THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
(Đệ Thập nhị chu niên Kỷ nguyên Huỳnh Đạo)
ĐẶC SAN
HUỲNH ĐẠO
(Meditation courese)
TRUNG THU ĐẠI XÁ
NHÂM TÝ 72
BỬU TÒA DI LẠC TRUNG ƯƠNG
94 Phan Thanh Giản, Gò Vấp, Gia Định
THAY LỜI TỰA
Đông mãn Xuân sang, Hạ tàn Thu đến... thời gian vẫn luân chuyển nhịp nhàng bốn mùa tám tiết theo dòng định luật mầu nhiệm của Tạo công. Mùa Thu Nhâm Dần mới độ nào đây, Đấng Mẫu Nghi Vô Cực đã ân tứ đại xá tam niên khai sáng Đạo Huỳnh mà nay lại vừa mạn hạn “Tứ niên tuyển pháp” là kỳ ân xá lần thứ ba của Đức Hồng Quân Thượng Tổ sau Ngũ niên chuyển xá của Đức Vương Phật Thiên Tôn.
Mùa Thu Nhâm Tý, ngoài nghĩa chấm dứt đại ân xá lần ba mà cũng là mở đầu cho lần ân xá sau cùng “Tứ niên hậu xá” của Tam giáo cầu xin cà cũng vừa đánh dấu kỷ niệm “Đệ thập nhị chu niên kỷ nguyên Huỳnh Đạo”.
Bốn năm đại xá sau cùng này là đặc ân cho hàng Thiên phong nam nữ luyện pháp của Đạo Vàng còn thiếu quả trình, phá nguyên non kém tạo đức lập công cho kịp buổi đại Long Hoa khai mở, mà cũng chính là hồng ân cuối cùng cho hạng tu cơ Phước cùng nhân sanh thức tỉnh quy hồi chánh pháp lần sau rốt. Tuy nhiên chính thật chỉ dành riêng cho những người đủ đầy phước đức, chớ nạn tai chinh chiến vẫn dập dồn, cơ biến thiên không ngừng xây chuyển, chẳng thể trễ chầy vì Đại Phong Thần đà treo bàng, quả địa cầu sáu tám đang đi lần vào nơi - tận diệt để biến chuyển đúng hạn kỳ Thiên số:
“Luật hủy thể Thần Tiên đã vịnh,
Ngày gần đây vâng lịnh Phật Vương,
Tạo thành tiếng nổ thái dương,
Lửa tung võ trụ bốn phương tiêu điều...”
Vì thế mà nhân sanh điên đảo, cảnh tang tóc dẫy tràng, loạn cuồng bốn phương tám hướng; nhân loại tiêu hao bao xiết kể. Than ôi! trăm họ đã lầm than vì họa đao binh tràn ngập còn chôn vùi vì tai trời ách nước dập dồn, thảm thay! Ấy chẳng qua vì không sớm quày đầu hướngthiện, cửa Trời luôn rộng mở mà sao lại rùn chân, đường danh lợi thời lắm lần chen bước thì làm sao tránh khỏi họa diệt thân trong thời tàn ngươn mạt hạ!?
Điềm tiêu diệt đã bày khai trước mắt, hỡi người hiền đức sớm thức đạo mầu siêu để còn phương cứu cánh trong kỳ đại ân xá sau cùng này. Cơ Trời không thể chờ đợi một ai? Vì Thiên điều xưa nay vẫn nhứt luật, đã ban chung thế gian lần thưởng phạt sau cùng “Lành còn, dữ mất” nhưng với đức hiếu sinh, Thượng đế đâu nỡ ngồi nhìn đoàn con đi lần vào cảnh tiêu vong, mới truyền cơ tá bút cho chư Phật, Thánh, Tiên, Thần dùng huyền inh chuyển hóa muôn phương:
“Đức Ngọc Đế không hề yên dạ,
Thương chúng sanh diễn tả canh thâu,
Di Đà ứng hóa nhiệm mầu,
Hào quang phóng xuống lục châu cứu đời.
Truyền Sấm Giảng trong thời nghiêng ngửa,
Đến nơi rồi nhà cửa tiêu tan,
Không tu chớ có thở than,
Uổng thay chơn lý Đạo vàng cao siêu...”
Ngoài ra, còn có những sứ đồ của Đức Phật Vương chẳng quản ngại gian khổ nhọc nhằn lặn lội từ rừng sâu nước độc, xông lướt từ thôn hương cho đến thị thành đem chơn lý Đạo Vàng gieo truyền trong nhân chủng, cũng như ban rãi những từ văn, sấm pháp tiên tri cảnh họa tai thảm khốc:
“Năm Nhâm Tý còn nhiều hồng phước,
Chỉ báo điềm hai lược trên trời,
Sang qua năm Sửu nhớ lời,
Ba lần bão biển, ba nơi dập vùi...”
Thật vậy, mới đây đã xảy ra một biến chuyển khiến thế giới phải kinh tâm tán đỡm vì một ảnh hưởng của thái dương rúng động làm mất đi lằn điện quang trên toàn cầu, ứng với lời tiên tri Huỳnh Đạo từ năm Ất Tỵ (1965) trong Sấm giảng Hậu Giang:
“Cảnh đói khổ loạn ly khắp chốn,
Hiệp chúng phân cắt bốn năm nơi,
Gọi mười tám nước sang chơi,
Bất kỳ sấm nổ rã rời tứ phan.
Chừng đó mới hào quang ta hiện
Vâng lịnh Trời định chuyển minh châu,
Súng ngưng tiếng nổ đâu đâu,
Máy ngừng điện chạy vì câu diệu huyền...”
Rồi đây, sang niên tới khó tránh cảnh “cồn dâu hóa biển” ba châu sẽ bị vùi dập dưới lượn sóng thủy triều mà trước kia cũng đã hai lần xảy ra ở Ấn Độ dương và châu Atlantique.
Vậy hỡi ai là người thức ngộ cảnh khốn cúng, mau tỉnh tu cho kịp lúc mới mong hưởng kỳ đại ân xá lần cuối, để còn hy vọng cứu cánh ở Thượng ngươn xem Vương Phật ngự trần hội Vạn Linh thưởng phạt trong buổi phán xét công đồng cùng lập đời Tân Dân Minh Đức:
“Thuyền từ bi vẫn chờ chực đón
Đưa khách hiền bỉ ngạn hồi nguyên,
Đây nầy Huỳnh Đạo khai thiên,
Là cơ chánh pháp đò Tiên triệu về.
Nếu duyên phước tựu tề Thánh Đức,
Được phong Vương lãnh vực trị đời,
Nếu người công quả tô bồi,
Cũng tròn phẩm vị trong thời Thượng ngươn.
Nay cơ tuyển ngàn muôn thử thách,
Để xem ai người thật chánh chơn,
Mới mong Trời Phật ban ơn,
Cứu nguy qua khỏi những cơn đão huyền”
Nay đây Tam ngươn một thuở, đại xá mới ban truyền, nếu để lỡ hội rồng mây thì muôn vạn đời hối tiếc kiếp cuối cùng không hưởng được hồng ân trong thời Mạt pháp, trong cơn tiêu diệt, trong buổn tận luôn hồi này vậy.
ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐỐI
Người đời, phần nhiều lầm tưởng Đạo là sự thờ phượng, bái lạy, hành xác, gỏ mỏ, tụng kinh. Đó là bề ngoài của Đạo, chớ chưa phải thật là Đạo. Đạo không có hình thức - Đạo là vô hình, tức là vô vi.
Đạo là luật tạo hóa, tạo hóa sanh ra âm dương, rồi âm dương mới sanh ra các ngôi tinh tú và muôi loài vạn vật. Trên Trời, dưới đất, sắt đá cỏ cây, thú vật và trong mình con người đều có âm dương tức là Đạo vậy. Đạo là lý tự nhiên bao hàm trong vũ trụ, thể hiện ở nhân loài từ ngôn ngữ, từ cử chỉ hành động, có thể rằng một hơi hở của chúng sanh là một chi tiết của Pháp Đạo, cho nên về phần lập Giáo của các Giáo chủ để thể hiện với lý đồng nhứt, phân hình lập thuyết để điều độ chúng sanh qua cơn khổ hải trầm mê hồi đầu hướng thiện.
Hôm nay, giữa thời mạt pháp, giữa thế kỷ 20, nhân loại đang oằn oại trong cảnh khổ đời, người Đạo tâm đã vắng mờ trong cõi dục vọng sắc giới, có thể gọi là một hiện thân của cơ biến chuyển để mọi sự vật tự tàn, tự sát mà gạn lọc trong lý Đạo để hoàn thành sứ mạng trong cơ lập Giáo Kỳ ba.
Xã hội văn minh cực điểm, nhân loại trí độc mưu sâu, tranh đua giành giựt, giựt giành là nguồn đao binh khói lửa, sự đấu tranh càng ngày càng thêm mãnh liệt, ấy cũng vì vật chất kim tiền. Do trí khôn tinh xảo mà người này khéo tập cái ham muốn cho người khác, rồi cái ham muốn đó đưa biết bao nhiêu người trên thế giới vào đường tội ác diệt vong. Quả Địa cầu quý báu do sự mầu nhiệm của Tạo công biến thành một nơi ô trược nặng nề xấu xí, con người sống trên mặt đất bằng cái sống sợ hãi bấp bênh. Song luật tương đối vẫn duy trì, hết loạn là tới trị, hết vong tất phục hưng, cuộc tuần hườn mãi tiếp nối.
Hôm nay Hạ ngươn hầu mãn, thượng cổ đã kề, Đạo Trời phải nương cơ tuần hường của Càn Khôn vũ trụ mà vận chuyển. Các tôn giáo đâm chồi nảy tược, phong trào đạo đức thạnh hành một nhịp bất ngờ nơi miền Nam nước Việt, không nước nào có được Phật, Tiên, Nho, Chúa đồng hòa điệu đem thuốc thần giải bệnh cho nhơn sanh. Nơi này dựng xây Đỉnh, Chùa, Miễu nơi nọ tạo lập Tịnh, Thất, Thánh đường, chỗ thì ban hoằng pháp đạo tràng, chỗ mở lớp hạnh đường giảng Đạo.
Mười hai chi phái Cao Đài Đại Đạo hoằng khai đúng theo Thiên ý rúng động nhơn tâm, ngõ hầu tín hiệp cùng nhau thành một đại khối tinh thần, một nguồn ánh sáng chơn lý vô biên mà từ cổ chí kim chưa từng có, để sưởi ấm tâm hồn của vạn linh sanh chúng giữa thời đại nguyên tử này, hầu trở về với bổn tánh hổn nhiên an lạc của đời Thượng ngươn Thánh Đức.
Từ ngàn xưa đã có lời tiên tri “Mạt hậu Thiên Khai Huỳnh Đạo”.
Hôm nay Hạ ngươn sắp dứt, Huỳnh Đạo ra đời, lời tiên tri đã ứng hiện.
Tiên tri xưa đã đành rành
Nhâm Dần Huỳnh Đạo lập thành hôm nay
Huỳnh Đạo ra đời, đúng với luật thiên nhiên, luật “Quy Nguyên của vũ trụ”
Cũng thế, Huỳnh Đạo ra đời để quy bá giáo, lập lại một Đạo trời duy nhứt để làm chuẩn hằng cho Ngũ châu trong thời Thượng ngươn Thánh Đức. Đặc biệt, Huỳnh Đạo ra đời là để truyền pháp siêu mầu, cứu vớt các nguyên căn cùng những kẻ duyên lành qua buổi Hạ ngươn tận diệt, do đó mới có bốn chữ “Kỳ Ba cứu thế”.
Hỡi nguyên nhân quay về Huỳnh Đạo
Lãnh chơn truyền kỳ bảo ngàn xưa;
Toàn là pháp nhiệm thượng thừa
Mùi đời trọn phế, muối dưa mới tròn.
Trên khắp Địa cầu, tiếng trống Long Hoa đã khởi nhịp, khắp bốn cõi mây phủ mịt mù, nhân sanh rộn rịp. Trên biển trần sống động, hắc khí đặc dày, rồi đây chỉ còn có một con thuyền để rước người can vị. Đó là con thuyền Huỳnh Đạo.
Thuyền chơn lý tại đây rước trẻ,
Bước lên đò có kẻ chèo đưa;
Con nào chậm bước tới trưa,
Là trưa tại trẻ, nào trưa tại đò!
(Huyền Khung Thượng Đế)
Và:
Khi rời thuyền bơ vơ trẻ ngọc,
Đừng kêu la tha khóc nỉ non;
Làm sao Mẹ rước hỡi con?
Cũng vì luật định, tại con trễ kỳ.
(Diêu Trì Kim Mẫu)
Đáng lẽ con thuyền đã rời bến vì Hạ nguơn chấm dứt năm Nhâm Dần, vì trong thời tao loạn, Thần Tiên Thánh Phật trùng trùng điệp dâng sớ đến Ngọc Hư Cung mong giũ sổ trần ai vì thế gian phần nhiều tâm vẫn còn chìm trong điên đảo, không biết kỉnh Phật trọng Tiên, không biết thờ Trời cùng Cửu Huyền Thất Tổ, cho nên sớ văn của Du Thần khải tấu, Bắc Đẩu dâng lên. Ngọc Hoàng Thượng Đế vừa muốn truyền sắc chỉ nhưng vì Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu xin gia hạn ba năm cho Huỳnh Đạo thượng thừa cho các nguyên nhân đồng quy về chánh pháp nên chi Đức Chí Tôn, một lần chót hồng ân đại xá.
Hầy xá tội các con mê muội,
Nhưng Du Thần quyết chiếu luật hành;
Thì thôi lần cuối Thầy dành,
Tam niên quản pháp, thọ hành nghe con!
Hồi tưởng lại năm Bính Dần (1926), Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông, Đạt Bồ Tát Ma Ha Tát mở cơ phổ độ Kỳ Ba tại Việt Nam và có tiên tri trong vòng ba kỳ nghĩa là đúng 36 năm Đạo thành, tức là ngày phỉa thực hiện Thiên Khai Huỳnh Đạo. Thế cho nên:
Vì kỷ nguyên Đạo Vàng đệ nhứt,
Nối Cao Đài lãnh vực phổ hoằng;
Tam kỳ chiếu diệu hạ tầng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chuẩn thằng Ngũ Châu.
Vậy, cơ Huỳnh Đạo nối tiếp theo Cao Đài trong thất thập nhịa địa, vô vi bí chỉ Tam Thiên mầu nhiệm.
Không phải chỉ có sấm Tam Kỳ đã nói, mà chính Đức Bồ Đề Đạt Ma cũng có tiên tri rằng: “Lục vạn dư niên Thiên Khai Huỳnh Đạo”. Thế thì Phật pháp cũng đã mở đường dẫn lối cho cơ thành tựu Đạo Vàng.
Huỳnh Đạo ra đời, Đạo Vàng khai mãn là ngày Long Hoa biến chuyển vạn vật tang thương, thưởng phạt công minh, Đại Đồng phán xét là ngày kinh thiên động địa, náo động Thánh Thần, xúc tâm Tiên Phật, đó là luật của Thiên điều.
Khai Huỳnh Đạo cần duyên muôn kiếp,
Mở Cao Đài để tiếp ngày nay;
Giờ đây đúng buổi thi tài,
Vừa công góp sức kịp ngày Long Hoa.
Hiện chúng ta đang đứng trên thuyền từ Huỳnh Đạo chờ ngày cặp bến. Thời kỳ này không còn ở giai đoạn phổ độ mà là thời kỳ tuyển trạch đức tài, thế Thiên hành hóa.
Ngũ chi Đại Đạo công dày,
Thiên Khai Huỳnh Đạo cũng Thầy tá danh.
Để đem lại ngày thành Tam giáo,
Trạch đức tài bá Đạo thi công;
Mục tiêu: đến chỗ Đại đồng,
Lập đời Thánh Đức dày công khổ nàn.
Đại Đạo đã gieo hột giống trong 36 năm qua, ta cần cho nó gặp duyên để thành lúa tốt. Duyên ấy là Long Hoa, lúa tốt ấy là Huỳnh Đạo mở màn đời Thượng ngươn Thánh Đức.
Nhân loại sắp đến cơ tận diệt là đến mức cuối cùng của đời cạnh tranh vật chất mà các tôn giáo chưa minh định rõ ràng được chơn lý Đại đồng cùng hòa bình nhân loại. Bởi thế nên phải có Đạo Vàng xuất hiện mở màn.
Huỳnh Đạo đã huyền vi mẫn đạt,
Dụng nghĩa nhân khai thác nguyên tinh;
Bao nhiêu thời cuộc bất bình,
Bấy nhiêu Huỳnh Đạo “Lý tình” đởm đương.
Vậy Đấng Chí Tôn mở Đạo tại Nam bang cốt yếu giáo hóa những bậc nguyên căn cho thấm nhuần Đạo lý, lập chí tu thân hầu rõ nhiệm vụ mình đối với thiêng liêng mới mong cứu thế độ đời. Đến khi Thiên Khai Huỳnh Đạo thống nhứt Ngũ Chi, quy nguyên Tam giáo, mới sắp đặt ngôi thứ thưởng phạt công minh tại Đại hội Long Hoa là đại khoa tràng nhơn loại.
Thế là nhơn loại gồm cả nam phụ lão ấu, không phân biệt màu da sắc tóc hiện đã bước qua ngưỡng cửa Long Hoa. Đối với chư thiện căn năm nữ có sứ mạng thiêng liêng mỗi mỗi chúng ta có bổn phận thực thi những lời Thánh huấn không ngoài nhân nghĩa cũng như tôn chỉ của Huỳnh Đạo là Công bình, Bác ái và Từ bi.
Công bình là hòa hiệp với lý dân sanh thể hành với cơ tạo hóa, điều độ muôn loài để dẫn sắt chúng sanh đi về với cơ diệu pháp.
Bác ái là mở rộng lòng thương thể hiện đức độ ban đồng lẽ sống của tạo đoan mà lập thành Pháp đạo.
Từ bi để hấp dẫn mọi nguồn sanh lực cho chúng sanh ngõ hầu hàn gắn tất cả những đau thương khổ hải của sanh linh và hòa nhịp với cơ háo sanh của tạo vật lập thành phương định cho vạn thể hồi chơn.
Vì thế, Huỳnh Đạo cũng như Tam giáo, dĩ nhiên có một chơn truyền, đó là tinh hoa của Tam giáo chấn chỉnh hồi sinh, cũng là siêu pháp của Tam kỳ ban truyền buổi mạt hạ tàn ngươn Thánh Đức, Di Lạc quản quyền, Thần Tiên ngự thế.
Như thế, chơn truyền của Huỳnh Đạo cũng là chơn truyền của Tam giáo nhưng đầy đủ trọn vẹn hơn, do đó rất phù hợp đối với các tôn giáo.
Nhạc huyền diệu tiếng vang khởi điểm,
Hỡi nguyên căn muốn chiếm phẩm vàng;
Đường lên Bạch Ngọc Niết bàn,
Chiếc cầu không nhịp đợi hàng Tam công.
* * *
Thuấn Nghiên tái lập ăn Trời nhuận ban.
(Thiên Chơn Hoàng Tôn)
LÁ THƯ TÒA SOẠN
Thưa huynh tỷ đệ muội,
Thời gian thấm thoát trôi qua, lễ Trung Thu Diêu Trì Đại Xá của Hội Thánh Thiên Khai Huỳnh Đạo lại được tổ chức một cách huy hoàng rực rỡ. Bao cõi lòng rộngmở, bao niềm tin bừng sống dậy đã cùng chung hướng về ngày kỷ niệm Hồng ân vô lượng của Đức Mẹ linh hồn. Chúng ta là những đứa con ngoan Đạo, tin tưởng nơi Đấng bề trên cao cả, nên hân hoan chào đón ngày Đại lễ của Đức Vô Cực Từ Tôn, hầu ghi nhớ ngày Đại Xá Tam Niên Nhâm Dần mà Đức Mẹ đã sắc tứ hồng ân võ lộ cho chúng ta thọ hưởng. Đó là việc khai sáng mối Đạo Huỳnh vô cùng thâm diệu giữa buổi mạt pháp tàn ngươn này.
Trong tình cao cả thiêng liêng mầu nhiệm, giữa ánh sáng hào quang ngời rạng, chúng ta không biết sao bày tỏ nỗi lòng sung sướng vui mừng đối với ngày lễ Mẹ. Chúng ta chỉ biết cùng nhau góp đôi vần thi phú, ít vận văn chương để tạo thành quyển Đặc san Trung Thu Đại Xá, trước là kính dâng lên Đức Mẹ, sau là thể hiện một tinh thần đoàn kết trên diễn đàn đạo đức vậy.
Chúng ta cũng thừa hiểu Huỳnh Đạo là một cơ duyên đại kiếp chỉ dụng ở phần phẩm mà không cần ở lượng; nên lịnh thiêng liêng ban tứ Huỳnh Đạo vẫn còn ẩn lánh, lý Đạo vàng vẫn chưa phổ hoằng sâu rộng trong hàng sanh chúng. Cơ tuyển trạch sảy sàng, lừa lọc những bậc đại căn duyên bước vào tu học chọn con đường giải thoát cho một kiếp cuối cùng. Vì thế người tín đồ Huỳnh Đạo thường trải qua nhiều giai đoạn thử thách, khảo nhồi điêu đứng, nêu trì tâm một lòng vì đạo sẽ được ban ân trong ngày Đại đồng phán xét. Lý vô vi là tuyệt đối, nên người tu Huỳnh Đạo chỉ thừa hành Thiên lịnh, nói chơn lý cao vời của Thánh Thần Tiên Phật làm khuôn vàng thước ngọc trên đường tu học. Do đó, những bài vở trong quyẻn Đặc san này là những lời điểm giáo của thiêng liêng, những chơn truyền khuyến đời hành Đạo; những cây bút của Đặc san chỉ là tượng trưng cho những tâm hồn ham mến Đạo Vàng, những đoản văn chỉ là thể hiện niềm tin mãnh liệt của tín đồ Huỳnh Đạo đối với sự huyền diệu và đức từ bi cao cả của ơn trên.
Cũng vì lý do đó, chắn hẳn quyển Đặc san Trung Thu Nhâm Tý sẽ vấp phải nhiều khuyết điểm và sơ sót. Trong tinh thần Đạo lý và lòng phục vụ ơn Trên, Hội Thánh chúng tôi ước mong rằng sẽ nhận được những lời chỉ giáo chân thành thuần túy đạo đức của Tam Giang và Chi phái bạn.
Trống Lôi Âm khởi điểm, chuông Bạch Ngọc đổ dồn, ngày Trung Thu Diêu Trì Đại Xá hôm nay, chúng ta hãy đem hết lòng thành khẩn cầu Đức Đại Từ Bi vạn tải hồng ân cho Hội Thánh Huỳnh Đạo nói riêng và cho sanh chúng nói chung được hanh thông Đạo pháp và tròn duyên tu học.
Hồng ân Đại xá khai môn Đạo Vàng.
Ban biên tập
THUYẾT MINH CHƠN ĐẠO
Huệ linh Pháp chủ Huỳnh Đạo
Thời kỳ hỗn độn của chúng sanh đã đến, tất cả Thần Tiển thọ mạng lâm phàm để dìu dẫn những nguyên căn đến ngày Long Hoa đại hội, nghĩa là chuyển người dữ ra hiền, chuyển phàm thành Thánh. Tất cả nhân sanh đến đây nghe pháp đều có lòng tin ngưỡng nơi Phật pháp hoặc có một vài điều chấp nghi nơi lòng, đến xem cho hiểu biết cũng là người có cơ duyên đại kiếp. Vậy phải thành tâm mới hiểu chánh pháp, phải cố gắng cầu nguyện mới rõ thông phần nào trí huệ cao linh của thiêng liêng ban xuống. Nếu người không duyên không đạt được Đạo đại thừa, người không có lòng tất nhiên không có Phật chứng. Dầu mưa gió bão bùng hay sương dầm nắng dãi cũng vững một niềm itn rằng: nghe pháp ngày hôm nay đê giải thoát thân tâm. Thân tâm đó vẫn còn nặng nề trong nhiều kiếp đã qua, giơ này được một phần khai sáng ân cũng là tiền duyên Phật pháp đã định sẵn rồi; Phật tùy duyên để hóa độ không nệ hà chuyển huyền linh ban diệu pháp, trong con người cũng có nhiều hạng từ thấp đến cao, Phật phải tùy duyên hóa độ nghĩa là giảng giải pháp tiểu thừa cho đến siêu thừa giảng giải từ thấp đến cao nghĩa là nói thế nào cho người được thông suốt lý cao minh của Phật pháp, hiểu rõ được chánh tà, chơn nguy mà trở về với cõi Niết Bàn hay Bạch Ngọc, chốn hư linh tịnh diệu đó mới là sự sống muôn đời vĩnh cửu của con người. Cho nên thế gian này, thân này là thân tứ đại, đời này mạt hạ, quả đất sắp thọ luật hủy thể, chúng sanh vì lòng tham dục mà tranh đấu giết hại lẫn nhau nào là con giết cha, vợ cách biệt chồng cũng bởi vì lòng tham lam mà ra.
Con người có ba điều tham lớn:
- Điều thứ nhất: là tham làm sao cho mình được nhiều uy quyền để sai khiến, ăn trên ngồi trước chỉ bảo thiên hạ phải phục tùng, tham thêm tước lộc, càng thêm tước lộc, làm sao cho mình được vinh thê ấm tử sống trên thiên hạ, thiên hạ phải làm điều sau khiến của mình, nhà mình phải cao hơn, đất mình phải rộng hơn, tiền bạc của mình phải rộng hơn, tiền bạc của mình phải nhiều hơn. Đó là lòng tham thứ nhứt do sự hãnh diện của con người mê muội.
- Điều thứ hai: tham sung sướng giàu snag, làm sao cho mình sống lâu để an hưởng những cái gì sẵn có trên trần gian này, không phải người có tiền có bạc tạo ra với mồ hôi nước mắt rồi bây giờ cái già đã đến, cái chết đã cận kề, làm sao cho ta sống với sức sống con người còn nhiều hoạt động để an hưởng những cái gì của ta còn đây. Đó là điều tham lớn của con người. Vì tham nên tranh đấu, tranh đấu mới giết hại lẫn nhau, những thủ đoạn của con người bày biện ra để rồi đó là nguyên nhân sa đọa, làm cho tâm hồn càng ngày càng nặng nề, lương tri càng ngày càng mất thiện lương để rồi địa ngục kia đã mở cửa sẵn đón người vô phước. Niết Bàn kia dầu rộng mở, Bạch Ngọc kia dầu Thánh Thần Tiên Phật có đón đưa nưng không thể đem cái xác trần ô trược của con người tham dục về được, mặc dầu có thể dời núi lấp sông biến dữ ra hiền.
Ngày hôm nay, chơn truyền của Phật Thánh đã tùy duyên mà hóa độ từ Đông sang Tây, Nam đến Bắc, từ đồng sâu nước đọng cho tới rừng thẳm núi cao cũng tìm đến, để độ cho kỳ được tất cả các nguyên nhân đúng theo lời đại hồng thệ của Đức Di Đà: “Nếu còn một nguyên nhân mê muội, nếu còn một chúng sanh ở thế gan này sa đọa thì Đức A Di Đà Phật chưa thể yên ngự nơi Niết Bàn Bạch Ngọc”. Vì thế cho nên có nhiều người nghĩ rằng: ở trong đời này ta sống đây ta chỉ biết có ta, ta chỉ biết có ăn cho no, mặc cho đẹp, nhà cho rộng, đất cho nhiều, uy quyền cho thỏa mãn, thế là trọn vẹn cuộc đời ta rồi sao? mà quên rằng con người không thể là của ta, thân này của đất nước gió lửa tạo thành hơi ấm và sự sống trong thân ta; cuối cùng rồi phải trả máu về cho nước, xương thịt về cho đất, hơi ấm này sự sống sống mặt trời đã thâu lại con người chỉ còn một điểm linh quang là sự hiểu biết, sự hiểu biết có tàng ẩn trong sự tội và phước. Nếu tội thì bị sa đọa muôn đời hoặc sanh nhằm cầm thú, hoặc sanh vào vào những gia đình bạo ác để thọ hình, thọ một cái luật mà Thượng Đế đã ban chung cho kẻ ác. Nếu là người thiện thì Thượng Đế cũng ban hồng ân cho gặp được gia đình đình phước đức hoặc là giải thoát trong kiếp luân hồi.
Ngày hôm nay, nhiều nhân sanh đã mộ Đạo, tin tưởng nơi Đạo có Trời có Phật nhưng khi hành Đạo lại ngại ngùng vì khuôn luật quá khắt khe! Vì vàng ngọc hay châu báu đều không phải ở chốn thành thị hay ở nơi dễ tìm là nơi vô cùng khó kiếm. Muốn tìm vàng phải ở nơi biển sâu, nơi suối độc; muốn tìm ngọc ngà phải xuống biển hay nơi núi cao rừng thẳm đầy thú dữ hang sâu, thứ đó mới có thể quý giá được. Mỗi Đạo muốn trọng nễ, mỗi Đạo càng khó khăn bao nhiêu, càng khổ bấy nhiêu thì càng tinh tiến bấy nhiêu cũng như người tìm được vàng vậy.
Huỳnh Đạo là một cơ duyên đại kiếp đã nhiều lần thiêng liêng xác nhận là: nếu có duyên mới ngộ Đạo. “Khai Huỳnh Đạo cần duyên muôn kiếp” nghĩa là khi đã ở Đạo, Đức Thượng Đế cùng Tam giáo, A Di Đà Phật, Đức Thích ca, Đức Đạo Tổ đã giảng rằng: “Nếu Huỳnh Đạo này mà chỉ phổ độ suông cho chúng sanh, tầm thường như muôn ngàn chơn lý khác thì hóa ra là một cơ phổ độ chi phái hay sao? Vì kết thúc buổi Long Hoa là sứ đồ của Di Lạc đi truyền Đạo báo hiệu cho chúng sanh rằng: “Ngày tận thế sắp đến! Long Hoa đã cận kề binh lửa đã báo điềm, thiên tai địa ách dồn dập liên miên, không còn bao lâu nữa sẽ lập đời Thượng ngươn Thánh Đức”. Đời đó Phật có dạy nhiều lần: ‘lành còn dữ mất’. Đừng tưởng rằng ta làm dữ tham lam trong giờ phút này, trong đời này, trong giai đoạn này ta chỉ an hưởng rồi sau sẽ ra sao? thì cũng như đứa trẻ chưa hiểu biết việc người lớn như thế nào, chỉ thi hành theo một trí hóa của một ấu thơ, quên rằng người lớn còn chưa hiểu biết cao thâm huyền diệu hơn trẻ nhỏ nữa vậy.
Ở trong đời này nếu không có Đạo, không có Tôn giáo thì sự thuần lương đạo đức không có, con người sẽ trở thành cầm thú chém giết lẫn nhau, vì tôn giáo là một con đường đưa con người giải thoát, tạo dựng gia đình êm ấm, hòa thuận. Nếu một gia đình không có Đạo giáo, không có Tôn giáo, không có sự tín ngưỡng Trời, Phật, không biết tội phước thì vợ không kính chồng, chồng không thương tròn nghĩa đối với vợ, con không thương cha vì không có đạo đức, vì không có tôn giáolàm gương mẫu, như thế gia đình sẽ không được hạnh phúc. Nếu một gia đình có Đạo giáo, cha lành, con thảo, vợ hiền nhứt định rằng đối với chòm xóm xã hội sẽ là một người được thương yêu. Nếu gia đình có đạo đức thì xã hộimới được yên nhàn, nếu xã hội yên hòa thì một quốc gia mới thạnh vượng, một quốc gia có đạo đức thì cả quả địa cầu này được thấm nhuần thừa ơn của Thượng Đế mà hưởng được phần thạnh khí, không còn sự chết chóc chém giết lẫn nhau trong những cảnh đọa đày đau khổ, như từ đệ nhứt thế chiến đến giờ mà các nguyên nhân đã thấy!
Đừng tưởng rằng kiếp đời của ta Trời Đất sanh ra thọ bẩm do Cha Mẹ, lớn lên rồi cũng có gia đình, rồi cũng già cũng chết và sẽ hủy diệt đi, điều đó vô cùng lầm lạc. Kìa cây xoài già cằn cỗi, bị sùng bị sâu, cây xoài đó chết đi thì hột xoài kia sẽ mọc lên trăm muôn cây xoài khác nữa. Nhân đó, quả đó! đừng có tưởng rằng xây xoài này mất đi không còn cây xoài khác nào nối tiếp theo nữa, sợ rằng mình không tạo được quả của nó, mới có cây xanh mà đã mất đi rồi, đã chết đi rồi thì mới gọi là hủy diệt, nghĩa là mình không tin tưởng nó, không vun bồi nó, không săn sóc nó, để cho nó không đơm bông, không kết trái được mà nó đã chết theo thời gian thì không còn hột giống đó nữa. Chớ khi đã có bông, kết trái thì bông trái đó sẽ lưu truyền còn trăm muôn giống khác nữa vậy. Thì cuộc đời này, trong quốc gia này, trong xã hội này được sanh ra làm người, được nghe pháp, được hiểu Đạo là một phần hạnh hưởng cho mình trong kiếp này rồi, vì “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ” trăm muôn ngàn kiếp khó gặp, gặp có nghĩa là học Đạo, hành Đạo để mong ngày giải thoát, chớ gặp không phải để nghe qua để an ủi một phần tâm hồn. Phải suy lý rằng: “Ta là con người như thế nào, ta hiểu biết rằng cảnh trần gian này tạm giả, thân ta rồi cũng hủy diệt, hóa ra ta sanh ra làm người để vô nghĩa lắm sao? Lớn lên vì tình nghĩa của vợ chồng rồi vì nghiệp quả của con cái, rồi già rồi chết, điều đó là điều thật là vô nghĩa. Vì thấu triệt được lẽ vô thường đó, cho nên Đức Phật Thích Ca mới bỏ ngai vàng, rời vợ đẹp con xinh tìm ra mối Đạo để lưu truyền cho hậu thế. Vì rõ lẽ giả tạo đó mà tất cả quý vị ngày nay tu hành để mong giải thoát, Tăng Ni ngày nay quỳ trước Phật đài để mong tỏ ngộ chút Phật duyên, hưởng thừa ân trong thời kỳ mạt pháp mà giải thoát kiếp cuối cùng này. Ngày hôm nay ngộ Đạo, biết lẽ huyền vi của Đạo pháp không phải là chỉ để nghe tầm thường của mình mà thôi, mà phải tìm tâm, phải mở rộng lòng để thâu nhiếp lấy lằn hào quang của Phật, vì “Phật tức Tâm” có cảm mới có ứng, có gọi mới có đến, nếu không gọi không đến, không cảm không ứng điều đó hẳn nhiên các nguyên nhân đã hiểu rồi.
Giờ đây Tổ Đình đã thành lập, chơn truyền Huỳnh Đạo sẽ thu nhặt một số đại căn duyên về Huỳnh Đạo để học cơ giải thoát hầu giải thoát trong muôn đời khổ hải. Thân ta nếu không phải là ta thì những nghiệp quả đất đai theo ta đâu phải là ta, đất đai này nếu tạo thành để cho ta chỉ trong đời này, mất đời ta chưa chắc con ta giữ được. Vợ con này của ta nhưng khi thân xác ta mất đi rồi chưa chắc đã phải của ta, chính bản thân đã không phải của ta thì cõi đời này muôn vật đều không phải của ta. Vậy cái phải của ta là sự sống, là cảm trí hư linh huyền diệu, là sự hiểu biết tận cùng của ta tàng ẩn trong thân ta, là tiếng nói nho nhỏ trong lòng ta khi ta làm sai làm quấy, chính cái đó sẽ làm một liên đài đưa ta về Niết Bàn, nâng đỡ chơn thần ta khi thoát xác, nếu ta không dồi mài nó, để cho nó tích ác nghĩa là làm những điều trần nhơ ác trược, một ngày nào đó, nó sẽ không phải mà một liên đài mà nó là một địa ngục hay là một rừng đao núi kiếm để bao phủ linh hồn ta đưa sâu vào địa ngục. Vì thức tỉnh như thế cho nên người nguyên nhân mới tu học tìm Đạo.
Về đây trong thì giờ này, chưa phải là thuyết minh chơn Đạo mà chỉ giảng sơ thế nào là cơ duyên hạnh ngộ với Đạo mà thôi, thế nào là con người tạm giả, thế nào là đời ngắn ngủi trong trăm năm không mấy chốc. Nếu có duyên vì Đạo, kính thờ Trời Phật hãy cố gắng tìm tu. Cái điều nào tìm mới có, cầu nguyện mới mong đem đến cho mình, chớ không phải đương nhiên mà có được. Muốn trồng dưa, muốn có dưa phải ngày đêm chăm sóc, phải bồi bổ luôn, ngày kia mới có trái, phải khổ công một giai đoạn, thì Đạo là sự giải thoát muôn đời, đâu có lẽmột sớm một chiều mà giải thoát được: một đám dưa kia còn phải khổ công từ lúc gieo giống, săm soi cho đến ngày đơm hoa nở nhụy, rồi đến kết trái cũng phải gìn giữ nắng mưa, thì việc Đạo không phải olà một việc tầm thường. Phải tìm giống, phải gieo, chờ đến kết trái đơm bông. Giờ phút đó là giờ phút giải thoát cả trăm kiếp luân hồi của mình chớ không phải một kiếp đời ngắn ngủi.
Thi bài:
Khai Huỳnh Đạo Tổ Đình chuyển hóa,
Mượn huyền linh cội cả phân tường,
Ta thừa Chánh giáo Phật Vương,
Xuống lằn từ điển tình thương bao trùm.
Kể từ nay gông cùm đoạn tuyệt,
Muốn hiểu thông chơn quyết đạo mầu,
Chơn tâm cố gắng nguyện cầu,
Rồi ra sẽ được thượng lầu ban cho.
Thương nguyên vị dặn dò đôi chút,
Rèn tâm như trong đục phân bày,
Lời xưa dạy chẳng hề sai,
Việc lành cố gắng đương lai mới tròn.
Điều ác đức không còn tồn tại,
Thì hôm nay phải trái cho tường,
Điều nào chọn đúng con đường,
Trì tâm hạnh ngộ tình thương giúp vào.
Cơ vận chuyển khổ lao Thần Thánh,
Ráng trì tâm để lãnh pháp huyền,
Giờ này tất cả căn duyên,
Hội đây nghe Đạo diệu huyền Như Lai.
Phải bình tâm hôm nay lo liệu,
Từ gia đình phải hiểu Đạo mầu,
Vợ chồng con cái sòng nâu,
Noi theo đường Đạo kịp chầu Phật Vương.
Ngày Long Hoa là đường tận diệt,
Cảnh máu xương tha thiết khắp cùng,
Lịnh Trời ban xuống cho chung,
Nếu người hành thiện thính tùng cơ duyên.
Được giải thoát lên thuyền Bát Nhã,
Thoát khỏi điều nhân quả trần gian,
Hôm nay khai mối Đạo Vàng,
Là mong ất cả lên thoàn từ bi.
Còn muốn hiểu huyền vi Đạo pháp,
Thì trì tâm phù hạp mối giềng,
Đạo Huỳnh là đại cơ duyên,
Trăm ngàn kiếp khó Phật Tiên lâm trần.
Nay Huỳnh Đạo Thánh Thần ứng trợ,
Mượn nguyên nhân che đỡ hội này,
Làm xong xứ mạng của Thầy,
Dẫn dìu hiền đức đến ngày Long Hoa.
Long Hoa Hội tà ma khởi dậy,
Cảnh binh đao cho thấy loạn cuồng,
Dưới trần nước chảy phơi xương,
Trên Trời lửa đỏ muôn đường khổ đau.
Ngày đó đúng là ngày tận diệt,
Cảnh trần gian tha thiết thảm sầu,
Cho nên chư Phật nhiệm mầu,
Giảng truyền cơ Đạo xuống bầu trần gian.
Mượn Tăng, Ni Đạo Vàng sứ giả,
Truyền rao chung cho cả thôn hương,
Thị thành nghe rõ Phật Vương,
Truyền rao tận thế là đường Long Hoa.
Nếu không tu tà ma hủy xác,
Nếu không tu tan nát hình hài,
Không tu chớ tránh Như Lai,
Không tu phải chịu đọa đày thảm thương.
Vì thương xót Phật Vương bố hóa,
Truyền pháp chung cho cả môn đồ,
Giảng truyền Huỳnh Đạo nam mô,
Mong sao tất cả hiệp vô Đạo Vàng.
Cơ Huỳnh Đạo trang khang nguyên vị,
Giữ hiếu ân chung thủy bạn bè,
Làm sao trọn vẹn lời nghe,
Hôm nay cố gắng dặt dè khuyên chung.
Từ gia đình thính tùng Đạo pháp,
Hưởng thừa ân lo lập duyên lành,
Cuộc đời đâu có đấu tranh,
Hỏi ai mua được tử sanh miên trường?
Nay biết thế là đường tạm giả,
Thì giữ gìn cội cả thiện lương,
Cầu trên Di Lặc Phật Vương,
Chư Tiên chư Thánh tình thương đều đồng.
Ban xuống xõi trần hồng cứu rỗi,
Từ gia đình thay đổi nạn tai,
Nguyện cầu các Đấng Như Lai,
Giáo truyền cơ Đạo hoằng khai hội này.
Ta thừa lịnh Tổ Thầy truyền Đạo,
Là mong sao chỉ bảo cơ duyên,
Thọ hành chơn lý diệu huyền,
Trần tâm giải khổ thoát miền tao tân.
Đời sắp tận Thánh Thần báo động,
Phật Tiên truyền khởi giọng chuông linh,
Lỡ sanh nhân thế làm hình,
Mà không giải thoát tội tình vương mang.
Tiếc rẽ mấy Đạo Vàng chuyển hóa,
Mà hỏi ai cội cảminh tường,
Giờ này cao ngự Phật Vương,
Vẫn còn ban bố tình thương trần hồng.
Mong nguyên vị Đạo đồng khắp chốn,
Mong chúng sanh khắp bốn phương trời,
Vâng truyền Đạo pháp nghe lời,
Tu hành tinh tấn thoát đời nạn tai.
Lời pháp thuyết hôm nay tạm dặn,
Dặn hiền nhân tạo đặng lòng từ,
Đó là được ánh chơn như,
Sắc truyền Điệp chỉ Cung Hư đều đồng.
Làm sao dạy trần hồng tỏ ngộ,
Giữ thiện từ cảnh khố thoát qua,
Hôm nay thừa lịnh Di Đà,
Lâm truyền giáo pháp nên Ta gọi đời.
Lập Tổ Đình lịnh Trời đã chuyển,
Trở về đây cầu nguyện Phật Tiên,
Cầu cho căn vị cơ duyên,
Tu hành hiền đức lên thuyền Long Hoa.
Để tránh việc gần xa hoạn nạn,
Tránh những điều hỗn loạn khắp nơi,
Nhìn chung Phật Thánh thương ơi!
Đời mê ly loạn ai ngồi cho yên!
Phật chỉ bảo đem thuyền Bát Nhã,
Tại chúng sanh bản ngã vẫn còn,
Cho rằng Ta giữ vuông tròn,
Kiếp người danh lợi mất còn sá chi!
Nay nghe Đạo huyền vi tìm tới,
Thử tu hành cho tới Long Hoa,
Để xem Đức Phật Di Đà,
Trên cao truyền pháp gọi hòa nhân sanh.
Trước đài gương lập thành bản vị,
Đại phong thần cao quý tuyệt mầu,
Gọi chung tất cả năm châu,
Dầu cho bỏ xác ứng chầu nơi đây.
Phong Thần đó đúng ngày tận thế,
Điệp sắc truyền Ngọc Đế gia ân,
Thời kỳ đại xá ân cần,
Ban truyền Huỳnh Đạo, Thánh Thần tiếp nghinh.
Gọi nguyên vị Cung Đình nghe Đạo,
Phải gìn tâm kỳ bảo mới mầu,
Từ nay nghe Đạo cao sâu,
Gia đình nhắc nhở nguyện cầu Như Lai.
Cầu Thích Ca Phật đài cứu rỗi,
Cầu Di Đà xá tội nhân gian,
Cầu cho chơn lý Đạo Vàng,
Gia đình hạnh phúc an nhàn lo tu.
Cầu nạn tai khám tù thoát khỏi,
Cầu làm sao gắng gỏi tu trì,
Đó là Huỳnh Đạo nguyên quy,
Đó là chơn thuyết quy y với Thầy.
Đừng chấp việc đó đây cơ Đạo,
Ta phái này, nọ bảo phái kia,
Rẽ chia màu sắc đoạn lìa,
Phật Trời đâu có chia lìa nhân sanh.
Cũng máu đó cũng sanh cũng chúng,
Thì làm sao hữu dụng thiện từ,
Đều đồng nhập diệu Cung Hư,
Trở về ban vị chơn như đắc thành.
Lời thuyết giảng nhân sanh ghi nhớ:
Đây dịp này che đỡ nạn tai
Thường ngày cầu nguyện Như Lai,
Đạo lành gắng gượng đợi ngày Long Hoa.
Bỏ tất cả điều tà điềuvạt,
Sửa gia đình thì phải nêu gương,
Từ nay ban bố tình thương,
Tượng trưng cho cả thông hương thị thành.
Biết được mình tạo danh thế tục,
Biết gia đình hạnh phúc từ nay,
Là nhờ Đạo cả cao dày,
Nhờ ơn Đức Phật Như Lai giáo truyền.
Cơ Huỳnh Đạo Tam Thiên kêu gọi
Để nguyên nhân học hỏi chơn truyền,
Dầu cho Phật Thánh Thần Tiên,
Cũng đều dạy Đạo làm hiền mà thôi.
Đâu có gọi tranh ngôi tranh vị,
Tranh phái này cùng quý Đạo kia,
Để rồi tất cả đoạn lìa,
Chúng sanh xâu xé chia lìa nạn tai.
Nay cầu nguyện Như Lai Phật Tổ,
Chuyển tân hiền bớt khổ cho thân,
Cầu trên Thượng Đẳng Đại Thần,
Chứng minh cứu nạn một lần nhân gian.
Nay chơn lý Đạo Vàng chuyển hóa,
Ráng bình tâm chớ ngã lòng thành,
Thì là Đạo đức đề danh,
Nêu gương sẽ được cội lành chứng minh.
Nay thọ lập Tổ đình Huỳnh Đạo,
Vì cơ duyên hoài bão ngày xưa,
Muốn ban Chánh pháp Đại Thừa,
Nhưng duyên còn kém chẳng ưa tu hành.
Thì làm sao cội lành siêu thượng,
Giảng cho người vô lượng pháp nguyên,
Đạo là Bí chỉ Tam Thiên,
Bỏ điều trần tục, nặng duyên thoát phàm.
Nay là buổi Kỳ Tam điên đảo,
Ráng bền tâm gây tạo lòng thiền,
Nguyện cầu chư Thánh Thần Tiên,
Ban cho nhân thế diệu huyền hôm nay.
Cầu nguyện Đức Như Lai pháp bảo,
Độ cho chung cơ Đạo đắc thành,
Cầu trên chứng chiếu lòng thành cho chung.
* * *
Dình Huỳnh Đạo
Rằm Hạ ngươn
Tân Hợi
LÝ ĐẠO SIÊU NHIÊN
Thái Cực sanh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi không tạo thành tứ tượng như từ xưa thế nhân đã học mà Lưỡng nghi tạo thành Tam pháp. Cũng như vũ trụ ban ra có Nhựt, Nguyệt, Tình. Người có Tinh, Khí, Thần thì Thái Cực, Lưỡng nghi Tam pháp là phần siêu vi tuyệt diệu, phần tứ tượng là sau.
Lưỡng nghi đây là Âm và Dương. Khi âm dương hợp thì biến thành nhân loại và muôn loài vạn vật. Đó là Thiên Địa Nhân, là Tam tài vậy.
Tam tài đồng nhứt thể, đồng một thể nhứt khí Tiên Thiên biến sanh.
Thiên Đạo thanh minh: Mặt nhựt soi rạng bốn phương tạo thành yến sáng cho chung vũ trụ, nhưng đó là dương khí hóa sanh, còn phần sau là Nguyệt tinh báu hổ. Nhựt Nguyệt soi rạng trong đêm thâu, âm dương đồng chuyển biến khắc nhau tạo thành tinh tú. Tinh tú ngày nay nhân loại ngự trên đó nghĩa là quả địa cầu. Nhựt Nguyệt là phù trợ xung khắc nhau để tạo ra Tinh. Nếu không có Nhựt Nguyệt thì chẳng có Tinh mà Nhựt Nguyệt không xung khắc thì không tạo ra muôn loài vạn vật vậy. Như thế gọi là Tam pháp cũng như Thiên Địa Nhân.
Nhân đạo hư linh: Nhân đứng vào hàng thứ ba của Tam pháp nhưng trên tất cả. Người có Tinh, Khí, Thần là do tai mắt mũi tượng trưng cũng do Thần mà chuyển tất cả, hóa sanh tất cả vậy. Người tu phải biết bão ngươn, dưỡng khí tồn thần không nên nhìn xem sự vật nơi thế gian đem vào tâm não, chỉ nhìn thấy đường đi, nhìn người để nhìn rõ người chớ không nhìn những điều bạo hay ác hay hiền lương của người làm chi, nhìn của thế gian thì đều của thế gian vậy.
Người tu hành bậc siêu thừa học lý chơn như Huỳnh Đạo sao không nhìn vào trong tâm linh siêu thoát, nhìn vào nhứt nguyên tâm pháp để tìm lấy hư vô màu diệu cao siêu trở về với chơn thể. Điều vui buồn lẫn lộn khi gặp họa thì buồn, gặp phước thì vui, điều phước họa là điều phản biến của trần gian. Người tu hành phải trở về với vô vi Đạo pháp, nếu có họa phước cũng là sự vật mà thôi, nhìn vào nội tâm tìm lấy nhứt nguyên, không nhìn đời bằng điều họa phước, vinh nhục thì còn đâu trường miên, vĩnh cửu ở nơi nào?
Nếu người muốn đạt Đạo huyền linh,
Trước phải tìm phương cứu lấy mình;
Thể phách hiệp hòa ba báu lạ,
Thần ngươn khí hóa dưỡng tràn sinh.
* * *
Tràng sinh tại đức tại ngươn tinh,
Lập dựng Kim thân thoát ngục hình;
Thượng giới điển Thiên hòa chí Đạo,
Tạo đời, tạo đức thật quang minh.
* * *
Quang minh cả tánh lẫn tâm hồn,
Đuốc huệ soi đường lánh dại khôn;
Thuyền Bát Nhã chờ trang hướng đạo,
Hết lòng vun quén cảnh Tiên bồng.
* * *
Cơ mầu Đạo pháp đắc huyền linh,
Nhiệm lý chơn thân khá sửa mình;
Học Đạo thơ truyền mau rũ sạch,
Nợ trần đeo đắm dứt tâm kinh.
* * *
Tâm kinh hiện xuất phải dày công,
Khai phá Thiên môn hợp nhứt đồng;
Triều kiến Huyền Khung duy thánh thể,
Thân trần dục thị dễ đừng mong.
* * *
Đừng mong nhìn thấy cảnh Tiên bang,
Mà cõi lòng ham muốn thế gian;
Đạo thật hư hư hòa hư thật,
Chơn như không sắc thọ ân ban.
* * *
Ân ban ráng lập quả công dày,
Trí Đạo trùng tu thoát họa tai;
Nghiệp thế Ma vương còn lộn thế,
Thầy ban ân huệ Đạo huyền khai.
LUẬN VỀ BÍ PHÁP TAM THIÊN
Con người là một bầu tiểu vũ trụ có một điểm linh quan do Tiên Thiên hư vô nhứt khí chuyển thành, là sự sáng suốt trí não, lẽ phân biệt giả chơn. Đó là điểm linh quang của Thượng Đế ban xuống. Nếu người tu hành bậc siêu thừa nhìn rõ điều này đâu còn mãi trầm luân nơi gia cảnh. Điểm linh quang đó tàng ẩn trong xác thể do huyết nhục phụ mẫu hợp thanhỳ, do nơi vật chất tạo nên, do nơi cơ duyên đã định. Đó là Chơn Như. Phật gọi đó là tâm, Tiên gọi đó là tánh.
Con người có Tam điền:
1/ Thượng điền có:
- Huệ quang hay là Nhựt.
- Ngọc chẩm hay là Nguyệt
- Khi hai vầng nhựt nguyệt soi sáng sung khắc nhau tạo thành tinh tú. Đó là những lằng điển nhỏ tủa ra trên Thượng đào khi hai vầng nhựt nguyệt soi sáng chạm nhau. Cũng như Trời có Nhựt, Nguyệt, Tinh vậy.
2/ Trung điền có: Tâm, Can, Tỳ, Phê, Thận, tương đồng với Ngũ hành của vũ trụ: Kim (Phế), Mộc (Can), Thủy (Thận), Hỏa (Tâm), Thổ (Tỳ) cũng như Đất có Thủy, Hỏa, Phong vậy.
3/ Hạ điền có: Tinh, Khí, Thần. Nhờ có Tinh Khí Thần mà con người tạo Tiên tác Phật
Nhờ có Trời Đất che chở nên mới hóa sanh muôn loài vạn vật, trong đó có loài người là tối linh huyền diệu do Thiên Địa tạo thành, âm dương kết hợp. Khi Tam pháp kết hợp xong, phần Tam pháp sẽ ngự trên Thiên Địa, thống luôn âm dương, hòa quang chung vũ trụ như thế là Thiên Địa hòa nhau, xung khắc nhau cho nên mới tạo thành nhân vật. Nhân vật một khi đã tạo thành mà biết hợp cùng Thiên Địa thì sẽ ngự trên Thiên Địa này.
* * *
Về bí pháp Tam Thiên luyện ở Thượng Điền, bí pháp Tam Thanh luyện ở Trung Điền, pháp Nhị Thiên luyện ở Hạ điền. Bí pháp Tam Thiên từ trước tới giờ luyện ở Thượng Điền là cấp bách cho các linh nhân thọ được hao nhiên chi khí của Thầy, sau sẽ tạo từ Hạ điền, Trung điền và Thượng điền cho đến ngày Long Hoa đạt Đạo vậy.
Huyền công mật quyết để quy Tam bửu là luyện từ Hạ điền, Trung điền để hỗ trợ cho Thượng điền, nhứt là những bí pháp Tam Thiên đã luyện từ trước tới giờ chưa có được huyền nhiệm vì chưng tất cả các nguyên nhân phải nhìn thấy: trồng cây trước tiên không phải săm soi ở rễ, ở gốc mà phải nhìn lá, nhìn cành để biết cây kia thuộc giống gì để phân loại định kỳ, định thời gian, định mùa định tiết cho cây kia sớm có kết quả.
Đó là bí pháp Tam Thiên nhìn lá nhìn cành, tưới nước từ lá xuống càng như thế đó cây kia mới sớm trổ hoa, thành trái, đó là bí pháp Tam Thiên vậy.
Phần Huyền Công mật quyết hãy tìm sâu trong lá, ngoài việc tưới nước cho cây cành còn phải nhìn sâu vào rễ, coi ăn đến nơi nào, đến lớp đất nào mà bón thêm phân để cho cành lá kia có nở bông kết trái. Như thế mới đoạt Đạo huyền vi tối thượng của Thượng Tổ vậy.
Bí pháp Tam Thiên, bí chỉ Di Đà là tuyệt báu vô cùng. Đó là con đường tu luyện đi tắt đễ trợ thế cứu đời trong thời kỳ Long Hoa biến chuyển, để lập lại đời Thượng ngươn Thánh Đức, lập Đạo đại đồng cho chung tất cả thế gian.
Tuy nhiên người tu hành phải có ý thức rõ ràng đường lối tu hành, không phải vừa luyện Đạo vừa chạy theo đời cuộn rối trong tiền tài danh lợi, lại mong đắc Đạo trong buổi Long Hoa đại hội để trở về nguyên vị. Chạy theo đời tâm linh phản biến, tam bửu không đầy đủ thì chơn như không hiển hóa, luyện Đạo không được tinh tấn thì làm sao đắc Đạo được.
Người tu phải có tâm thành ý vẹn, giữ cho tâm không, ý cho lành. Ý là ý hiệp hòa, ý bao dung, ý vị tha, ý đại từ, ý hỷ xả, ý không vì nhân ngã nghĩa là không vì ta, không vì trần gian tục lụy, không chấp hữu hình, ý kia mới toàn vẹn. Cho nên thiêng liêng ban nhiều hồng ân cho trong hàng Thiên Tinh Bửu Liên Huỳnh Đạo cất chùa nơi này, nơi nọ cho các con được đầy đủ tâm thành, ý vẹn, cho được đầy đủ tam công nghĩa là công phu, công quả, công trình mới tròn duyên Đạo pháp đắc đạo trong buổi Long Hoa đại hội.
Thế sự báo điềm, cảnh tang tyhương biến đổi gần kề. Tăng Ni Trưởng Huỳnh Đạo cố gắng hy sinh để luyện Đạo cho kịp kỳ.
Thượng Tổ dạy:
“Nếu các con bỏ tất cả thì các con sẽ được tất cả. Nếu các con giữ tất cả thì các con sẽ mất tất cả vậy”
Đời đã thấy rõ ràng trước mắt,
Cảnh não nùng quặn thắt lòng son;
Hỡi ôi! những nỗi mất còn,
Chuyển luân, luân chuyển vòng tròn mà thôi.
Khuyên chư sĩ cố bồi công đức,
Đem trí tài gọi thức hồn mê;
Cho người trông thấy nẻo về,
Thoát đường điêu đứng vẹn bề quả công
Cho người trông thấy nẻo về,
Thoát đường điêu đứng vẹn bề quả công
Đã nguyện trước sân rồng kim khuyết,
Thề độ đời chí quyết lãnh phần;
Ngày nay cố gắng ân cần,
Diệu huyền của Đạo phát phân cho đời.
* * *
Ngày nay cố gắng ân cần,
Diệu huyền của Đạo phát phân cho đời.
* * *
Đây là đến những hồi phán định,
Bảng phong thần sắp tính chiều mơi
Long Vân bần đạo tỏ lời,
Cho chung tất cả khúc nôi tận tường.
Long Vân bần đạo tỏ lời,
Cho chung tất cả khúc nôi tận tường.
Khéo chọn con đường giải thoát,
Đắp bồi công để đoạt huyền cơ;
Long Vân nay đã đúng giờ,
Chuyển quy vạn bổn đến bờ Tiên bang.
Long Vân nay đã đúng giờ,
Chuyển quy vạn bổn đến bờ Tiên bang.
Thượng Tổ dạy: Các con ôi! Các con để chút tư tâm mà quên điều đại nghĩa ngàn xưa, mối Đạo huyền vi Thầy truyền xuống trần gian vì các con là đại nguyên căn, Thầy động lòng từ bi hầu cứu vớt trở về nơi cựu vị.
Kìa các con nhìn xe: Khi các con chọn hột giống để cày cấy hôm nay, nếu các con tự trồng giống đậu mà muốn trồng cà thì các con cứ mài miệt tưới nước vun phân, nhưng đậu thì cũng hoàn đậu chớ khi nào được giống cà. Mối Đạo của Thầy truyền xuống cũng như người lựa giống, các con muốn trồng cà, muốn gieo mạ, các con muốn nên thì các con phải lựa cho kỹ như mối Đạo vậy. Khi các con muốn có đậu mà lại nhằm giống cà thì khổ công vô ích. Thầy muốn nói cho các con rõ là quả công của các con hôm nay.
Vậy các con làm công quả là các con đã có nhiều khổ hạnh tưới nước, vun phân, nhưng hại thay một điều là các con chọn nhằm giống xấu. Khi các con muốn trồng cà để hưởng quả cà mà các con lại chọn nhằm giống đậu thì dầu có năm này tháng nọ tưới nước vun phân đậu kia vẫn hoàn là đậu, chớ nào thấy được cà, cũng vẫn là khổ hạnh, nhưng nào kết quả gì đâu?
Các con nghe rõ: Công quả ngày nay của các con là công quả chọn nhằm giống tốt. Khi các con khổ hạnh vun phân tưới nước thì việc khổ hạnh của các con sẽ có thời gian nhất định, còn khi các con chọn nhằm giống xấu, các con muốn trồng cà mà gieo đậu thì làm sao? Uổng thay! Công quả khổ hạnh của các con triền miên mà không bao giờ được toại nguyện là vậy. Còn khổ hạnh của người chọn giống tốt, đúng theo ý mình, muốn là đậu hay cà chọn đúng giống thì bao giờ cũng khổ hạnh tưới nước vun phân, nhưng sẽ toạni nguyện vì chọn nhằm giống vậy.
Đạo Vàng chuyển thế một lần thôi,
Muôn thuở tìm đâu được hỡi người,
Đạo pháp huyền vi ân mạt hậu,
Rèn tâm lập chí sửa càng tươi.
* * *
Lập hạnh cẩn ngôn nguồn gốc Đạo,
Hơn thua vinh nhục cộiu luân trầm.
Người tu phải lập hạnh cẩn ngôn. Tu để tìm đường giải thoát cho mình rồi sau mới giải thoát chúng sanh. Vì vậy, ngoài phần luyện Đạo pháp siêu nhiên, người tu phải thể hiện lòng từ bi, lòng rộng như biển, lòng thương xót huynh đệ, thương xót chúng sanh, muôn loài vạn vật đang chìm đắm trong cảnh đau binh khói lửa.
Người Đạo pháp không phải đi đó đi đây đem lý Đạo, Thánh ngôn Thánh huấn phổ truyền để dìu dẫn chúng sanh. Phần này đã có cơ quan giáo lý. Người Đạo pháp phải lập hạnh cẩn ngôn, nói điều lành hữu ích cho chúng sanh mới được hưởng nhiều phước đức. Trong kinh sách chư Phật, chư Tiên thường dạy: Lành thay! Lành thay! Vui thay! Vui thay! Một lời lành ở cõi hữu hình không thấy nhưng ở cõi vô vi được hưởng trăm ngàn đạo hạnh, Thần Thánh hộ trì tu luyện.
Người Đạo pháp giữ hạnh thế nào cho thế nhân nhìn vào mình để làm gương rồi lâu ngày suy gẫm tu tâm sửa tánh. Người Đạo pháp thể hiện cho Thầy, nếu thiếu đức hạnh tất nhiên bất nghĩa, làm hoen ố cơ Đạo, thế nhân dèm pha Thầy thì đắc tội muôn đời.
- Nam Mô Hồng Quân Thượng Tổ Chưởng Giáo Tam Ngươn.
- Nam Mô Đương Lai Giáo Chủ Long Hoa Hội Thượng Di Lặc Phật Vương Thiên Tôn
Soạn thảo
Thiên án Kim Tôn
TAM NIÊN ĐẠI XÁ
Mẹ mừng chung các con.
“Tam niên đại xá” hầu tàn
Này con chánh pháp Đạo Vàng minh chưa?
Ban cho diệu hóa đại thừa,
Mà con có vẹn sớm trưa y hành?
*
Mẹ ngự trần nay bởi các con,
Lòng thương vô lượng tựa bằng non,
Kể sao cho xiết tình thương mến,
Con hỡi! Mẹ mong phải vẹn toàn.
*
Vẹn toàn Mẹ đợi cuộc đời qua,
Thỏn mỏn trăm năm tựa ác tà,
Ai cũng đi qua rồi luyến tiếc,
Tu hành đừng ngại quảng đường xa.
*
Đường xa Mẹ đợi ở chơn trời,
Rồi cuối cùng kia cũng đến nơi,
Luân chuyển, chuyển luân dầu khó khổ,
Sang hèn vinh nhục cũng không đời.
*
Đời mê trầm lụy lắm con ơi!
Tạo phước từ nay đã tận đời,
Nếu chẳng nghe qua rồi bỏ xác,
Tiếc than Mẹ chẳng nói lên lời.
*
Lời Tiên lời Phật đã ban ra,
Mong trẻ trần gian điểm huệ hòa,
Bỏ tánh phàm nhân qua bến giác,
Niết Bàn Bạch Ngọc có nào xa.
*
Xa là bởi trẻ chẳng gìn trông,
Nay gắng con ơi, buổi đại đồng!
Còn được mấy niên con tính lại?
Lấn tranh tranh lấn nát trời Đông!
*
Trời Đông duyên phước biển cơ linh,
Chuyển hóa huyền vi lập Đạo Huỳnh,
Tam NGũ, Thượng Trung đồng nhứt thể,
Tự tâm viên giác phá vô minh.
*
Minh tri yếu lý Đạo Vàng khai,
Vì ngặt Thiên cơ chẳng dám bày,
Mẹ chỉ khuyên con đừng dại dột,
Cũng như nhi nữ giữa trần ai.
*
Trần ai khuyên trẻ vẹn toàn thôi,
Cắt nghĩa làm sao được cuộc đời!
Chỉ bảo con nên điều lẽ phải,
Cố công sẽ được đó, con ơi!
Này các con! Hôm nay Mẹ động lòng từ giáng ngự xe loan, nhìn chung các con lòng Mẹ nửa mừng nửa tủi. Thương là thương cho các con đã bao phen vì Thầy vì Đạo vất vả lao lung, cuộc đời dầu cay đắng các con cũng chẳng nại bão bùng. Đến nay, gần mãn hạn “Tam niên đại xá” các con thử nhìn lại đoạn đời qua: Bước vào Huỳnh Đạo khi Mẹ ân tứ Đại xá tam niên, lần đầu tiên các con đâu được như ngày nay, trước kia đức hạnh các con còn kém cõi, Đạo pháp của các con còn nhỏ hẹp, tình của các con cũng vẫn còn trong khuôn khổ gia đình, ngày nay các con đã trọn tin, lòng từ bi bao quát đem thân phàm lo cho kiếp vạn đại trường miên thì lành thay! Nhưng đôi khi Mẹ cũng thấy còn nhiều con tư tâm, phàm ý không dẹp được, thiếu nghĩa nhân thành tín thì làm sao đắc được bí pháp Tam thiên? Các con ôi! Đừng mê chấp ngày nay rồi quên công nghiệp ngày mai; công nghiệp ngày mai là làm sao các con thoát được cõi luân hồi mới thật là công nghiệp muôn đời.
Kìa các con! Hễ mỗi mỗi việc chi sanh ở âm thì tất nhiên phải thạnh ở dương; hễ mỗi việc chi đều có âm dương chuyển hóa, âm thạnh dương suy, dương thạnh âm suy, điều đó là lẽ tuần hoàn của vụ trụ vậy.
Các con đừng phiền muộn luật chí công của Thầy đã ban ra muôn loài vạn vật đều tùng theo nhứt thử để có hưởng được phước duyên. Ngày nay Tam niên đại xá trong thời kỳ mạt pháp trong muôn loài vạn vật đều được đại hồng ân, nếu nhứt tâm trọn niềm quy hướng với Đạo pháp cao siêu thì sẽ được cứu rỗi về nơi an lạc, còn không sẽ trở lộn đường tà quày về nơi trầm kha ngục tối, Mẹ thương thay! Truyền chung cho các con nhớ rõ: Từ đây nơi nơi chốn chốn, ma quỷ loạn cuồng dụng lằn từ điển đó đây kêu réo, nếu con nào nhẹ dạ ít đức tin sẽ sa vào vòng ác trược, từ đó Mẹ khó cứu rỗi các con vậy. Mẹ khuyên như thế nhưng tùy nơi cơ duyên của các con, nếu các con không phải là đại kiếp chơn căn thì dù Mẹ có khuyên muôn lời vạn tiếng các con cũng chẳng tuân theo. Buồn thay!...
Các con đã nhìn thấy cơ Trời biến đổi, luật đời cũng lắm lúc tang thương! Vì sao cơ Trời biến đổi? Trời biến đổi bởi nhân tâm loạn lạc, đời thay đổi cũng bởi thế gian trầm kha theo vật chất say mê, cho nên điều tang thương khó tránh khỏi vậy. Cũng như thân xác của các con sau những phút đoãn lạc say sưa trong bể hoạn, rồi ra các con mới thấy đau khổ kề bên! Điều vui đó, điều buồn đó nối tiếp theo nhau, luân chuyển cho đến trọn cuộc đời các con. Các con đã nhìn thấy đời như thế, cũng như kiếp sanh tồn ngày nay gần già nhất định cũng sẽ chết, thì tại sao các con tin rằng không thể chết? Cũng như các con tin rằng đời chưa đến, đời chưa tận cho nên các con dùng tất cả sở đoãn của các con để đối lại với thế gian; khi đã tận đời, khi thân xác của các con mòn mõi đến lúc lâm chung mới tiếc rẽ, thì đến lúc đó làm sao Mẹ cứu được các con? Mẹ buồn thay!...
Khuyên chung các con từ đây cố rèn Tâm pháp, xa lánh tà mị giữ trọn vẹn đức tin, không thì Mẹ khó lòng cứu rỗi chung cho các con vậy.
BÀI:
Diêu phong động bút hạ trần,
Diêu hoài cảm lụy xót phần trẻ thơ!
Diêu bút ngọc đợi chờ con trẻ,
Diêu điển vàng vạch hé màn mây,
Diêu thương con trẻ vì Thầy,
Diêu huyền cảm lụy hội này ban ân.
Diêu từ khiết một lần đại xá,
Diêu bút vàng cội cả ban truyền;
Diêu cơ chuyển bút Thành Hiền,
Diêu đời động thế lụy phiền con ơi!
Diêu thấy đó cuộc đời biến đổi,
Diêu thân phàm sôi nổi nhân tâm;
Diêu đài Mẹ luống trầm ngâm,
Diêu phong thổi đến chớ lầm, nghe con!
Diêu động biết chìu lòn vì Đạo,
Diêu cuộc đời hoài bão con hiền,
Diêu quang ấn ảnh Đồ Thiên,
Diêu tinh bổn thể hóa huyền Thiên Quang.
Diêu Tam giáo luận bàn khải tấu,
Diêu Bửu Tòa Thất Đẩu lo toan;
Diêu minh chánh lý Đạo Vàng;
Diêu truyền sắc ấn khoa tràng Long Hoa.
Diêu bút ngọc Bửu Tòa Mẹ phán,
Diêu lời châu để cạn khuyên lơn;
Diêu linh Thánh thể kim đơn,
Diêu hòa hạo khí tiếng đờn Lôi âm.
Diêu trí tụ thân tâm gom đủ,
Diêu tam tài cơ ngũ chuyển luân,
Diêu thông Huỳnh Đạo không ngừng,
Diêu linh chuyển để thừa vưng lịnh vàng.
Trì chí để khoa tràng gần đến,
Trì tâm lành xa bến luân hồi,
Trì kiên hãy ráng con ơi!
Trì Đời, trì Đạo tuyệt vời pháp linh.
Trì trí phải giữ mình cho lắm,
Trì tâm phàm khỏi đắm hồng trần;
Trì sao dứt hết nghiệp sân.
Trì toan si bỏ, đoạn lần mê say.
Trì tâm pháp miệt mài bửu chú,
Trì lời thơ hội đủ đức tin,
Trì quang là tại thân mình,
Trì yên thân xác Bửu Đình cao xa.
Trì đời thấy điều hòa trả nợ,
Trì tâm hồn khỏi lỡ hạ kỳ,
Trì thương vạn vật nguyên quy,
Trì chay, trì giớii để đi đến cùng.
Trì làm sao Huyền Khung cảm động,
Trì Phật Tiên quy thống Điện vàng,
Trì thương chiếu diệu hồng quang,
Trì minh cho rõ khoa tràng Long Hoa.
Kim hà tại đơn sa Thánh thể,
Kim thân này là để ngày sau;
Kim vàng, kim quý trước sau,
Kim triệu con lãnh một màu sắc son.
Kim vàng để vẹn toàn đâu sợ,
Kim bóng hòa nâng đỡ thân sau,
Kim chuyên quý báu một màu,
Kim thân toại hưởng được trào Thuấn Nghiêu.
Kim hà tại Thiên điều ban tứ,
Kim sắc đề phải giữ từ nay;
Kim cung Thánh thể thảo hài,
Kim hòa dạo cảnh Tây đoàn nhàn thân.
Kim hà tại Thánh Thần chuyển động,
Kim tận đời khổ thống thương đau!
Kim hà viết tại vì sao?
Kim linh muốn chuyển tay trao diệu mày.
Mẫu huấn trẻ cao sâu lời dạy,
Mẫu ân từ trái phải con nghe,
Mẫu thương con trẻ dặt dè,
Mẫu khuyên tất cả chớ khoe Đạo lành.
Mẫu thương xót hiện hành chánh giáo,
Mẫu từ bi hoài bão cơ linh,
Mẫu hòa cố gắng vẹn tình,
Mẫu ân từ khiếu cao minh tuyệt mầu.
Mẫu thương xót địa cầu nên hạ,
Mẫu từ ân cao cả ngày sau,
Mẫu Hoàng lòng luống xót đau,
Mẫu Nghi chuyển điển hiện trào dạy khuyên.
Mẫu từng dạy lòng phiền nên rửa,
Mẫu thường khuyên bữa bữa con ơi!
Mẫu linh hồn của Cha Trời,
Mẫu truyền huệ pháp tuyệt vời cho con.
Mẫu giáng dạy vuông tròn sau trước,
Mẫu từ bi diệu dược ban ra,
Mẫu này chính thiệt cao xa,
Mẫu Hoàng vạn kiếp ta bà uy linh.
Mẫu thương xót Bửu Đình ngự tứ,
Mẫu ban chung phải giữ Đạo lành,
Mẫu khuyên con phải tinh anh,
Mẫu mong toàn vẹn Đạo lành báu thay!
Mẫu buồn bã ngày ngày nhìn xuống,
Mẫu thương đời trạng huống say mê,
Mẫu toan với cả quày về,
Mẫu Hoàng thương xót chẳng hề sai ngoa.
Mẫu kêu gọi thiết tha nam nữ,
Mẫu Hoàng nay tìm chữ từ bi;
Tam Niên đại xá đúng kỳ,
Tam Niên còn hỡi nhựt gì, con ơi!
Tam Niên Mẹ chuyển lời tất cả,
Tam Niên này hối hả lo tu;
Tam Niên mạn đến mùa Thu;
Tam Niên khói tỏa mây mù sương bay.
Tam Niên để gót hài tạo hạnh,
Tam Niên truyền quản lãnh pháp nguyên;
Tam Niên Mẹ đã sắc truyền,
Tam Niên chung cả diệu huyền, con ơi!
Tam Niên để vạn lời cho đó,
Tam Niên này công khó các con;
Tam Niên sao được vuông tròn,
Tam Niên mẹ luống mỏi mòn xuống lên.
Tam Niên nhắc đừng quên nghĩa Mẹ,
Tam Niên này rồi sẽ vượt qua;
Tam Niên ân thưởng gọi là,
Tam Niên Thần Thánh chung hòa huyền linh.
Giã con trẻ Bửu Đình tu tỉnh,
Mẹ trở về phụng lĩnh quy điều;
Kìa kìa sắc chiếu Linh Tiêu
Triệu hồi Mẹ trở về kim triêu cung vàng.
Con ráng giữ khoa tràng sẽ đến,
Con là con yêu mến Mẹ truyền,
Từ nay cố gắng hòa nguyên,
Trung Tôn bửu vị sắc truyền cơ quan.
Hoàng Tôn cũng hội đàng tất cả,
Phần Bửu Liên cao cả lo hành,
Con ơi! cơ cuộc sắp thành,
Nhờ con Mẹ mới an lành ngôi cao.
Khỏi buồn bã ra vào Diêu Điện,
Vậy từ nay cố chuyển tâm lành;
Hào quang vần vũ xây thành,
Giã con ở lại cung lành Mẹ thang.
TÌM SỐNG
Khi sanh ra đời, đồng nhứt mọi người đều có một bàn tay năm ngón, bàn chân năm ngón, thể hiện cho Ngũ hành của Thượng Đế hóa sanh, Ngũ hành đó tàng ẩn trong thề xác. Xác thể gồm có một quả tim mà từ khi con người vẫn còn trong bào thai, quả tim vẫn tự động nhịp nhàng, là tại sao?
Khi quả đất còn xoay thì quả tim còn nhịp. Thân này do tứ đại mà ra, thể xác này do Ngũ hành mà kết hợp, từ trong đất mà có, thì chung quy cũng trả về với đất vậy. Quả tim sở dĩ còn nhịp hay yên nghỉ là do huyền linh của Thượng Đế. Đó, là hòa nhịp theo sự luân chuyển của vũ trụ, của quả đất mà có. Điều tối linh đó, tối diệu đó, duy có Thượng Đế mới có đủ huyền năng để điều động. Ngũ hành hợp nhứt tượng trưng cho bàn tay năm ngón. Ngày trước Đảng Giác Mâu Ni, Đức Quan Âm Nam Hải đều là những người quán triệt tâm pháp, thấy rõ điều mầu nhiệm của Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, đều dùng bàn tay huyền diệu để truyền làn từ điển cho tất cả chúng sanh. Năm ngón tay đó tượng trưng cho Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ.
Trong con người đều có ngũ hành, nếu ngũ hành biết gom tụ được, thì con người sống trường miên với thể xác, không bịnh hoạn, trí sáng suốt vô ngần, còn ngũ hành không gom tụ được thì con người lần hồi sẽ chết theo cái định số: ngũ hành sẽ tản mác để trả về với gió bụi, lúc đó chỉ còn có một điểm linh quang vờ vẫn theo sương theo gió, thì sự điều động của điểm linh quang đó đều do cái luật của Thượng Đế mà thôi. Điểm linh quang đó, Phật pháp đều cho là Phật tâm nhưng vì nhiễm trược cho nên phải dật dờ sa vào địa ngục.
Con người sống là nhờ ngũ hành tạo thành thân. Cái thân này là của ngũ hành, là của tứ đại. Mượn của ngũ hành tứ đại làm thân nhưng sự sống kia, hơi thở kia là của chính Thượng Đế ban xuống cho con người. Nếu không có sự sống đó, hơi thở đó thì tứ đại kia cũng không thể sanh tồn trên quả đất vậy.
Vì ngũ hành hiệp thành thân con người, sự sống là hơi thở của Thượng Đế ban cho, chỉ có giới hạn là ba vạn sáu ngàn ngày nghĩa là trong vòng trăm tuổi mà thôi, thì Thượng Đế còn ban cho một yếu quyết, yếu quyết đó là biết con người, biết trong Ngũ hành, trong Tứ đaiọ là giả, trong giả có chơn, trong âm có dương, trong dương có âm.
Ngũ hành trong con người hiệp thành con người thành ra Ngũ bảo. Ngũ bảo đó là:
- Thị giác nghĩa là đôi mắt thấy, là sự thấy.
- Khứu giác là từ trong hơi thở, trong mũi thở nghe biết thanh trược.
- Kế đó thính giác là hai tai để nghe tà nghe chánh, nghe nơi thế gian này.
- Vị giác là sự nếm nơi miệng, họa cũng do miệng mà đến, phước cũng do miệng mà sanh.
- Cuối cùng là xúc giác là sự cảm biết, cảm biết không phải do tay chân thân thể mà cũng gồm có cảm trí hư vô nữa vậy.
Trong ngũ hành lập thể tạo thành con người Ngũ Uẩn. Ngũ Uẩn có nghĩa là:
- Vì mắt mà tâm đòi hỏi.
- Vì mũi mà tâm đòi hỏi.
- Vì tai mà tâm đòi hỏi.
- Vì lưỡi mà tâm đòi hỏi.
- Cũng vì cảm xúc mà tâm cũng đòi hỏi.
Như thế, tâm kia là khối tiểu linh quang của Thượng Đế cho xuống phàm, tâm kia là sự sống cũng như bình tụ điển, tâm kia là sự sống cũng như bình tụ điển, tâm kia tán ra trong Ngũ hành có nghĩa là trong ngũ giác quan. Khi con người dùng ngũ giác quan để hưởng thụ trần ai nhiều quá, điện kia sẽ tan lần, sẽ bị hủy diệt trước thời kỳ Thượng Đế đã định.
Con người sống không phải thở mà sống, không phải nghe mà sống, không phải thấy mà sống nhưng cũng chẳng phải ăn để mà sống. Cũng như hiện thời Tâm không phải do mắt mà có, không phải do mũi mà có, không phải do nghe mà có, nhưng tâm tán ra trong tất cả con người là: nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Vì nhìn thấy bên ngoài mà xúc động nơi tâm, vì nghe thấy bên ngoài mà làm cho tâm rúng động, vì nghe thấy bên ngoài mà làm cho cảm được, đó là tâm pháp của Phật. Nhưng thấy không phải là tâm, nghe cũng chưa phải là tâm, ngửi hoặc cảm thấy chưa phải thật là chơn tâm vì đó là phân tâm. Cũng như sự sống của con người, sự sống đó truyền qua đôi mắt, truyền qua tai, truyền qua mũi, truyền qua miệng, để rồi sự sống đó phân rẽ làm nhiều nơi mà kiếp sống của con người không tựu hợp lại thành một, không trở về nguyên bản được, có nghĩa là không trở về ngôi Thái cực để làm một ngọn đăng quang của Trời đất.
Kìa! Đại linh quang là vầng Thái dương từ đời đời kiếp kiếp cũng vẫn còn trong sáng, cũng vẫn còn soi rọi trong cửu vầng, cũng vẫn còn rọi trong vũ trụ thì sự sống của con người không biết đem sự sống trở về cho mình, không biết thúc thu lục căn, cũng như tạo cho mình có tâm.
Tất cả chúng sanh đều vô tâm, Phật mới hữu tâm, Tiên mới hữu tâm là vì Trời Phật Thánh Thần đều có tâm mà chúng sanh không có tâm; nhưng chúng sanh có tâm mà Trời Phật vẫn vô tâm là như thế nào?
Chúng sanh có tâm nhưng tâm trần dục vọng, không giữ được tâm, cuốn xoay trong dục vọng, thấy cảnh phiền não vẫn phiền não theo, thì như thế làm sao có tâm đại hùng. Gặp cảnh vui, gặp điều đoãn lạc thì tâm cũng vui theo, hứng khởi theo, gặp cảnh nghiêng ngửa của đất trời, tâm cũng vẫn sa đổ theo cảnh nghiêng ngửa của đất trời, thì làm sao có tâm? Như thế, chúng sanh vô tâm không giữ được tâm mình, tâm là tối ư tối diệu, dầu trời nghiêng đất lở, thê sự đổi thay, thân xác rã tan nhưng tâm vẫn như nhứt, như thế gọi là chơn tâm, như thế gọi là chơn tánh, chơn ngã mới thành được những bậc Bồ Tát, Thiên Tinh.
Ngày trước, Phật không nói “sự sống” là vì Phật nhận thấy con người trong thời Thượng ngươn Thánh Đức còn nguyên bản là tâm cho nên tìm con người có “nguyên tâm”, có “Phật tánh” để chỉ rõ tâm, nghĩa là bờ mê bến giác, để con người lần hồi tạo lấy một ngôi vị riêng cho mình mà trở về với Niết Bàn hay Bạch Ngọc.
Ngày hôm nay thời mạt pháp, định số của Thiên cơ không phải vì riêng rẻ một cá nhân mà bất đắc kỳ tử, mà vì cuộc biến thiên, tuần hoàn nhân quả của âm dương kỳ trộn, cho nên sự sanh tử càng ngày càng dồn dập bất kỳ định số.
Chơn truyền của Huỳnh Đạo, bí pháp Tam Thiên chỉ rõ không còn nhìn vào tâm vì tâm hiện thời không còn nữa, nơi thời mạt pháp này vậy, mà chỉ còn sự sống. Sự sống đó khi tạo được, sẽ được phần thể xác an vui, sẽ được vô vi cao diệu, nhưng nếu muốn bước qua sự sống đó thì trả qua Tánh và Tâm phải cho trọn vẹn, trải qua tất cả những cơ quan con người, phải làm sao gội rửa cho toàn nhiên, giờ phút đó mới thấy rõ được sự sống, trở về với một khối đại linh quang là Thái cực. Trong sự sống đó là phần tâm, mà không phải phàm tâm, không phải Phậttâm mà đó là linh tâm, linh giác, trở về với phần vô vi tối diệu vậy. Con đường tắt tu hành của Tam Thiên bí pháp hay Di Đà bí chỉ hiện thời là làm thế nào thúc thu được tất cả lục căn, giảm lục trần, giữ gìn cho sự sống trường miên an lạc của ngọn đèn Thái cực nơi tâm, ngọn đèn đó là sự sống.
Theo Đức Diêu Trì Kim Mẫu, khi Đức Thái Thượng giáng sinh đã có truyền tụng rằng:
“Khôn thì cũng phải chết, dại thì cũng phải chết, duy có biết là sống trường miên”
Khôn đây là không đường danh lợi, dại đây là dại chốn luân hồi, còn biết đây chẳng phải biết điều khôn suy lẽ dại mà biết mật pháp siêu nhiên của Thượng Quân truyền xuống; biết lẽ tự nhiên, biết huyền đồng cùng vũ trụ, thì con người mới khỏi chết, chớ nơi thế tục trần ai, ai không bỏ xác, thì lẽ dại khôn, khôn dại chỉ ở trong trần gian mà thôi.
Thiên Nhựt
Biên soạn
MƯA THU
THI
Mưa thu này rắt mấy đường tơ,
Trăng nước ngân giang tỏa khói mờ;
Sóng đẩy thuyền trôi về bến mộng,
Gió đùa bèo giạt giữa giòng mơ.
Lệ Ngâu phủ gấm gieo nguồn cảm,
Sương Chức buông màn lạnh ý thơ;
Nếu thấy mây chiều vương bến vắng,
Xin đừng trách gió lạc phương chờ.
Mông Hoa
MƯA NGÂU
HỌA
Nghe giọt ngâu rơi luống ngẩn ngơ,
Cầu Ô Một bóng lặng như tờ;
Duyên Tiên còn vướng bao dòng chỉ,
Tình tục làm sao chẳng rối tơ?
Ví biết đường đời là thế ấy,
Thà nương nẽo Đạo tránh thời cơ;
Ngâng giang suối lệ tình Ngưu Chức,
Cô gái buông chèo xóa ước mơ.
Ngân Hà
Kính họa
SÁT SANH và PHÓNG SANH
Sát sanh được phúc có hai trường hợp:
1/ Ngoại cảnh
2/ Nội tâm
Ngoại cảnh: Thí dụ trong xóm có ác thú đến bắt gà, vịt, heo, bò để ăn thịt hoặc kẻ cướp của giết người. Thảm trạng này làm cho ta động lòng trắc ẩn, mặc dù là nguy hiểm đến tính mạng song vì lòng vị tha, ta hy sinh cương quyết ra tay đảm đương việc tế khổn phò nguy, bắt và sát sanh ác thú hoặc kẻ bạo ngược kia hầu đem lại sự an vui cho đồng bào, đó là sát nhứt miêu, cứu vạn thử, vì nghĩa vụ mà sát sanh được phúc, theo quan niệm thông thường của người đời.
Còn phần nội tâm gồm có: Sự và Lý.
Sự, là sát sanh tâm trần, diệt lòng ích kỷ hại nhơn do tham, sân, si phát khởi, nếu dứt được mầm thất tình, lục dục là ta tránh được oan gia nghiệp chướng, gốc của tứ khổ trần luân, trả vay tiền khiên oan trái.
Khi tâm trần tử thì tâm Đạo sanh, con người mới phản tỉnh, ý thức được danh, lợi tình cạm bẫy, bèn hồi tâm hướng thiện, tìm giới, định, huệ là thuốc hồi sinh chí quyết noi theo Đạo lành, nhờ Chánh pháp khử trược lưu thanh xua đuổi những tư tưởng đen tối, lấy sự siêu thoát làm cứu cánh, gầy nền tảng Đức Nhân; bền gan cùng tuế nguyệt, suy khảo và thực hành giáo lý của thiêng liêng hầu trở về ngôi xưa vị cũ.
Sở dĩ ác thú bắt heo bò chỉ vì đói cũng như kẻ bạo ngược cướp của giết người, tuy là hành động bất nhân song chưa nguy hiểm bằng tâm trần của con người.
Thế nên có khi người ta có thể phóng sanh tức là tha giết cho ác thú hay kẻ cướp cũng chẳng mấy tai hại hơn là phóng sanh tâm trần, chính nó tạo cảnh Địa ngục mặc dù đang sống ở trần gian. Vì nó xúi giục con người say mê chung đỉnh, lợi quyền mới nảy sanh ra nhiều thủ đoạn kế lận mưu lừa, nồi da xáo thịt, chia rẽ huynh đệ, cốt nhục tương tàn, gây thảm cảnh điêu linh cho nhân thế. Chỉ vì ích kỷ hại nhân, từ bé đến lớn tạo thù chuốc oán liên tiếp suốt đời, tâm thần mờ mịt, vô tình tự tạo cho tâm trạng cái cảnh vô minh thì khi bỏ xác bị sa Địa ngục.
Xin nhắc lại hai nhơn vật điển hình cho sự sát sanh được phúc còn phóng sanh lại sa địa ngục qua sự tích xưa như sau:
Thuở nọ, có gã tên Ắt Năng, sống chung với mẹ già ở cạnh rừng, chuyên sống nghề săn thú và cướp của giết người.
Một hôm, có thầy tu đi Tây phương tìm Phật. Vì đường xa diệu viễn, cần phải đi nhiều ngày tháng. Đêm nghỉ ngảy đi, một hôm dọc đường gặp cảnh hoàng hôn tư bề vắng vẻ, chợt thấy ngôi nhà ở ven rừng nên tìm xin tá túc lại nhầm nhà Ắt Năng.
Bước vào nhà, thầy tu tỏ lời cùng bà chủ nhà (mẹ của Ất Năng) để xin tạm trú. Bà thấy tu sĩ vì lỡ độ đàng nên không nỡ từ chối song bà lo sợ cho số phận của tu sĩ, nếu con bà bắt gặp thì nguy cho tánh mạng.
Muốn che chở cho tu sĩ, bà nghĩ kế bèn chỉ cái lu (tượng trưng sự ích kỷ nhỏ hẹp) để vựa vách sau phía trong nhà, bảo tu sĩ chun vô đó ẩn tạm để tránh sự nguy hiểm sẽ xảy ra, khi con bà đi săn về, đồng thời bà cũng nói cho tu sĩ biết tánh tình hung dữ của con bà. Tu sĩ nghe qua khiếp vía, liền ngoan ngoãn vâng lời làm y theo cách bà dạy.
Cũng may lúc ấy Ất Năng đi săn chưa về, nên tu sĩ có đủ thì giờ trốn vô lu kịp.
Chặp sau, Ắt Năng về tới, vào nhà y liền hỏi mẹ có ai lạ ở trong nhà chăng? Mẹ y đáp không. Y ngạc nhiên câu đáp của mẹ, vì y biết có hơi lạ mà sao bà mẹ nói thế, y bèn để mắt quan sát khắp nhà tuy chẳng thấy chi song tánh hiếu kỳ giục thúc, Ắt Năng đi lục soát chỗ khả nghi, khi đến hàng lu, y bắt được mùi lạ càng nồng, y càng nhanh tay dở từ nắp lu một. Bỗng nhiên, thấy tu sĩ ẩn trong lu, kinh ngạc Ắt Năng hỏi:
- “Ông là ai, tại sao lại vào đây với ý định gì?”
Tu sĩ thất sắc, chưa kịp trả lời thì Ắt Năng kéo tu sĩ ra ngoài. Lúc này mẹ của Ắt Năng hồi hộp lo sợ cho số phận của tu sĩ đồng thời bà cũng hối hận lời đáp của bà khi con bà hỏi.
Lấy lại bình tĩnh, tu sĩ trả lời cho Ắt Năng: “Tôi là kẻ hành, đi tìm Phật ở Tây phương (11), vì lỡ đường phần thì tắt nắng nên xin tạm vào đây nghỉ đêm, xin ông mở rộng lòng nhân, niệm tình tha tứ, vì hoàn cảnh bất đắc dĩ chớ tôi không có ẩn ý bất chánh, van ông tha mạng cho.
Ắt Năng hỏi tiếp: “Ông nói rằng ông đi Tây phương tìm Phật, vậy Phật là gì? Tại sao lại đi tìm?
Nghe qua câu hỏi, trúng như sở trường, tu sĩ bèn giảng giải Phật là gì, tại sao được thành Phật, còn tại sao gọi là chúng sanh, đâu là chánh, đâu là tà, đâu là bể khổ, đâu là Cực lạc, nơi nào là Địa ngục, Tiên, tục phân rành, giác mê giải rõ.
Ắt Năng lặng lẽ nghe xong, chợt tỉnh cơn mê bèn hỏi thêm: “Phật dụng gì?”
- Đáp: Phật dụng Tâm.
- Vấn: Tâm là gì?
- Đáp: là lòng dạ của con người.
Suy nghĩ hồi lâu, Ắt Năng tiếp: “Bao giờ ông lên đường, tôi sẽ nhờ ông giúp tôi một việc, không biết ông có vui lòng nhận chăng?”
Qua cơn khủng khiếp, tu sĩ mừng thầm, liền hứa sẵn sàng làm thỏa mãn theo nguyện vọng của Ắt Năng.
Bộc lộc chơn tình, Ắt Năng ân cần tiếp đãi tu sĩ ngay từ lúc đó. Mặc dù nhà chật hẹp, chỉ có một giường ngủ riêng của y, song vì tấm lòng thành thật quên mình, vì người (giác) nên y nhường cho tu sĩ nghỉ đêm.
Ái ngại vì chiếc giường độc nhứt, nếu mình ngũ trên đó thì Ắt Năng không chỗ nằm, nghĩ thế nên tu sĩ từ chối.
Thông cảm nỗi lòng khiêm nhượng của khách, nếu riêng rẻ thì chẳng được việc, Ắt Năng nghĩ đến việc tiếp tục cuộc hành trình của tu sĩ, y bèn đề nghị chủ khách cùng nhau nằm chung một giường để thêm phần quyến luyến (hòa hiệp).
Để tỏ nỗi lòng thiện cảm nên tu sĩ đồng ý.
Sáng ra, tu sĩ tạ từ. Ắt Năng liền mổ bụng (sát sanh) giao cho bộ đồ lòng (tâm giác ngộ) cho tu sĩ, nhờ ông này dâng lên cho Phật. Giữ y lời đã hứa, tu sĩ chấp nhận và bái biệt.
Ra đi được hai ngày thì bộ đồ lòng có mùi, song tu sĩ ráng quảy theo. Qua ngày sau, mùi càng thúi nhưng vì lời hứa nên y nín mũi nối bước. Đến ngày kế đó thì bộ đồ lòng sình và rã rợt, mùi càng nồng nực. Bỗng nhiên, tâm trần bộc khởi, bèn nảy ra ý nghĩ ích kỷ là vứt đi cho rảnh (phóng sanh tâm trần) phần thì đường còn xa mà vật ấy lại nực mùi khó thở, hơn nữa là rớt từ miếng thì tài nàomang theo đến chốn. Trí lại viện cớ là ném quách xuống sông, nếu đến nơi Phật có hỏi thì ta tường thuật cặn kẽ trường hợp bất khả kháng là xong, nghĩ thế nên y liền quăng bộ đồ lòng (bảo vật) rồi y tiếp tục lên đường.
Khi đến Tây phương, Phật liền hỏi tu sĩ có ai gởi vật chi cho ngươi chăng?
Tu sĩ bạch cùng Đức Phật tự sự y như tâm trần đã nghĩ và đã làm.
Phật bảo: “Ngươi hãy nhìn lên xem có phải là người gởi bảo vật đó chăng?”
Tu sĩ ngẩng lên nhìn, chưng hửng thấy rõ là Ắt Năng đứng bên cạnh Phật, liền bạch Phật “Chính là người này”.
Phật bèn dạy: “Vậy nhà ngươi hãy trở về tầm bảo vật ấy đi”. Đó phóng sanh tâm trần bị sa Địa ngục.
Thực tế hơn là vào năm Kỷ Mão, nền Phật giáo nước nhà gặp hồi vận bỉ, đất bằng bỗng nhiên sóng dậy. Lúc bấy giờ, các nhà sư trải qua bao giông tố phủ phàng, dập dồn mọi cực hình điêu đứng. Tuy nhiên, lửa có cao độ mới rõ tuổi vàng. Trong cảnh lầm than thê thảm ấy, bỗng nhiên có vị cứu tinh đốt lên ngọn đuốc hy sinh cao cả, đem ánh sáng từ bi rọi khắp các nơi, vẹt tan những áng mây đen vần vũ, đem lại sự an vui cho nền Phật gió Việt Nam từ đó.
Quả thật là: “Chí sĩ nhân nhân vô cầu sinh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân”, với hiện tại chỉ thấy được một vị Bồ tát Quảng Đức là người trọng nghĩa, không cầu sống để hại người mà có thể hy sinh mạng sống của mình để cứu người. Cao quý thay, sự sát snh (vô úy thỉ) đó được phúc là thế.
Kết luận
Xuyên qua cốt chuyện cổ tích và sự hy sinh bằng cách sát sanh tâm trần hay tánh mạng là được phúc, còn phóng sanh tâm trần bị sa Địa ngục. Ngoài sự kiện vừa kể nó còn cái diệu lý về tiềm tàng trong tam bửu, thủy hỏa của con người qua các vai:
- Mẹ của Ắt Năng (Lão Âm) tượng trưng cho Âm điện hoặc Thủy thuộc Tinh (Bắc phương Nhâm Quý)
- Ắt Năng (trung gian) tượng trưng cho bóng đèn điện, thuộc Kim, phần Khí (Tây phương Canh Tân)
- Tu sĩ (Lão Dương) tượng trưng cho Dương điện là Hỏa thuộc Thần (Tâm) (Nam phương Bính Đinh)
Lúc ở với mẹ (cô Âm) nên Ắt Năng còn đen tối, hành động bất chánh (ác), đến khi gặp lằn Dương điện (tu sĩ) thuyết pháp (truyền sang Dương điện) cho nên Ắt Năng nghe (nhiếp thọ lằn điện Dương) bực cháy sáng cả bóng đèn, sát sanh bóng tối trước kia tức là tâm giác ngộ (Tâm trần tử, tâm Đạo sanh) nên đắc quả vị được phúc.
Cụ thể nữa là sát đừng cho Tinh sanh (Tẩu lậu). Ta làm cách nào cho nó trởvề căn bổn của nó bằng phương pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần. Vì nơi đây, xin tạm ví “cái ấy” từ trên cao tách rời nguyên vị (đường đi) sa lần xuống trung giới (hữu thể) thành sương mờ trong không khí. Từ từ rơi xuống hạ giới, đóng trên cành cây, ngọn cỏ lâu thành giọt sương, càng lâu càng nặng, giọt nước ấy rơi xuống đất (tan mất) thực chất. Bây giờ, ta tìm Chánh pháp làm cứu cánh để hồi nguyên (lối về) từ thực chất giọt nước biến thành màn sương mờ lần lần chuyển hóa vô vi, nơi mà trước kia ra đi, nay trở về vị trí cũ đó mới là sát sanh được chân hạnh phúc vậy.
Bằng ngược lại, ta phóng sanh tâm trần, chìu theo dục vọng xằng xiêng ám ảnh để cho tinh tẩu lậu thì giảm phần trí não bị lu mờ, bớt đi nhựa sống và càng thiếu sức khỏe, mau cằn cỗi, để sa Địa ngục.
Thật vậy, nếu tai, mắt ta nghe, thấy mọi sự việc ở chung quanh mà tâm bất động trước mọi cám dỗ, mọi sự hấp dẫn là nhờ ta biết sát sanh tâm trần, đừng cho dấy động. Nếu diệt được tâm trần thì được mọi sự lành. Gặp lành ắt hưởng phúc, nếu hưởng phúc thì lên được cõi thanh, ấy là sát sanh được phúc, Còn trái lại, nghe thấy mọi việc quanh mình mà lòng còn vọng động, tham muốn vô lý, không kềm vững được tâm thì từ chỗ phóng sanh tâm phàm, nếu lửa dục vọng bừng cháy để đoạt được ý nguyện thì con người phải khổ, hễ khổ thì đường lên khó đến mà ngược lại cửa Địa ngục gần hơn, đó là phóng sanh thì sa Địa ngục là thế.
“Gươm lòng tự diệt lửa tham, sân,
Hỏa tánh đốt lên lối lạc lầm.
Tịnh thủy Thầy ban dằn hỏa nghiệp,
Đường lên toại nguyện khỏe thân tâm” (1)
_____________
“Tai, mắt gom về, Phật tánh khai,
Thân Tâm thanh tịnh, thỉnh Như Lai.
Tai hòa với mắt sanh chơn chanh,
Khí hiệp cùng Thần, kết Thánh thai.
Nửa cháy thông tri điều trước mắt,
Một nơi thấu rõ việc bên Tia.
Gia ban hữu vật, gia gia bửu,
Có của cười ai chẳng biết xái”.
Soạn giả
Bửu Liên Hạnh
(An Giang)
(11) Trời Phật đâu xa kiếm sảng hoàng,
Quày đầu ngó thấy Đạo trong hang.
Dở màn tọc mạch Thuần Dương hiện,
Cuốn sáo dòm hành trược khí tan.
Cứng tợ đương như nhờ tự lực,
Mềm như nước đứng gọi Kim Cang.
Muốn rèn Xá Lợi đừng quơ tạm!
Lăng tột tâm trung gặp đá vàng.
Ý nghĩa số 11 là nhứt Âm, nhứt Dương.
TÍNH THẦN NHÂN LOẠI Ở GIAI ĐOẠN TAM NGUYÊN
THƯỢNG NGƯƠN THÁNH ĐỨC
Trong bài kinh “Di Lạc cứu khổ” có câu:
Mâu Ni Đẳng Giác Di Đà thọ sanh.
Văn Tuyên Khổng Thánh Đạo lành
Điệp ân Ngọc sắc lập thành Tam Nguyên.
Tam Nguyên là gì?
Theo Đông phương triết học, chữ Tam Nguyên tiêu biểu cho giai đoạn thứ ba trong sự diễn biến của tâm thức con người.
Tinh thần nhân loại phải trải qua 3 thời kỳ sau đây:
I. THỜI KỲ THỨ NHỨT hay là GIAI ĐOẠN NHỨT NGUYÊN:
Thời cổ sơ, con người sống một cách vô tâm nhàn lạc, không lo nghĩ về tương lai cũng chẳng buồn nhìn lại quá khứ. Tâm trí lúc nào cũng thảnh thơi, không chật vật để giành miếng ăn, thức uống, vì thuở ấy Tạo hóa đã ban sẵn cho con người nơi trần gian sự no ấm, hạnh phúc chan hòa; bốn mùa tám tiết cây trái đầy vườn, cỏ hoa vạn vật cứ thi nhau đơm cành trổ quả. Do đó, cái tinh thần đặc biệt của con người thuở ấy là chưa phân biệt được mọi sự mâu thuẫn trong đời. Đối với họ bất cứ cái gì cũng can dự vào nhau, chỗ phân biệt giữa mọi sự vật rất là lờ mờ, phiêu hưởng. Họ lẫn cái nọ với cái kia, hữu hình với vô hình, mộng với thực sống với chết, phần tử với toàn thể.
Ta có thể ví đây là giai đoạn của đứa trẻ thơ, giai đoạn thần thoại, ấu trĩ mà người Tây phương gọi đó là thời buổi của dân tộc bán khai.
Ở thời kỳ này, con người chưa có một cái Ta to lớn, vĩ đại chưa có cá tánh rõ rệt. Tất cả mọi tư tưởng cá nhân, mọi cảm giác đều lệ thuộc vào hoàn cảnh xã hội. Họ lẫn lộn giữa lý và tình, nội tâm và ngoại giớii. Sống theo người khác, thích bắt chước kẻ chung quanh, rất sợ dư luận chê khen. Không bao giời dám cảm tưởng riêng tư: họ sống theo Thiên tính, phản ánh trung thành của ngoại cảnh, cá nhân chưa thể hiện...
II. THỜI KỲ THỨ HAI - GIAI ĐOẠN NHỊ NGUYÊN:
Lần lần theo sự biến hóa của vụ trụ, cái Ta của con người bắt đầu trưởng thành. Những tánh như bắt chước, chạy theo thời thượng giảm dần và biến đi để nhường chỗ cho một tâm hồn độc đáo, có những sáng kiến và óc phê bình sâu sắc. Cái Ta của họ rất sắc sảo. Đây là thời kỳ xuất hiện của óc nhị nguyên, phân chia rõ rệt mọi cặp mâu thuẫn: thiện ác, thị phi, vinh nhục, nội ngoại thật dứt khoát; trắng là trắng, đen là đen. Lý trí của cái Ta ở giai đoạn này đóng vai trò chủ động trong tâm hồn nhân loại. Óc xét đoán, phân biệt, phê bình cực kỳ sắc bén.
Giai đoạn này, con người bắt đầu tìm hiểu sự vật: không chịu ép mình theo sự uốn nắn của ngoại cảnh nữa, bắt đầu lý luận, ra sức vẫy vùng chống cự lại với thiên nhiên để ngang quyền cùng Tạo hóa. Chính nhờ cái Ta vĩ đại này mà có người đã đắc thành được vị quả, đó là những bậc Thế Tôn, Bồ Tát, đã quy phục được thiên nhiên, làm chủ vạn vật, làm chủ được cả tâm hồn mình vì đã hỗn hợp được cái tiểu-ngã vào cái đại ngã của vũ trụ vạn vật.
Nhưng cũng vì cái Ta này khiến đa số con người ngày nay phải sống bên bờ vực thẳm, vì óc nhị nguyên của họ đã tiến đến chỗ quá tinh vi, phân cắt sự vật ra từng mãnh vụn. Óc biện biệt đó chia rẽ Ta và Người, thiện và ác khác nhau; phân chia sự vật trong đời ra làm hai phần biệt lập và là đối thủ với nhau, tranh nhau để tiêu diệt lẫn nhau.
Đây là giai đoạn thịnh hành nhứt của khoa học trục vật, của văn minh Tây phương chủ trí ngày nay.
III. THỜI KỲ THỨ BA - GIAI ĐOẠN TAM NGUYÊN:
Tức là giai đoạn vượt khỏi giới nhị nguyên, không còn dùng đến lý trí nữa mà phải dùng đến một năng khiếu khác để nhập vào luồng của Đạo, hợp nhứt các cặp mâu thuẫn, không còn thấy mình cách biệt với vũ trụ vạn vật để nhập vào đại toàn thể, tức là giai đoạn huyền đồng mà nhà Phật gọi là giai đoạn “đáo bĩ ngạn” (vượt qua bờ bên kia).
Óc nhị nguyên của con người được biến chuyển thành nhứt nguyên như ban đầu, nghĩa là không còn chia rẽ Ta với Người nữa,. mọi cặp mâu thuẫn trong đời: thị phi, vinh nhục, đen trắng vẫn còn nhưng không phải để tiêu diệt lẫn nhau mà là để bổ túc cho nhau. Đen là điều kiện để ta nhìn thấy trắng, bóng tối để phân biệt với ánh sáng, nhục để biết giá trị của vinh, v.v.. Tất cả sự vật đều có hai mặt phải và trái. Không thể nào tách rời được cũng như lý âm dương trong nguyên tử ngày nay mà khoa học đã chứng minh.
Tâm thức cá nhân ở giai đoạn này được siêu thoát để vượt lên trên cái quan niệm nhị nguyên của lý trí. Tất cả sự phân cắt vụn vặt đều hợp lại thành đại toàn thể; mọi tia sáng mong manh đều hợp lại để thành một vầng Đại quang minh đó là lúc Minh Châu xuất hiện. Đây là thời kỳ “Vạn thù quy nhứt bổn”, thời kỳ lý tưởng của nhân loại sắp chuyển biến nơi nơi dưới sự hướng dẫn của Đức Di Lặc Thiên Tôn Đương Lai Giáo Chủ Long Hoa Hội Thượng. Giai đoạn Tam Nguyên tức là đời Thượng Ngươn Thánh Đức, đây là lúc ‘chín mùi’ của cái ‘quả’ - tâm thức cá nhân trở về với tâm thức “vô sai biệt” lúc ban đầu tức là cài “tâm vô thức”, cái “tâm huyền đồng” của Lão Tử, “tâm tề vật” của Trang Châu, “tâm bình đẳng bát nhã” của Thiền Tông.
Tinh thần của nhân loại của thời này sẽ có sự hòa đồng giữa Tâm và Trí, có sự quân bình giữa Ta và Người. Lúc ấy, mọi sự ganh ghét chống đối tỵ hiềm đều tan hủy. Con người không cần thiện cũng chẳng cần ác. Tất cả sinh vật đều sống êm đềm trong trật tự thiên nhiên của sự điều hòa vụ trụ vạn vật.
Ta nhận thấy giai đoạn Nhứt nguyên và Tam nguyên dường như hoàn toàn giống nhau, nhưng thật ra có sự khác biệt: Tuy một mà hai, tuy hai mà một. Chúng giống nhau ở chỗ cùng là tư tưởng Nhứt nguyên, nhưng cái Nhứt nguyên của giai đoạn thứ nhứt là vô tâm, còn cái Nhứt nguyên ở giai đoạn thứ ba là hữu tâm, không phải chối bỏ các giai đoạn I và II mà chính là vượt lên, siêu thoát lên khỏi chúng vậy.
* Một triết gia Tây phương, người Đức, ông Nietzche cũng đã nhận xét tương đồng về ba giai đoạn kể trên. Ông tượng trưng tâm thức nhân loại trải qua 3 hình ảnh: Lạc đà, Sư tử, đứa trẻ thơ.
1/ Giai đoạn Lạc đà: tượng trưng thời kỳ thụ động, vâng theo mạng lịnh bên ngoài.
2/ Giai đoạn sư tử: sự vùng lên của lý trí, đạp đổ trật tự thiên nhiên, tức là thời kỳ bản ngã cá nhân được đề cao tột độ (Thế kỷ XX là thời kỳ chín mùi của giai đoạn này).
3/ Giai đoạn đứa hài nhi: đó là thời kỳ vượt lên Thiện và Ác để hỗn hợp với vũ trụ vạn vật làm một.
* Câu chuyện vườn Eden :
Câu chuyện vườn Eden (Thiên Đàng) trong Thánh Kinh của Thiên Chúa giáo cho ta một ý niệm rõ rệt về sự diễn biến của tâm thức nhân loại nói trên.
Vườn Eden là tượng trưng của tâm thức con người buổi sơ khai. Nơi đó người và vật nghĩa là người với cây cối, thú vật đều sống trong cảnh hòa đồng hoàn toàn không thù hằn nhau, không xem nhau là khác biệt, thậm chí đại diện cho loài người chỉ có ông bà Adam và Eva mà thôi, nhưng hai người tượng trưng cho hai nguyên lý Dương và Âm cũng chưa thấy phân biệt nhau là nam hay nữ. Hai người đầu tiên ấy sống trần trường, không biết e thẹn.
Đức Chúa Trời cho hai người ấy sống trong vườn Eden, có đủ quyền tự do cùng các món ăn cũng như vật dụng, trừ trái cây của Thiện Ác (trái cấm). Nếu trái lệnh, Chúa sẽ đuổi ra khỏi vườn Thiên Đàng tràn đầy hạnh phúc ấy!
Nhưng bà Eva bị quỷ vương nấp dưới hình con rắn (tượng trưng cho lý trí) cám dỗ: “Nếm được trái cấm, các người sẽ trở thành những vị Thần Thánh khi biết rõ các điều thiện lẽ ác, Chúa gạt các ngươi đấy!”. Bị cám dỗ, bà Eva hái một trái thiện ác ăn, thấy ngon lại đem mời ông Adam cùng ăn. Bấy giờ, tâm thức “vô sai biệt” của họ trở thành tâm thức “biện biệt” thiện ác rõ ràng, biết mình là nam hay nữ nên cũng biết hổ thẹn chạy tìm lá cây để che thân thể... Chúa hiện ra quở mắng và đuổi khỏi vườn Eden đầy hạnh phúc vô tâm. Bắt đầu từ ngày ăn trái cấm của cây Thiện Ác, Adam và Eva phải rời cảnh trí tuyệt đối hạnh phúc mà lê thân vào cõi đời tương đối Nhị nguyên đầy đau khổ...!
Muốn trở lại Thiên Đàng cũ, phải cố gắng vượt khỏi cái tâm thức “biện biện” mà trở về cái tâm “vô sai biệt” thuở đầu.
ĐÀI MÂY TRỞ GÓT
Đài mây nương gót trở về nguyên,
Thọ hưởng hồng ân Pháp Chánh Truyền.
Bí pháp Tam Thiên gìn tánh lặng,
Chơn truyền Huỳnh Đạo giữ tâm yên.
Xa hoa vật chất mê đời đọa,
Giáo lý mầu siêu tỉnh Đạo huyền.
Thanh, trược đôi đường tua gấm kỷ,
Mới mong chứng quả vị Thần Tiên.
Thiên An Hoàng Tôn
KHUYẾN TU
THI
LÊ thứ tranh nhau tại lợi quyền
SƠN đài lộ vẻ chỉ cơ Thiên;
THÁNH ân Phật phước ban sanh chúng,
MẪU huệ phụ từ rãi cựu duyên.
GIÁNG bút khai cơ minh Đạo pháp,
DIÊU dung Bạch ngọc chỉ tâm truyền;
TRÌ ai khắp tứ phương hoan lạc,
ĐIỆN chiếu hào quang tỏa vạn miền.
Bần đạo chào chung nam Thiên Phong đẳng đẳng.
THI
Chuyển chánh phân chơn hội Đạo Vàng,
Thiên điều siêu đẳng đại ân ban;
Tam niên hồng đức quy Huỳnh Đạo,
Thậpbát chư nhu hiệp tại Càn.
Võ trụ Thiên Khai duy pháp bửu,
Hằng sa địa chấn tựu trung sang;
Việt Nam hữu phước Tiên lâm thế,
Giáo hóa quần sanh lánh khổ tràng.
Ngày nay, vì thời cơ đã đến, điệp sắc của Thượng Hoàng cùng Phật Tổ truyền ra vạn vạn, cho nên ngày giờ đã điểm, cuộn rối như tơ, khảo đảo khắp nơi khắp chốn. Đó là cuộc biến thiên vĩ đại từ xưa tới nay, để chuyển qua thời kỳ Thượng ngươn Thánh Đức. Người tu chơn ép mình trong khuôn khổ, tránh cảnh phong ba là khôn, là biết thức thời. Người mảng mê trần, chìm đắm trong sa hoa vật dục, cũng chỉ trong vòng Thiên số mà thôi.
BÀI
Đời mạt hạ Đạo Vàng chuyển thế,
Ân Mẫu Hoàng tiếp kể Cao Đài;
Truyền ra Huỳnh Đạo Thiên Khai,
Dùng gươm trí tuệ diệt ngay lòng phàm.
Hỡi nguyên nhân kỳ tam đại xá
Tầm vô vi cao cả tuyệt mầu;
Học rồi ngũ khí gồm thâu,
Hậu đài chuyển biến ngũ châu dắt dìu.
Tại làm sao Trời kêu Phật gọi,
Cũng vì thương cho cõi thế gian;
Nên chi mới mở Đạo Vàng,
Từ bi chuyển xuống cho hàng nguyên căn.
Người hiểu đạo ăn năn sớm tối,
Kẻ mê trần tìm lối trầm hôn;
Hỡi ai bảo trọng linh hồn,
Nghe lời Phật Thánh non Côn tựa kề.
Cảnh phong ba ủ ê trần thế,
Cõi phù sanh dâu bể sóng xao;
Ầm ầm dấy động ba đào,
Thuyền từ Thầy rước gọi vào pháp nguyên.
Ai đại căn lòng liền tỉnh ngộ,
Kẻ tham trần sụp hố trầm luân;
Nhìn xem thế sự ngập ngừng,
Cảm thương đại chúng tưng bừng nạn tai.
Hội Long Hoa nhiều ngày tuyển trạch,
Bởi đại căn đạo sách chưa truyền;
Duy là học lấy pháp huyền,
Nương thân Bạch Ngọc chỉ truyền quy lai.
Hội nơi đây nghe rày Đạo lý,
Dụng chơn như tầm nghĩ cao siêu;
Trần gian một sớm một chiều,
Nếu không tu tỉnh bỏ liều trăm năm.
Cảnh khổ lao âm thầm cam chịu,
Rồi mỏi mòn nào hiểu pháp nguyên;
Thương thay nhân thế chỉ truyền,
Tại sao mê muội chẳng thuyên lòng trần.
Ngày đêm giáng cạn phân nhiều nỗi,
Mà thấy ai được cõi phàm tâm?
Ngửa nghiêng thế sự thăng trầm,
Xác thân Tạo hóa cầm bằng bụi nhơ.
Vì thương thế lời thơ cạn tỏ,
Ai thức thời tầm ngõ quy nguyên;
Đạo là dụng lấy mật truyền,
Siêu cơ ngọc bút thiêng liêng điểm hòa.
Gọi tất cả nghe qua lãnh ý,
Muôn vạn đới sắc chỉ mới truyền;
Rằng đây Huỳnh Đạo Khai Thiên,
Là cơ quy pháp đò Tiên triệu hồi.
Lời phân qua chưa rồi lý chánh,
Tại lòng người mãi lánh đường chơn;
Tầm theo vật dục oan hờn,
Toàn là giả tạo từng cơn đau lòng.
Trong chư nhu học ròng hữu chất,
Nên ngày nay lạc thất chơn truyền;
Ráng mà rèn chí định yên,
Vô vi chánh pháp Đạo truyền thiên thu.
Khai bút ngọc mây mù đã vạch,
Quơi cơ Thần chỉ sạch đường tu;
Ngày về đến cõi thanh u,
Dừng chơn ngoảnh lại khám tù trần gian.
Mới biết rõ Đạo Vàng cao quý,
Mà hôm nay mật chỉ chẳng hành;
Uổng lời Tiên Phật Tam Thanh,
Truyền ra nhứt quyết độ thành nguyên căn.
Tiên tri để Đạo hằng nung chí,
Đúng mùa thu mật chỉ sẽ truyền;
Ngọc Kinh Thầy bố diệu huyền,
Trong hành Thiên tướng tịnh yên mới mầu.
Lọc chơn sư cơ cầu điểm nhuận,
Cho Tam Thanh khải luận chánh truyền
Ngày nay phải học tịnh yên,
Đó là lý chánh yếu truyền hậu ngươn.
Người học Đạo chớ sờn khảo đảo,
Gìn tâm hồn hoài bão nơi Thầy;
Thường thường cầu nguyện đài mây,
Xin cho linh điển chiếu rày huệ thông.
Lịnh thiêng liêng ân hồng đã điểm,
Chớ để khinh khó chiếm vị lành;
Kỳ ba cho xuống nhứt thành,
Người ôi! ráng nhớ ngũ hành tóm thâu.
Giảng sơ qua vài câu mật pháp,
Người lãnh rồi nghe hạp tâm cơ;
Tứ thời toàn tịnh đúng giờ,
Chớ cho chơn khí hững hờ xuất ra.
Lời nói phải nhu hòa cẩn thận,
Thì khỏi lo tranh lấn bận lòng;
Tâm hồn thanh thản toàn trong,
Thì là huỳnh điển mới mong tựu về.
Nhập cung ly dinh khê động khẩu,
Thông Huyền quang tạo cấu Anh Nhi,
Trung hòa huyết hải ngưng kỳ,
Nhập hồi tam khiếu lưu ly chiếu đề.
Là nhãn, nhĩ, tỷ, huê, đồng hội,
Nơi Thượng đài tiếp nối âm dương,
Giao bôi để lánh khổ trường,
Tam huê tụ đãnh Đạo thường là đây.
Dẫu Huyền quang chuyển xây như chóng,
Làm châu thân khơi động tam thiền;
Thì tâm cũng cứ định yên,
Để cho Thầy chuyển Đạo huyền mới cao.
Mắt tụ quang rút vào đảnh thượng,
Là chơn thần đồng hướng khinh thân;
Hườn nguyên bổn giác đắc thành;
Mỏng nơi huyền khiếu Đạo lành xuất du.
Kim thai chỉ khám tù vượt khỏi,
Linh hồn hòa theo dõi khí không,
Đó là thất phách tựu đồng,
Hòa chung bổn thệ hội trong linh đài.
Cho biết đó hằng ngày nên tỉnh,
Giữ mật truyền phụng thính Thiên cơ;
Ngày nay chiếu điển đúng giờ,
Lo tu là để kịp nhờ hậu lai.
Về cơ phước nghe rày điểm Đạo,
Phải từ hòa cho hảo ý Thiên,
Nơi này mang lấy nghiệp duyên,
Giữ lằn khẩu thiệt lụy phiền đệ huynh.
Vừa gặp nhau là tình thắm đượm,
Đem lời đạo đức thốt ra,
Miệng cười chỉ biết nhẫn hòa mà thôi.
Chớ chia rẽ tranh bôi đây đó,
Hội Thánh này Thánh nọ làm chi?
Đâu đâu thì cũng Tam kỳ
Cũng trong cơ chuyển đúng kỳ Thiên Khai.
Lo chi việc ngày rày khảo đảo
Đó là kỳ quy cát hảo chuyển về,
Long Vân rày sẽ an bề,
Lọc toàn chơn pháp tựa kề mới hay.
Sẽ rõ biết chung tay thi thố,
Sẽ hãn tàng khỏi hố mai sau;
Nhớ rằng Đạo pháp muốn cao,
Nhứt là sân hận chớ vào trong tâm.
Đó là nguồn cội âm thầm giết chết,
Cả linh hồn thâu hết chơn dương;
Còn đâu để kiến Đạo thường,
Ai người suy lý lo lường từ đây.
Về nữ phái hiệp vầy công quả,
Chớ luận bàn hối hả làm chi!
Từ từ hòa hiệp vậy thì,
Em nương chị đỡ, lo chi chẳng tròn?
Phần mỉa mai là còn phàm tục,
Cứ từ hòa dẫu giục pháp thân,
Tìm ra chơn lý chuyên cần,
Đoạn lìa sắc tướng lãnh phần vô vi.
Tu cơ phước cũng vì đắc pháp,
Cũng thành Tiên cũng đáp ơn dày;
Cũng là huệ trí như ai,
Cũng trong Đại Pháp Thiên Khai hiện giờ.
Chớ tách ra huyền cơ Đại pháp,
Chớ rẽ chia cách sắp của Thầy;
Ai người căn vị hiệp vầy,
Bổn nguyên duy nhứt hiệp này mà thôi.
Lời bần đạo chưa rồi giảng giải,
Chỉ lời thơ còn phải thêm nhiều;
Rõ ràng đã trải thương yêu,
Hỡi người tu tỉnh mai chiều học thêm.
Nay tao loạn bên thềm tận diệt,
Duy Đạo lành cần thiết mà thôi!
Trần gian trả nợ cho rồi;
Việc đời chớ bỏ người ôi, nghe rày.
Tuy hiểu Đạo ngày nay thi thố,
Nhưng nợ đời còn chỗ trả vay;
Giữ là mật pháp trường chay,
Siêu cơ linh bút nghe rày học xong.
Cũng gần buổi Đại đồng phán đoán,
Ngày xưa kia có hãn cùng chăng?
Là kỳ Lục tổ Huệ Năng,
Chỉ dùng công quả đoạt bằng Bát y.
Chớ chia rẽ vô vi, phước, huệ,
Rồi chị em chẳng kể cùng nhau;
Thầy đâu chia cách hai màu,
Mẹ đâu khác biệt một trào Đạo quy.
Hỡi nữ nam nghĩ suy cho kỹ,
Nghe lời lành cao quý hôm nay;
Sửa đương cho đúng mới tài,
Rằng tu Đạo pháp kịp ngày Long Hoa.
Người tu biết nhẫn hòa tuyệt báu,
Người tu hành kỳ bảo ái từ;
Đó là huyền pháp mật thư,
Diêu Trì truyền xuống cung Hư đã đề.
Khuyên mòn mỏi tựu về nghe dạy,
Mỗi kỳ đàn cũng phải trang nghiêm;
Sửa lần tâm tánh im lìm,
Chơn như cố gắng học tìm rõ thông.
Thôi điển dã dài giòng chiếu diệu,
Giả chung đàn Bần kiếu phản hồi;
Từ rày ráng học cho rồi,
Huệ từ sẽ thấy kịp ngồi Đài Liên.
Trích Đàn Cơ: Long Vân Đại Đàn
Tý thời 20.7 Nhâm Dần
(19/6/1902)
VẤN NGUYỆT ĐÊM TRĂNG
Đêm trăng rãi ánh mơ diệm tuyệt
Cho tôi xin vấn nguyệt đôi lời
Ở trên cung Quản bao đời?
Có chồng Hậu Nghệ được thời mấy con?
Nghe đồn vẽ sắc son diễm lệ,
Tôi thường nghe dì gió kể rằng:
Chị Hằng đẹp nhất cung trăng
Còn bao vị khác có bằng chị không?
Nay gặp lúc núi sông điên đảo
Chị nỡ nào áo mão cân đai
Phép Tiên xin chị ra tài
Cứu nguy đất nước mừng ngày vinh quang.
Để kẻ sĩ được an thân phận
Người nông dân khỏi bận tấc lòng
Lao công khỏi phải long dong
Thương trường phát đạt một lòng vui tươi.
Cho xin tạm ngưng lời vấn nguyệt
Để còn la bận việc kệ kinh
Cảm thông xin chớ bất bình
Mấy lời vấn chị lượng tình thứ tha.
Diệu Mai
LỜI ĐÁP HẰNG NGA
Trung thu khoe sắc rải ngàn phương
Tạm chút từ văn gởi thế thường
Thiếp ở cùng trăng từ thuở trước
Khi tình nhẫn nại chữa sầu vương
*
Vương vấn trầm luân mộng huyễn thường
Cõi tiên khác tục chẳng tình vương
Gió mây là bạn can thường đó!
Hậu Nghệ là ai, thiếp khó tường?
|
Tường sao vẻ đẹp của Tiên Thiên
Hương sắc xưa nay chốn thương miền
Hồ dễ mấy ai so sánh kịp
Nên chi sách sử vẫn còn biên.
*
Biên cương
Chinh chiến điêu linh tại quả nhân
Thiên luật, phép Tiên nào cứu rỗi
Đạo vắng vương Phật độ toàn dân.
|
Nhị muội Hoàng Hoa
CÁI DỤNG VÀ CÁI THỂ
CỦA HUỲNH ĐẠO
Theo cuộc tuần hoàn luân chuyển, quả Địa cầu sáu mươi tám (68) ngày hôm nay đang trong thời kỳ Tàn ngươn mạt pháp, và sắp chuyển mình để tái tạo thời Thượng ngươn Thánh Đức. Long Hoa Đại Hội là một nhịp cầu để bước sang thời thái bình thạnh trị thì Huỳnh Đạo là một cơ duyên tuyển lọc để trạch bậc hiền nhân, dìu dẫn kẻ đức độ hầu hưởng cảnh thanh nhàn. Chúng ta tự hỏi tại sao Huỳnh Đạo lại được ban khai tại xứ sở này và Đức Chí Tôn lại nhận miền Nam nước Việt Nam là Trung Ương để hoàng dương chánh pháp?
Qua bài này, chúng ta hãy nhận xét Huỳnh Đạo qua cái dụng và cái thể để thấu hiểu nguyên nhân và tại vì sao?
1/ Cái thể của Huỳnh Đạo:
Ngược dòng thời gian, lịch sử Việt Nam cho chúng ta biết rằng: vào thời vua Hùng Vương đã có phát sinh hai loại bánh: cánh dày tượng trưng cho Nhân Đạo và bánh chưng tượng trưng cho Tiên Đạo mà Huỳnh Đạo đã dùng làm thể trên đường hoằng phổ.
a) Nhân Đạo:
Bánh dày hình (¨) hình vuông tượng trưng cho Nhân Đạo là Đạo làm người. Đức Khổng Tử với hình nhi hạ học đã nói rằng: hình vuông ấy sẽ biến hóa từ nhứt sanh nhị, nhị sanh tứ, tứ sanh bát... Danh từ Đạo pháp gọi rằng: Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái...
b) Tiên Đạo:
Bánh chưng (D) hình tam giác tượng trưng cho Tiên Đạo. Đức Lão Tử với thuyết hình nhi thượng học đã nói rằng hình tam giác ấy, sẽ biến hóa từ nhứt sanh nhị, nhị sanh tam, tam sanh vạn vật. Đó là Thiên, Địa, Nhơn vậy.
Trong phần thể này, chúng ta hãy xét kỹ: dân tộc Việt Nam , suốt thời kỳ từ lúc sơ khai đến ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm biến đổi, nhưng vẫn giữ được truyền thống Đạo đức và bản thể dân tộc mà chúng ta chỉ tìm thấy được ở dân tộc Việt Nam thôi.
Giòng giống Lạc Hồng mang danh là có bốn ngàn năm văn hiến, có một huyền sử là con Rồng cháu Tiên, Rồng tượng trưng cho phần Nhân Đạo và Tiên tượng trưng cho phần Tiên Đạo.
Còn vị Quốc vương thủy thổ của dân Việt Nam là Đức Lạc Long Quân Phụ và Hồng Bàng Tiên Mẫu, chính la chiết thân của Đức Hồng Quân Tiên Tổ và Đức Diêu Trì Kim Mẫu là phần vô vi tối thượng, quyền quản trật tự chúng sanh và hóa sinh muôn loài vạn vật trên quả Địa cầu này. Huỳnh Đạo nhận Đức Lạc Long Quân Phụ và Hồng Bàng Tiên Mẫu làm thể, cũng vì đó mà phần tượng trưng cho quốc hồn, quốc túy của dân tộc Việt Nam vậy.
2/ Cái dụng của Huỳnh Đạo:
Cái dụng đây là phần linh của Huỳnh Đạo. Huỳnh Đạo nhận tất cả chơn lý của Tam Giáo Nho, Thích, Đạo; nhưng chỉ thu thập những chơn lý thuần túy phù hợp với luân thường Đạo nghĩa ngàn xưa, chọn những điều thực tế đúng với lý sống của con người, lọc những điều hay dở hầu làm căn bản cho chánh pháp.
Chơn truyền của Tam Giáo trải qua bao lúc thăng trầm, kể từ Thần Tú, Lương Vương Minh những chơn lý ấy, đều bị lạc bổn không còn giữ cái bản gốc thành thiệt của nó nữa. cho nên Huỳnh Đạo ra đời với những giáo lý chơn truyền gồm thu những hoa của Tam Giáo đầy đủ hơn và trọn vẹn hơn, Với chơn lý này Huỳnh Đạo sẽ làm chấn chỉnh hồi sinh vạn vật và Huỳnh Đạo sẽ đứng ra hoàn thành công việc đưa con người đến chỗ hòa hợp và tương sinh nhau trong bầu không khí an lành thạnh trị vậy.
Đó là cái dụng và cái thể của Huỳnh Đạo.
- Với cái thể là Dân tộc tính, Huỳnh Đạo sẽ giữ trọn vẹn được nguồn gốc Tổ tiên của giống Hồng Lạc, dầu chơn pháp mờ phai, dầu phong ba nước lửa trong kỳ hoạn họa tang thương.
- Với cái linh là tinh hoa diệu pháp của Tam Giáo, Huỳnh Đạo sẽ thống nhứt cuộc sống con người cũng như sẽ đưa quả Địa cầu này từ chỗ trược trần sắc dục sang một thế giới khác thanh cao và Đạo đức hơn vậy.
Huỳnh Hoa Dung
TRUNG THU MỪNG MẸ
Rằm tháng tám con hiền mừng mẹ
Nguyện với lòng vẹn vẽ đường tu
Ngày trung thu
Vẹt ngút mù
Vẹt ngút mù phù du dứt bỏ
Cảnh hồng trần tầm ngõ giác mê
Chớ si mê
Kíp quay về
Kíp quay về vẹn bề an hưởng
Mối Đạo Huỳnh trọn tưởng mẹ thầy
Nhớ ơn dầy
Gắng hội này
Gắng hội này thi tài công quả
Trọn ước nguyền cao cả không lơi
Mối Đạo Trời
Cảnh chơi vơi
Cảnh chơi vơi quyết rời 6 Đạo
Chí trung kiên xây tạo móng nền
Khá làm nên
Được tuổi tên
Được tuổi tên đáp đền ơn mẹ
Thương con hiền chỉ vẽ tận tường
Giữa canh trường
Nhũ tình thương
Nhũ tình thương lo lường học Đạo
Thuận hòa nhau chỉ bảo thiệt hơn
Tầm lý chơn
Dứt oán hờn
|
Dứt oán hờn nghe đờn Đạo lý
Tiếng thâm trầm cao quý mặn nồng
Lo quả công
Dạ sắt đồng
Dạ sắt đồng một lòng nhồi nắn
Tròn đức tin sẽ đặng hồi quy
Mặc khảo thi
Vẫn kiên trì
Vẫn kiên trì màn chi cuộc thế
Tin nơi Thầy Đạo thể huy quang
Buổi khoa tràng
Được ân ban
Được ân ban nhà thoàn đưa rước
Người dày công hữu phước vị lành
Độ nhân sanh
Được đắc thành
Được đắc thành tinh anh quả phúc
Ngày Trung Thu phủ phục nguyện cầu
Mẹ nhiệm mầu
Hạ địa cầu
Hạ địa cầu chứng câu thành nguyện
Độ toàn linh qua biển trầm luân
Nguyện thừa dâng
Chút lễ trần.
|
Huỳnh Hoa Hằng
NGÀY ĐẦU NGỘ ĐẠO
Một làn gió lạnh ùa vào cửa sổ, làm tôi rùng mình, ngưng đọc những dòng Thánh ngôn Phật huấn và nhìn ra ngoài các trẻ thơ đang vui đùa nhộn nhịp dưới ánh trăng vằng vặc với ngàn sao lấp lánh. Đêm càng về khuya những tiếng ồn ào càng giảm dần và nhường chỗ cho sự yên lặng, mọi vật hầu như chìm dần trong giấc ngủ, khiến lòng tôi cố ôn lại những kỷ niệm của buổi đầu tiên bước chân vào cửa Đạo.
Hồi tưởng lại quãng đời quá khứ, thuở ấy tôi cũng như bao nhiêu người đồng lứa tuổi, vẫn nghĩ rằng cuộc đời tạm giả này là trường miên vĩnh cửu, nên mãi đua đòi theo văn minh vật chất, ước mơ được sống trong danh quyền bã lợi. Tuy vẫn có sự tin tưởng nơi huyền năng của Đấng Thiêng Liêng, nhưng chưa nhận thức được linh hồn là phần báu trọng, vì thế nên tâm linh vẫn còn mê muội, chỉ biết tranh đấu cho bản thân mình được no ấm là điều toại lòng.
Rồi dần dần tuổi đời càng chồng chất, nhìn thấy những cảnh đau thương diễn ra trước mắt, nào là cảnh đổ nát, chết chóc do chiến tranh gây ra, cảnh đói rét lầm than do Thiên tai địa ách. Bấy giờ tôi mới ý thức được đời là giả tạm, là đau thương!... Tất cả vật chất hiện hữu trên thế gian này đều phải tàn tạ theo thời gian, kể cả thân xác này cũng có ngày hủy diệt. Càng suy ngẫm, tôi cảm thấy sự sống trên cõi đời này, nhất là trong buổi Tàn ngươn mạt pháp, con người chỉ chuốc lấy những sự buồn khổ thì nhiều và trái lại điều may mắn càng hiếm hoi. Vì thế, tôi quyết hướng về đường Đạo để tìm một lối thoát cho linh hồn.
Từ đấy, tôi bắt đầu tìm hiểu về Đạo lý để tu học hầu cứu cho chính mình và có thể độ rỗi nhân sanh. Trước đây tuy chưa chánh thức quy y theo một Tôn giáo nào, nhưng Tôn giáo nào tôi cũng đem lòng tin tưởng, và nghĩ rằng nếu có duyên với một chơn lý nào tôi nguyện sẽ giữ trọn lòng tin tưởng đến ngày viên mãn đới tôi.
May thay! Ngày ấy tôi được biết về mối Đạo Huỳnh qua những dòng từ ngôn Phật huấn. Chơn lý của Đạo Huỳnh vô cùng cao siêu, huyền diệu mà từ trước đến nay tôi chưa hề biết đến. Hơn nữa, Đạo Huỳnh là một mối Đạo quy tựu chơn thuyết của ba nền Tôn giáo, để sau này “Tam giáo quy nguyên, Ngũ Chi thống nhứt”. Nhận thức được một chân lý vô giá này, tôi chẳng còn ngần ngại chi nữa và quyết một lòng nhập môn để học hỏi.
Muốn nhập môn Huỳnh Đạo không phải là điều dễ dàng suông sẻ. Là một môn đồ của Huỳnh Đạo phải được Thiêng Liêng điểm giáo và ban cho một Thiên danh (cơ Huệ) hoặc Thánh danh (cơ phước).
Gần một năm lui tới nơi Bửu Tòa Di Lặc để hầu đàn và mong được sự điểm giáo của Thiêng Liêng, nhưng tôi vẫn chưa được mang một Thánh danh của Huỳnh Đạo, lòng tôi buồn tủi khôn cùng, khiến tôi nghĩ rằng có lẽ tôi không trọn duyên với mối Đạo Vàng. Dầu cho thời gian thử thách khá dài ấy, tôi vẫn không nản lòng, lơi dạ và cố giữ trọn niềm tin.
Ngày đàn hôm ấy, có lẽ Thiêng Liêng đã soi thấu sự tin tưởng của lòng tôi, nên đã nhỏ chút thừa ân và ban cho tôi một Thánh danh của Huỳnh Đạo. Quỳ trước Điện tiền cúi đầu đãnh lễ để thọ nhận Thánh danh và đại hồng thệ, lòng tôi vui mừng hơn bao giờ hết vì đã ngộ Đạo lành mà từ lây nay tôi hằng mong ước.
Giờ đây, tôi chánh thức là một Thanh Xuân của Huỳnh Đạo thuộc cơ Giáo Pháp, được sự dìu dẫn của Đức Cha lành thường xuyên lên xuống dạy dỗ, khuyên lơn. Để đền đáp một phần nào công ơn của Thiêng Liêng, tôi nguyện đem hết khả năng để hành tròn công quả, vẹn giữ công trình, hy sinh tất cả cho mối Đạo Vàng vô cùng quý giá.
Huỳnh Hoa Châu
TÌM HIỂU HUỲNH ĐẠO
I. NGUYÊN NHÂN và NGUỒN GỐC:
1/ Nguyên nhân:
- Theo chu kỳ của Tạo hóa, nay buổi tàn ngươn mạt pháp, Tam giáo thất chơn truyền, nhân tâm ly tán, Tam ngươn một thuở Thượng đế ban truyền Huỳnh Đạo để mở lại một cuộc tuần hoàn dài 12 vạn 9 ngàn 6 trăm năm.
- Thượng đế thương xót nhân loài trong cơn điên đảo vì văn minh vật chất và dục vọng đa đoan, nên Đức Thượng Đế ban truyền đây là thời kỳ Đại xá và độ tận chúng sanh (nghĩa là chọn lọc bậc hiền nhân đức độ, phân tà lọc chánh để phán xét Đại đồng ở ngày Long Hoa đại hội, đại xá nghĩa là tất cả tội lỗi xưa kia đều xóa bỏ, không phân biệt kẻ hiền, kẻ dữ, ai cũng có thể được nghe những chơn lý đạo đức hầu hướng về con đường thiện).
2/ Nguồn gốc:
Đạo Cao Đài được Đức Ngọc hoàng Thượng Đế khai sáng từ năm Bính Dần (1926) với lời tiên tri 36 năm thành Đạo. Nhưng đến 36 năm (1926), vì cảnh khảo đảo của Ma Vương, Đạo Cao Đài chỉ thành về mặt vô vi với Huỳnh Đạo ra đời tiếp nối.
Vì kỷ nguyên Đạo Vàng đệ nhứt,
Nối Cao Đài lãnh vực phổ hoằng,
Tam kỳ chiếu diệu hạ tầng,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chuẩn thằng Ngũ châu.
Sau đó do lời cầu xin của Đức Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Đại Từ Tôn ban hồng ân cho “Tam niên đại xá”.
Vì thế tuy đã ban sơ từ Hội Thánh Cao Đài Nhị Giang 1959 rồi về Long Vân Đại Pháp Nam Thành Thánh Thất và Long Vân Đại Đàn cuối năm 1961 nhưng mới được Đức Thượng Đế chánh thức ban truyền bắt đầu từ năm Nhâm Dần (1962).
II. CÁC GIAI ĐOẠN CỦA HUỲNH ĐẠO:
Do Thiên cơ biến chuyển, từ năm Nhâm Dần đến nay là 11 năm, Huỳnh Đạo gồm có nhiều giai đoạn như sau:
1/ Tam niên Đại xá:
Đó là bắt đầu năm 1962, Đức Diêu Trì Kim Mẫu khải tấu với Đức Thượng Đế xin “Tam niên ân thọ” để cho các nguyên căn linh vị trường chay, luyện pháp hầu trở về ngôi vị ngàn xưa khỏi sống lộn với thú cầm.
Lòng từ bi của Đức Mẹ đã thể hiện:
“Ba sáu năm khai tuồng Đại Đạo,
Để ngày nay hoài bão nhuyên nhân,
Hai phen nhập hóa thức thần,
Thiên Khai Huỳnh Đạo chuyển trần Tam Niên”
2/ Ngũ niên Chuyển xá:
Bắt đầu từ tháng 8 năm Giáp Thìn (1964). Vì chánh pháp chưa minh, Đức Thượng Đế và Đức Diêu Trì Kim Mẫu gia ân thêm “Ngũ niên chuyển xá” do sự cầu nguyện của chúng sanh và Thánh Thần Tiên Phật khải tấu. Và kể từ đó Đức Di Lặc được sắc chỉ lâm phàm tái tạo Thượng ngươn.
Những phần minh chứng điều này như sau:
“Từng cao vòi vọi lưới Trời,
Thầy minh còn rõ những lời Phật Tiên.
Ân từ Điệp sắc “Ngũ niên”
Là phần Di Lặc quản quyền mà thôi”
Như vậy, Ngũ niên chuyển xá là hồng ân đại xá và quản quyền của vị Đương lai Giáo chủ Long Hoa Hội Thượng là Di Lặc Phật Vương Thiên Tôn vậy.
3/ Tứ niên tuyển pháp:
Sau 5 năm ân xá là “Tứ niên tuyển pháp” mà Đức A Di Đà Phật đã hội chung Tam giáo cầu xin Thượng Đế gia giảm nhân loài để tuyển quy hàng Tam công hầu dự hội Long Hoa.
4/ Tứ niên hậu xá:
Lòng từ bi vô lượng, trước Tòa Tam giáo, kể từ năm Nhâm Tý (1972) Đức Hồng Quân Thượng Tổ ban ân cho “Tứ niên hậu xá” hầu kết thúc cơ Long Hoa diễn biến.
Thầy đã dạy rằng:
“Truyền Tam giáo ân hồng Nhâm Tý
Kể từ nay là kỷ nguyên hòa,
‘Tứ niên hậu xá’ Long Hoa
Của Thầy lập pháp gọi là cho chung”
III. CĂN BẢN, TÔN CHỈ, MỤC ĐÍCH:
1/ Căn bản:
Thiên Khai Huỳnh Đạo đặt trên căn bản “Nhân, Nghĩa, Thành, Tín”
a) Nhân: là tình thương, lòng từ ái không giới hạn trong không gian và thời gian.
- Đối nội: (với mình) tự mình phải rèn luyện một tinh thần đạo đức nghĩa là phải có lòng khoan hồng, bác ái, việc gì cũng thuận theo lẽ phải.
- Đối ngoại: có lòng nhân đối với người nghĩa là cái gì mà bản thân mình mong muốn thì đem ra thi hành cùng với mọi người và không bao giờ bị tư ý ràng buộc.
b) Nghĩa: là định rõ các phận cho điều hòa để xử sự bất kỳ trong mọi trường hợp cho phải lẽ và hợp lý. Nghĩa với gia đình, nghĩa với xã hội nước non, thấy điều bất công mà ra tay tế độ là người thi nghĩa vậy.
c) Thành: là sự thành thật không sai ngoa, dốc lòng tin tưởng vào một việc gì. Có câu rằng: “Đạo gốc bởi lòng thành, tín hiệp” nghĩa là Đạo, cái bổn gốc của nó là do tâm thành khẩn và lòng tin tưởng mới có mà thôi.
d) Tín: là do sự tin tưởng mà người khác đặt vào mình. Tín là điều kiện thiết yếu để thắt chặt tình bằng hữu và có sự tin cậy lẫn nhau.
2/ Tôn chỉ: Trên mọi phương diện hành Đạo, Huỳnh Đạo đặt tôn chỉ là “Từ bi, Bác ái, Công bình”
- Từ bi: thấy sự khổ đem lòng nhân, lòng hiền mà thương xót.
- Bác ái: lòng thương vô cùng rộng lớn.
- Công bình: không vị nể, thiên lệch.
Phải thể hiện đức từ bi rồi đi lần đến bác ái, công bình, vì có từ bi rồi mới thương chung muôn loài vạn vật thực hiện đức bác ái, và từ đó mới rõ lẽ công bình.
3/ Mục đích:
a) Cứu thế lập đời: Trong thời mạt pháp, Huỳnh Đạo có sứ mạng độ dẫn nhân sanh hướng thiện hầu lập lại đời Thánh Đức thượng ngươn.
b) Thống Ngũ chi, Quy Tam giáo: Nghĩa là Huỳnh Đạo sẽ quy Ngũ chi và Tam giáo gom về một mối là Trung ương, vì Huỳnh Đạo chính là Vô vi Đại đạo dùng sắc Huỳnh nơi Trung ương Mồ Kỷ Thổ.
c) Đoạt cơ siêu thoát: Những Thiên phong Huỳnh Đạo sẽ dùng Tam Thiên Bí Pháp (nam) và Di Đà Mật Chỉ (nữ) rèn luyện thành Kim Thân Thánh Thể giải thoát trở về nguyên vị và ứng trợ cơ Long Hoa` “đại vận sát”.
IV. CHƠN TRUYỀN CỦA HUỲNH ĐẠO:
Chơn truyền của Huỳnh Đạo là chơn truyền của Tam giáo, đầy đủ và trọn vẹn hơn gồm ba đặc điểm về Sự, Lý, Pháp.
a) Về Sự: Huỳnh Đạo hiểu theo lẽ cao nhiên chứ không tầm thường như thế nhân thường hiểu.
- Như về hiếu, không phải chỉ chăm nom phụng dưỡng mà phải trọn dạ thương yêu khi sanh tiền cũng như lúc quá vãng, nghĩa là cứu vớt linh hồn Cửu Huyền Thất Tổ bằng cách lập công bồi đức vẹn vẽ tu hành.
- Như tín, giữ chữ tín vì do lòng thương yêu sợ người khác đợi chờ, nghĩa là vì người chứ không vì bản ngã cá nhân.
b) Về Lý: Với lý siêu từa, Huỳnh Đạo quan niệm cái lý trường miên thoát tục chớ không ngắn ngủi trong vòng trăm tuổi. Quan niệm về thân tứ đại, không phải quá vì thân này mà cũng không ép mình khổ hạnh thân xác. Đó là lú siêu nhiên của Huỳnh Đạo: “chơn và giả phải đi đôi với nhau”.
c) Về Pháp: Huỳnh Đạo không chấp ở hữu hay vô mà cả hữu vô trọn vẹn, gồm Tiên Thiên và Hậu Thiên ứng hóa, không nhắm vào một sự ứng nghiệm, một huyền linh nhất thời nào về hữu hình hay vô hình mà Huỳnh Đạo chỉ nhắm vào cái lẽ miên trường, vĩnh cửu nơi cõi Thượng Thiên an nhàn tự toại.
V. HUỲNH ĐẠO VÀ CÁCH PHỤNG THỜ THIÊNG LIÊNG:
Đối với sự thờ phụng thiêng liêng, những Điện thờ của Huỳnh Đạo thường tôn thờ các Đấng như:
1/ Châu Thiên: Tượng trưng cho chơn như bửu pháp tối linh của Đức Đại Tôn Sư Hồng Quân Thượng Tổ, là con đường độc nhất để về với Thầy, về với sự sống muôn đời còn mãi trong lòng người, còn mãi trong vô vi.
2/ Đức Diêu Trì Kim Mẫu: Là Đức Mẹ linh hồng sanh hóa muôn loài vạn vật thể hiện bằng ngôi Vô Cực. Ngôi Vô Cực là ngôi Chúa Tể độc nhất cao hơn ngôi Thái Cực, chưa có ngôi Thượng Đế đã có ngôi Vô Cực rồi. Ngôi Vô Cực đó thể hiện ra Mẹ hiện thời tạm gọi là Đất và Đức Thượng Đế tạm gọi là Trời.
3/ Đức A Di Đà Phật: Là vị Tôn sư của nữ phái Bửu Liên. Đức A Di Đà là một vị Phật khai Đạo ở thời Thượng Ngươn, là phần chơn điểm lâm phàm hóa hiện ở Âm Dương kết tạo chớ không phải con người bằng thân tứ đại và Đức Phật A Di Đà thể hiện một tình thương vô lượng của một Đấng Vô Thượng Y Vương vậy.
4/ Đức Thích Ca Phật Tổ: Tượng trưng cho một vị Phật khai sáng Đạo trong thời Trung ngươn.
5/ Đức Phật Vương Di Lặc: Đó là một vị Giáo chủ Long Hoa Hội Thượng trong thời Hạ ngươn mạt pháp này. Đức Di Lặc thừa Ngọc sắc Hư Cung và Lôi Âm Điệp Phật lâm phàm khai Long Hoa Đại Hội để phán xét công đồng lập thành đời Thánh Đức.
6/ Đức Lạc Long Quân Phụ và Hồng Bàng Tiên Mẫu: Là vị Quốc vương Thủy tổ, là Cha Mẹ ngàn đời, là Tổ tiên của giòng giống Lạc Hồng, chỉ có Huỳnh Đạo thờ phượng hai vị Quốc tổ của Việt Nam mà thôi.
7/ Đức Linh Quang Phật Địa ( Tức Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát ) Chưởng Quản THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
7/ Đức Linh Quang Phật Địa ( Tức Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát ) Chưởng Quản THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO
8/ Ngoài ra, Huỳnh Đạo còn tôn thờ Tam giáo, Đức Văn Tuyên Khổng Thánh là Đức Khổng Phu Tử, Đức Thái Thượng Đạo Tổ tức là Lão Tử và Đức Gia Tô Giáo Chủ hay là Jêsus Christ.
Điều này chứng tỏ rằng Huỳnh Đạo hòa đồng cùng Bá giáo vì quan niệm rằng tất cả mỗi Đạo đều có cùng chơn lý giúp cho con người quày đầu hướng thiện, chung quy cũng chỉ có một con đườg về Bạch Ngọc, Niết Bàn.
IV. HÌNH THỨC CƠ HUỲNH ĐẠO:
Gồm có cơ Phước và cơ Huệ.
1/ Cơ Phước:
a) Hình thức tượng trưng: Là Viện Giáo pháp với Viện trưởng vô vi là Đức Thiên Tôn Di Lặc. Cơ Giáo pháp nặng về phần công quả, công trình và giáo hóa.
b) Vai trò người tu cơ Phước: Những người tu theo cơ Phước Huỳnh Đạo phần lớn là Thanh Xuân, Thanh Đồng. Trong hiện tại đảm nhận phần trì kinh, công quả, công trính, thay thế, nâng đỡ cho cơ Huệ, giúp cho những Thiên phong có đủ thời giờ tịnh luyện.
Trong buổi hậu lai, Thanh Xuân, Thanh Đồng trong cơ nhập thế sẽ đảm nhận vai trò giáo sĩ có bổn phận phổ độ dìu dẫn nhân sanh tu hành.
2/ Cơ Huệ:
a) Hình thức tượng trưng: Tượng trưng cho hình thức của cơ Huệ là Viện Pháp Hóa, chuyên chú về pháp nguyên.
b) Vai trò người tu cơ Huệ: Những người tu theo cơ Huệ là những người tu giải thoát, trường chay, tuyệt cục, luyện pháp nguyên do thiêng liêng truyền dạy. Đó là các vị Thiên Tinh và Bửu Liên Huỳnh Đạo có sứ mạng thi tài cùng Bá giáo trong buổi Long Hoa nước lửa.
Tóm lại, với tôn chỉ và mục đích rõ ràng, Huỳnh Đạo không những là cơ Đạo thuần túy dân tộc, lấy đức từ bi chan rãi cho tất cả nhân loài, dụng lòng vị tha và xả kỷ để độ khắp trần ai lánh mê giải khổ (tìm về coin đường giải thoát siêu linh), mà Huỳnh Đạo còn là cơ duyên đại kiếp, là cơ sảy sàng tuyển trạch những nguyên căn linh vị. Ai hữu phước, hữu duyên nhứt lòng vì Thầy, vì Đạo thì sẽ được ân hồng trong kỳ ba mạt pháp, lãnh bí truyền do chính ơn trên truyền dạy để hiển đoạt thần thông hầu quy hồi cựu vị. Còn người vì chốn mê đồ, danh bả thì ngày phán xét cuối cùng sẽ tường minh phận số.
Thời kỳ này là thời mạt pháp, bao cảnh tang thương bao hồi ly tán, Đức Thượng Đế vì lòng hiếu sinh ban rãi cho nhân sanh mối Đạo Vàng thâm diệu, thì nhân sanh sau khi đã am tường thấu đáo những yếu lý cao siêu của Huỳnh Đạo hãy cố gắng hồi đầu hướng thiện học chữ tu hành, trước là tự cứu bản thân, sau là độ rỗi linh hồn Cửu Huyền Thất Tổ được siêu thăng tịnh độ.
Thuấn Nghiêu tái lập ơn Trời nhuận ban.
Thanh Đồng, Thanh Xuân
Huỳnh Đạo Trung Ương
THI
Đời cũng thế loạn ráng to tu
Sanh đặng làm người dễ lắm ru;
Giải đãi không lo tìm Đạo lý,
Ngày cùng thức tỉnh hận ngàn thu.
*
Thượng cảnh tiêu dao chẳng lụy phiền,
Non bồng Nước nhược thú thiên nhiên,
Lâm trần vì bởi nguyên nhân khổ,
Dìu dắt đem về cõi Phật Tiên.
*
Phật Tiên thương mến để lời khuyên,
Hãy học theo gương của Thánh hiền,
Việc thiện đừng chê dầu lớn bé,
Lâu ngày đầy đủ bởi nhờ siêng.
*
Siêng lo hành Đạo lập công phu,
Bất cứ hạng nào cũng dễ tu,
Sự sống hằng ngày chen Đạo lý,
Khỏi cần thạch động với non vu.
Thiên Dương Hoàng Tôn
TRUNG THU VẤN NGUYỆT
Đêm thu nguyệt rạng ánh ngời
Em xin vấn nguyệt đôi lời nước non.
Em xin vấn nguyệt đôi lời nước non.
Cớ sao chinh chiến mãi còn?
Xin vui lòng giúp cháu con Lạc Hồng
Xin vui lòng giúp cháu con Lạc Hồng
Thanh bình khắp cả non sông,
Toàn dân no ấm một lòng hân hoan.
Toàn dân no ấm một lòng hân hoan.
Để em sai liễu buông màn,
Bảo tầng mây bạc dệt hàng gấm xanh.
Bảo tầng mây bạc dệt hàng gấm xanh.
Và sai hồng yển hoàng oanh,
Hãy mau hát khúc ngày xanh tuyệt vời.
Hãy mau hát khúc ngày xanh tuyệt vời.
Mừng ngày non nước thảnh thơi,
Gấm hoa tô điểm một trời thắm tươi.
Gấm hoa tô điểm một trời thắm tươi.
Chị Hằng cười mỉm đáp lời:
Rồi em sẽ được như lời ước mơ.
Rồi em sẽ được như lời ước mơ.
Em khoe trau mướt vần thơ,
Nguyệt khoe ánh sáng rải bờ sông xanh.
Nguyệt khoe ánh sáng rải bờ sông xanh.
Em khoe thơ đẹp như tranh,
Nguyệt khoe ánh sáng như cành hoa mơ.
Nguyệt khoe ánh sáng như cành hoa mơ.
Đêm thu dòng nước lững lờ,
Giúp bao thi sĩ bài thơ tuyệt vời.
Giúp bao thi sĩ bài thơ tuyệt vời.
Ngân Hà
ĐẠO PHÁP và CON NGƯỜI
Theo chu kỳ của Tạo hóa, quả Địa cầu sáu tám chúng ta đang sống đây, gần đúng với thời kỳ tan rã. Thế giới này tiêu diệt, thì linh hồn nhơn loại tấn hóa sẽ sang quả Địa cầu sáu bảy, là nơi tiền định của Đạo mầu.
Ngày tiêu diệt đó, những người nào biết Đạo đức ăn chay lạt thì nhân thể nhẹ nhàng hiệp khí với Tiên Thiên, thì lúc đương sanh mới có thể chịu nỗi với khí ấy mà còn vững vàng sống được. Còn những người vô Đạo, ảnh hưởng vởi khí hậu Tiên Thiên, nên tới ngày âm tuyệt dương sanh, không thể nào chịu nỗi khí chơn dương, nên phải dứt hơi, lìa mạng.
Vậy muốn tránh khỏi cảnh tiêu diệt đau thương đó, thì giờ đây chúng ta phải biết đường thiên lý, lo tu hành quày bước trở về nguyên bổn, nương theo pháp Đạo mà luyện tánh tu tâm.
Đạo là khuôn mẫu để cho loài người nương theo đó sửa mình, mở mang trí hóa thông minh sáng suốt, hầu trở thành con người trí thiện, chí mỹ. Người bỏ xa Đạo, chẳng khác nào kẻ mù đi trong đêm tối, khi xác trần này tan rã, thì linh hồn kia chẳng biết nương tựa vào đâu, bơ vơ hứng cảnh sương gió dập dồn, lúc đó linh hồn mới tủi phận, ăn năn khi còn mang xác thể ở trần gian không biết hướng về con đường Đạo pháp.
Đạo là hư vô chi khí, Đạo rất mầu nhiệm, cao siêu. Trước khi chưa có Trời Đất, đã có Đạo. Đạo phân định âm dương, tạo dựng nên Càn khôn vũ trụ, rồi nhờ thanh trược hổn hiệp, âm dương giao phối mà hóa sanh muôn loài vạn vật. Muôn loài vạn vật phải thọ bẩm khí hư vô mà sanh hóa mãi mãi.
Con người thọ Tiên Thiên khí làm linh tánh, rồi giao cảm với Hậu thiên âm dương để thành hình. Thân người có tam bửu, ngũ hành, đó là nơi cơ Đạo hóa sanh hóa hiệp với Trời Đất.
Con người là Tiểu Thiên Địa, thật vậy Trời có ba báu là Nhựt, Nguyệt, Tinh. Trời nhờ ba báu ấy mà dưỡng dục muôn loài, hóa sanh vạn vật, luân chuyển Càn khôn và chia ra ngày đêm sáng tối. Đất có ba báu là Thủy, Hỏa, Phong. Đất nhờ ba báu đó mà phong vũ điều hòa, cỏ cây tươi tốt, và phân ra bốn mùa tám tiết Xuân, Hạ, Thu, Đông. Người có ba báu là Tinh, Khí, Thần. Nhờ ba báu đó mà con người có thể tạo Tiên tác Phật. Hơn nữa Trời lại có ngũ khí, Đất có ngũ phương và người có ngũ tạng.
Vậy, muốn thoát cõi hồng trần, ly tứ khổ để Đạo thâm uyên, con người phải tầm học chơn truyền Đạo pháp, quy tam bửu ngũ hành, và lo bồi công lập đức. Nếu người chẳng biết tu hành, không nương theo Đạo pháp, mãi để cho thất tình lục dục sai khiến, làm tiêu tán tam bửu ngũ hành, thì tất nhiên phải bị luân trầm sa đọa. Uổng thay! một điểm linh quang của Thượng Đế.
Thượng Đế đã ban cho mỗi người một điểm linh quang. Điểm linh quang ấy phải đầu thai xuống thế giới hữu hình này, mượn xác phàm tu luyện mới thành Tiên đắc Phật. Nhờ có xác phàm này tu hành mới đắc Đạo được. Dầu cho một vị Thiên Tinh lâm phàm, nếu không tu luyện cũng khó mong trở về ngôi vị cũ.
Điểm linh quang ấy vô cùng báu trọng. Vậy chúng ta cố gắng trau dồi cho được sáng suốt hầu trở về với Đại Tâm Linh của Vũ trụ. Thì giờ đây ngộ được Đạo lành, dầu cho thân xác nảy có cao cả đẹp sang, hay nhọc nhằn cay đắng, rồi ngày kia cũng sẽ rã tan, duy có mối Đạo Vàng là ngàn năm bất diệt.
Huỳnh Hoa Liên
LƯỢC SỬ
ĐỨC VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG A DI ĐÀ PHẬT
Từ ngàn xưa đã truyền tụng, Đức Phật A Di Đà theo lời Đạo Sử đã giảng dạy thì Đức Phật A Di Đà tên thật là Amita, một vị Phật từ đời Thượng cổ, từ lúc lòng người còn thiện, chúng sanh chưa phải là tranh lấn như thời Trung ngươn và thời Hạ ngươn mạt pháp. Ngài ở nơi Cực Lạc Quốc, một nước đó từ cỏ cây, chim chóc cho tới muôn cầm, điểu thú đều có hướng về tu dưỡng, cho nên nơi đó từ vật vô tri, vô giác cũng thành là nơi Phật pháp diệu linh. Từ lúc đó, Đức A Di Đà Phật đã phát đại nguyện rằng: “Nếu trong thời Trung ngươn và Hạ ngươn mạt pháp này còn một chúng sanh đau khổ thì Đức A Di Đà Phật không nhập Niết Bàn”.
Đức A Di Đà Phật đã đại hồng thệ như thế, cho nên sau này hễ mỗi người biết niệm Phật, làm lành đều được Đức A Di Đà Phật cứu khỏi cảnh luân hồi đau khổ. Đức A Di Đà Phật có dạy ở trong kinh truyền lại: “Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm, Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”. Một câu: “Nam mô A Di Đà Phật” mà đến lúc “vô biệt niệm” rồi thì khỏi khảy động móng tay, người đó cũng về nơi đất Phật là Tây Phương Phật vậy.
Từ trước đến nay đã biết bao nhiêu người niệm Phật mà cũng chưa thấy thành Phật, vì chưng chưa thông đạt được lý “Vô biệt niệm” là thế nào, cho nên cũng vẫn còn luân hồi trong đau khổ không phải chỉ niệm “Nam mô A Di Đà Phật” suông rồi được cứu cánh về nơi Phật quốc, không phải thế đó. Niệm Phật phải hiểu là không phải khẩu niệm, không phải ý niệm, không phải vọng niệm mà cũng không phải là tâm niệm. Phải là “Vô biệt niệm”, nếu gọi là Tâm niệm hay khẩu niệm hay ý niệm thì Phật đâu có nói là “Vô biệt niệm” làm chi. Phật có giảng rất kỹ càng là: “Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm, Bất lao đàn chỉ đáo Tây phương”.
Một câu nam mô A Di Đà Phật mà đến lúc “Vô biệt niệm” rồi, biết rõ sáu chữ niệm như thế nào rồi thì khỏi cần khảy động móng tay cũng về đất Phật. Cái “Vô biệt niệm” này là Tâm pháp tối thượng thừa của Đức A Di Đà Phật truyền trong hàng Bửu Liên Huỳnh Đạo, vì trước khi bước vào “Vô biệt niệm” thì phải là quán niệm, tâm niệm, cao niệm, nhưng không phải là vọng niệm rồi mới đến vô biệt niệm, trong lúc niệm lúc quán niệm, tâm niệm khó thay! Vì người đời vẫn còn bị lục trần ô nhiễm cho nên khi vô biệt niệm, ít người đoạt được là vậy, chỉ cần có một tiếng niệm Phật mà có thể ngăn được binh đao, chỉ cần một tiếng niệm Phật mà có thể bỏ xác phàm này để về với Niết Bàn hay Bạch Ngọc, chỉ cần có một tiếng niệm Phật này thì đạp nhẹ quả Địa cầu, bỏ đi thân tứ đại, đó mới là vô biệt niệm vậy.
Có nhiều người than, tại sao suốt đời tu Phật, lần chuỗi nhưng chưa đạt được lý huyền thông, cơ mầu nhiệm của Phật pháp cao minh, là vì chưa chứng đạt được vô biệt niệm. Vô biệt niệm không thể nói ra bằng lời, diễn đạt bằng ngôn ngữ, mà đó là Tâm pháp, từ lòng truyền lòng, từ ý truyền ý chớ không phải lời truyền lời mà đạt được. Tùy theo mối nhân duyên của mỗi người mà có thể đạt được vô biệt niệm.
Trước khi muốn đạt được vô biệt niệm thì Đức A Di Đà có giảng rằng: “Có cảm mới có ứng”, có tin mới thấy rõ Phật Trời, còn ngoài đời thì “Linh bất linh tại ngã”, linh hay không nghĩa là có thấy huyền diệu hay không là cũng do ta, có cái đạt lý huyền thông hay không là cũng do ta, thì việc niệm Phật này cũng phải có cảm tất nhiên mới có ứng, cũng như người luyện Đạo vậy. Nếu lòng cảm không đến tận cùng, thì sự ứng hiện chưa bao giờ đạt tới được.
Trong một chuyện của Bát Tiên, một ngày kia Lữ Đồng Tân đằng vân qua một làng nọ, bỗng thấy oán khí ngút Trời, một vầng hắc khí ngăn lại, Ngài mới nhìn xuống thì thấy tên đồ tể sắp giết một con dê. Con dê đó kêu la dẫy dụa, oán khí ngút Trời, thì cũng như sự cảm của người vậy. Trước khi chết con dê nọ đã đau thương, khổ sở, thì sự khổ sở đau thương đó là sự cảm của một con vật thôi, mà oán khí kia làm cho bật Đại Tiên không thể vượt qua được thì ở đây, người Đạo cũng vậy. Nếu chưa có một lòng tin tuyệt đối, nếu chưa có sự cảm toàn nhiên thì không bao giờ có sự ứng hiện vậy.
Tôi xin nhắc lại cho tất cả Bửu Liên Huỳnh Đạo nhớ lời Đức Tôn Sư A Di Đà Phật có giảng rằng: “Các con chỉ cần nịe6m Tôn Sư trong lúc các con hoàn toàn linh cảm, các con tham thiền ngồi đó mà các con tưởng chừng như giữa biển mênh mông vây quanh, tưởng chừng như các con sắp sa vào nơi hang hùm nọc rắn, các con sắp bị hủy diệt xác trần gian, các con kêu cứu với Tôn Sư, các con chỉ cần niệm lên tiếng niệm Nam mô A Di Đà Phật với tất cả lòng cảm xúc của các con, đó là cách các con luyện để đi lần đên vô biệt niệm, vì trong khi các con niệm bằng ý, bằng thân, bằng khẩu hay bằng tâm của các con thường xuyên mà các con đạt đến vô biệt niệm khi các con chưa có một dòng cảm xúc đặc biệt đối với Thiêng Liêng. Sự cảm xúc đó của các con từ nơi thế gian thông đồng với trên Thượng Thiên, tới trên Niết Bàn, Bạch Ngọc mà Phật Trời đều phải ứng hiện. Nếu các con không có cảm thì thì làm sao có ứng”. Điều đó là điều của Tôn Sư A Di Đà Phật dạy trong những kỳ Đàn cơ mà tất cả các Bửu Liên Huỳnh Đạo đều biết, đều hiểu rõ, trước khi bước qua phần “Vô biệt niệm” thì cũng là bí pháp của Di Đà chuyển các Bửu Liên mới đạt thành được vậy. Nếu một nguyên nhân tin tưởng, vẹn sự kính thành thì luyện phần cảm ứng này cũng được có đôi phần kết quả.
Đức Tôn Sư A Di Đà Phật là hiện thân của Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu là một người Mẹ Hiền vô cùng vô tận, người Mẹ bao dung, người Mẹ bằng ngôi Vô Cực. Ngôi Vô Cực là ngôi Chúa tể, độc nhất cao hơn ngôi Thái Cực. Đức Diêu Trì Kim Mẫu trong ngôi Vô Cực, đó là khi chưa có ngôi Thái Cực, chưa có ngôi Thượng Đế đã có ngôi Vô Cực rồi. Vô Cực là biểu hiện hiện ra Mẹ, hiện thời gọi là Đất, mà Đức Thượng Đế tạm gọi là Trời. Vì sự hiểu biết của trần gian nhỏ hẹp nên không thể diễn đạt được cao siêu cho nên tất cả các nguyên nhân đều thấy điều nhỏ nhặt như thế này, suy lý huyền nhiên cũng rõ thấy là con người bởi Đất mà sinh ra rồi khi trở về cũng Đất gói thi hài. Sinh trưởng cũng do Đất mà hủy diệt rồi cũng trở về với Đất, không có điều gì mất đối với Đất mà cũng không có điều gì còn đối với Đất mãi.
Đức Vô Cực thể hiện là Đất, là sự nuôi dưỡng, sinh hóa ở trên quả Địa cầu này. Đức Thượng Đế là Trời nghĩa là Dương, là tạo ra Thiên luật, tạo ra luật cho muôn loài vạn vật sống ở dưới thế gian này, mệnh thừa từ trên truyền xuống, trật tự, nhịp nhàng, lớp lang, khuôn mẫu là do Thượng Đế định đặt. Sự sanh hóa, nuôi dưỡng, thành, trụ, hoại, không đều do Đất mà sinh ra rồi tất cả cũng trở về với Đất vậy.
Khi niệm Phật, niệm Nam mô A Di Đà Phật với tất cả lòng thành ngưỡng, thành ngưỡng thể hiện ra điều chi thành ngưỡng ai cũng nghĩ rằng: Ta có lòng thành khi niệm Nam mô A Di Đà Phật, hướng tất cả tâm về Đức A Di Đà Phật, điều đó cũng chưa phải là thiệt niệm, vì tất cả con người khi nguy khốn, đau thương đều có thể niệm Phật, đều có thể đem tất cả Tâm mình dâng hiến cho Đức A Di Đà, nhưng lúc đó Đức A Di Đà không thể chứng minh được vì trong giây phút đó thôi, riêng về người thọ mật pháp của Tôn sư A Di Đà Phật, hằng ngày thường kêu gọi, hằng ngày thường kêu cứu với Thầy, với Tôn Sư vẫn thấy mình ở trong cảnh lao lung đau khổ. Mặc dầu thân xác này vẫn yên lành, nhưng thấu rõ lẽ huyền vi rằng thân này là thân giả tạm giả, sống cuộc đời ô trược, đất, nước, gió, lửa ngày mai cũng trả về, thì hiện giờ, Chơn linh là một bản thể Hư linh tàng ẩn trong con người tứ đại, mượn ngũ quan làm hình mượn thân này làm thể, thì đó mới chính thật là Hư linh, chính thật là của Ta vậy.
ĐẠI HÙNG - ĐẠI LỰC - ĐẠI TỪ BI
Trong thời Mạt pháp, vạn vật vẫn đắm chìm trong vô minh u tối, muôn loài còn thảm đọa, cảnh luân hồi trả vay vay trả. Con người biết rằng kiếp trước đã nhiều vay thì kiếp này đừng vay thêm nữa. Vẫn biết là vay sao chúng ta chẳng yên lòng trả quả lại còn muốn thanh nhàn thong thả? Vì thế, muốn thoát khoải cảnh luân trầm ấy, chỉ có Đạo là cứu cánh, và tu hành là phương tiện để giồi mài chơn thể trở về cõi không nguyên thủy. Nhưng muốn đạt đến điều cao diệu đó, trên con đường tu hành, điều căn bản để giồi mài, rèn luyện gần nhứt là làm sao có được một chí đại hùng, một tâm đại lực và đại từ bi.
* Đại hùng: Đại hùng tượng trưng cho chí khí cao cả của người Đạo, lòng can đảm nơi tâm linh xuất phát, như một nguồn lực vô vi mãnh liệt để giữ được chơn tâm, bản thể, linh ngã trường miên. Đã biết rằng lẽ sống còn nơi vô vi linh diệu, không bao giờ thối bước cảnh gian nguy, giữ vững một tâm vàng trong sạch, đến Niết Bàn làm mục đích, nẻo Bạch Ngọc làm hướng đi. Đường trần gian là lối khổ để thử thách tâm hùng dạ sắt, Đạo là nẻo cứu cánh làm phương tiện bước đi. Tạo được chí đại hùng, là giữ vững niềm tin bước Đạo. Ngoài cảnh hữu tình, nơi chốn vô vi còn có muôn ngàn cao diệu, tất cả đều ở trong Đại Hùng mà có. Trong đại hùng có đức tin, trong đức tin có căn nguyên duyên kiếp; và người không duyên kiếp khó được toàn vẹn đức tin. Nếu chúng ta không có đức tin hay đức tin không được toàn mỹ thì tâm đại hùng cũng không bao giờ tạo được. Khi đã có đức tin, tức là tâm đại hùng; biết mình là tạm giả, chỉ có chơn ngã mới trường miên. Thế thì, chúng ta phải rèn đúc đức tin cho trọn vẹn. Thiêng Liêng cũng thường dạy:
Phải gieo chí đại hùng căn bản,
Đừng xa rời bảng vạn Thiên Khai;
Quyết tu thì ắt có ngày,
Trở về Thầy Mẹ kim đài huy quang.
Đại hùng đối với các bậc tu cơ huệ, lại càng quan trọng hơn. Có giữ được đại hùng, thì mới thọ nhận được những hồng ân điển huệ từ trên truyền xuống hầu pháp huyền mau tinh tấn.
Nhưng trước hết đặn dò cho kỹ,
Chí đại hùng mới quý pháp huyền,
Đại thừa ứng hóa chơn truyền,
Trao người quân tử không phiền không toan.
Thế mới biết đại hùng là quan trọng. Đã có đại hùng tức nhiên phải trau dồi đại lực.
* Đại lực: là sức mạnh của hồn linh nơi tinh, khí, thần tỏa nhuệ; nghĩa là trong cuộc đời tạm giả chúng ta đã tgừng nhiễm trược trần ai khi trau tâm luyện tánh, thì nên dùng gươm trí huệ đoạn tâm phàm, ra sức dứt bỏ cảnh hôn trầm trở về với cao minh siêu lý. Đừng lưu luyến điều nhỏ mọn nơi trần gian, không ham chi điều đoãn lạc. Chỉ một ngày, một tháng,một năm, hoặc cuối cùng là trong thế kỷ, cũng trả về cho tứ đại mà thôi. Duy còn lại đại lực là lòng kiên nhẫn quyết chí tạo thành Xá Lợi Mâu Ni để làm thuyền Bát Nhã, làm phương tiện đến nơi tối thượng Niết Bàn. Muốn có đại lực, trước tiên coi nhẹ thế gian, không màn danh lợi. Không màn danh lợi đây chẳng phải phế cuộc trần trở về một nơi yên tỉnh, mà chúng ta phải ẩn nhẫn sống trong cuộc thế vừa tu vừa trả nợ đời, vì thời mạt pháp không còn như thời nhị ngươn thanh nhàn, an lạc. Trong kiếp này đây, phải lo trau dồi đức hạnh để dành nơi vô vi, ngày kia bỏ hữu hình xa rời xác thể mới thông suốt rõ cội huyền.
Một kiếp cuối cùng của chúng ta ngày nay, nửa phần xác thể đã bước qua nửa đoạn đường đời, tại sao đại lực chưa rèn, gươm trí huệ chưa trau để cho vô minh trùm phủ lớp lớp như muôn đao ngàn kiếm xâm chiếm nơi chơn tâm làm sao cải sửa? Đến khi đã hết một đời người, màn hắc ám vẫn bao trùm vạn lớp. Ôi! tiếc thay! Bao sanh linh phải sống trong những chuỗi ngày mê muội, đau thương, không nhận thức được ánh sáng quang minh của Đạo pháp...
*Đại từ bi: Người Đạo khi đã đúc tạo cho mình hai đức tính quý báu thì lòng đại từ bi cũng đừng quên nhồi nắn phải rèn luyện cho mình một tình thương vô lượng. Ta phải vì ta, vì tất cả muôn loài vạn vật, ban bố cho chúng sanh một tình thương bao la rộng lớn. Đó! Chính là ta đã thể hiện lòng hiếu sinh của Thượng Đế. Muốn có lòng từ bi, bước đầu tiên người Đạo phải tỏ lòng nhân mình qua đức độ người tu, dùng đức để cải hóa con người trong cơn thống khổ. Đó là cái ta đã rèn được một lòng đại từ bi vậy. Người tu hành trước tiên là truyền thanh điển nhiếp thọ linh quang nếu nghĩ điều chi phải cho trong sạch, suy tính điều gì hay:
“Tập từ bi cho tròn mới đúng
Tập từ bi hữu dụng sau này,
Thương đời như thể thương Thầy”,
Thì là đắc vị cung mây mấy hồi.
Không thương người chưa rồi hạnh Đạo,
Không từ bi lại bảo thành Tiên,
Hỏi sao mờ mịt chơn truyền,
Thầy đâu nhỏ hẹp không quyền ban cho”.
Nhưng nếu có tâm đại hùng mà thiếu đức từ bi thì sanh ra gian xảo, lừa gạt chúng sanh. Nếu có tậm đại lực mà thiếu đức từ bi thì cũng như con thiêu thân không vẹn toàn hạnh pháp. Nếu không có hùng lực mà chỉ có từ bi thì sanh ra mê si, muội ám trong vòng nghiệp chướng vô minh làm sao thấy được ánh huyền linh để trở về nơi Thượng giới?
Nói tóm lại, đường Đạo là cao siêu tuyệt diệu muốn lên Niết Bàn hay Bạch Ngọc cần phải có đủ ba điều kiện: chí đại hùng, tâm đại lực và lòng đại từ bi hầu làm nấc thang trở về với nguồn cội vậy.
Huỳnh Hoa Thảo