi hiểm độc.
Câu
296: Cho vay tiền với mức lời quá nặng, lời tăng hơn vốn, khiến cho kẻ
nghèo kêu than rên xiết.
297.
Làm mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
299.
Phật Trời nhơn vật đồng thương,
Có đâu hưởng của bất lương mà mời.
Làm
mặt phải: Bề ngoài mặt ra vẻ làm việc phải, tức là làm phải với hình thức
bên ngoài.
Cố
đất cầm vườn: Đem vườn đất đi cầm cố để lấy tiền.
Nhơn
vật 人 物: Con người và thú vật.
Bất
lương 不 良: Không lương thiện, không lành.
Câu
297: Làm ra vẻ bên ngoài là người biết đạo đức, đem tiền bạc đi cúng Phật.
Câu
298: Bên trong thì lấy lời nặng, khiến những kẻ nghèo phải thế đất cầm
vườn.
Câu
299: Trời Phật đều thương yêu người và loài vật một cách đồng đều như nhau.
Câu
300: Có bao giờ hưởng của bất lương đâu mà bày lễ cúng mời.
Ở đời cũng có những kẻ tu hành mà lại cầu danh. Họ làm việc phải, việc lành là
để lấy tiếng tốt với đời, chứ không cầu công đức, vì nhiều khi đồng tiền cúng
Phật hay giúp người nghèo của họ do việc làm thất đức mà ra. Ví như vì muốn có
lợi, họ áp bức những người nghèo khổ đến nỗi phải cầm cố ruộng đất.
Trời, Phật, Thánh, Thần là những Đấng công bình, từ bi, có lòng thương yêu mọi
con người như nhau, chứ không vì sự cúng tế bề ngoài mà chứng hưởng. Đông Nhạc
Thánh Đế có để lời dạy: Thiên Địa vô tư, Thần minh ám sát, bất vị tế hưởng nhi
giáng phước, bất vị thất lễ nhi giáng họa (Trời đất không có riêng tây, Thần
minh thường soi xét. Không vì tế lễ mà ban phước, không vì thất lễ mà giáng
họa).
301.
Phận làm chủ lấy lời nhỏ nhẹ,
Mà nghiêm trừng mấy kẻ tôi đòi.
303.
Đừng lòng nham hiểm hẹp hòi,
Buông lời chửi rủa đòn roi không từ.
Nghiêm
trừng 嚴 懲: Đồng nghĩa với nghiêm trị 嚴 治:
Trừng trị một cách nghiêm nhặt.
Tôi
đòi: Người giúp việc trong nhà, đầy tớ trong nhà.
Nham
hiểm 巖 險: Núi non hiểm trở. Nghĩa bóng chỉ người độc ác kín đáo, khó lường
được.
Hẹp
hòi: Nhỏ nhen ích kỷ.
Không
từ: Không buông tha, không chừa ra.
Câu
301 và 302: Phận mình là người làm chủ thì nên lấy lời nhỏ nhẹ mà dạy răn
mấy người giúp việc trong nhà.
Câu
303: Đừng có lòng nhỏ nhen ích kỷ, sâu độc khó lường.
Câu
304: Đừng có buông lời chửi rủa, đánh đập, chẳng chừa đòn roi nào.
305.
Tánh độc ác tội dư tích trữ,
Chốn Âm cung luật xử nặng nề.
307.
Đánh đòn khảo kẹp gớm ghê,
Hành hình khổ não chẳng hề nới tay.
Tội
dư: Nhiều tội lỗi đến nỗi dư thừa.
Tích
trữ 積 貯: Cất chứa lại.
Âm
cung 陰 宮: Cung điện nơi Âm phủ. Đồng nghĩa với Âm đài, Âm ty, Âm phủ.
Khảo
kẹp gớm ghê: Tra khảo bằng kềm kẹp rất ghê gớm.
Hành
hình 行 刑: Thi hành các hình phạt.
Khổ
não 苦 惱: Khổ sở phiền não.
Nới
tay: Nới lỏng tay, tức là giảm bớt sự nghiêm nhặt.
Câu
305 và 306: Tánh tình độc ác, gây ra nhiều tội lỗi cất chứa đó chờ khi
thác xuống Âm cung sẽ bị xử theo hình luật rất nặng nề.
Câu
307: Sẽ bị tra khảo bằng đòn roi, kềm kẹp một cách ghê gớm.
Câu
308: Rồi thi hành hình án một cách khổ não, chẳng hề nới tay bao giờ.
309.
Miền Âm cảnh nhiều thay hình lạ,
Cõi dương trần tội quá dẫy đầy.
311.
Thánh hiền kinh sách dạy bày,
Lòng người ám muội lỗi gây ra hoài.
Âm
cảnh 陰 境: Cảnh giới của người ở cõi Âm, tức Âm phủ, Âm cung…
Hình
lạ: Hình phạt rất kỳ lạ.
Tội
quá 罪 過: Tội lỗi.
Thánh
Hiền 聖 賢: Bậc Thánh Hiền.
Thánh 聖: Người có trí tuệ sáng suốt, hiểu thấu mọi việc, có học thức và
đạo đức cao siêu.
Hiền 賢: Người có tài năng và đức hạnh.
Dạy
bày: Chỉ bày và dạy dỗ.
Ám
muội 暗 昧: Lòng dạ tăm tối.
Câu
309: Nơi Âm cảnh có nhiều hình phạt tội nhơn rất nên lạ lùng.
Câu
310: Cõi Dương gian thì con người gây nên tội lỗi đầy dẫy.
Câu
311: Kinh sách của các bậc Thánh Hiền đã chỉ dạy rõ ràng.
Câu
312: Do bởi lòng người tăm tối (vô minh) nên thường gây ra tội lỗi hoài.
313.
Kẻ lỗ mãng chê bai khinh dể,
Rằng thác rồi còn kể ra chi.
315.
Nhãn tiền trả quả tức thì,
Tội dư con cháu một khi đền bồi.
Lỗ
mãng 魯 莽: Lỗ là đần độn. Mãng là cọc
cằn, thô tục. Lỗ mãng: Người đần độn thô tục.
Thác:
Chết.
Còn
kể ra chi: Còn có ra gì nữa đâu. Ý muốn nói chết rồi không còn cái gì tất
cả.
Nhãn
tiền 眼 前: Thấy trước mắt.
Trả
quả tức thì: Trả lại quả báo do những tội lỗi đã gây ra liền tức khắc.
Tội
dư: Hay dư tội 餘 罪: Tội lỗi mình phải đền trả, nếu chết mà còn dư thừa lại thì con
cháu chịu.
Câu
313 và 314: Kẻ lỗ mãng vì không có tin tưởng tôn giáo, nên chê bai khinh
dể Thần Thánh, cho rằng người chết rồi không còn chi hết, còn kể chi nữa.
Câu
315: Sự trả quả do việc làm ác sẽ báo ứng tức thì ngay trước mắt.
Câu
315: Tội lỗi đã trả quả, nếu chết còn dư thừa con cháu sẽ đền bồi.
Người lỗ mãng là người cọc cằn thô tục, không biết suy xét lẽ thiệt hơn, nên
khi đọc đến bài kinh Sám Hối này thì chắc chắn rằng sẽ chê bai, khinh dể, bởi
vì đối với hạng người này, họ chỉ biết sống có thân xác và vật chất mà thôi,
chứ không tin con người có linh hồn. Đối với họ, con người khi chết là hết,
không có nghiệp báo, nhơn quả gì cả. Vì vậy, họ chỉ sống cho hiện tại, không lo
sợ về việc báo ứng, cứ lòng hung hăng mà làm điều dữ. Đến chừng quả báo xảy đến
trước mắt thì than ôi! Tội lỗi đã dẫy đầy, khiến cho con cháu cũng phải chịu
vương mang.
317.
Chớ quấy tưởng luân hồi phi lý,
Mà hung hăng chẳng nghĩ chẳng suy.
319.
Thi hài như gỗ biết gì,
Linh hồn là chủ thông tri việc đời.
Quấy
tưởng: Tưởng nghĩ bậy, cạn suy xét mà nghĩ bậy.
Phi
lý 非 理: Chẳng có lý, vô lý.
Thi
hài 屍 骸: Thi thể hình hài, tức là thể xác.
Thông
tri 通 知: Bảo cho biết, biết rõ suốt mọi việc.
Câu
317: Chớ nên lầm tưởng rằng chuyện luân hồi nhân quả là không có lý.
Câu
318: Rồi chẳng nghĩ chẳng suy mà giữ tánh lung lăng hung dữ.
Có nhiều người tưởng quấy rằng chết là hết tất cả, chẳng có linh hồn, không
luân hồi nhơn quả, cho nên họ chẳng ngại ngùng, sợ sệt việc quả báo, cứ lòng
hung hăng làm điều ác đức. Họ nghĩ hiện tại thân này hành động tạo nghiệp thiện
hay ác, mai kia thân hoại rồi nghiệp cũng mất đi. Họ không hiểu rằng Phật đã
thường nói nghiệp theo con người như bóng với hình vậy. Chúng sanh sở dĩ luân
hồi sinh tử là do nghiệp. Nghiệp là động cơ lôi kéo chúng sanh cứ quanh lên lộn
xuống trong sáu cảnh giới, gọi là lục đạo.
Lời giải thích của Đức Phật trong câu chuyện sau đây cho ta thấy rằng có luân
hồi và chính nghiệp lực đã dẫn dắt con người trong vòng
sinh tử.
Xưa có Ma Ha Nam, là em chú bác của Đức Phật. Ma Ha Nam theo Phật tu hành mà
không hiểu sau này mình sẽ ra sao, nên hỏi Đức Phật rằng: Bạch Thế Tôn, bình
thường con tu hành, giả sử con vì một tai nạn nào đó đưa đến con phải chết, thì
sau khi chết con sẽ đi về đâu?
Đức Thế Tôn không trả lời thẳng, mà đưa ra câu hỏi ví dụ rằng: Có một cây to,
mọc từ dưới đất lên cao, thân cây nghiêng về một phía. Vậy lúc đốn cây đó, thân
sẽ ngã về bên nào?
Ma Ha Nam trả lời: Cây sẽ ngã về phía thân cây đã nghiêng.
Phật dạy: Như vậy, bình thường ông làm điều lành, khi chết tuy tâm thần bị hỗn
loạn, nhưng nghiệp thiện đã tích lũy sẽ hướng ông đến chỗ
lành, đó là chơn lý vậy.
Câu
319: Thân xác con người khi chết rồi thì như khúc gỗ có biết gì đâu.
Câu
320: Linh hồn mới là chủ của con người, hiểu biết hết mọi việc trong đời.
Trong bài kinh Tẫn Liệm có câu:
Khối
vật chất vô hồn viết tử,
Đất biến hình tự thử qui căn.
cho
ta thấy rằng thân xác là khối hình hài vật chất, con người nếu không có linh
hồn thì coi như đã chết, mà khi chết thì thân xác như khúc gỗ vô tri vô giác.
Nó là một khối vật chất do đất biến nên hình thể con người, khi mất, hình thể
đó cũng trở về đất.
Thật vậy, xác thân con người chỉ là những tế bào xương thịt do cha mẹ tạo ra,
được lớn lên nhờ sự nuôi sống của vật thực, là nguồn cung cấp từ đất. Xác thân
này theo Phật, do bốn nguyên tố, hay bốn đại là: Đất, nước, gió lửa duyên hợp
tạo ra, nên còn gọi là thân tứ đại người phải ăn uống vật thực, hoa quả, đó là
những thứ vật chất nơi thế gian nuôi dưỡng nhục thể. Do vậy xác thân con người
chính là một khối vật chất, nếu không có linh hồn thì là vật không tri giác.
Sở dĩ con người có sự sống là nhờ sự hiện diện của linh hồn. Linh hồn là một
Tiểu Linh Quang của Thượng Đế chiết từ khối Đại Linh Quang để ban cho con
người. Vậy Đất sinh ra vật chất tạo ra hình thể, còn Trời ban cho linh hồn con
người. Trời đất trong con người hợp lại thì có sự sống, nghĩa là có linh hồn và
thể xác. Nếu như linh hồn lìa khỏi xác thân thì thi hài như một khúc gỗ vô tri
vô giác, còn linh hồn mới thực là chủ nhân trong con người, thông rõ hết các
việc Trời đất và vạn vật.
Theo Mạnh Tử, tính 性 là
bản nguyên của Trời phú cho con người, tức là thiên lý chí linh chí diệu. Con
người có được tính ấy thì tất sẽ có một cái tâm 心 như vậy.Tâm với tính là một, tâm là phần chủ tể trong con
người, hễ hiểu rõ cái tâm thì ta biết rõ cái tính, biết rõ cái tính thì biết rõ
việc Trời đất và vạn vật (Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã. Tri kỳ tính, tắc
tri thiên hỹ 盡 其 心 者, 知 其 性 也. 知 其 性, 則 知 天 矣).
321.
Lúc chung mạng dứt hơi, hồn xuất
Quỉ vô thường sẵn chực đem đi.
323.
Dắt hồn đến chốn Âm ty,
Xét xem công quả chẳng ly mảy hào.
Chung
mạng 終 命: Hay chung mệnh: Chấm dứt mạng sống, tức là chết.
Quỉ
vô thường: Hay vô thường quỉ 無 常 鬼:
Một loài quỉ khi con người vừa sắp chết đến dẫn vong hồn xuống cõi Âm phủ cho
Diêm Vương xét công tội.
Sẵn
chực: Chực chờ sẵn sàng một bên.
Công
quả 功 果: Cái kết quả tốt đẹp được hưởng, khi làm những việc thiện, lành
để giúp đỡ cho đời hoặc đạo.
Theo luật tự nhiên, hễ có công thì ắt phải có quả. Người nào giúp đỡ kẻ tàn
tật, người nghèo khổ hoặc đến Chùa Thất làm công việc tự nguyện. Đó là công
việc mang lại kết quả tốt cho mình cho người, nên được gọi là công quả.
Chẳng
ly mảy hào: Chẳng sai lìa một chút nhỏ nào, chẳng sơ sót một chút xíu nào.
Câu
321: Lúc mới dứt hơi vừa chết, vong hồn mới xuất khỏi thân xác con người.
Câu
322: Quỉ vô thường sẵn chực chờ một bên đó sẽ dẫn hồn đem đi.
Câu
323: Dắt vong hồn đi về cõi Âm ty.
Câu
324: Để dưới Diêm cung xem xét công quả đã làm được nơi thế gian, không
sai chạy một ly nào.
325.
Người lương thiện ra vào thong thả.
Kẻ tội nhiều đày đọa rất minh.
Phật, Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác hườn hình như xưa.
Thong
thả: Thảnh thơi, không bị ràng buộc bởi hình phạt.
Rất
minh: Rất công minh, rất rõ ràng.
Phép
lạ: Phép tắc lạ lùng, tức là những sự việc mà cõi thế gian không thể nào
nghĩ ra được.
Hiển
linh 顯 靈: Sự linh thiêng được hiện rõ ra.
Tan
giác: Giác 覺 là
sự hiểu biết, tức là chơn thần của con người. Tan giác có nghĩa là tan nát cái
chơn thần. Người chết về cõi Âm chỉ còn Chơn thần và Chơn linh. Chơn thần được
coi như là cái xác của Chơn linh trong cõi Âm phủ.
Câu
325: Người sống trên thế gian hiền lương, khi chết thì được ra vào thong
thả nơi cõi Âm cung.
Câu
326: Còn kẻ có nhiều tội lỗi thì bị đày đọa rất là công minh.
Câu
327: Trời Phật có nhiều phép tắc lạ lùng linh hiển.
Câu
328: Hành hình cho đến nỗi tan nát chơn thần của tội nhơn, rồi được làm
phép hườn hình sống lại như trước.
329.
Con bất hiếu xay cưa đốt giã,
Mổ bụng ra phanh rã tim gan.
331.
Chuyển thân trở lại trần gian,
Sanh làm trâu chó đội mang lông sừng.
Con
bất hiếu: Người con không có hiếu thảo với cha mẹ.
Theo đạo lý, công cha mẹ sanh thành dưỡng dục cho con thành người rất thâm
trọng, nên bổn phận của con cái phải hiếu thảo cùng với hai đấng song thân.
Từ ngàn xưa không biết bao nhiêu thi ca, kinh sách và các nhà Tôn giáo nói về
công lao sinh dưỡng của cha mẹ. Ca dao Việt Nam nói về công đức cao dày ấy như
sau:
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu cũng nói lên công Trời biển đó:
Thương thay chín chữ cù lao,
Ba
năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Gia Huấn Ca của Nguyễn Trãi cũng viết:
Cù
lao đội đức cao dày,
Phải
lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Kinh Thi cũng nói rằng: “Phụ hề sinh ngã, mẫu hề cúc ngã, ai ai phụ mẫu,
sinh ngã cù lao, dục báo thâm ân, hạo thiên võng cực 父 兮 生 我, 母 兮 鞠 我, 哀哀 父 母 生 我 劬 勞, 欲 報 深 恩, 昊 天 罔 極”, tức là cha sinh ta, mẹ nuôi ta. Thương thay cha mẹ sinh ta khó
nhọc, muốn báo ơn sâu, công ơn ấy như Trời cao mênh mông không thể nào trả hết
được.
Đạo hiếu là đầu mối trước nhứt của Nho giáo, nên trong sự giáo hóa, Khổng Tử
lấy Hiếu Đễ là một nết rất quan trọng trong trăm nết. Ngài dạy rất kỹ lưỡng về
việc hiếu với cha mẹ, ông bà. Theo Ngài, người có hiếu không phải nuôi dưỡng
cha mẹ là đủ, mà còn phải có lòng kính. Điều nầy Ngài dạy Tử Du như sau : Cái
hiếu ngày nay, người ta cho rằng chỉ có thể nuôi dưỡng cha mẹ, đến như loài chó
ngựa đều có người nuôi, nuôi mà không kính thì lấy gì để phân biệt ? (Kim
chi hiếu giả, thị vị năng dưỡng, chí ư khuyển mã, giai năng hữu dưỡng, bất kính
hà dĩ biệt hồ? 今 之 孝 者, 是 謂 能 養, 至 於 犬 馬, 皆 能 有 養, 不 敬 何 以 別 乎).
Ngoài việc phụng dưỡng cha mẹ, Ngài còn dạy chi ly về việc hiếu như phải quan
tâm, lo lắng cha mẹ, làm vui lòng cha mẹ, không đi chơi xa khi cha mẹ còn sống,
có đi xa phải cho cha mẹ biết chỗ đi: “Phụ mẫu tại, bất viễn du, du tất hữu
phương 父 母 在, 不 遠 遊, 遊 必 有 方”. Ngoài ra làm người con hiếu cũng phải biết nối chí của cha mẹ,
khéo noi theo việc làm của cha mẹ: “Phù hiếu giả thiện kế nhân chi chí,
thiện thuật nhân chi sự giả dã 夫 孝 者 善 繼 人 之 志, 善 述 人 之 事 者 也”.
Qua câu này, Ngài lấy chữ thiện là khéo để dạy rằng hễ điều hay của cha mẹ thì
nên theo, điều dở nên bỏ, chứ không phải theo một cách mù quán.
Phanh
rã: Xẻ ra từng miếng nhỏ.
Chuyển
thân 轉 身: Chuyển kiếp trở lại nơi cõi thế gian với một thân xác mới.
Đội
mang lông sừng: Đội sừng mang lông, tức là xác thân loài vật, ý nói đầu
thai làm loài vật.
Câu
329: Làm con mà bất hiếu, khi chết xuống Âm ty thì bị xay, cưa, đốt, giã.
Câu
330: Và còn bị mổ bụng ra để phanh rã tim và gan.
Câu
331 và 332: Chuyển kiếp trở lại nơi cõi trần gian để sanh ra làm trâu, chó
mà đội mang lông sừng.
Câu chuyện có thật ở Trung Hoa xảy ra vào niên hiệu Khang Hy thứ 39 đời nhà
Thanh. Chuyện “Người bất hiếu bị chuyển thân trở lại làm heo” được kể
lại như sau:
Hầu Nhị ở Kim Đơn vốn là kẻ bất hiếu. Bà mẹ đem gạo giúp đỡ người ăn xin, Hầu
Nhị trông thấy nổi giận đánh mẹ và đuổi ra khỏi nhà, vợ con khóc lóc can gián,
y cũng không nghe. Chẳng bao lâu khắp mình Nhị sanh ghẻ độc lở lói, hành hạ đau
nhức cho đến lúc y mãn phần.
Sau khi chết, Hầu Nhị ứng mộng cho con thấy, bảo rằng: Do cha ngỗ nghịch bất
hiếu nên bị phạt đọa làm heo ở nhà Trương Nhị nơi cửa Tuyên Võ tại kinh sư. Con
nên qua đó mà chuộc mạng cha, nếu để trễ e không kịp.
Thức dậy đứa con y theo lời, tìm đến nhà Trương Nhị, quả có heo nái vừa mới
sanh ra mấy heo con. Trong đó một heo con mình thú mặt người, có râu mép, trạng
mạo giống cha mình. Đứa con thương khóc thuật lại duyên cớ, nguyện đưa ra mười
lượng vàng xin chuộc đem về. Nhưng Trương Nhị không nghe đem heo con ra giết.
Thật là thảm thay!
333.
Kìa những gái lẫy lừng hạnh xấu,
Bỏ vạc đồng đốt nấu thảm kinh.
335.
Vì chưng trinh tiết chẳng gìn,
Có chồng còn lại ngoại tình với trai.
Lẫy
lừng: Danh tiếng vang lừng. Ở đây cũng có thể hiểu đầy dẫy.
Hạnh
xấu: Tánh nết xấu xa.
Vạc
đồng: Cái chảo lớn bằng đồng.
Thảm
kinh 慘 驚: Kinh khủng và thảm khốc.
Trinh
tiết 貞 節: Cái đức kiên trinh của người đàn bà, tức là cái lòng trong sạch
của người đàn bà đối với chồng.
Ngoại
tình 外 情: Có tình cảm yêu đương với người ngoài khi đã có vợ hoặc có chồng
rồi.
Câu
333: Kìa là những người con gái tánh nết dẫy đầy sự xấu xa.
Câu
334: Bỏ vào vạc đồng để đốt, nấu một cách thê thảm và kinh tâm.
Câu
335: Vì rằng chẳng chịu gìn giữ cái lòng trong sạch của mình đối với chồng.
Câu
336: Khi đã có chồng rồi mà lại ngoại tình với trai.
337.
Kẻ tham lợi cột mai cột mối,
Chuốt trau lời giả dối ngọt ngon.
339.
Dỗ dành, rù quến gái non,
Làm hư hoại tiết cháu con nhà người.
Tham
lợi 貪 利: Có tính tham lam về lợi lộc.
Cột
mai cột mối: Vì tiền bạc, làm mai mối để cột buộc hai người con trai và con
gái thành vợ chồng với nhau.
Chuốt
trau lời: Trau chuốt lời nói, tức là tô điểm thêm lời nói cho đẹp đẽ để
thuyết phục một việc gì.
Dỗ
dành: Dùng lời nói ngọt ngon để an ủi người.
Rù
quến: Dụ dỗ, khuyến dụ người.
Gái
non: Gái mới lớn lên, chưa có kinh nghiệm về chuyện đời, con gái còn khờ
dại.
Làm
hư hoại tiết: Làm hư hỏng cái khí tiết của người con gái. Ở đây có nghĩa là
làm hư hoại cái tiết trinh của người đàn bà.
Câu
337 và 338: Còn có kẻ vì tham lợi lộc mà đi làm mai mối cho người. Họ
giả dối, dùng lời ngon ngọt, trau chuốt lời nói để cột mai cột mối cho người ta.
Câu
339: Dụ dỗ, quyến rũ những người con gái mới lớn lên.
Câu
340: Làm hư hỏng cái trinh tiết của con cháu nhà người ta.
Trong thời Nho giao, nam nữ thọ thọ bất thân, có nghĩa là trai gái không được
phép giao tiếp một cách tự do thân thiết với nhau. Vì vậy, việc hôn nhân giữa
hai bên phải nhờ có người làm mai mối. Bởi thế trong xã hội ngày xưa mới có
những người làm nghề mai mối, họ chuyên dùng môi mép để gạ gẫm, ngon ngọt mà dụ
nhiều gái non lòng nhẹ dạ, gả bán vào những gia đình giàu có để làm hầu thiếp,
họ đặng hưởng lợi lớn, gây biết bao khổ đau cho cuộc đời người con gái.
Trong Hồi Dương Nhơn Quả, có kể lại một bản án mà người làm mai mối gây ra tội
lỗi như sau: Họ Lý ở huyện Thần Châu ròng nghề làm mai mối, miễn có
tiền mướn mà ăn, thì quyết dụ gạt con gái nhà lành, ở đợ, làm bé mà chẳng động
lòng thương, đến nỗi làm mai con nít cho ông già, cột mối bà già cho trai nhỏ,
bọn ấy không vừa ý, tức mình phát bịnh mà chết hết bảy người, vì không thể sinh
đẻ nối đời đặng. Phán: Bởi tội y nói xảo mà rù quến gạt người, nên bị án nặng.
Truyền cắt lưỡi, bẻ răng, bỏ xuống hầm đời đời, cho oan hồn bớt tức.
341.
Lòng lang độc vui cười hớn hở,
Chốn Diêm đình phạt quở trừng răn.
343.
Gông kềm khảo kẹp lăng xăng,
Hành cho đáng kiếp tội căn đã làm.
Lang
độc 狼 毒: Độc ác như lang sói.
Lòng
lang độc: Lòng độc ác như loài lang sói.
Diêm
đình 閻 廷: Đồng nghĩa với Diêm cung 閻 宮,
chỉ cõi Âm phủ.
Phạt
quở: Hay Quở phạt, tức là dùng lời nói rầy rà khiển trách người.
Trừng
răn: Răn cấm và trừng trị.
Lăng
xăng: Chạy tới chạy lui, chạy qua chạy lại, cảnh tượng nhộn nhịp.
Đáng
kiếp: Xứng đáng với tội đã gây ra trong kiếp sanh.
Tội
căn 罪 根: Cái gốc rễ của tội lỗi đã gây ra từ nơi kiếp trước.
Câu
341: Lòng độc địa như lang sói, lúc còn thời thì vui cười hớn hở.
Câu
342: Khi chết rồi, xuống chốn Diêm đình thì bị quở phạt, răn dạy hay trừng
trị.
Câu
343: Nơi Diêm đình lăng xăng với những hình phạt khảo kẹp bằng gông kềm.
Câu
344: Trừng phạt một cách đau đớn cho xứng đáng với cái tội đã làm trong
kiếp sống nơi cõi thế gian.
345.
Ngục đao kiếm cầm giam phạm ác,
Tánh gian dâm hành phạt gớm ghê.
347.
Giáo gươm bén nhọn tư bề,
Chém đâm máu chảy tràn trề ngục môn.
Ngục
đao kiếm: Hay đao kiếm ngục 刀 劍 獄:
Trong ngục chứa toàn đao và kiếm.
Cầm
giam: Hay giam cầm 監 擒, tức là trói buộc hay giam giữ người có tội lỗi.
Phạm
ác: Hay ác phạm 惡 犯, tức những tội phạm gian ác.
Giáo
gươm: Hay gươm giáo là hai loại binh khí thời xưa dùng để đâm và chém.
Tư
bề: Bốn phương, tứ phía, bốn bên, tứ hướng đều cùng một nghĩa.
Ngục
môn 獄 門: Cửa ngục.
Câu
245: Ngục có chứa đao kiếm dùng để giam cầm những tội phạm gian ác.
Câu
246: Để hành phạt một cách ghê gớm với kẻ có tánh gian dâm.
Câu
347: Bốn phía ngục đều có cắm những ngọn gươm giáo bén nhọn.
Câu
348: Gươm giáo chung quanh ngục sẽ đâm chém tội phạm, khiến cho máu chảy
tràn trề cửa ngục.
349.
Hành đến chết hườn hồn sống lại,
Cho đầu thai ở tại thanh lâu.
351.
Ngày đêm đưa rước chực chầu,
Công bình Thiên Đạo phép mầu chí linh.
Hành
đến chết: Trừng phạt cho đến chết.
Ở đây, chúng ta biết rằng con người khi chết, xác phàm đã được táng lại nơi cõi
thế gian, quỉ vô thường chỉ dẫn vong hồn người chết về cõi Âm phủ. Như vậy, khi
thọ hình phạt nơi Diêm đình, người chết chỉ còn lại Chơn thần và Chơn hồn mà
thôi.
Thế mà theo những câu kinh trên, sao lại có thân xác để “xay, cưa, đốt, giã”,
để “mổ bụng ra phanh rã tim gan”, hoặc sao lại còn “chém đâm máu chảy
tràn trề ngục môn”, hoặc “Hành đến chết huờn hồn sống lại”. Đây là
những hình phạt nơi Âm phủ rất nên mầu nhiệm mà người ở thế khó nghĩ bàn được,
đúng như lời Kinh đã dạy:
Phật
Trời phép lạ hiển linh,
Hành cho tan giác, hườn hình như xưa.
Nhưng chúng ta nên biết Chơn thần của con người là một thể xác thiêng liêng do
Phật mẫu tạo hình, là một thể chứa nhiều dục vọng và cảm giác. Nếu là một tội
phạm nơi cõi Âm thì dĩ nhiên còn nhiều dục vọng và cảm giác, cho nên Chơn thần
mới nặng nề, trọng trược mà kéo Chơn linh chịu chung hình phạt. Khi thọ hình,
Chơn thần tưởng như mình còn sống, còn có thân xác, còn có tim gan, máu huyết,
còn biết đau đớn, khổ sở. Những hình phạt nặng đến nỗi Chơn thần nghĩ là mình
chết đi và được phép huyền diệu của Thiêng Liêng cho hườn hồn như sống lại. Đó
thực ra là do cái cảm giác của Chơn thần khi bị thọ hình mà thôi.
Thanh
lâu 青 樓: Lầu xanh, nơi chứa những gái mãi dâm, tức là nhà chứa điếm.
Thời xưa, thanh lâu dùng để chỉ nhà phú quí. Đời Tề, vua Võ Đế bảo xây dựng lầu
cao, phía trên sơn xanh, nên chỗ vua ở thời bấy giờ cũng gọi là thanh lâu.
Nhưng từ khi Lương Lưu Diếu làm câu thơ như sau: Xương nữ bất thăng sầu, kết
thúc hạ thanh lâu (Xương nữ sầu mênh mông, thanh lâu nàng bước xuống), thì hai
chữ thanh lâu chuyên dùng để nói về nhà chứa điếm.(Theo Hán Việt Từ Nguyên, Bửu
Kế)
Chực
chầu: Hay chầu chực, chỉ sự sẵn sàng chờ đợi để hầu hạ.
Phép
mầu: Phép tắc mầu nhiệm, phép huyền diệu.
Chí
Linh 至 靈: Rất linh thiêng, chỉ Đức chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Câu
349: Hành hình cho đến chết đi rồi cho hườn hồn để sống lại.
Câu
350: Cho đầu thai lên cõi Dương gian để làm gái lầu xanh.
Câu
351: Nơi lầu xanh, ngày đêm phải chầu chực, đưa rước khách ăn chơi.
Câu
352: Đạo Trời đất rất là công bình, và sự thưởng phạt của Thượng Đế rất là
huyền diệu.
353.
Móc nhọn vắt treo mình nhỏng nhảnh.
Cối đạp đồng rất mạnh giã dần.
355.
Ấy là phạt kẻ lường cân,
Đo gian đong thiếu Thánh Thần chẳng kiêng.
Nhọn
vắt: Hết sức nhọn và bén.
Treo
mình nhỏng nhảnh: Treo thân mình lơ lửng, đưa qua đưa lại. Tục gọi là treo
tòn teng.
Cối
đạp đồng: Cối giã có chày đạp bằng đồng.
Giã:
Lấy chày đập cho nát, gọi là giã.
Dần:
Lấy chày đâm nhiều lần cho mềm ra, gọi là dần.
Lường
cân: Ăn gian, ăn lường bằng cách cân non, đong thiếu.
Đo
gian: Ăn gian bằng cách đo thiếu.
Đong
thiếu: Đong lường không đủ để ăn gian cho mình.
Thánh
Thần chẳng kiêng: Chẳng kiêng nể các Đấng Thánh Thần.
Câu
353: Hình phạt treo mình tòn teng với cái móc nhọn vắt.
Câu
354: Rồi đưa vào cối đồng để dùng chày giã, dần rất mạnh.
Câu
355: Tội ấy là để phạt những kẻ cân lường không đủ, có lợi cho
mình mà hại người khác.
Câu
356: Và xảo trá bằng cách đo gian đong thiếu, chẳng kiêng sợ gì đến Thần
Thánh.
357.
Bầy chó dữ mang xiềng chạy đại,
Thấy tội nhơn xúm lại phân thây.
359.
Hình nầy phạt kẻ dại ngây,
Khinh khi Tam giáo đọa đày thế ni.
Mang
xiềng: Mang sợi dây lòi tói, hay dây xích, bị trói buộc bằng dây xiềng, dây
xích.
Chạy
đại: Chạy càn, tức là chạy thẳng vào, khó ngăn cản lại đặng.
Phân
thây: Hay phân thi 分 屍: Chia thi thể ra làm nhiều mảnh.
Dại
ngây: Khờ ngây dại dột, tức chỉ những người thiếu trí hiểu biết.
Tam
Giáo 三 教: Ba nền Tôn giáo lớn ở cõi Á Đông. Đó là Phật giáo do Đức Thích
Ca Mâu Ni làm giáo chủ; Tiên giáo do Đức Thái Thượng Lão Quân làm giáo chủ; và
Nho giáo do Đức Khổng Thánh Tiên Sư làm giáo chủ.
Thế
ni: Thế này, như thế này vậy.
Câu
357 và 358: Hình phạt cho bầy chó hung dữ mang xiềng xích chạy xong vào
người, xúm nhau lại cắn xé thi thể tội nhân ra thành nhiều mảnh.
Câu
359: Hình này dùng để phạt những kẻ khờ ngây, dại dột.
Câu
360: Và những người khinh khi Tam giáo nên mới bị đày đọa như thế nầy.
361.
Ao nước nóng sôi thì sục sục,
Dầm cho người rã rục thịt xương.
363.
Cũng vì lòng dạ vô lương,
Đệ huynh bất mục chẳng thương đồng bào.
Ao
nước nóng: Ao chứa nước nóng đang sôi, lên hơi sục sục.
Dầm:
Ngâm vào nước một thời gian lâu.
Rã
rục: Hay rục rã, nghĩa là tan nhừ ra.
Vô
lương 無 良: Không lương thiện, người hung ác.
Bất
mục 不 睦: Không hòa thuận nhau.
Lời của sách Ích Trí dạy như sau: Quân thần bất tín, quốc bất an; phụ
tử bất tín, gia bất mục; Huynh đệ bất tín, tình bất thân; bằng hữu bất
tín, giao dị sơ 君 臣不 信, 國 不 安; 父 子 不 信, 家 不 睦; 兄 弟 不 信, 情 不 親; 朋 友 不 信, 交 易 疏 (Vua
tôi chẳng tin nhau, nước chẳng yên ổn; cha con chẳng tin nhau, nhà chẳng hòa
thuận; anh em chẳng tin nhau, tình chẳng thân; bạn bè chẳng tin nhau, giao kết
sơ).
Đồng
bào 同 胞: Cùng chung một bào thai, chỉ anh em cùng một cha một mẹ.
Người trong một nước cũng gọi là “Đồng bào”, vì xem nhau như con một cha
một mẹ, do sự tích Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ sinh 100 người con, cho nên người
dân Việt gọi là giống Tiên Rồng và coi nhau như đồng bào.
Câu
361: Hình phạt dùng ao nước nóng sôi sục sục để trừng trị tội nhân.
Câu
362: Dầm người vào đó cho rục rã tất cả thịt xương.
Câu
363: Cũng bởi vì lòng dạ không hiền lành, không lương thiện.
Câu
364: Khiến nên chẳng thương yêu anh em ruột thịt và chẳng hòa thuận cùng
nhau.
Thánh hiền ngày xưa có quan niệm rằng tình nghĩa anh em như là tay chân, tình
nghĩa vợ chồng như xiêm áo, trong ca dao Việt Nam cũng có câu:
Anh
em như thể chân tay,
Vợ
chồng như áo cởi ngay tức thì.
Cổ ngữ cũng có nói: Thế gian tối nan đắc giả huynh đệ 世 間 最 難 得 者 兄 弟,
nghĩa là cái khó kiếm được nhứt ở thế gian là anh em. Câu này cho chúng ta thấy
rằng tình nghĩa anh em thực là nồng nàn, thắm thiết, rất cao quý và thiêng
liêng.
Nếu đệ huynh bất mục, tức là anh em chẳng hòa thuận cùng nhau thì chẳng khác gì
“củi đậu nấu đậu”, nghĩa là anh em chẳng những không thương yêu nhau mà
còn muốn hại nhau như câu chuyện sau được trích từ sách Thế Thuyết:
Tào Phi, con của Tào Tháo, muốn hại em ruột của mình là Tào Thực, biểu trong
bảy bước phải làm một bài thi, không làm xong, sẽ bị xử tử. Tào Thực liền ngâm
rằng:
煮 豆 燃 豆 萁
Chử
đậu nhiên đậu ki,
豆 在 釜 中 泣
Đậu
tại phủ trung khấp.
本 是 同 根 生
Bổn
thị đồng căn sanh,
相 煎 何 太 急
Tương
tiễn hà thái cấp!
Nghĩa là:
Nấu
đậu chụm cây đậu,
Hạt đậu trong nồi khóc,
Vốn cùng một gốc sanh,
Đốt nhau chi quá gấp?!
Tào Phi xem xong bài thi, rất nên cảm động, bèn tha cho em mình là Tào Thực.
365.
Nhiều gộp núi như đao chơm chởm,
Thấy dùn mình tán đởm rất ghê.
367.
Thây người máu chảy dầm dề,
Tiếng la than khóc tư bề rùm tai.
Gộp
núi: Mỏm núi, tức là những mỏm đá núi nhọn nhô ra ngoài.
Chơm
chởm: Nhọn tua tủa ra.
Táng
đởm: Hay táng đảm 喪 膽: Mất mật. Vì mật là một bộ phận chủ chốt giúp cho con người trở
nên gan dạ. Nghĩa bóng: Hết sức sợ hãi, hoảng sợ. Người ta thường dùng thành
ngữ “Kinh tâm táng đởm” để chỉ sự sợ hãi.
Dầm
dề: linh láng, chỉ sự ướt đến độ lan tràn ra ngoài.
Tư
bề rùm tai: Tiếng ầm ĩ bốn phía làm ồn lỗ tai.
Câu
365: Lại có những mỏm núi mọc tua tủa ra những ngọn đao bén nhọn.
Câu
366: Nhìn thấy những gộp núi đó bắt dùn mình, mà kinh hồn mất vía.
Câu
367: Thây người nằm oằn oại, máu chảy ra dầm dề.
Câu
368: Ba bên bốn phía tiếng than khóc, rên la làm rùm cả lỗ tai.
369.
Phạt những kẻ sửa ngay ra vạy,
Tớ phản thầy, quan lại bất trung.
371.
Hành rồi giam lại Âm cung,
Ngày đêm đánh khảo trăng cùm xiềng gông.
Sửa
ngay ra vạy: Sửa những điều ngay thẳng ra những điều tà vạy, chỉ hạng người
chuyên làm điều gian tà giả dối.
Tớ
phản thầy: Đầy tớ phản lại chủ.
Quan 官: Những người thay mặt triều đình hay nhà nước để cái trị dân.
Lại 吏: Những viên chức làm việc dưới quyền các quan.
Bất
trung 不 忠: Chẳng trung thành, nghĩa là chẳng ngay với vua hay nước. Người
bất trung là người có lòng phản bội.
Giam
lại Âm cung: Nhốt lại ở cõi Âm phủ.
Đánh
khảo: Đánh đập tra khảo.
Trăng: Còn
gọi là cùm hay tróng, là một dụng cụ tra khảo,
dùng để khóa chơn tội phạm vào một chỗ.
Xiềng:
Dùng dây xích để khóa tay và chơn của tội phạm.
Gông:
Lấy khung gỗ có khóa để tròng vào cổ và hai tay của tội nhơn.
Câu
369: Hình phạt trên để hành kẻ chuyên sửa điều ngay ra điều tà vạy.
Câu
370: Và những kẻ làm đầy tớ phản lại chủ, làm quan, lại chẳng trung thành.
Câu
371: Hành phạt xong rồi giam tội phạm ở lại cõi Âm cung.
Câu
372: Để đêm ngày xiềng xích , trói trăng hoặc đánh đập, khảo tra.
373.
Hình Bào lạc cột đồng vòi vọi,
Đốt lửa hồng ánh giọi chói lòa.
375.
Trói người vào đó xát chà,
Vì chưng hung bạo đốt nhà bắn săn.
Bào
lạc 炮 烙: Một thứ dụng cụ dùng để tra tấn tội nhơn rất ghê gớm.
Cột
đồng: Hay đồng trụ 銅 柱: Một cây cột bằng đồng, tức là cây trụ đồng của bào lạc.
Hình phạt này có vào thời nhà Thương do Trụ Vương nghĩ ra. Lúc ấy, Trụ vương
nghe lời Đắc Kỷ bày ra hình Bào lạc để giết hại người tôi trung. Hình bào lạc
này được chế ra để xử Bà Khương Hoàng Hậu.
Sách Liệt Nữ Truyện chép: Một cột đồng dựng đứng có bôi mỡ, bên trong đốt than
cháy đỏ rực. Tội nhân bị cột vào trụ đồng cho đến chết cháy như quay.
Vòi
vọi: Sừng sựng.
Ánh
giọi chói lòa: Ánh sáng giọi chói lòa ra ngoài.
Hung
bạo 凶 暴:
Hung tàn bạo ngược, chỉ sự hung ác dữ tợn.
Bắn
săn: Săn bắn chim hoặc thú, tức là săn bắt chim thú bằng cách bắn tên hoặc
bắn súng.
Câu
373 và 374: Hình phạt bằng bào lạc, tức là một cây cột đồng cao vòi vọi,
bên trong đốt cho lửa cháy hồng áng sáng giọi ra chói lòa.
Câu
375: Trói tội phạm vào bào lạc để xát chà cho cháy phỏng.
Câu
376: Chịu tội ấy bởi vì tánh tình hung bạo đốt nhà người hay săn bắn chim
thú.
377. Có
cọp dữ nhăn răng đưa vấu,
Gặp tội nhơn quào quấu xé thây.
379.
Ấy vì lòng dạ chẳng ngay,
Giết người lấy của bị nay hình nầy.
Đưa
vấu: Giương cái móng vuốt để vồ con mồi.
Quào
quấu: Lấy móng và vuốt để cào cấu vào thân người.
Xé
thây: Xé xác người.
Lòng
dạ chẳng ngay: Người có tâm không ngay thẳng, người gian tà, xảo trá.
Giết
người lấy của: Giết người để cướp giựt của cải.
Câu
377: Hình phạt bằng cách liệng vào cọp dữ đang nhăn răng đưa móng vuốt ra.
Câu
378: Gặp được người có tội nhảy đến quào quấu để xé thây.
Câu
379: Ấy là vì có lòng dạ chẳng ngay thật.
Câu
380: Giết chết người để lấy của nên nay bị thọ hình này.
381.
Ao rộng lớn chứa đầy huyết phẩn
Xô người vào, lội lặn nhờm thay!
383.
Tanh hôi mình mẩy vấy đầy,
Trồi lên hụp xuống gậy cây đánh đầu.
Huyết
phẩn 血 糞: Máu huyết và phân người.
Nhờm
thay: Ghê tởm thay.
Tanh
hôi mình mẩy: Thân mình dính dơ bẩn nên bay mùi tanh hôi.
Vấy
đầy: Dính đầy.
Trồi
lên hụp xuống: Nổi lên chìm xuống, chỉ sự chới với dưới ao khi chìm khi nổi.
Câu
381: Dùng cái ao rộng lớn, trong đó chứa đầy những máu và phân người.
Câu
382: Xô tội nhơn xuống đó cho lội lặn chỗ dơ bẩn, thật là gớm ghiếc thay.
Câu
383: Thân mình dính đầy ô uế nên bay hơi mùi tanh hôi khó chịu.
Câu
384: Ở dưới ao, thân bị trồi lên hụp xuống, song khi trồi lên lại còn bị
gậy cây đánh đầu.
385.
Để hành kẻ chứa sâu, lường của
Trù ếm người, chưởi rủa Tổ tông.
387.
Đồ dơ giặt đổ rạch sông,
Đương khi uế trược thẳng xông chỗ thờ.
Chứa
xâu: Tổ chức và chứa bài bạc để thu tiền người tới đánh, gọi là chứa xâu.
Lường
của: Lừa gạt để lấy tiền và của cải vật chất của người.
Trù
ếm: Ghét người, nên nguyền rủa, trù dập người, hoặc dùng bùa chú ếm đối
người cho bị đau bệnh, chết chốc.
Đồ
dơ: Chỉ quần áo dơ của phụ nữ có kinh nguyệt.
Uế
trược: Hay uế trọc 穢 濁:dơ bẩn hôi hám.
Đương
khi uế trược: Đang khi bị dơ mình, tức người phụ nữ đang lúc có kinh nguyệt.
Chỗ
thờ: Nơi thờ tự các Đấng hay tổ tông ông bà.
Câu
385: Hình phạt trên để hành kẻ chứa bài bạc lấy xâu, lừa gạt người lấy của.
Câu
386: Hoặc trù rủa ếm đối người, hoặc mắng chửi tổ tông ông bà.
Câu
387: Giặt quần áo dơ của phụ nữ có kinh nguyệt rồi đổ nước xuống rạch sông.
Câu
388: Và phụ nữ đang lúc dơ mình xông thẳng vào nơi thờ tự.
Tội hình này được Ngài Mục Kiền Liên xuống Địa ngục vào nơi Huyết bồn trì chứng
kiến và kể lại như sau:
Huyết bồn trì là ao đầy máu, những tội nhân đầu bù tóc rối, tay bị kềm kẹp. Mỗi
ngày ba lần, ngục tốt quỉ vương sai đưa máu đến bắt tội nhân uống, nếu không
uống, tức thì chúa ngục dùng gậy sắt đánh kêu la thảm thiết. Ngài Mục Kiền Liên
bèn hỏi chúa ngục rằng: Tại sao chỉ có những người đàn bà chịu tội lỗi như thế?
Chúa ngục đáp: Vì những người đàn bà trong khi sinh nở, đem đồ dơ bẩn giặt giũ
biển sông hoặc giếng ao rồi nước từ đấy chảy đi nơi khác, gặp người thành tâm
múc nước ấy uống hoặc cúng các Đấng Thiêng Liêng, vì vậy khi chết, phải chịu
tội nghiệp này.
389.
Vào bếp núc chỗ nhơ không kể,
Phơi áo quần chẳng nể Tam quan.
391.
Buông lời tục tĩu dâm loàn,
Lâu mau, nặng nhẹ, chịu mang tội nầy.
Bếp
núc: Chỗ đặt lò, bếp để nấu nướng đồ ăn.
Chỗ
nhơ: Đây chỉ người đàn bà lúc bị dơ mình, tức lúc có kinh nguyệt.
Chú
Thích: Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh in năm 1936 đến 1975 đều
viết: “vào bếp núc chỗ nhơ không kể” , là ý muốn nói về trường
hợp của người đàn bà, mà là người đàn bà lúc bị dơ mình, nghĩa là lúc có kinh
nguyệt. Nhưng Kinh Sám Hối của Minh Lý Đạo viết: “Vào bếp núc, lúc nhơ chẳng
kể”, chỉ cái nghĩa rõ ràng hơn.
Tam
quan 三 關: Tên một cái cổng lớn, phần nhiều là cửa chùa, cửa các phủ thờ có
ba lối đi vào: Cửa giữa, cửa tả, cửa hữu.
Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo của Hội Thánh từ trước đến nay đều viết là Tam quan
(không có chữ g). Đây chỉ cái cổng Tam quan, nếu ở nhà thường dân có lẽ chỉ
trước sân nhà.
Trong quyển Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “đổ đồ nhơ uế xuống sông, phơi
áo quần dơ giọi bóng Tam quang là mặt nhựt, mặt nguyệt, ánh sao, hoặc
nhơ uế mà để lên chỗ thờ phượng, vào bếp núc. Các tội trên đều bị xô xuống Tạp
trì (hay huyết ô trì), là ao huyết dơ mà lặn hụp, tùy theo tội nhiều ít phạt ở
lâu mau”.
Như vậy, theo Ngọc Lịch Minh Kinh thì chữ Tam Quang 三 光 (có
chữ g) có nghĩa là nhựt, nguyệt, tinh, tức là không phơi áo quần dơ dưới ánh
mặt trời, mặt trăng và ánh sao (Điều này thật khó, bởi vì phơi áo quần phải
phơi chỗ có nắng, tức dưới ánh mặt trời rồi còn gì).
Buông
lời tục tĩu: Nói ra lời tục có tính cách dâm đảng.
Dâm
loàn: Hay dâm loạn 淫 亂: Dâm dục đến rối loạn cả nền tảng luân lý , đạo đức.
Câu
389: Người đàn bà khi vào nơi bếp không kiêng cử lúc bị dơ mình.
Câu
390: Và phơi quần áo chẳng kiêng cử đến cổng Tam Quan (hoặc phơi trước sân
nhà).
Câu
391: Nói ra lời dâm bôn, tục tĩu trái với nền luân lý, đạo đức.
Câu
392: Thì sẽ bị mang tội hình này, tùy theo lâu mau hay nặng nhẹ.
393.
Ao rộng sâu chứa đầy giòi tửa,
Hơi tanh hôi thường bữa lẫy lừng.
395.
Gạo cơm hủy hoại quen chừng,
Phạt ăn dơ dáy mới ưng tội hình.
Giòi
tửa: Ruồi đẻ ra một dề trứng, được gọi là tửa. Tửa (hay trứng) mới nở ra
giòi, là một loại trùng sống lúc nhúc nơi chỗ dơ bẩn hôi thúi.
Thường
bữa lẫy lừng: Hằng ngày hôi thúi xông lên dữ dội.
Hủy
hoại quen chừng: Quen tánh hủy hoại (cơm gạo).
Mới
ưng tội hình: Hình phạt như vậy mới xứng đáng với cái tội đã làm. Tức là
phạt ăn dơ dáy mới vừa với tội hủy hoại cơm gạo.
Câu
393: Một cái ao rộng và sâu, trong ấy chứa đầy giòi tửa.
Câu
394: Hằng ngày hơi tanh hôi xông mùi lên lừng lẫy.
Câu
395: Những kẻ quen tánh hủy hoại gạo cơm.
Câu
396: Nên phạt cho ăn dơ dáy mới xứng đáng với cái tội hình đã mang.
397.
Cột trói ngược quá kinh rất lạ,
Quỉ Dạ xoa đánh vả kẹp cưa.
399.
Vì chưng chưởi gió mắng mưa,
Kêu tên Thần, Thánh chẳng chừa chẳng kiêng.
Quá
kinh rất lạ: Quá kinh sợ và rất lạ lùng.
Dạ
Xoa 夜 叉: Tiếng Pali Yakkha.
1. Một loài Thần (Thần dạ xoa) có sức mạnh khác thường.
2. Một loại quỉ có hình thù cổ quái ở cõi Âm phủ để Diêm Vương sai khiến đi bắt
và hành phạt các tội hồn.
Còn là một loài quỉ hay phá phách người tu hành bằng cách gây tiếng động ồn ào
trong lúc họ thiền.
Theo Kinh Duy Ma, quỉ Dạ xoa, còn gọi là Dược xoa, dịch nghĩa là Tiệp tật quỉ
(quỉ nhanh nhẹn). Có ba loại: Một ở mặt đất, hai ở hư không, ba là thiên dạ xoa.
Vì
chưng: Vì rằng, vì bởi.
Chẳng
chừa chẳng kiêng: Chẳng chừa bỏ và cũng không kiêng nể gì.
Câu
397: Hình phạt kỳ lạ và kinh tâm nhứt, là trói buộc tội nhơn thòng đầu
xuống.
Câu
398: Rồi quỉ Dạ xoa đến xử phạt bằng cách đánh, vả, kẹp cưa.
Câu
399: Cũng bởi vì chửa gió mắng mưa.
Câu
400: Hoặc kêu tên các Đấng Thần, Thánh chẳng chừa hay chẳng kiêng nể gì cả.
Những hình phạt này dành cho tội lỗi do lổ miệng mà ra.
Khẩu nghiệp cũng là một nghiệp rất nặng mà người tu cần phải thận trọng gìn
giữ, trong Thánh thi có viết:
Nho
nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đời đừng tưởng một mình lanh.
Một
câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
Theo Nho giáo, mọi sự thị phi, phiền não cũng đều do miệng mà ra, vì vậy ông
Châu Tử mới khuyên như sau: “Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành. Thị phi
chỉ vị đa khai khẩu, phiền não nhân do cưỡng xuất đầu 守 口 如 缾, 防 意 如 城. 是 非 只 為 多 開 口, 煩 惱 皆 因 強 出 頭”:
Phải giữ miệng kín như miệng bình, phòng ý tứ như giữ thành. Phải trái chỉ do
miệng nói nhiều, phiền não đều ở sự gắng gượng chiều lòn mà ra.
Như vậy, người tu hành cần phải biết khẩu nghiệp mang đến một hình phạt rất
nặng nề. Tỷ như người biết ăn chay, lo cúng kiếng, mỗi khi có ai xúc phạm đến
thì la lối chửi rủa, không kể nhỏ lớn. Đối với Trời đất, việc mưa nắng là sự
thường tình nơi nhơn gian, thế mà lại có kẻ dám “chửi gió mắng mưa”, kêu
tên các bậc Thần Thánh, chẳng kiêng dè nể sợ là gì, khiến nên phải mang tội
hình kinh lạ này.
401. Bàn chông nhọn
liền liền đánh khảo,
Tra tội nhơn, gian giảo ngược ngang.
403.
Hành người bế địch, trợ hoang,
Thừa năm hạn đói mưu toan bức nghèo.
Bàn
chông nhọn: Một dụng cụ làm bằng miếng bản nhỏ trên đó lởm chởm nhiều hàng
cây đinh nhọn hoặc sắt nhọn, để gài bẫy người. Ở đây, bàn chông nhọn là một
hình cụ dùng để tra khảo tội nhơn nơi Âm phủ.
Bế
địch 閉 糴: Bế là đóng cửa. Địch là Mua
thóc ở xử ngoài mang về xứ mình (nhập cảng). Bế địch: Đồng nghĩa
với bế quan, đóng ải quan, không để cho lúa gạo nhập cảng.
Trợ
hoang 助 荒: Hoang là thất mùa lúa. Trợ hoang:
Trợ giúp nạn thất mùa.
Dân chúng bị thiên tai mất mùa, không có đủ lúa gạo để ăn, cần phải mua lúa gạo
từ nước ngoài để cứu đói, nhưng có những người có thân thế làm cho việc nhập
cảng gạo bị ngưng trệ, giá lúa gạo cao lên, để độc quyền bán ra hầu thâu lợi
thật nhiều.
Thừa
năm hạn đói: Nhơn cơ hội nắng hạn, thất mùa lúa, dân chúng đói khổ.
Mưu
toan bức nghèo: Mưu tính để áp bức dân nghèo.
Câu
401: Hình phạt này bắt tội nhơn nằm lên bàn chông nhọn để đánh khảo liền
liền.
Câu
402: Tra tấn tội nhơn một cách nặng nề những người gian giảo, ngang ngược.
Câu
403: Hình phạt này để hành người tìm cách không cho lúa gạo nhập cảng để
trợ giúp việc thất mùa, khiến cho lúa gạo cao giá, người nghèo khó càng thêm
thiếu đói.
Câu
404: Nhơn dịp những năm hạn hán thất mùa, mưu toan áp bức dân nghèo bằng
cách đầu cơ tích trử.
405. Thành Uổng tử
cheo leo gớm ghiếc,
Cầm hồn oan rên xiết khóc than.
407.
Dương gian ngỗ nghịch lăng loàn,
Liều mình tự vận không màng thảo ngay.
Uổng
tử 枉死:
Không đáng chết mà chết, chết một cách oan ức, hay chết oan vì tự tử.
Thành
Uổng Tử: Hay Uổng Tử thành 枉 死 城:
Một cái thành nơi Âm phủ, dùng để giam giữ các vong hồn của người khi ở dương
thế bị chết do tự tử.
Ngọc Lịch Minh Kinh có viết: “Thế tục nói sái rằng, ai bị thác oan thì hồn bị
cầm nơi thành Uổng Tử. Đời nghe lưu truyền lâu, cũng tin là thiệt! Sao không
xét cho đủ lý, người đã thác oan còn cầm ngục là nghĩa gì? Cho đi thong thả chớ
không cấm cố, song nán đợi kẻ giết mình xuống Âm phủ, hành tội trước mặt hồn
oan cho hết tức, rồi mới cho đi đầu thai. Còn thành này (Thành Uổng Tử) để giam
những kẻ vô cớ giận lẫy mà tự giết mình, trầm mình, thắt họng, uống thuốc
độc…giam đỡ đợi hành tội, chưa đặng đầu thai”.
Cheo
leo gớm ghiếc: Đứng sừng sựng một cách vắng lặng ghê gớm.
Cầm
hồn oan: Hay cầm oan hồn 擒 冤 魂:
Giam những hồn bị oan uổng.
Ngỗ
nghịch 忤 逆: Làm trái ý người, ngang bướng, xấc xược.
Tự
vận: Hay tự vẫn 自 刎: Tự mình cắt cổ của mình mà chết, gọi là tự vẫn.
Không
màng thảo ngay: Không kể gì đến chữ hiếu với cha mẹ và chữ trung với đất
nước. Thảo ngay là trung hiếu 忠 孝.
Câu
405: Thành Uổng Tử đứng cheo leo thấy mà gớm ghê.
Câu
406: Trong ấy dùng để giam cầm những oan hồn nên đầy những tiếng rên than
khóc lóc.
Câu
407: Khi còn sống ở Dương gian thì ngỗ nghịch, lăng loàn.
Câu
408: Liều mạng sống mình bằng cách tự vận chẳng kể gì đến việc thảo ngay.
409. Xuống Địa ngục
đọa đày hành mãi,
Đúng số rồi còn phải luân hồi.
411.
Hóa công xem xét đền bồi,
Lành siêu dữ đọa thêm nhồi tội căn.
Đoạ
đày hành mãi: Luôn luôn bị hành hình và bị đày đọa một cách khổ sở.
Đúng
số rồi: Đúng theo số mạng rồi, tức là đúng theo cái nghiệp lực mà mình đã
làm khi còn ở thế gian.
Lành
siêu: Khi ở thế gian làm việc lành thì chểt sẽ được siêu thoát.
Dữ
đọa: Khi ở thế gian làm những việc hung dữ thì chết sẽ bị đọa lạc.
Chúng ta nên biết siêu và đọa là hai đường đi của các Chơn linh. Khi còn ở
Dương thế nếu khôn, lo việc làm lành thì sẽ được siêu thăng vào cõi Thiêng
Liêng Hằng Sống, là nơi Cực Lạc, Vĩnh Hằng; nếu dại làm những việc hung dữ thì
sẽ bị rơi vào đường đọa, cõi Phong đô kềm thúc:
Lành
dữ hai đường đọa với siêu,
Đòn cân tội phước trả mai chiều.
Khôn lên bờ giác làm Tiên Phật,
Dại xuống mê đồ hóa quỉ yêu.
Câu
409: Bị đọa xuống Địa ngục thì hồn bị đày một cách khổ sở và bị hành hình
mãi mãi.
Câu
410: Đúng theo số định rồi thì vong hồn còn phải chịu luân hồi.
Câu
411: Đấng Hóa Công sẽ xem xét hành vi khi còn nơi Dương thế sẽ thưởng phạt
đền bồi.
Câu
412: Lành thì được siêu thăng, dữ thì bị đọa lạc và nhồi thêm những tội
căn.
413.
Cầu Nại Hà bắc giăng sông lớn,
Tội nhơn qua óc rởn dùn mình.
415.
Hụt chơn ván lại gập ghình,
Nhào đầu xuống đó cua kình rỉa thây.
Cầu
Nại Hà: Hay Nại Hà kiều 奈 河 橋:
Tên một con sông. Sách Tuyên Thất Chí của Trương Độc chép: Đổng Quang chết, hồn
đến một con sông rộng không đầy vài thước, nước chảy về hướng tây nam, tục gọi
là cầu Nại Hà, chảy từ Địa phủ ra. Quang nhìn nước thấy toàn là huyết, mùi tanh
hôi không thể chịu được (Hán Việt Từ Nguyên, Bửu Kế).
Theo Phật giáo, ở cõi Âm phủ có con sông lớn, trong ấy có các loại thủy tộc như
rắn, cua, kình rất dữ tợn. Tội nhơn đến đó không thể nào qua sông đặng, chỉ
những người có đầy đủ phước đức mới đi qua cầu Nại Hà được, còn những kẻ hung
dữ đều bị té nhào xuống sông để cho cua kình rỉa thây.
Ốc
rởn dùn mình: Sợ đến nỗi thân mình da mọc đầy ốc, mình mẩy run bần bật.
Gập
ghình: Không vững chắc, bị lung lay và nhún nhẩy.
Kình 鯨:
Cá kình. Hình tuy là giống cá, nhưng thực ra thuộc về loài thú. Có con to dài
đến tám chín mươi thước.
Câu
413: Trên sông Nại Hà ở cõi Địa ngục có bắc một cây cầu giăng qua sông lớn.
Câu
414: Tội nhơn đi qua cầu đó khiến thân mình sợ hãi rùn mình.
Câu
415 và 416: Qua đến giữa cầu, ván bị gập ghình, hoảng sợ nên chơn bị hụt
mà nhào đầu xuống đó khiến cho cua kình rỉa thây.
417.
Nhiều thứ rắn mặt mày dữ tợn,
Ngóng cổ trông mắt trợn dòm người.
419.
Gặp thây nuốt sống ăn tươi,
Vì bày thưa kiện móc bươi xúi lời.
Mắt
trợn dòm người: Trợn mắt lên dòm ngó người, bởi vì những loại rắn dưới đây
bị đói, khi thấy người đi qua thì ngóng cổ trừng mắt dòm để chờ ăn thịt.
Nuốt sống ăn tươi: Ăn thịt tươi sống, không chặt nấu,
để nguyên như vậy mà ăn.
Móc
bươi: Moi móc chuyện xấu xa của người ta.
Xúi
lời: Lấy lời xúi giục người ta làm điều sái quấy.
Câu
417: Dưới sông đó lại có nhiều thứ rắn trông thấy mặt mày rất nên dữ tợn.
Câu
418: Cổ rắn ngóng lên cao dòm người đi ngang qua cầu Nại Hà.
Câu
419: Những loài rắn đó gặp thây người bèn ăn tươi nuốt sống.
Câu
420: Hình này để phạt những người bày ra thưa kiện, hoặc bươi móc chuyện
xấu, hoặc xúi giục người làm điều sái quấy.
421.
Trong núi lửa bay hơi tanh khét,
Linh hồn người đầy nghẹt trong ngoài!
423.
Phạt răn quến gái, dụ trai,
Bày ra thuốc độc, phá thai tuyệt loài.
Bay
hơi tanh khét: Hơi tanh hôi và cháy khét bay ra.
Đầy
nghẹt: Nhiều đến nỗi đầy ngập, không còn chỗ chứa.
Quến
gái: Rù quến con gái, tức quyến rũ con gái nhẹ dạ.
Dụ
trai: Dụ dỗ con trai.
Tuyệt
loài: Tuyệt loại 絕 類: Làm tuyệt hẳn nòi giống.
Câu
421: Trong núi lửa, hơi tanh hôi và hơi cháy khét bay xông ra.
Câu
422: Nơi ấy, đầy cả trong lẫn ngoài những linh hồn nghẹt cứng.
Câu
423: Hình phạt trên dùng để hành những người chuyên rù quến con gái và dụ
dỗ con trai.
Câu
424: Bày ra cách dùng thuốc độc phá những bào thai, làm tuyệt nòi giống.
425.
Người ở thế mấy ai khỏi lỗi,
Biết lạc lầm sám hối tội căn.
427.
Tu tâm sửa tánh ăn năn,
Ba giềng nắm chặt, năm hằng chớ lơi.
Lạc
lầm: Sai lạc và lầm lẫn.
Sám
hối 懺 悔: Hai chữ sám hối là danh từ kết hợp cả tiếng Sanskrit và tiếng
Hán. Sám do chữ Phạn sám ma, là hối hận điều lầm lỗi. Hối:
Tiếc vì đã làm điều lỗi, xin tha thứ.
Sám hối có nghĩa là xin thú nhận những lỗi lầm đã phạm và xin nguyện ăn năn sửa
đổi tội lỗi, từ nay về sau không tái phạm nữa.
Khi có lầm lỗi, muốn cầu Đức Chí Tôn và các Đấng Thiêng Liêng tha tội, trước
nhứt chúng ta phải nhờ các Đấng chứng minh để ta phát tâm ăn năn chừa cải.
Trong bài tụng Sám hối bên Phật giáo có bốn câu:
Tội
tánh bổn không do tâm tạo,
罪 性 本 空 由 心 造
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong.
心 若 滅 時 罪 亦 亡
Tội vong, tâm diệt lưỡng câu không,
罪 亡 心 滅 兩 俱 空
Thị tắc danh vi chân sám hối.
是 則 名 為 真 懺 悔
Nghĩa là:
Tánh của tội vốn là không, do tâm tạo. (vì tâm ý là chủ động)
Động cơ tâm đã diệt rồi thì tội cũng theo đó mà mất.
Tội hết, tâm diệt rồi cả hai đều không.
Thế mới gọi là chân sám hối (Sám hối chân thật).
Tội lỗi do tâm sinh ra, rồi cũng do tâm diệt đi, tâm diệt hết thì tội lỗi cũng
không còn.
Ba
giềng: Ba giềng mối, dịch từ chữ Tam cang, gồm: Quân thần cang, phụ tử
cang, phu thê cang.
Năm
Hằng: Năm đạo hằng, dịch từ Ngũ thường, gồm: Nhân, nghĩa, Lễ, trí, tín.
Câu
425: Làm người sống ở thế gian, có mấy ai mà chẳng mang tội lỗi.
Câu
426: Nếu biết được lỗi lầm thì nên sám hối những tội căn của mình.
Con người sống ở thế gian có mấy ai không bị lầm lỗi, khi đã biết lỗi rồi phải
sám hối ăn năn.
Có người không tự xét lấy mình, nên chẳng biết mình có lỗi, như có ai chỉ cho
mình điều sái quấy thì phải vui vẻ nhận lấy như thầy Tử Lộ đã từng làm, như thế
mới có khí tượng của bậc Thánh hiền: Cáo hữu quá tắc hỷ, hữu Thánh hiền khí
tượng 告 有 過 則 喜, 有 聖 賢 氣 像.
Có người biết mình quấy mà không chừa không cải, thì là mình tự che lấy cho
mình đừng biết vậy: Hữu quá bất tri giả tự tế chi dã 有 過 不 知 者 自 蔽 之 也.
Lại có người biết lỗi mà không chịu ăn năn hối cải thì cái lỗi ấy thực là càng
thái quá thêm: Quá nhi bất cải thị vị quá hỹ 過 而 不 改 是 謂 過 矣.
Như vậy, mình phải biết nghe lời sửa lỗi của người. Khi biết mình có lỗi lầm thì
phải ăn năn hối ngộ sửa cải tánh tình, để trở về với nẻo chánh đường chơn mà lo
tu thân lập đức.
Câu
427: Phải biết ăn năn để tu tâm sửa tánh.
Câu
428: Nắm giữ tam cang, và chẳng nên lơi lỏng đạo ngũ thường.
429.
Ngặt có kẻ tưởng Trời tin Phật,
Mà trong lòng chẳng thật kính thành.
431.
Lâm nguy nguyện vái làm lành,
Tai qua rồi lại dạ đành phụ vong.
Tưởng
Trời tin Phật: Tin tưởng Trời Phật.
Kính
thành: Kính trọng một cách thành thật.
Lâm
nguy 臨 危: Gặp sự nguy hiểm.
Nguyện
vái làm lành: Cầu nguyện và van vái các Đấng sẽ làm những điều lành.
Tai
qua: Tai nạn đã đi qua, tức là đã hết tai nạn.
Phụ
vong 負 忘: Quên lời, không nhớ lời nguyện vái.
Câu
429 và 430: Ngặt có những kẻ bên ngoài tuy là tin tưởng Trời Phật, nhưng
trong lòng không thật sự là kính thành.
Câu
431: Lúc gặp tai nạn thì cầu nguyện, vái van sẽ làm phải làm lành.
Câu
432: Đến khi tai qua nạn khỏi rồi thì lòng không nhớ những lời vái van ấy
nữa.
Ở
cõi thế gian này, có nhiều người vì quyền lợi nên không sống thật với lòng
mình. Trong đoạn trên của kinh Sám Hối có những câu:
Thêm
những sãi giả nương cửa Phật,
Của thập phương châu cấp thê nhi.
Hoặc:
Làm
mặt phải bạc ngàn cúng Phật,
Ép kẻ nghèo cố đất cầm vườn.
Tất cả những hạng người đó tuy là có tin Trời tưởng Phật, song trong lòng họ
chẳng thật sự có lòng thành kính. Bởi nếu biết thành kính Trời Phật, thì phải
noi theo tánh từ bi của các Đấng ấy, tức là có lòng thương yêu tất cả chúng
sanh. Mà hễ có lòng hiếu sanh thì họ nỡ lòng nào dối người để lấy của thập
phương châu cấp cho vợ con, và nỡ nào bức ép những kẻ nghèo khổ cố đất cầm
vườn. Và người có lòng tin tưởng chân thật vào Đức Chí Tôn và chư Phật thì dù
hoàn cảnh nào cũng noi theo lòng bác ái các Đấng Thiêng Liêng ấy, chứ không đợi
lúc lâm nguy mới nguyện làm việc lành, đến chừng tai nạn qua khỏi rồi thì quên
hết mọi điều đã nguyện vái.
Người thật sự là tin tưởng Trời Phật thì lúc nào cũng làm lành, không phải đợi
lúc lâm nguy mới làm lành, mà thành thực làm lành vì thể theo đức háo sanh của
Trời Phật.
433.
Chớ thái quá đừng lòng bất cập,
Phép tu hành luyện tập nhiều ngày.
435.
Làm lành, xem phải, nói ngay,
Giữ ba điều ấy thiệt rày phước duyên.
Thái
quá 太 過: Quá mức độ.
Bất
cập 不 及: Chẳng kịp, thua sút.
Thiệt
rày: Từ nay về sau mới thiệt là.
Phước
duyên 福 緣: Cái duyên phước đức, hay cái duyên may mắn tốt lành.
Câu
433: Sống ở trên đời, làm việc gì chẳng nên thái quá mà cũng không nên bất
cập.
Câu
434: Phương pháp tu hành là phải luyện tập hằng ngày.
Thời xưa các Nho gia thường khuyên người ta đừng thái quá cũng đừng bất cập, mà
phải giữ thái độ trung dung.
Đạo Trung dung theo Khổng Mạnh là một qui tắc hành động của bậc hiền minh, hợp
với lẽ đương nhiên, không thái quá, không bất cập, song phải biết quyền biến,
biết tùy thời, tùy cảnh ngộ, tùy địa vị mà xử sự, lúc nên làm thì làm, lúc
không nên làm thì không làm. Nghĩa là phải cho hợp tình hợp lý chứ không chấp
nhứt.
Đây là thái độ của người Quân tử theo đạo Trung dung: Người quân tử cứ theo địa
vị mình mà ăn ở, không cần ở ngoài; địa vị giàu sang thì ăn ở theo cách giàu
sang; địa vị nghèo hèn thì ăn ở cách nghèo hèn; ở nơi mọi rợ thì ăn ở theo cách
mọi rợ; ở vào lúc hoạn nạn thì ăn ở theo cảnh hoạn nạn. Người quân tử ở vào
cảnh nào cũng tự đắc (tức là vui vẻ, thản nhiên) (Quân tử tố kỳ vị nhi hành,
bất nguyện hồ kỳ ngoại; tố phú quý hành hồ phú quý; tố bần tiện hành hồ bần
tiện; tố di địch hành hồ di địch; tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, quân tử vô nhập
nhi bất đắc yên 君 子 其 位 而 行, 不 願 乎 其 外, 素 富 貴 行 乎 富 貴, 素 貧 賤 行 乎 貧 賤, 素 夷 狄 行 乎 夷 狄,素 患 難 行 乎 患 難, 君 子 無 入 而 不 自 得 焉).
Người tu thì lấy đường trung đạo mà tu tập, phải tránh xa hai cực đoan, tức là
giữ thái độ vô chấp, vô trụ, là không bị lệ thuộc vào định kiến nào và không bị
đóng khung trong một phạm trù tư tưởng nào, cứ theo mức trung mà hằng ngày tu
tập.
Câu
435: Làm những điều lành, xem những điều phải và nói những điều ngay thật.
Câu
436: Nếu giữ được ba điều trên thì thiệt là có cái duyên phước đức rất lớn.
437. Lời kệ sám di
truyền khuyến thiện,
Câu văn từ luận biện thật thà.
439.
Chẳng dùng những tiếng sâu xa,
E không hiểu thấu, diễn ra ích gì?
Kệ 偈: Bài thơ ngắn, bài văn vần tóm tắt đại ý một đoạn hay một bài
kinh, một bài thuyết pháp để ca ngợi công đức của Bồ Tát, chư Phật.
Kệ còn là một bài ca chứng đạo của các vị Thiền sư.
Sau
đây là một bài Kệ của Lục Tổ Huệ Năng:
Bồ
đề bổn vô thọ,
菩 提 本 無 樹
Minh kính diệc phi đài.
明 鏡 亦 非 臺
Bổn
lai vô nhất vật.
本 來 無 一 物
Hà
xứ nhạ trần ai.
何 處 惹 塵 埃
Sám 懺: Ăn năn những điều lầm lỗi và thật lòng hối cải.
Lời
kệ sám: Những lời kinh kệ để sám hối ăn năn. Ở đây, chỉ bài Kinh Sám Hối.
Di
truyền 遺 傳: Truyền để lại, truyền lại cho những người sau này.
Khuyến
thiện 勸 善: Khuyên làm việc lành.
Văn
từ 文 詞: Văn chương chữ nghĩa.
Luận
biện 論 辨: Bàn bạc phân biệt cho rõ ràng.
Những
tiếng sâu xa: Những từ ngữ hay ý tưởng cao sâu khó hiểu.
E
ra không thấu: E sợ rằng không hiểu thấu nổi.
Diễn
ra: Trình bày ra.
Câu
437: Lời kinh Sám Hối truyền để lại mục đích để khuyên răn làm điều thiện.
Câu
438: Văn từ của bài kinh nhằm để phổ thông mọi giới nên luận biện thật thà.
Câu
439: Lời kinh chẳng dùng những từ ngữ hay những ý tưởng cao sâu.
Câu
440: Vì e sợ rằng không hiểu thấu nổi, trình bày có ích chi đâu.
Như ta đã biết, mục đích của bài kinh Sám Hối, như tên gọi khi xưa “Kinh
Nhơn Quả”, là nêu lên thuyết luân hồi nhơn quả, nhằm răn dạy cho chúng sanh
tránh xa điều tội lỗi, ác đức, khuyên người làm việc lương thiện, phước lành.
Nhưng chúng sanh phần đông là những hạng người bình dân ít học, vì vậy, ngôn
ngữ trong bài kinh Sám Hối được các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ ban cho không
dùng những lời lẽ cao xa, cầu kỳ, vì e rằng người học ít sẽ không hiểu thấu,
nên mới dùng lời văn bình dị, mộc mạc để tất cả mọi giới đều có thể tiếp thu,
nhận biết.
441. Chớ buông tiếng
thị phi khinh dể,
Rán làm lành phước để cháu con.
443.
Làm người nhơn nghĩa giữ tròn,
Muôn năm bóng khuất tiếng còn bay xa.
Buông
tiếng: Tỏ ra những lời nói thiếu suy nghĩ, nói một cách bừa bãi.
Thị
phi 是 非: Phải và trái.
Nhơn
nghĩa giữ tròn: Giữ gìn trọn vẹn điều nhơn nghĩa.
Bóng
khuất: Hay khuất bóng ý nói đã chết rồi, tức là hình bóng khuất dạng trên
cõi đời.
Tiếng
còn bay xa: Tiếng thơm còn lưu lại bay khắp nơi.
Câu
441: Chẳng nên thiếu suy xét mà tỏ ra lời khiến thị phi khinh dể.
Câu
442: Mà hãy rán làm việc lành để phước đức lại cho cháu con.
Câu
443: Làm con người phải gìn giữ điều nhơn nghĩa cho trọn vẹn.
Câu
444: Dù muôn năm hình bóng có khuất dạng trên cõi đời này thì tiếng tăm,
danh thể còn lưu lại.
THIÊN THỨ NHÌ
BÀI KHEN NGỢI KINH
SÁM HỐI
I/.Kinh
văn
II/.Chú
giải
I.-KINH
VĂN:
BÀI KHEN NGỢI KINH
SÁM HỐI
I/.Kinh
văn
II/.Chú
giải
I.-KINH
VĂN:
BÀI KHEN NGỢI KINH SÁM HỐI
Nghe lời khuyến thiện rất may,
Nguyện lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
Một là hối ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.
Sau dầu đến chốn Diêm đình,
Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
Luân hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
II.-CHÚ
GIẢI:
Nghe
lời khuyến thiện rất may,
Nguyện
lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Khuyến
thiện 勸 善:
Khuyên làm những điều lành.
Nguyện
lòng: Nguyện với lòng mình, tức là tự hứa nguyện trong lòng.
Ăn
chay: Giữ giới mà không ăn các loại thực phẩm có nguồn gốc từ các loài động
vật như: Trứng, cá, thịt…
Người ăn chay chỉ dùng các thực phẩm xuất phát từ thảo mộc, hay chế biến từ
thảo mộc. (Xem chú thích trong câu 272 Kinh Sám Hối).
Câu
1: Rất may mắn khi được nghe những lời khuyến thiện.
Câu
2: Nên nguyện với lòng sẽ niệm Phật, ăn chay và làm lành.
Ngày
ngày tập sửa tánh thành,
Đêm
đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
Tánh
thành: Hay thành tính 誠 性 Tính nết thành thật ngay thẳng.
Theo Mạnh Tử, “Thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để trở nên thành
thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm động được thiên hạ thì
chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả”.
Tuân Tử cũng cho rằng đức thành cảm hóa được con người và vạn vật, là một cái
Đạo của Trời đất, của Thánh nhân. Ông nói: “ Quân tử dưỡng tâm thì
không gì tốt bằng luyện đức thành. Hễ chí thành rồi thì không còn việc gì làm
hại được tâm nữa. Chỉ thành tâm giữ lấy điều nhân, chỉ thành tâm làm theo điều
nghĩa. Hễ thành tâm giữ điều nhân thì niềm thành tâm tất hiện ra ngoài mà tất
có hiệu lực thần diệu, thần diệu thì cảm hóa được người; hễ thành tâm làm điều
nghĩa thì tất thấu lý, thấu lý thì tất sáng, sáng thì tất biến đổi lòng
người…Trời đất lớn thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hóa được vạn
vật; Thánh nhân sáng suốt thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hóa
được vạn dân; tình cha con thân thật, nhưng nếu không thành thực thì hóa sơ;
bậc vua và bề trên đáng tôn kính thật, nhưng nếu không thành thực thì hóa thấp.
Thành là cái người quân tử phải giữ, và là cái gốc của chính trị” (Quân tử
dưỡng tâm mạc thiện vu thành, trí thành tắc vô tha sự hỹ. Duy nhân chi vi thủ,
duy nghĩa chi vi hành. Thành tâm thủ nhân tắc hình, hình tắc thần, thần tắc
năng hóa hỹ; thành tâm hành nghĩa tắc lý, lý tắc minh, minh tắc năng biến
hỹ…Thiên địa vi đại hỹ, bất thành tắc bất năng hóa vạn vật; Thánh nhân vi tri
hỹ, bất thành tắc bất năng hóa vạn dân; phụ tử vi thân hỹ, bất thành tắc sơ;
quân thượng vi tôn hỹ, bất thành tắc ti. Phù thành giả, quân tử chi sở thủ dã,
nhi chính sự chi bản dã 君 子 養 心 莫 善 于 誠, 致 誠 則 無 它 事 矣. 唯 仁 之 為 守, 唯 義 之為 行. 誠 心 守 仁 則 形, 形 則 神, 神 則 能 化 矣; 誠 心 行 義 則 理, 理 則 明, 明 則 能 變 矣… 天 地 為 大 矣, 不 誠 則 不 能 化 萬 物; 聖 人 之 為 知 矣, 不 誠 則 不 能 化萬 民; 父 子 為 親 矣, 不 誠 則 疏; 君 上 為 尊 矣, 不 誠 則 卑. 夫 誠 者, 君 子 之 所 守 也).
Tự
tỉnh 自 省: Tự mình thức tỉnh, tức là tự xét trong mình phải trái hay dở thế
nào để mà sửa chữa.
Đức Khổng Tử dạy về cách xét mình như sau: Kiến thiện như bất cập, kiến
bất thiện như thám thang; kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự
tỉnh dã 見 善如 不 及, 見 不 善 如 探 湯; 見 賢 思 齊 焉, 見 不 賢 而 內 自 省 也:
Dịch vần
Thấy
người làm việc tốt lành,
Mình như thua kém, tiến lanh kịp người.
Thấy ai xấu nết chớ cười,
Xét
xem mình có giống người ấy chăng?
Tu
hành 修 行: Sửa sang rèn luyện.
“Tu hành” theo sách Hán thư viết: Nếu thông hiểu sách sử thì nên sửa
sang tâm tính để thi hành đạo lý của các tiên vương.
Sau này, chữ tu hành thường dùng theo nghĩa: Vào một tôn giáo để sửa đổi tâm
tính và thi hành giáo lý của tôn giáo ấy.
Câu
3: Hằng ngày rèn tập để tu sửa cho tánh nết thành thật ngay thẳng.
Câu
4: Hằng đêm tự xét mình xem nếu có lầm lỗi thì ăn năn tu hành.
Con người sống trong thế gian đầy tội lỗi, mà thiếu tự xét mình và giữa tập thể
thiếu sự xây dựng của những người chung quanh thì khó lòng trở thành người tốt
được. Những tín hữu làm việc trong Đạo không biết suy xét và thiếu sự góp ý,
phê bình của tập thể thì dễ rơi vào chủ quan, lệch lạc và có hành vi không
chuẩn mực, đó là chưa nói đến những sai trái của cá nhân khi không được quan tâm
phê bình cũng như tự phê bình.
Về mặt hành vi, tự phê bình là phẩm chất tốt và đạo đức, thể hiện sự dũng cảm
trong đấu tranh đối với cái sai trái của chính mình. Hai câu kinh trên nhằm nói
lên con người muốn chiến thắng bản thân mình thì hằng ngày phải sống thật với
lòng mình, tức là nhận rõ điều tốt việc xấu của mình để sửa đổi; và hằng đêm
còn phải biết tự xét mình mà ăn năn hối cải. Có như vậy, con người mới khắc
phục được những thiếu sót, khuyết điểm, mới cảm thấy lòng nhẹ nhàng hơn, tự tin
hơn trên đường tu học.
Một
là hối ngộ tội căn,
Hai
là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
Hối
ngộ 悔 悟: Hối hận và giác ngộ.
Tội
căn 罪 根: Gốc của tội lỗi trong kiếp sống trước.
Siêu
thăng 超 升: Siêu vượt bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cửu
huyền 九 玄: Đây là một thành ngữ dùng để chỉ Ông bà Tổ tiên. Thờ cúng Ông bà
Tổ tiên, nhiều gia đình xưa thờ Tiên Linh 先 靈,Truy
viễn 追 遠 hayCửu Huyền Thất Tổ 九 玄 七 祖.
Thờ Cửu Huyền, cũng giống như thờ Tiên Linh hay Truy Viễn vậy, tức là thờ các
vị Tổ tiên Ông bà chung từ xa xưa đến nay. Chữ Huyền chỉ về đời, Tổ chỉ hàng
ông nội trở lên.
Có thuyết cho rằng Cửu Huyền cũng là Cửu tộc, kể từ Cao Tổ nhỏ xuống đến cháu
huyền tôn là chín đời.
Sách Ấu Học Quỳnh Lâm giải thích về Cửu tộc như sau: “Hà vị Cửu tộc? Cao, Tằng,
Tổ, Khảo, Kỷ thân, Tử, Tôn, Tằng, Huyền 何 謂 九 族? 高, 曾, 祖, 考, 己身, 子, 孫, 曾, 玄” (Cửu tộc là gì? Ông sơ, ông cố, ông nội, cha, bản thân, con,
cháu, chắt, chít).
Như vậy từ bản thân kể lên bốn đời, và đếm xuống bốn đời, cộng chung lại là
chín đời, gọi là Cửu tộc:
1 Cao
Tổ 高 祖
(Ông Sơ)
2 Tằng
Tổ 曾 祖
(Ông Cố)
3 Tổ Phụ 祖 父 (Ông
Nội)
4 Phụ
thân 父 親 (Cha)
5 Kỷ
thân 己 身 (Bản
thân)
6
Trưởng tử 長 子 (Con
trưởng)
7 Đích
tôn 嫡 孫 (Cháu
nội)
8 Tằng
tôn 曾 孫 (Cháu
chắt)
9 Huyền
tôn 玄 孫 (Cháu
chít)
Nếu thờ Cửu Huyền mà lấy Cửu tộc ra thờ thì chỉ thờ được bốn đời trên bản thân
mình, tức từ phụ thân đến cao tổ, còn bốn đời sau là con cháu thì sao lại thờ
được?
Như vậy, theo thiển ý, Cửu Huyền là một danh từ dùng để chỉ chung Tổ tiên Ông
bà nhiều đời trước mà thôi, giống như thờ Tiên linh hay Truy viễn, nghĩa là từ
cha mẹ đã chết đến Tỵ tổ (không kể số lượng là chín).
Câu
5: Điều thứ nhứt là để sám hối những tội căn đã làm rồi giác ngộ tu hành.
Câu
6: Điều thứ hai là cầu rỗi đặng cho Cửu huyền được siêu thăng tịnh độ.
Được may duyên gặp thời kỳ Đức Chí Tôn khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong thời
hạ nguơn mạt pháp, để ân xá cho toàn thể chúng sanh, chúng ta thọ trì nền chánh
Đạo, là tự bản thân đã cải tà qui chánh, sám hối những tội căn đã làm trong quá
khứ. Ngoài ra còn lo bồi công lập đức, tu tâm dưỡng tánh, là để cầu rỗi cho Cửu
Huyền Thất Tổ và hai đấng sanh thành được siêu thăng tịnh độ.
Thực vậy, các đấng Thiêng Liêng có dạy: “Nhất nhân hành Đạo Cửu Huyền thăng 一 人 行 道 九 玄 升”, và trong bài kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu có
câu:
Thong
dong cõi thọ nương hồn,
Chờ
con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Con
cháu muốn làm tròn hiếu đạo với Ông bà Tổ phụ, hai Đấng song thân, không gì hơn
là phải biết tu thân, lập đức, nhất là phải thực hành công quả, để lấy đó mà
dâng hiến lên Ông bà Tổ phụ, hai đấng sinh thành.
Như vậy, công quả mới thực sự là một món quà trân trọng nhất
để thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu dâng cúng Cửu Huyền Thất Tổ và cha mẹ,
làm hành trang để trở về ngôi xưa vị cũ.
Đương
sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong
nhà già trẻ miên miên thái bình.
Đương
sanh 當 生: Đang kiếp sống nơi cõi trần.
Hạnh
hưởng 幸 享: May mắn được thọ hưởng.
Phước
duyên 福 緣: Cái duyên phước đức, nghĩa là điều may mắn tốt lành do cái duyên
trong kiếp sống trước tạo ra.
Miên
miên 綿 綿: Mãi mãi, lâu dài.
Thái
bình 太 平: Rất yên ổn.
Câu
7: Đang trong cuộc sống được may mắn thọ hưởng những phức đức do duyên
lành nơi kiếp trước.
Câu
8: Trong gia đình tất cả những người già trẻ đều được yên ổn lâu dài.
Sau
dầu đến chốn Diêm đình,
Linh
hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
Diêm
đình 閻 廷: Triều đình của Diêm vương, chỉ cõi Âm phủ. Đồng nghĩa với Diêm
Cung.
Linh
hồn trong sạch: Linh hồn còn gọi là Chơn linh, là điểm linh quang của Chí
Tôn ban cho, tự nó đã là trong sạch nhẹ nhàng rồi.
Sở dĩ Linh hồn không trong sạch là bởi vì con người đã trải qua biết bao nhiêu
kiếp luân hồi sinh tử, gây ra biết bao nhiêu oan nghiệt, mà tạo nên nghiệp quả
khiến cho Chơn thần phải chịu nặng nề ô trược. Khi Chơn thần bị trọng trược thì
sẽ níu kéo Chơn linh, làm cho Chơn linh cũng nặng nề ô trược.
Dòng
khổ hải hễ thường chìm đắm,
Mùi đau thương đã thắm chơn linh.
Dây oan xe chặt buộc mình,
Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
(Kinh Giải Oan)
Để Chơn linh được trong sạch nhẹ nhàng, con người phải dẹp bỏ thất tình lục
dục, và tu dưỡng một thân thể tinh khiết bằng cách giữ gìn trai giới, có tư
tưởng thanh cao, phát huy bản thể trọn lành của Thượng Đế và thường xuyên lễ
bái để tâm hồn mình được thông công, giao cảm với Trời, mà nâng bước tiến tâm
linh ngày thêm Thánh thiện.
Thảnh
thơi: Không bị ràng buộc, không bị tội lỗi.
Câu
9: Ngày sau dầu có đi xuống chốn Diêm đình.
Câu
10: Thì Linh hồn cũng được trong sach, nhẹ nhàng và thảnh thơi.
Luân
hồi trở lại trên đời,
Tiền
công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Luân
hồi 輪 迴: Luân là bánh xe xoay vần, Hồi là quay trọn vòng này trở lại đến
vòng khác, cứ thế quay mãi.
Sự luân chuyển của chúng sanh trong sáu cõi (Lục đạo 六 道),
sanh tử, tử sanh tiếp nối nhau không ngừng như cái bánh xe quay không có khởi
điểm. Chúng sanh bị nghiệp lực cuốn hút vào vòng sống chết không bao giờ dừng
nghỉ, chỉ khi nào đạt được giải thoát hay chứng quả mới thôi.
Tiền
công 前 功: Công quả hay công đức của tiền kiếp đã tạo ra.
Thưởng
ban 賞 頒: Trời Phật ban ra mà thưởng cho người có công quả hay công đức.
Câu
11: Rồi luân hồi chuyển kiếp để trở lại trên cõi đời.
Câu
12: Công quả hay công đức trong kiếp trước đã tạo ra sẽ được Trời Phật ban
thưởng cho kiếp sống này.
Cầu
xin trăm họ bình an,
Nước
giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Trăm
họ: Do chữ bá tánh 百 姓, chỉ toàn thể dân chúng.
Thanh
nhàn 清 閒: Rảnh rang, không bận bịu việc gì.
Câu
13: Cầu xin cho tất cả trăm họ được bình an.
Câu
14: Đất nước được giàu, dân chúng được mạnh để hưởng cảnh thanh nhàn muôn
năm.
Nghe lời khuyến thiện rất may,
Nguyện lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Ngày ngày tập sửa tánh thành,
Đêm đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
Một là hối ngộ tội căn,
Hai là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
Đương sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong nhà già trẻ miên miên thái bình.
Sau dầu đến chốn Diêm đình,
Linh hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
Luân hồi trở lại trên đời,
Tiền công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Cầu xin trăm họ bình an,
Nước giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
II.-CHÚ
GIẢI:
Nghe
lời khuyến thiện rất may,
Nguyện
lòng niệm Phật ăn chay làm lành.
Khuyến
thiện 勸 善:
Khuyên làm những điều lành.
Nguyện
lòng: Nguyện với lòng mình, tức là tự hứa nguyện trong lòng.
Ăn
chay: Giữ giới mà không ăn các loại thực phẩm có nguồn gốc từ các loài động
vật như: Trứng, cá, thịt…
Người ăn chay chỉ dùng các thực phẩm xuất phát từ thảo mộc, hay chế biến từ
thảo mộc. (Xem chú thích trong câu 272 Kinh Sám Hối).
Câu
1: Rất may mắn khi được nghe những lời khuyến thiện.
Câu
2: Nên nguyện với lòng sẽ niệm Phật, ăn chay và làm lành.
Ngày
ngày tập sửa tánh thành,
Đêm
đêm tự tỉnh tu hành ăn năn.
Tánh
thành: Hay thành tính 誠 性 Tính nết thành thật ngay thẳng.
Theo Mạnh Tử, “Thành thực là cái Đạo của Trời, luyện tập để trở nên thành
thực là cái Đạo của người. Hễ chí thành mà không cảm động được thiên hạ thì
chưa hề có; không thành thực thì chẳng cảm động được ai cả”.
Tuân Tử cũng cho rằng đức thành cảm hóa được con người và vạn vật, là một cái
Đạo của Trời đất, của Thánh nhân. Ông nói: “ Quân tử dưỡng tâm thì
không gì tốt bằng luyện đức thành. Hễ chí thành rồi thì không còn việc gì làm
hại được tâm nữa. Chỉ thành tâm giữ lấy điều nhân, chỉ thành tâm làm theo điều
nghĩa. Hễ thành tâm giữ điều nhân thì niềm thành tâm tất hiện ra ngoài mà tất
có hiệu lực thần diệu, thần diệu thì cảm hóa được người; hễ thành tâm làm điều
nghĩa thì tất thấu lý, thấu lý thì tất sáng, sáng thì tất biến đổi lòng
người…Trời đất lớn thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hóa được vạn
vật; Thánh nhân sáng suốt thật, nhưng nếu không thành thực thì không cảm hóa
được vạn dân; tình cha con thân thật, nhưng nếu không thành thực thì hóa sơ;
bậc vua và bề trên đáng tôn kính thật, nhưng nếu không thành thực thì hóa thấp.
Thành là cái người quân tử phải giữ, và là cái gốc của chính trị” (Quân tử
dưỡng tâm mạc thiện vu thành, trí thành tắc vô tha sự hỹ. Duy nhân chi vi thủ,
duy nghĩa chi vi hành. Thành tâm thủ nhân tắc hình, hình tắc thần, thần tắc
năng hóa hỹ; thành tâm hành nghĩa tắc lý, lý tắc minh, minh tắc năng biến
hỹ…Thiên địa vi đại hỹ, bất thành tắc bất năng hóa vạn vật; Thánh nhân vi tri
hỹ, bất thành tắc bất năng hóa vạn dân; phụ tử vi thân hỹ, bất thành tắc sơ;
quân thượng vi tôn hỹ, bất thành tắc ti. Phù thành giả, quân tử chi sở thủ dã,
nhi chính sự chi bản dã 君 子 養 心 莫 善 于 誠, 致 誠 則 無 它 事 矣. 唯 仁 之 為 守, 唯 義 之為 行. 誠 心 守 仁 則 形, 形 則 神, 神 則 能 化 矣; 誠 心 行 義 則 理, 理 則 明, 明 則 能 變 矣… 天 地 為 大 矣, 不 誠 則 不 能 化 萬 物; 聖 人 之 為 知 矣, 不 誠 則 不 能 化萬 民; 父 子 為 親 矣, 不 誠 則 疏; 君 上 為 尊 矣, 不 誠 則 卑. 夫 誠 者, 君 子 之 所 守 也).
Tự
tỉnh 自 省: Tự mình thức tỉnh, tức là tự xét trong mình phải trái hay dở thế
nào để mà sửa chữa.
Đức Khổng Tử dạy về cách xét mình như sau: Kiến thiện như bất cập, kiến
bất thiện như thám thang; kiến hiền tư tề yên, kiến bất hiền nhi nội tự
tỉnh dã 見 善如 不 及, 見 不 善 如 探 湯; 見 賢 思 齊 焉, 見 不 賢 而 內 自 省 也:
Dịch vần
Thấy
người làm việc tốt lành,
Mình như thua kém, tiến lanh kịp người.
Thấy ai xấu nết chớ cười,
Xét
xem mình có giống người ấy chăng?
Tu
hành 修 行: Sửa sang rèn luyện.
“Tu hành” theo sách Hán thư viết: Nếu thông hiểu sách sử thì nên sửa
sang tâm tính để thi hành đạo lý của các tiên vương.
Sau này, chữ tu hành thường dùng theo nghĩa: Vào một tôn giáo để sửa đổi tâm
tính và thi hành giáo lý của tôn giáo ấy.
Câu
3: Hằng ngày rèn tập để tu sửa cho tánh nết thành thật ngay thẳng.
Câu
4: Hằng đêm tự xét mình xem nếu có lầm lỗi thì ăn năn tu hành.
Con người sống trong thế gian đầy tội lỗi, mà thiếu tự xét mình và giữa tập thể
thiếu sự xây dựng của những người chung quanh thì khó lòng trở thành người tốt
được. Những tín hữu làm việc trong Đạo không biết suy xét và thiếu sự góp ý,
phê bình của tập thể thì dễ rơi vào chủ quan, lệch lạc và có hành vi không
chuẩn mực, đó là chưa nói đến những sai trái của cá nhân khi không được quan tâm
phê bình cũng như tự phê bình.
Về mặt hành vi, tự phê bình là phẩm chất tốt và đạo đức, thể hiện sự dũng cảm
trong đấu tranh đối với cái sai trái của chính mình. Hai câu kinh trên nhằm nói
lên con người muốn chiến thắng bản thân mình thì hằng ngày phải sống thật với
lòng mình, tức là nhận rõ điều tốt việc xấu của mình để sửa đổi; và hằng đêm
còn phải biết tự xét mình mà ăn năn hối cải. Có như vậy, con người mới khắc
phục được những thiếu sót, khuyết điểm, mới cảm thấy lòng nhẹ nhàng hơn, tự tin
hơn trên đường tu học.
Một
là hối ngộ tội căn,
Hai
là cầu đặng siêu thăng Cửu huyền.
Hối
ngộ 悔 悟: Hối hận và giác ngộ.
Tội
căn 罪 根: Gốc của tội lỗi trong kiếp sống trước.
Siêu
thăng 超 升: Siêu vượt bay lên cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
Cửu
huyền 九 玄: Đây là một thành ngữ dùng để chỉ Ông bà Tổ tiên. Thờ cúng Ông bà
Tổ tiên, nhiều gia đình xưa thờ Tiên Linh 先 靈,Truy
viễn 追 遠 hayCửu Huyền Thất Tổ 九 玄 七 祖.
Thờ Cửu Huyền, cũng giống như thờ Tiên Linh hay Truy Viễn vậy, tức là thờ các
vị Tổ tiên Ông bà chung từ xa xưa đến nay. Chữ Huyền chỉ về đời, Tổ chỉ hàng
ông nội trở lên.
Có thuyết cho rằng Cửu Huyền cũng là Cửu tộc, kể từ Cao Tổ nhỏ xuống đến cháu
huyền tôn là chín đời.
Sách Ấu Học Quỳnh Lâm giải thích về Cửu tộc như sau: “Hà vị Cửu tộc? Cao, Tằng,
Tổ, Khảo, Kỷ thân, Tử, Tôn, Tằng, Huyền 何 謂 九 族? 高, 曾, 祖, 考, 己身, 子, 孫, 曾, 玄” (Cửu tộc là gì? Ông sơ, ông cố, ông nội, cha, bản thân, con,
cháu, chắt, chít).
Như vậy từ bản thân kể lên bốn đời, và đếm xuống bốn đời, cộng chung lại là
chín đời, gọi là Cửu tộc:
1 Cao
Tổ 高 祖
(Ông Sơ)
2 Tằng
Tổ 曾 祖
(Ông Cố)
3 Tổ Phụ 祖 父 (Ông
Nội)
4 Phụ
thân 父 親 (Cha)
5 Kỷ
thân 己 身 (Bản
thân)
6
Trưởng tử 長 子 (Con
trưởng)
7 Đích
tôn 嫡 孫 (Cháu
nội)
8 Tằng
tôn 曾 孫 (Cháu
chắt)
9 Huyền
tôn 玄 孫 (Cháu
chít)
Nếu thờ Cửu Huyền mà lấy Cửu tộc ra thờ thì chỉ thờ được bốn đời trên bản thân
mình, tức từ phụ thân đến cao tổ, còn bốn đời sau là con cháu thì sao lại thờ
được?
Như vậy, theo thiển ý, Cửu Huyền là một danh từ dùng để chỉ chung Tổ tiên Ông
bà nhiều đời trước mà thôi, giống như thờ Tiên linh hay Truy viễn, nghĩa là từ
cha mẹ đã chết đến Tỵ tổ (không kể số lượng là chín).
Câu
5: Điều thứ nhứt là để sám hối những tội căn đã làm rồi giác ngộ tu hành.
Câu
6: Điều thứ hai là cầu rỗi đặng cho Cửu huyền được siêu thăng tịnh độ.
Được may duyên gặp thời kỳ Đức Chí Tôn khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trong thời
hạ nguơn mạt pháp, để ân xá cho toàn thể chúng sanh, chúng ta thọ trì nền chánh
Đạo, là tự bản thân đã cải tà qui chánh, sám hối những tội căn đã làm trong quá
khứ. Ngoài ra còn lo bồi công lập đức, tu tâm dưỡng tánh, là để cầu rỗi cho Cửu
Huyền Thất Tổ và hai đấng sanh thành được siêu thăng tịnh độ.
Thực vậy, các đấng Thiêng Liêng có dạy: “Nhất nhân hành Đạo Cửu Huyền thăng 一 人 行 道 九 玄 升”, và trong bài kinh Tụng Cha Mẹ Đã Qui Liễu có
câu:
Thong
dong cõi thọ nương hồn,
Chờ
con lập đức giúp huờn ngôi xưa.
Con
cháu muốn làm tròn hiếu đạo với Ông bà Tổ phụ, hai Đấng song thân, không gì hơn
là phải biết tu thân, lập đức, nhất là phải thực hành công quả, để lấy đó mà
dâng hiến lên Ông bà Tổ phụ, hai đấng sinh thành.
Như vậy, công quả mới thực sự là một món quà trân trọng nhất
để thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu dâng cúng Cửu Huyền Thất Tổ và cha mẹ,
làm hành trang để trở về ngôi xưa vị cũ.
Đương
sanh hạnh hưởng phước duyên,
Trong
nhà già trẻ miên miên thái bình.
Đương
sanh 當 生: Đang kiếp sống nơi cõi trần.
Hạnh
hưởng 幸 享: May mắn được thọ hưởng.
Phước
duyên 福 緣: Cái duyên phước đức, nghĩa là điều may mắn tốt lành do cái duyên
trong kiếp sống trước tạo ra.
Miên
miên 綿 綿: Mãi mãi, lâu dài.
Thái
bình 太 平: Rất yên ổn.
Câu
7: Đang trong cuộc sống được may mắn thọ hưởng những phức đức do duyên
lành nơi kiếp trước.
Câu
8: Trong gia đình tất cả những người già trẻ đều được yên ổn lâu dài.
Sau
dầu đến chốn Diêm đình,
Linh
hồn trong sạch nhẹ mình thảnh thơi.
Diêm
đình 閻 廷: Triều đình của Diêm vương, chỉ cõi Âm phủ. Đồng nghĩa với Diêm
Cung.
Linh
hồn trong sạch: Linh hồn còn gọi là Chơn linh, là điểm linh quang của Chí
Tôn ban cho, tự nó đã là trong sạch nhẹ nhàng rồi.
Sở dĩ Linh hồn không trong sạch là bởi vì con người đã trải qua biết bao nhiêu
kiếp luân hồi sinh tử, gây ra biết bao nhiêu oan nghiệt, mà tạo nên nghiệp quả
khiến cho Chơn thần phải chịu nặng nề ô trược. Khi Chơn thần bị trọng trược thì
sẽ níu kéo Chơn linh, làm cho Chơn linh cũng nặng nề ô trược.
Dòng
khổ hải hễ thường chìm đắm,
Mùi đau thương đã thắm chơn linh.
Dây oan xe chặt buộc mình,
Nhớp nhơ lục dục thất tình nhiễm thân.
(Kinh Giải Oan)
Để Chơn linh được trong sạch nhẹ nhàng, con người phải dẹp bỏ thất tình lục
dục, và tu dưỡng một thân thể tinh khiết bằng cách giữ gìn trai giới, có tư
tưởng thanh cao, phát huy bản thể trọn lành của Thượng Đế và thường xuyên lễ
bái để tâm hồn mình được thông công, giao cảm với Trời, mà nâng bước tiến tâm
linh ngày thêm Thánh thiện.
Thảnh
thơi: Không bị ràng buộc, không bị tội lỗi.
Câu
9: Ngày sau dầu có đi xuống chốn Diêm đình.
Câu
10: Thì Linh hồn cũng được trong sach, nhẹ nhàng và thảnh thơi.
Luân
hồi trở lại trên đời,
Tiền
công thì cũng Phật Trời thưởng ban.
Luân
hồi 輪 迴: Luân là bánh xe xoay vần, Hồi là quay trọn vòng này trở lại đến
vòng khác, cứ thế quay mãi.
Sự luân chuyển của chúng sanh trong sáu cõi (Lục đạo 六 道),
sanh tử, tử sanh tiếp nối nhau không ngừng như cái bánh xe quay không có khởi
điểm. Chúng sanh bị nghiệp lực cuốn hút vào vòng sống chết không bao giờ dừng
nghỉ, chỉ khi nào đạt được giải thoát hay chứng quả mới thôi.
Tiền
công 前 功: Công quả hay công đức của tiền kiếp đã tạo ra.
Thưởng
ban 賞 頒: Trời Phật ban ra mà thưởng cho người có công quả hay công đức.
Câu
11: Rồi luân hồi chuyển kiếp để trở lại trên cõi đời.
Câu
12: Công quả hay công đức trong kiếp trước đã tạo ra sẽ được Trời Phật ban
thưởng cho kiếp sống này.
Cầu
xin trăm họ bình an,
Nước
giàu dân mạnh thanh nhàn muôn năm.
Trăm
họ: Do chữ bá tánh 百 姓, chỉ toàn thể dân chúng.
Thanh
nhàn 清 閒: Rảnh rang, không bận bịu việc gì.
Câu
13: Cầu xin cho tất cả trăm họ được bình an.
Câu
14: Đất nước được giàu, dân chúng được mạnh để hưởng cảnh thanh nhàn muôn
năm.