BÁT CHÁNH ĐẠO
Do Đức Hộ Pháp
Thiên Hộ Trung Tôn thuyết giảng vào
ngày 14/4 (âm lịch) Nhâm Thìn tại Bửu Điện
Huỳnh Liên nhân ngày Đại Lễ Phật Đản
( 2556 phật lịch )
****
Đây
là tám Điều diệu huyền
hình thành khuôn luật dù quả địa cầu này
có tan rã , đời người điêu tàn nối tiếp tám
điều luật này
vẫn còn
hiệu lực
theo thời
gian vô tận đây là bài cẩm
nang pháp chánh .
****
Bát Chánh Đạo ( Con Đường Giải Thoát)
Người tu theo Bát chánh đạo là chuyển ngu của phàm phu thành
trí của bậc Thánh. Xa
lìa cái tà nên gọi là chánh. Mở rộng đường đến Niết Bàn gọi là Đạo.
Nội Dung Và Giá Trị Mỗi
Thành Phần Của Bát Chánh Ðạo
1. Chánh kiến: Chánh là nagy thẳng,
đúng đắn; Kiến là thấy, nhậ biết. Chánh kiến hay Chánh
tri kiến là thấy, nghe,
hay, biết một cách ngay
thẳng, công minh, đúng với sự thật khách quan. Người
có chánh kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không lấy trắng làm đen, xấu làm tốt, dở làm hay,
hay trái lại. Sự nhận xét sự vật của người ấy không bị tập quán,
thành kiến, dục vọng ngăn che hay làm sai lạc. Người
có chánh kiến biết phân biệt cái nào giả, cái nào thật. Và khi đã biết
cảnh giả, vật dối, thì mắt không chăm, tâm không chú; còn khi rõ biết cảnh vật thật, lời lẽ chân, thì
chuyên tâm vào sự lý chân thật
làm cho đèn huệ sáng ngời, tiền trần không phương che ám được.
2. Chánh tư duy: Tư duy là suy
nghĩ, nghiệm xét; nó thuộc về ý thức. Chánh tư duy là suy nghĩ, xét nghiệm chân chánh, tư
tưởng đúng với lẽ phải.
Người tu theo phép Chánh tư duy, thường
xét nghĩ đạo lý cao siêu, suy tìm thể tánh nhiệm mầu, biết xét những hành vi lỗi lầm, những ý nghĩ xấu xa để sám hối; biết suy nghĩ về ba món vô lậu học: Giới, Ðịnh, Huệ, để tu giải thoát; biết suy xét vô
minh và nguyên nhân đau khổ, là nguồn gốc của tội ác, và tìm
phương pháp đúng đắn để tu hành hầu giải thoát cho mình và cho người.
3. Chánh ngữ: Ngữ là lời nói; Chánh ngữ
là lời nói chân thật, công
bình, ngay thẳng và hợp lý.
Người tu theo chánh ngữ,
không bao giờ nói sai, không thiên vị, thấy dở nói hay, không xuyên tạc, nghe một đường nói một ngả. Người
theo chánh ngữ rất thận trọng lời nói; trước khi muốn nói gì phải suy nghĩ coi có lợi
ích và chân thật không. Xưa đức Khổng Tử vào viếng chốn cổ miếu, thấy bức tranh họa một hình người
kẹp miệng ba lần, Ngài day lại dạy môn đệ phải cẩn thận lời nói.
Ngày xưa, trước
khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, có Ðệ tử hỏi:
Bạch đức Thế Tôn, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, người
đời sau gặp nhièu sách
vở ngoại đạo không sao phân biệt
với kinh Phật , như thế, biết tin theo lời nào tu?
Phật dạy:
Chẳng luận là lời nói của ai miễn là lời ấy đúng sự thật, hợp chân lý thì cứ
tin theo mà tu.
Vậy, phàm những lời nói đúng lý, hợp
lẽ, có lợi ích cho
toàn thể chúng sinh là chánh ngữ. Những lời nói ấy chúng ta
phải tin theo và tập
nói cho đúng như thế.
4. Chánh nghiệp: Nghiệp là do người Trung Hoa dịch chữ Phạn Karma mà ra. Nghiệp
hay Karma nghĩa là hành động tạo tác.
Chánh nghiệp là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý, có lợi
ích co người lẫn vật.
Người theo đúng "chánh nghiệp" là người
luôn luôn thận trọng , giữ gìn
mọi hành động của mình, để khỏi làm tổn hại đến quyền lợi, nghền ghiệp, địa vị, danh giá,
hạnh phúc, tánh mạng
của người
khác. Hơn nưa người theo đúng chánh nghiệp bao giờ cũng tôn trọng lương
tâm nghề nghiệp của mình, luôn luôn hành động có lợi ích cho mọi người,
mọi vật; và nếu cần, có thể hy sinh quyền lời hay tánh mạng mình để giải thoát nỗi đau khổ cho người khác.
Ngoài ra cũng gọi là chánh nghiệp,
khi dùng trí huệ để quán tưởng những pháp chân
chính, hoặc ngồi Thiền, niệm Phật , hoặc trì tụng kinh hành, để giữ gìn thân,
khẩu, ý ba nghiệp cho thanh
tịnh.
5. Chánh mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Chánh mạng là sanh sống một cách chân chính bằng
nghề nghiệp lương thiện, trong sạch của mình. Người theo đúng Chánh mạng
sống một cuộc đời ngay thật, không gian tham, không làm giàu
trên mồ hôi, nước
mắt của người khác, không làm cho người và vật phải đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Người
theo đúng Chánh mạng sống một cuộc đời có ý nghĩa lợi mình, lợi người,
xứng với bát cơm mình ăn không, manh áo mình mặc chứ không ăn
không ngồi rồi, sống bám vào người
khác.
Người theo Chánh mạng sống đúng Chánh pháp, không mê tín dị đoan, và biết thân tứ đại vốn vô thường,
nên lấy tịnh giới làm thể, lấy trí huệ làm mạng, bỏ niệm vọng cầu, an vui với chánh
pháp.
6. Chánh tinh tấn: Chữu tinh tấn ở đây cũng
cùng nghĩa như tinh tấn đã nói
trong bài trước, nghĩa là chuyên cần, siêng năng, thẳng
tiến mục đích đã vạch sẵn không vì một lý do gì mà lùi bước.
Chánh tinh tấn là chuyên cần, siêng
năng làm việc chánh nghĩa, lợi
lạc cho mình cũng như cho người
và vật.
Người theo đúng Chánh tinh tấn, trước
tiên, bao giờ cũng hăng hái sửa
mình, cương quyết bài trừ những điều ác, quyết tâm phát
triển mọi hạnh lành (xem bài Tứ
Chánh cần). Người
theo đúng Chánh tinh tấn, dũng mãnh tiến lên trên đường đi đến giải thoát, cho đến lúc nào đạt được
mục đích cao cả, cùng tột ấy mới thôi (xem đoạn "Tấn căn" trong bài Ngũ căn).
Nói tóm lại, người
theo đúng Chánh tinh tấn, quyết tạo nghiệp vô lậu xuấ thế gian, lấy chánh trí làm mãnh lực, lấy Niết Bàn làm chỗ
quy hướng, một lòng chẳng trễ, muôn kiếp không dời, quyết công phu, định thành đạo quả để trước
tự độ, sau hóa
đôĩ chúng sanh.
7. Chánh niệm: Niệm là ghi nhớ (cũng như nghĩa chữ niệm ở các bài trước).
Chánh niệm là ghi nhớ đến những điều hay lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình
cho người, những đạo lý chân chính quý trọng cao siêu.
Chánh niệm có hai phần:
a) Chánh ức niệm: là nghĩ
nhớ đến các điều lỗi lầm để thành tâm
sám hối, và nghĩ nhớ đến Tứ trọng ân: ân cha mẹ,
ân tổ quốc, ân chúng
sinh và ân Tam Bảo để lo báo đền.
b) Chánh quán niệm: là dùng tâm từ
bi xét nghĩ cuộc đời là khổ não, tật bệnh, mê mờ mà chúng
sinh đang mắc phải, để mở rộng lòng thương
yêu và quyết ra tay cứu độ.
Người theo đúng Chánh niệm, thường
quán sat cảnh chân đế, năng tưởng niêĩm các pháp trợ đạo; bất luận ở đâu và làm gì, cũng nhớ nghĩ đến cái quả vô lậu xuất thế gian, dù trải qua bao nhiêu số
kiếp cũng không thối
tâm xao lãng.
8. Chánh định: Chữ "Ðịnh" ở đây
cũng đồng nghĩa như chữ định trong các
bài trước, nghĩa là tập trung tư tưởng
vào một vấn đề gì, để thấy cho rõ ràng. Chánh định là tập trung tư tưởng
vào một vấn đề chính đáng, đúng với
chân lý, có lợi ích cho mình và người.
Người theo đúng Chánh định, thường tập trung tư tưởng
để quan sát những vấn đề chính sau
đây:
Quán thân bất tịnh: (bất tịnh quán) túc
là quán tưởng thân không thanh tịnh, để trừ tham dục, sai ái
(xem lại đoạn:
"quán thân bất tịnh"
trong bài Tứ niệm xứ).
Quán từ bi (từ bi quán) là
quán tưởng tất cả chúng sinh đều là một chân tâm, bình đẳng
không khác, để đoạn trừ thù hận, và mở rộng lòng thương yêu để cứu độ chúng sinh.
Quán nhân duyên: (nhân duyên
quán) là quán tưởng tất cả pháp hữu hình như muôn vật, vô hình
như tâm niệm đều là giả hợp, duyên
nhau mà có, chứ không có một cách chân
thật, không trường
tồn, để đoạn trừ ngu si,
pháp chấp.
Quán giới phân biệt: (giới phân biệt quán)
nghĩa là phân biệt và quán tưởng
sự giả hợp của 18 giới: 6 căn, 6 trần, 6 thức để thấy không thật có
"ngã, pháp" ngõ hầu diêth trừ ngã chấp, pháp chấp.
Quán hơi thở: (sổ tức quán)
nghĩa là qúan tưởng bằng cách chuyên
chú đếm hơi thở ra vào, để đổi trị sự tán loạn của tâm thức.
Kết Luận:
Như đã nói ở đoạn mở đề, Bát Chánh đạo là pháp
môn rất được
thông dụng. Sự thông dụng này sở dĩ có được là nhờ lợi ích thiết thực và quý báu của nó đối với đời sống cá nhân của người tu hành, đối với xã hội, và đối với đời sống tương lai. Có thể tóm tắt những lợi ích, hay công năng của Bát Chánh đạo trong ba
điểm sau đây:
1) Cải thiện tự thân: Nếu con người chuyên tu theo tám đường chánh này, thì sửa
đổi được
tất cả mọi sự bất chính, mọi
tội lỗi trong đời sống hiện tại của mình, như ý niệm me mờ, ngôn ngữ đảo điên, hành
vi sái quấy, đời sống vô luân. Khi những
điều trên nầy đã được cải thiện, thì tất cả cuộc đời riêng của mỗi người
sẽ chân chính, lợi lạc và thiện mỹ.
2) Cải thiện hoàn cảnh: Nếu trong xã hội ai ai cũng
đều chuyên tu theo tám đường chánh đạo nầy, không những có nhiều lợi lạc trong cuộc đời hiện tại mà còn gây tạo cho mình một tương
lai tươi sáng, gieo trồng
cho mình những hạt giống Bồ đề để ngày say gặt háu quả vô thượng Niết Bàn, đầy đủ bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Vì những lợi ích quý
báu như thế, chúng tôi
xin khuyên mọi Phật tử hày phát nguyện cương quyết tu theo
Bát Chánh đạo.
Tổng Kết
Về Ðạo
Ðế
Chúng ta vừa biết qua nội dung của Ðạo đế , hay 37
món trợ đạo là: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cấn, Tứ như ý túc, Ngũ
căn, Ngũ lực, Thất Bồ đề phần, Bát Chánh đạo. Phần Ðạo đế đã chiếm hết bốn bài trong
mười bài nói về Tứ đế. Chỉ cái số lượng ấy cũng đủ nói lên sự quan trọng mà đức Phật muốn dành cho
phương pháp tu hành để chứng nhập Niết Bàn. Nhưng chúng ta đừng nên thấy quá nhiều pháp môn
mà vội nản lòng, thối chí. Vì căn cơ
chúng sinh không đều, nên đức
Phật cần chế ra nhiều pháp môn,
để mỗi người có thể tùy theo
căn cơ mính mà lựa pháp môn
thích hợp để tu hành. Tất nhiên một người
có thể tu nhiều pháp môn nếu có đủ khả năng, trí tuệ, sức khỏe; những nếu không đủ điều kiện, thì tu một pháp môn
cũng được. Khi tu thành một
pháp, các pháp kia đều thành, vì nó là một nhiếp thuộc lẫn nhau.
Vậy Phật tử không nên ngã lòng thối chí. Với sự quyết tâm, với đức tinh tấn, chúng ta tùân tự
tiến dần vào Ðạo đế, không lo sợ, không nghi ngờ,
cũng không quá bồng bột, nóng nảy, rồi đây chậm hay nhanh, thế
nào cũng phải đến đích.
Hỡi quí vị Phật tử ! Mười phương
các đức Như Lai, đầu tiên đều nhờ các pháp
môn nầy mà dần dần được
viên thành Phật quả. Tất cả Thánh giả trong ba thừa, đeù nương vào đây để tu hành cho
đến ngày đạt đích.
Chúng ta, đạn con Phật , những người
đang canh cánh ôm ấp bên lòng trí nguyện thành Phật , để cứu độ và cứu độ chúng sinh, lẽ nào trong
lúc đức Phật đã vì lòng
từ bi mà sửa soạn cho chúng ta mọi
phương tiện , mọi hành lý để tiến lên đường
giải thoát, chúng ta lại
do dự, chần chờ hay thối thác !
Vậy chúng ta hãy mau mau cất bước
lên đường giải thoát.
BÀI.
Khai pháp chánh đề thơ truyền Đạo.
Kể từ khi THẦY dạo tây
đông .
Coi ai hiền hậu có
lòng .
Đề tên vàng trước bệ rồng Phật Vương .
Hầu tuyển lựa hiền lương
chánh trực
Để sau này phong bực thần
tiên .
Niềm vui chen lẫn ưu
phiền .
Vì chưng ít kẻ trọn
duyên với THẦY .
Đến nghe pháp đông đầy nam
nữ .
Mà qui điều lại giữ chưa
xong .
Phật Tiên thì muốn cầu
mong .
Theo THẦY nhưng
sợ tốn
công lạy
quỳ .
Còn có kẻ nghĩ suy nông cạn .
Bác bỏ điều
thuyết giảng
thâm uyên.
Chẳng qua nặng
nghiệp trần
duyên .
Cầu trên Phật độ chứng
miên độ trì .
Ai biết lựa đường đi
thong thả .
Hay tự mình tầm ngã
chông gai .
Chỉ cho tà chánh đúng
sai .
Chớ THẦY không
thể kề vai
gánh dùm .
Vì biết rõ hang hùm ổ rắn .
Động lòng thương
căn dặn nhiều
khi .
Đừng khinh việc ấy vô
vi .
Quĩ vô thường tới khó
đi tìm THẦY .
Ngày trả quả phơi
thây ghê tởm .
Lũ quỉ vương kỳ
hợm vô
cùng .
Không tu cùng chịu nạn
chung .
Phật Tiên khó
cứu người
hung tâm tà .
Mượn cẩm
nang từ xa
nhắc nhở .
Đây phép thần che chở mai
sau .
Các con dìu dẫn cho
nhau .
Đến cơn
bát loạn THẦY trao
nhiệm mầu .
Điều
thứ nhứt vui
câu an phận .
Dẫu thân con lận
đận cơ hàn .
Gìn lòng lương thiện hân
hoan .
Thấy người
vinh hiển
giàu sang chớ buồn .
Luật
chánh mạng THẦY luôn
nhắc nhở .
Vì phước duyên căn nợ ngày
xưa .
Nay đây thọ pháp đại thừa .
Vui lòng con nhận sớm trưa
tu hành .
Điều
thứ hai phải
thành tâm nhớ .
Trong việc làm dù dỡ hay
,hay .
Khuyên con dốc chí nghe THẦY .
Thiệt lòng sau trước đủ đầy
nghe con .
Luật chánh
nghiệp cho tròn cho vẹn .
Dầu thiệt
thua đừng thẹn con ơi ?
Lấy tâm cư xử với đời .
Việc làm ngay thẳng Phật trời đâu
quên .
Điều
thứ ba phải nên
suy xét .
Lý vô tư vạch
nét nơi
lòng .
Muôn đời đều trọng lẽ công
.
Đừng nên thiên lệch mới
mong đắc
thành .
Chánh tư duy nghĩa
lành THẦY đặt .
Dầu việc chi
cân nhắc đều đồng .
Lưới trời tuy
rộng
mênh mông .
Vạn đời
muôn kiếp mải
lông không ngoài .
Điều
thứ tư lời sai
chớ nói .
Tiếng hiền hòa
kêu gọi
tình thương .
Trung ngôn chánh trực phi
thường .
Lời lành vẹn giữ pháp
cương
của THẦY .
Luật
chánh ngữ xưa
nay điều trọng .
Đừng phóng tâm ý lộng
nên lời .
Đạo Vàng khuôn
mẫu
con ơi .
Thoát vòng lao khổ thảnh thơi
linh hồn .
Điều
thứ năm dại
khôn cao thấp .
Bỏ ngoài tai lo tập tâm
con .
Thanh cao tư tưởng
vuông tròn .
Diệt tan tà ý nếu còn
vọng mơ .
Luật
chánh niệm như tơ như chỉ .
Nếu dệt
thành gấm quí
đẹp
thay .
Còn không con tự vòng
tay .
Se dây tà niệm ngày mai buộc
mình .
Điều
thứ sáu giữ gìn
chơn
lý .
Dầu việc chi
suy nghĩ cạn cùng .
Đem lòng thành thiệt hiệp
chung .
Đương nhiên trí huệ đại
hùng phát sanh .
Luật
chánh định THẦY dành
con đó .
Dụng nhân tâm vạch rõ
đôi đường .
Phật ma con phải tin
tường .
Chớ nghe mà mắc vội nương
mà lầm .
Điều
thứ bảy kiên
tâm làm gốc .
Mối Đạo
Vàng chí dốc lo toan .
Niềm tin vun vén trang
hoàng .
Nguyện lòng con bước vào
hàng Phật Tiên .
Luật
chánh kiến dạ thiền tin
Đạo .
Nguyện kiếp này
con tạo từ thuyền .
Một THẦY một Đạo
trung kiên .
Nhẹ đường trần tục nặng
duyên niết bàn .
Điều
thứ tám đường
vàng con tạo .
Vững bước đi
mạnh bạo
không lùi .
Càng thêm khó , khổ càng
vui .
Thép đồng gan sắt rèn
trui mới
thành .
Chánh tinh tấn đề danh
bước tới .
Ngày ngày qua THẦY đợi con
hiền .
Lòng THẦY không
thể ngồi
yên .
Tình thương đệ tử lụy phiền
canh thâu .
Đường còn xa dãi dầu mưa nắng .
Ráng trì tâm yên lặng tu
hành .
Niết bàn Bạch ngọc cao
thanh .
Chỉ đưa rước
khách trọn lành thâm công .
Lời tha thiết THẦY mong
tất cả .
Thương yêu nhau một dạ trung
thành .
Chờ giờ Tiên
Phật hiện
sanh .
Để coi các bậc
hùng anh lập đời .
THẦY muốn rót
cạn lời chơn
lý .
Khuyên các con suy nghĩ cạn
cùng .
Hầu đem dạy dỗ cho
chung .
Dắt dìu nhau đến Kim
Cung gặp THẦY .
Ngày sau hội rồng
mây tương
hội .
Thỏa dạ THẦY con
đổi xác
trần .
Liên hoa hóa hiện kim
thân .
Không còn chịu cảnh cơ bần
gian truân .
Đôi lúc thấy con trần than thở .
Chẳng qua là căn nợ con ơi .
Thế nên THẦY mới
khuyên đời .
Quyết đem chơn
lý tuyệt vời ban
ra .
Trai cùng gái gần xa
nên nhớ .
Dùng Đạo mầu che
chở nạn
tai .
Đến ngày quả báo
không sai .
Nếu không tu tỉnh đọa đày
thảm thương .
THẦY thấy việc đoạn trường mới mở .
Dùng phép linh che chở môn
đồ .
Phật Vương
Di Lạc nam
mô .
Cửu lưu
tam giáo điểm tô Đạo
Vàng .
*****
Nam Mô Huyền
Khung Cao Thượng Đế Ngọc
Hoàng Đại Thiên Tôn .
Nam Mô Di Lạc
Thiên Tôn Khai Môn Chuyển Pháp .
Nam Mô Đại Từ Đại
Bi Cứu
Khổ cứu Nạn
Quán Thế Âm Bồ Tát .